Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

(Thcs) hướng dẫn học sinh sử dụng hiệu quả công thức vật lí 9 chương i điện học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.04 KB, 18 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lâp - Tự do - Hạnh phúc

ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
“HƯỚNG DẪN HỌC SINH SỬ DỤNG HIỆU QUẢ CÔNG THỨC
VẬT LÍ 9 CHƯƠNG I ĐIỆN HỌC”

Người thực hiện: .........
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Trường THCS .........

........., tháng 4 năm 2019


CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN

Kính gửi: Hội đồng chấm sáng kiến Huyện ..........
Tơi ghi tên dưới đây:
STT

Họ và tên

1

.........

Ngày


tháng năm
sinh

Nơi
cơng
tác

Chức
danh

Trình
độ
chun
mơn

Tỷ lệ (%)
đóng góp
vào việc tạo
ra sáng kiến

THCS .
........

Giáo
viên

Đại Học
Toán

100%


Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: “ Hướng dẫn học sinh sử dụng hiệu
quả cơng thức Vật lí 9 Chương I Điện Học”.
1. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: .........
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục và đào tạo – Bộ mơn Vật lí 9
3. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: 20/8/2019
4. Mô tả bản chất của sáng kiến:
4.1 Sự cần thiết của việc thực hiện sáng kiến.
Với việc thực hiện mục tiêu giáo dục bậc THCS là: “phải phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh phù hợp với đặc điểm của từng môn
học, từng lớp học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học
tập cho học sinh”. Do vậy mỗi giáo viên phải hình thành được cho học sinh một
phương pháp học tập phù hợp thật sự có hiệu quả.
Vật lí là mơn học địi hỏi ở người học sự liên hệ thực tế rất cao. Khi nghiên
cứu một đơn vị kiến thức nào đó, học sinh đều phải bắt đầu từ nghiên cứu lí


thuyết, tiến hành thí nghiệm, rút ra quan hệ giữa các đại lượng vật lí để xây dựng
cơng thức sau đó áp dụng làm bài tập. Như vậy để học tốt mơn vật lí thì địi hỏi
học sinh phải thực hiện đầy đủ, sáng tạo các bước nêu trên. Thí nghiệm vật lí
khơng chỉ làm cho học sinh dễ dàng tiếp thu bài, có hứng thú trong học tập mà
cịn làm cho học sinh tin tưởng vào khoa học. Tuy nhiên bài tập lại có tác dụng
đánh giá mức độ tiếp thu bài của học sinh, giúp học sinh hiểu hơn phần kiến thức
đã học. Đối với chương Điện học thì việc nắm vững kiến thức, nhớ cơng thức và
biến đổi thành thạo cơng thức là rất cần thiết, vì có những đơn vị kiến thức để tính
được một đại lượng có nhiều cơng thức có thể dùng để tính tốn để tìm ra lời giải,
nhưng đây lại là điều khó khăn đối với học sinh. Phần lớn học sinh thường bối
rối không biết nên sử dụng công thức nào là chính xác, cơng thức nào là đem lại
kết quả nhanh nhất. Ngoài ra khi làm bài tập học sinh cũng chưa biết cách phân

loại dạng bài, với những bài toán mạch hỗn hợp học sinh thường hay nhầm lẫn,
chưa biết cách phân tích để tìm ra hướng giải nên các em sẽ cảm thấy khó, thấy
giờ bài tập sẽ không hứng thú bằng giờ lý thuyết, và học sinh sẽ khơng chăm làm
bài tập.

Đó chính là lý do để tơi nghiên cứu, tìm hiểu về các cơng thức vật

lí, tìm hiểu về mối quan hệ giữa các đại lượng để có thể biết cách áp dụng cơng
thức cho từng loại bài tập.
4.2 Thực trạng của vấn đề.
Những bài tập về mạch điện ở chương 1 Điện học vật lý 9, nếu ta chỉ xét
đơn thuần mạch nối tiếp hoặc song song cho hai hoặc ba điện trở thì xem như đơn
giản nhưng khi mạch có từ ba điện trở mắc lồng giữa nối tiếp với song song, hoặc
mắc thêm các thiết bị đo điện thì đây lại là sự khó khăn đối với học sinh. Nhất là
các học sinh ở mức độ trung bình hoặc trung bình khá. Mức độ cao hơn là mạch
nối tiếp với bóng đèn có công suất định mức và hiệu điện thế định mức cho trước
hoặc nối tiếp với một đoạn dây có chiều dài, tiết diện và điện trở suất hoặc nối
tiếp với một biến trở. Với những loại mạch phức tạp như vậy và cả một dãy công
thức áp dụng thì kể cả khi học sinh đã nắm chắc các công thức của các loại đoạn


mạch mà không biết kết hợp, lựa chọn công thức phù hợp thì cũng không thể giải
được
bài tập. Trong khi số tiết bài tập quá ít so với dung lượng kiến thức, giáo viên
cũng không thể truyền đạt hết cho dù rất muốn làm điều này.
Nên từ thực tế giảng dạy tôi thấy khi làm bài tập trong chương Điện học thì
phát sinh ra những mâu thuẫn như. Có quá nhiều cơng thức để tính toán cho mợt
đại lượng ví dụ như khi học song tiết 11- Bài 9: Sự phụ thuộc của điện trở vào
vật liệu làm dây dẫn có đến 6 cơng thức tính điện trở R xuất hiện: đó là
R


U
I

(1)

R = R1 + R2 (2)

Rtd 

R1.R2
(3)
R1  R2

R 

l
s

(5)

(4)

(6)

Học sinh sẽ không biết sử dụng công thức nào là chính xác. Ngồi ra cũng
có nhiều đại lượng khác cũng có rất nhiều cách tính gây nhiễu cho học sinh.
Sau khi học song Tiết 15- Bài 12: Công suất điện thấy còn xuất hiện thêm
hai công thức tính điện trở nữa là:


R=

(5)

(6)

Nên nếu có một bài tập yêu cầu học sinh tính giá trị điện trở chắc chắn học
sinh sẽ thấy khó khăn trong việc lựa chọn công thức để tính.
Ngoài ra còn nhiều học sinh thắc mắc tại sao điện năng A lại được tính
bằng công thức A = I2.R.t mà nhiệt lượng Q cũng tính là Q = I2Rt.
Hoặc như với các công thức
nhầm lẫn khi nào thì sử dụng dụng công thức

và

học sinh thường hay
, khi nào thì sử dụng công


thức

Và còn rất nhiều những công thức để dùng cho từng loại mạch điện

mà học sinh rất dễ lẫn lộn.
Do có q nhiều cơng thức được sử dụng nên học sinh không biết lựa chọn
công
thức nào để áp dụng, dẫn đến học sinh gặp khó khăn trong việc giải bài tập vật lý.
4.3 Các giải pháp cụ thể đã tiến hành để giải quyết vấn đề.
4.3.1 Về phía giáo viên.
Giáo viên phải tạo được sự hứng thú và niềm tin học tập của học sinh bằng

chính năng lực của mình trong q trình dạy mơn vật lí nói chung và chương
Điện học nói riêng. Phải xét xem mình đang truyền đạt tới đối tượng học sinh
nào: khá, giỏi hay trung bình, yếu để đưa ra các ví dụ áp dụng phù hợp. Song trên
hết với giáo viên đó là nội dung kiến thức cần truyền đạt phải ngắn gọn dễ hiểu,
hệ thống công thức rõ ràng có phân loại cho từng trường hợp, và sau đó là nhiều
ví dụ tương tự để minh hoạ.
Đối với mơn Vật lí 9 nhất là chương Điện học do có q nhiều cơng thức
nên giáo viên phải thường xuyên hệ thống lại, chỉ ra những sai lầm của học sinh
thường mắc phải khi lựa chọn công thức, đặc biệt khi dạy về một công thức giáo
viên phải chỉ rõ bản chất của mỗi đại lượng vật lí trong cơng thức, phải nêu được
mối quan hệ phụ thuộc giữa các đại lượng có như vậy học sinh mới không bị
nhầm lẫn khi lựa chọn công thức vào giải bài tập.
4.3.2 Về phía học sinh.
Học sinh là trung tâm của quá trình lĩnh hội tri thức mới. Chính vì vậy mà
để học sinh có thể làm tốt bài tập vật lí trong chương I này các em cần thực hiện
những việc sau:
1. Đọc kĩ đầu bài tốn
2. Tóm tắt đầy đủ đầu bài


3. Phân tích cấu trúc mạch điện
4. Lựa chọn cơng thức sử dụng
5. Thực hiện giải bài tập
Bước 4 là một bước quan trọng khơng kém các bước khác vì nếu chọn sai
cơng thức thì học sinh sẽ đi vào sự bế tắc.
4.3.3 Các giải pháp cụ thể.
+ Hệ thức của định luật Ôm.
Hệ thức của định luật Ôm là một công thức quan trọng và cần thiết nên giáo
viên phải chỉ rõ cho học sinh biết mối liên hệ giữa các đại lượng trong công thức.
I


từ biểu thức trên ta suy ra : R 

U
I

U
R

(1)

(2) và U  IR (3)

Về mặt tốn học thì ba cơng thức trên là tương đương nhau và nói lên sự
tương quan của ba đại lượng: I, U và R.
Về mặt vật lí học thì chỉ có cơng thức (1) là biểu thức của định luật ơm.
Được phát biểu là: Cường độ dịng điện chạy qua dây dẫn tỷ lệ thuận với hiệu
điện thế giữa hai đầu dây , tỷ lệ nghịch với điện trở của dây dẫn.
Công thức (2) được suy ra từ công thức (1) nhưng không được coi là hệ
thức của định luật Ơm, mà cơng thức này chỉ cho phép ta tính được điện trở của
một dây dẫn khi ta biết hiệu điện thế U và cường độ dòng điện I chạy trong dây.
Nhưng về mặt vật lí khơng thể phát biểu rằng cơng thức (2) nói lên sự phụ thuộc
của R vào U và I. Điều này đa số học sinh đều nhầm lẫn vì cho rằng khi hiệu
điện thế (U) tăng thì điện trở (R) cũng tăng. Điện trở của dây dẫn là một đặc trưng
của dây dẫn, nó khơng phụ thuộc vào U và I. chẳng hạn, khi không đặt một hiệu
điện thế nào vào hai đầu dây (U = 0) và khơng có dịng điện nào chạy trong dây (I
= 0) thì dây dẫn vẫn có một điện trở R xác định.


Cơng thức (3) cho phép tính được hiệu điện thế U giữa hai đầu dây dẫn khi

đã biết điện trở của dây và cường độ I của dòng điện chạy trong dây.
Về mặt vật lí, khơng thể phát biểu rằng nó nói lên sự phụ thuộc của U vào
I và R. Hiệu điện thế U có thể biến đổi một cách độc lập, chỉ có I phụ thuộc vào
U, chứ U không phụ thuộc vào I. Giữa U và R khơng có quan hệ phụ thuộc nào
cả. Như vậy khi dạy phần này giáo viên cần lưu ý làm rõ để học sinh không hiểu
sai vấn đề.
Nhưng điều trên nghe có vẻ mâu thuẫn với nhận xét sau (trong đoạn mạch
có các điện trở mắc nối tiếp thì hiệu điện thế giữa hai đầu mỗi điện trở tỉ lệ thuận
với điện trở đó (tức là nếu R tăng thì U tăng).
Có hệ thức

(4) ở đây giáo viên phải chỉ rõ công thức (3) nói về

mối quan hệ của các đại lượng U, I, R toàn mạch hoặc chỉ của một điện trở, còn
công thức (4) chỉ sử dụng trong đoạn mạch có hai điện trở mắc nối tiếp và lưu ý
học sinh ở đây U1, U2 là hiệu điện thế ở hai đầu mỗi điện trở và R 1 và R2 là giá trị
của hai điện trở mắc nối tiếp.
Ở đây giáo viên cần lưu ý cho học sinh hệ thức I 

U
được dùng khi tính I
R

toàn mạch nếu biết U và R toàn mạch, tính U toàn mạch nếu biết I, R toàn mạch,
tính R toàn mạch khi biết U, I toàn mạch. Còn công thức

thì lại dùng để

tính cường độ dòng điện qua điện trở R1 khi biết U ở hai đầu R1, và giá trị R1.
+ Công thức dùng trong mạch nối tiếp, song song, hỗn hợp

Những bài tập nếu ta chỉ xét đơn thuần mạch nối tiếp hoặc song song cho
hai hoặc ba điện trở thì xem như đơn giản nhưng khi mạch có từ ba điện trở mắc
lồng giữa nối tiếp với song song, hoặc mắc thêm các thiết bị đo điện thì đây lại là
sự khó khăn đối với học sinh. Do vậy khi dạy phần này tôi luôn hệ thống lại các
công thức của mạch nối tiếp và song song, để học sinh so sánh và ghi nhớ.
Đoạn mạch nối tiếp: (R1nt R2)

Đoạn mạch song song: ( R1//R2)


I = I1 = I2

(1)

I = I1 + I2

U = U 1 + U2

(2)

U = U 1 = U2 .

Rtd = R1 + R2

(1)
(2)

(3)

(3)


(4)

(4)

• Đoạn mạch hỗn hợp:
R1 nt ( R2 // R3 ) .

 ( R1 nt R2 ) // R3 .

I = I1 = I 23 = I3 + I2 .

I = I12 + I3 ( mà I12 = I1 = I2 ) .

U = U1 + U23 (mà U23 = U2 = U3 ) .

U = U12 = U3 (mà U12 = U1 + U2 )

Rtd = R1 + R23 ( mà

)

;
( mà R12 = R1 + R2 ) .

Khi sang đến dạng bài tập có mạch điện mắc hỗn hợp học sinh sẽ lúng túng
không biết sử dụng công thức như thế nào. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh một
cách tỉ mỉ, cách lựa chọn cơng thức cho phù hợp. Xét bài tốn sau:
Bài tốn 1:
Cho mạch điện như hình vẽ:

R1 = 3 ; R2 = 6 ; R3 = 12 ; UAB = 12V
A

+ A

R
R1

1. Tính điện trở tương đương của toàn mạch
2. Tính cường độ dòng điện qua từng điện trở

2

_ B

C

R3

3. Tính hiệu điện thế ở hai đầu các điện trở.
Với việc lần đầu tiên giải bài toán mạch điện hỗn hợp như thế này, học sinh
lúng túng trong việc chon công thức để tính. Vì vậy giáo viên cần hướng dẫn học
sinh phân tích cấu trúc mạch điện, sau đó mới lựa chọn công thức cho từng nhánh
(đoạn mạch).


a. Mạch điện trên có cấu trúc như sau R1 nt ( R2 // R3 ) nên để tính điện trở
toàn mạch ta phải tính điện trở tương đương của đoạn mạch có R2 // R3 trước vì
đây là đoạn mạch mắc song song nên ta sẽ dùng công thức cho đoạn mạch song
song.


Do R1 nt (R2 // R3) mà ta đã tìm được điện trở tương đương của hai điện trở
R2 và R3 nên có thể viết cấu trúc toàn mạch là: R1 nt R2,3 đến đây ta lại áp dụng
công thức của đoạn mạch nối tiếp có Rtđ = R1 + R2,3 = 3 + 4 = 7
b, Vì mạch có R1 nt (R2 // R3) nên R1 được mắc nối tiếp trong mạch do đó
I qua R1 cũng là I toàn mạch vậy ta chỉ cần tìm được I toàn mạch là. Vậy I toàn
mạch được tính bằng công thức nào?
Cường độ dòng điện qua R1 và của toàn mạch là I1 = I

=

Vì đến điểm C dòng điện rẽ làm 2 nhánh song song nên tổng cường độ dòng điện
ở 2 nhánh ấy bằng I1 nên trước hết phải tìm được U2,3 bằng cách tính
U1 = I1.R1 = 1,7.3 = 5,1V
U2,3 = U – U1 = 12 - 5,1 = 6,9 V
Vậy chỉ còn I2, I3 là chưa biết ở đây để tính I cho duy nhất 1 điện trở nên
dùng công thức của định luật ôm.

;

+ Các công thức tính điện trở.
Khi học song bài điện trở của dây dẫn có đến 4 cơng thức xuất hiện để tính
điện trở R: đó là
1, R 

U
I

2, R = R1 + R2


R .R

1
2
3, R  R  R
1

2

4, R 

l
s


nên để nhận biết khi nào dùng công thức (1), khi nào dùng công thức (2), (3) học
sinh rất hay lẫn lộn, giáo viên phải lưu ý học sinh. CT 1: R 

U
để tính điện trở
I

U

1
tồn mạch nhưng nếu viết R1  I thì lại là để tính giá trị của một điện trở. Cịn
1

cơng thức R = R1 + R2 cũng dùng để tính điện trở tồn mạch nhưng chỉ dùng
cho mạch nối tiếp, từ công thức này ta cũng tính được các giá trị điện trở thành

phần. R1= R- R2 , R2 = R - R1
R .R

1
2
Công thức R  R  R
1

2

dùng để tính điện trở tương đương của mạch có hai

điện trở mắc song song.
Cơng thức R 

l
chỉ dùng để tính điện trở của dây dẫn mà trên đoạn dây
s

dẫn đó khơng có mắc một dụng cụ hay thiết bị điện nào.
Ngồi ra cịn có rất nhiều cơng thức có xuất hiện R và từ đó có thể tính giá
trị của điện trở như:
U2
P =IR ; P =
; A = I2.R.t ; Q = I2Rt ;
R
2

U2
A= t

R

nhưng những công thức này chỉ đúng trong trường hợp dụng cụ điện có thể biến
đổi hồn tồn điện năng thành nhiệt năng như dây tóc bóng đèn, bàn là, nồi cơm
điện...
+ Điện trở suất của một dây dẫn.

R 

l
S

(5)

R

 .l
(6)
S

Trong q trình dạy học ta nên chuyển từ cơng thức (5) về dạng công thức
(6) để học sinh thuận tiện trong q trình tính tốn, nhưng cần lưu ý:
Về mặt tốn học thì hai cơng thức trên là tương đương nhau, ta có thể sử
dụng cả hai cơng thức để tìm các đại lượng có mặt trong cơng thức.


l 

RS




;

S 

 .l
R

;

 

RS
l

Nhưng về mặt vật lí thì công thức (6) cho thấy R tỷ lệ thuận với chiều dài
dây dẫn, tỷ lệ nghịch với tiết diện dây dẫn, nhưng nếu cho nó cũng tỷ lệ thuận với
điện trở suất (  ) điều đó là khơng chính xác vì điện trở suất của dây dẫn là một
đặc trưng của dây dẫn, với mỗi loại dây thì điện trở suất là một hằng số. Vì vậy
khi dạy học sinh giáo viên cần nói rõ để học sinh khơng bị nhầm lẫn.
+ Cơng suất điện.
Cơng thức tính cơng suất điện của một dụng cụ điện (hoặc một đoạn mạch):
P = UI (7)
Ta dễ dàng biến đổi công thức trên thành:
P = I2R (8)

P =

U2

R

(9)

P =

(10)

Tuy nhiên khi dạy học sinh ta cần lưu ý: công thức (8) và (9), đối với một
mạch điện chỉ thường dùng khi trong mạch điện có sự chuyển hố gần như hồn
tồn điện năng thành nhiệt năng. Điều đó chỉ xảy ra trong bóng đèn dây tóc hoặc
bếp điện, khơng xảy ra trong bóng đèn phát quang và trong quạt máy vì vậy hai
cơng thức trên khơng áp dụng được đối với bóng đèn phát quang và quạt máy.
Trái lại công thức (7) và (10) có thể áp dụng trong mọi trường hợp đối với
đèn dây tóc cũng như đối với quạt điện.....
+ Cơng của dịng điện:
Có đến 4 cơng thức tính cơng của dòng điện ,
U2
A = U.I.t (11); A = P .t (12); A = t (13); A = I2.R.t (14) nên học sinh sẽ
R

rối không biết chọn công thức nào để dùng, giáo viên nên lưu ý học sinh công
thức (11), (12) dùng cho tất cả các trường hợp. Cịn cơng thức (13), (14) cũng chỉ
dùng cho trường hợp đoạn mạch đó có sự chuyển hố tồn bộ điện năng thành
nhiệt năng.


Còn thấy có trường hợp điện năng tiêu thụ A được tính bằng cơng thức A =
I2.R.t mà nhiệt lượng tỏa ra của dây dẫn cũng được tính bằng cơng thức Q =
I2.R.t . Ở đây giáo viên phải chỉ rõ A và Q liên hệ với nhau như thế nào. (Cơng

của dịng điện sản ra trong một đoạn mạch là số đo lượng điện năng chuyển hoá
thành các dạng năng lượng khác trong đoạn mạch đó). Mà trong đoạn mạch đó
có sự chuyển hố tồn bộ điện năng thành nhiệt năng (đoạn mạch có điện trở lớn).
Vì vậy trong trường hợp này ta thấy A = Q; Có nhiều bài tập phải vận dụng kiến
thức này để tìm các đại lượng chưa biết.
Bài toán 2: (Bài 19- SGK - T56)
Một siêu điện ghi 220V- 1000W cần đun sơi 2lít nước ở nhiệt độ 25 0C biết
hiệu suất của bếp là 85% và nhiệt dung riêng của nước là C = 4200J/kg.K Tính
thời gian để đun sơi chỗ nước trên.
Tóm tắt:
U = 220V

Giải

P = 1000W

Nhiệt lượng cần thiết để đun sơi lượng nước trên là

V = 2lít ; m = 2 kg
t1 = 250C

Q1 = mc(t2 – t1) = 2.4200(100 – 25) = 630.000J
Nhiệt lượng toàn phần mà bếp cung cấp l

t1 = 1000C

H

H = 85%
C= 4200J/kg.K


Q1
Q 630000
 Qtp  1 
 Qtp 741176 J
Qtp
H
85%

Do bếp điện có đổi hồn tồn điện năng thành nhiệt năng
Nên ta có A = Qtp

a/ t = ?

 t

hay

Pt = Qtp

Qtp
741176

741s
P
1000

+ Định luật Jun-Lenxơ.
Q = I2Rt


(15)

Định luật Jun-Lenxơ chỉ áp dụng được đối với những dây dẫn biến đổi toàn bộ
điện năng thành nhiệt năng, ví dụ như: Bàn là, nồi cơm điện, bóng đèn sợi đốt....
Từ cơng thức (1) ta có thể biến đổi thành:


Q=

U2
t (16)
R

Theo công thức (15) ta thấy nhiệt lượng toả ra của dây dẫn tỉ lệ thuận với điện
trở R. Nhưng ở cơng thức (16) thì nhiệt lượng toả ra của dây dẫn tỉ lệ nghịch với điện
trở R. Sự mâu thuẫn này khiến rất nhiều học sinh lúng túng trong quá trình làm bài
tập.
Vì vậy khi dạy phần này giáo viên phải để học sinh nhận ra rằng, hiệu điện
thế U ở hai đầu mạch là khơng đổi, vì vậy khi điện trở (R) giảm thì cường độ
dịng điện (I) tăng lên. Để rõ hơn về vấn đề này ta xét bài tập sau sau:
Bài toán 3:
Một bếp điện có điện trở R, 2R và khố K mắc như trên sơ đồ hình vẽ.
Cho biết R = 25  . Giữa A và B có hiệu điện thế U = 220V.
a. Tính nhiệt lượng toả ra khi đóng K vào

2R

vị trí 1 trong 10 phút, và khi đóng K vào vị trí

A


R

2 cũng trong 10 phút.
b. Hãy giải thích tại sao công thức của định luật
Jun- Lenxơ là Q = I Rt mà ở đây khi tăng R
2

2

1
K

thì Q lại giảm?
Hướng dẫn:
a.
- Khi K đóng vào vị trí 1, dịng điện chỉ đi qua điện trở có giá trị 2R. Điện
trở của bếp điện lúc này là:
R1 = 25.2 = 50(  )
Do đó:

U

220

I1 = R  50 4,4( A) .
1

Nhiệt lượng bếp điện toả ra trong 10 phút = 60.10 = 600 (s)


B


Q1 = I12R1t = 4,42.50.600 = 580800(J) = 580,8(kJ)
- Khi K đóng vào vị trí 2, dịng điện đi qua R và 2R mắc nối tiếp. Điện trở
của bếp điện lúc này là:
Do đó:

R2 = 25 + 50 = 75(  )
U

220

I2 = R  75 2,9( A)
2

Nhiệt lượng mà bếp toả ra trong 600 giây là:
Q1 = I22R2t = 2,92.75.600 = 378450(J) = 378,45(kJ)
b. Theo công thức: Q = I2Rt nếu I không đổi và t cũng không đổi, và nếu
R tăng thì Q cũng tăng theo, vì nhiệt lượng toả ra tỉ lệ thuận với điện trở.
Nhưng trong trường hợp ta đang xét thì hiệu điện thế U ở hai đầu đầu mạch
điện là khơng đổi, vì vậy khi tăng R thì I giảm. Vì Q tỉ lệ thuận với I2 nên khi I
giảm thì I2 và Q giảm mạnh hơn sự tăng R.
4.4 Khả năng áp dụng của sáng kiến.
Sáng kiến này có thể coi là một cẩm nang cần thiết cho cả giáo viên và học
sinh khi giảng dạy và học tập phần chương 1 Điện học mơn vật lí 9.
5. Hiệu quả do sáng kiến mang lại.
5.1. Chất lượng đại trà được nâng cao.
Qua khảo sát áp dụng thực nghiệm đối với học sinh lớp 9 trường
THCS ......... tôi thu được kết quả rất khả quan. Tôi cũng đã chia sẻ sáng kiến này

với các đồng nghiệp cùng trường và đồng nghiệp giảng dạy ở các trường khác. Tơi
nhận được sự ủng hộ, đồng tình và cùng nhau thử nghiệm. Kết quả đạt được của
sáng kiến này cũng khiến các đồng nghiệp tôi, phụ huynh học sinh ủng hộ, học
sinh u thích học mơn Vật lí hơn và biết vận dụng hiệu quả cơng thức vật lí vào
học tập.
Nó mang lại lợi ích rõ ràng: Các em học sinh hứng thú hơn trong học tập,
tiếp thu nhanh hơn, năng động hơn, u thích bộ mơn Vật lí hơn, học sinh đã bắt


đầu hình thành thói quen tích cực học tập, tự giác sáng tạo, chất lượng giờ bài tập
Vật lí được nâng cao.
Tóm lại, qua việc vận dụng sáng kiến này đã phần nào giải quyết được
những vướng mắc cơ bản khi giảng dạy, các mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình
vận dụng cơng thức vào làm bài tập đã được giải quyết. Giáo viên đã tự tin hơn
trong giảng dạy, học sinh đã tích cực hơn trong việc làm bài tập.
* Kết quả thực hiện đề tài có so sánh đối chứng
Sau khi thực hiện đề tài và nghiệm thu tôi đã thu được những kết quả cụ thể như
sau
* Đối với lớp 9A không áp dụng sáng kiến:
Xếp loại bài kiểm tra
Ghi chú
Số HS
9A

Giỏi
SL

Khá

TL


SL

(%)
35

5

14,3

TL

Tb
SL

TL

(%)
10

28,6

Yếu
SL

(%)
15

42,3


TL
(%)

5

Đối chứng

14,9

* Đối với lớp 9B áp dụng sáng kiến:
Xếp loại bài kiểm tra
Ghi chú
Số HS
9B

Giỏi
SL

Khá

TL

SL

(%)
36

9

25


TL

Tb
SL

(%)
11

30,6

Yếu
TL

SL

(%)
13

36,1

3

TL
(%)

Thực

8,3


nghiệm

Qua bảng tổng hợp kết quả trên so sánh cho thấy học kì I năm học 2018 2019 sau khi áp dụng phương pháp đổi mới chất lượng giảng dạy tiết bài tập mơn
Vật lí thì kết quả học tập của học sinh có sự thay đổi. Cụ thể lớp 9B khi áp dụng


sáng kiến thì số bài kiểm tra đạt điểm khá, giỏi tăng rõ rệt và số bài kiểm tra đạt số
điểm trung bình, yếu giảm so với lớp 9A là lớp không áp dụng sáng kiến.
Khi chưa áp dụng tỉ lệ học sinh nắm các kiến thức cơ bản còn ít kiến thức có
nhiều “lỗ hổng”, khả năng vận dụng kiến thức lý thuyết vào giải quyết các bài tập
còn chậm và kỹ năng giải bài tập định lượng rất hạn chế.
Khi áp dụng phương pháp mới trong các giờ luyện tập chất lượng có cải
tiến rõ rệt, đa số học sinh ghi nhớ kiến thức lý thuyết khá chắc và đã vận dụng
các kiến thức đó vào tự giải được nhiều bài tập, kể cả những bài tập có độ khó
với thời gian rất ngắn.
5.2. Chất lượng học sinh giỏi nâng cao.
Năm học 2017- 2018: Khơng có học sinh giỏi.
Năm học 2018 – 2019: Đạt 1 giải ba học sinh giỏi cấp tỉnh.
5.3. Học sinh hứng thú trong học tập
Qua các tiết luyện tập đã hình thành thói quen học tập tích cực, tự giác và
sáng tạo. Các em hứng thú hơn trong học tập, tiếp thu nhanh hơn, năng động hơn,
u thích bộ mơn Vật lí hơn.
5.4. Giáo viên tích cực trong giảng dạy, nhiều phương pháp kỹ thuật
dạy học mới được áp dụng
Giáo viên tích cực áp dụng các phương pháp, kỹ thuật dạy học mới nên
luyện tập được nhiều hơn, khắc sâu được kiến thức hơn cho học sinh. Năng lực tự
học, phát triển tư duy và kỹ năng vận dụng kiến thức của học sinh được nâng lên
rõ rệt so với cách dạy truyền thống. Tổ chức được nhiều hoạt động cá nhân cũng
như hoạt động tập thể, trò chơi, hấp dẫn học sinh. Số học sinh hiểu được phương
pháp học và giải bài tập tăng lên rõ rệt.

6. Những thông tin cần bảo mật.
Không có thơng tin cần bảo mật.
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến


- Đối tượng lựa chọn là học sinh lớp 9
- Thời gian áp dụng đầu học kì 1 khi học sinh học chương 1 Điện Học
- Giáo viên phải tìm hiểu sâu, kĩ vấn đề đưa ra những lập luận chính xác
khoa học, dễ hiểu.
- Có sự hỗ trợ tạo điều kiện của Ban giám hiệu và các bạn đồng nghiệp.
- Cơ sở vật chất, biên chế lớp học phải đáp ứng được yêu cầu đổi mới
phương pháp và dạy học theo mơ hình mới.
- Xây dựng nề nếp học tập cho học sinh có thói quen phân tích lựa chọn
công thức khi làm bài tập.
- Đứng trước một vấn đề giáo viên cần cho học sinh phân biệt qua hệ
thống câu hỏi, hiểu ra đâu là nội dung kiến thức đã cho, đâu là kiến thức phải
tìm….từ đó học sinh tự mình tìm ra câu trả lời.
8. Danh sách những người đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng
kiến lần đầu:
Số

Họ và

Ngày

Nơi cơng

Chức

Trình độ


Nội dung

TT

tên

tháng

tác (hoặc

danh

chun mơn

cơng việc

năm sinh

nơi thường

hỗ trợ

trú)
 1

 Nguyễn  12/8/1991  Trường

 Giáo


Văn

THCS Bản viên

Kim

Ngoại

 Đại
Toán

học Đưa ra và
bàn luận
một số
phương
pháp giải

Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật
và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.


........., ngày 15 tháng 4 năm 2019
Người nộp đơn

.........



×