Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Tiểu luận Lịch sử Đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.71 KB, 16 trang )

A. MỞ ĐẦU
Mỗi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều gắn liền với vai trò của Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh - Người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trước các nhiệm vụ lịch sử, Đảng và Bác Hồ đã kịp thời xác định đúng đắn, sáng tạo
đường lối, chiến lược, sách lược đưa cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Sự lựa chọn đúng đắn con đường cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua gắn liền
với tên tuổi và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Từ một người yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và Cách mạng Tháng Mười Nga,
Người đã sớm nhận ra rằng, “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ
nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin. Đó chính là
chủ nghĩa Mác - Lênin, một học thuyết cách mạng và khoa học nhất về con đường giải
phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Ngay từ những năm đầu thập
niên 20, thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã có sự lựa chọn đúng đắn khẳng định con đường đi
đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam: "khơng có con đường nào khác con đường cách
mạng vô sản". Trải qua thực tiễn cuộc sống, hoạt động cách mạng phong phú và tiếp thu
chân lý khoa học, Người đã đi đến kết luận chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu được nhân
loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng,
bác ái, đồn kết, ấm no trên trái đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui,
hồ bình, hạnh phúc.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức đảng cộng sản ở Việt Nam thành một Đảng Cộng
sản duy nhất – Đảng Cộng sản Việt Nam – theo một đường lối chính trị đúng đắn, tạo nên
sự thống nhất về tư tưởng, chính trị và hành động của phong trào cách mạng cả nước,
hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, là sự khẳng định vai
trị lãnh đạo của giai cấp cơng nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách
mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kiện lịch sử cực kỳ trọng
đại, một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đánh dấu một
mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.
Trong môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, có thể nói đề tài “ Sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sự phát triển cao và thống nhất của phong trào
công nhân, phong trào yêu nước được soi sáng bởi chủ nghĩa Mác - Lênin. Bài học kinh


nghiệm trong thời kỳ hội nhập từ quan điểm trên ” là một trong những đề tài hay nhất.
Qua đề tài này, chúng ta sẽ hiểu rõ được quá trình chủ tịch Hồ Chí Minh tìm đường giải
phóng dân tộc, tiếp thu và truyền bá Chủ nghĩa Mác – Lênin, chuẩn bị các điều kiện để
triển khai hội nghị hợp nhất tất cả các tổ chức cộng sản thành một Đảng. Đồng thời
chúng ta còn nắm vững được sự ra đời và ý nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam.


B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận :
1. Nguyễn Ái Quốc tìm đường giải phóng dân tộc và chuẩn bị các điều kiện để
thành lập Đảng
1.1. Nguyễn Ái Quốc tìm đường giải phóng dân tộc :
Những nhân tố cơ bản thúc đẩy Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước.
Khách quan gồm có hồn cảnh gia đình và truyền thống của quê hương giàu truyền thống
yêu nước. Người xuất thân trong một gia đình nhà nho yêu nước, tiếp thu truyền thống
văn hố của gia đình. Người đã tiếp thu tinh thần đấu tranh anh dũng, bất khuất của quê
hương. Đất nước, quê hương và gia đình đã hình thành ở Nguyễn Tất Thành một nhân
cách giàu lòng yêu nước, có hồi bão lớn, nhân ái thương người, thấu hiểu được nỗi khổ
của nhân dân. Từ đó Người quyết tâm ra đi tìm đường cách mạng cứu nước, cứu dân,
thoát khỏi cảnh lầm than cơ cực.
Về nhân tố chủ quan, Từ nhỏ Nguyễn Ái Quốc đã có tinh thần u nước, có ý chí,
nghị lực. Người sớm có năng lực tư duy khoa học : Năm 13 tuổi Người đã tìm hiểu khẩu
hiệu: “ Tự do, bình đẳng, bác ái ” (CM Pháp), muốn đi để xem đằng sau những từ ấy ẩn
chứa những điều gì để về giúp đồng bào. Năm 15 tuổi Bác biết nhận xét các phong trào
của các bậc tiền bối như: Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Hồng Hoa Thám. Chính vì
có năng lực tư duy khoa học đã giúp cho Nguyễn Ái Quốc đi tìm đường cứu nước và rút
ra những nhận định khoa học chính xác. Ngồi ra Người cịn có năng lực tổ chức hoạt
động thực tiễn. Từ những yếu tố khách quan và chủ quan nêu trên đã thúc đẩy Nguyễn Ái
Quốc ra đi tìm đường cứu nước.

1.2. Quá trình Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước và tiếp thu Chủ nghĩa
Mác-Lênin (1911-1920) :
Ngày 5 tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành sang phương Tây (Pháp) tìm đường
cứu nước. Tháng 7 năm 1911 Người đến Pháp. Qua quan sát ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc
nhận thấy tại đây cũng có nhiều người còn sống trong cảnh nghèo khổ. Người đã
đặt ra câu hỏi “ tại sao người Pháp khơng “khai hóa” đồng bào của họ trước khi đi “ khai
hoá ” chúng ta ? ”. Cuối tháng 12 năm 1912, Nguyễn Ái Quốc tới Mỹ. Người đã lao động
để kiếm sống và học tập, nghiên cứu cách mạng tư sản Mỹ. Người chứng kiến thực tế xã
hội Mỹ: người da đen bị đối xử và sự bất bình đẳng giữa các dân tộc. Cảm nghĩ của
Người khi chiêm ngưỡng tượng thần Tự do: “ánh sáng trên đầu thần Tự do tỏa rộng khắp
trời xanh, cịn dưới chân thần Tự do thì người da đen đang bị chà đạp. Bao giờ người da
đen được bình đẳng với người da trắng? Bao giờ có sự bình đẳng giữa các dân tộc? Bao
giờ người phụ nữ được bình đẳng với nam giới?” ( Dẫn theo nhà sử học Mỹ STenson).
Từ năm 1913-1917 Người ở nước Anh: làm nhiều nghề để kiếm sống. Năm
1917-1919 Nguyễn Ái Quốc ở Pháp, Người đã tham gia ủng hộ Cách mạng tháng Mười


Nga, Ra nhập vào Đảng xã hội Pháp (1918). Ngày 16/8/1919, Nguyễn Ái Quốc thay mặt
những người yêu nước ở Pháp gửi đến Hội nghị Véc-xây Bản yêu sách 8 điểm địi chính
phủ Pháp thừa nhận quyền tự do dân chủ và bình đẳng cho người Việt Nam.
Trong 9 năm hoạt động ( 1911-1919), Nguyễn Ái Quân nhận thức được: Hiểu
được bản chất của CNĐQ, CNTD. Người đã rút ra kết luận: Chủ nghĩa đế quốc, chủ
nghĩa thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của giai cấp công nhân, nhân dân lao động ở
chính quốc cũng như ở thuộc địa. Hiểu được tình cảnh của phong trào cơng nhân ở các
nước chính quốc cũng như ở thuộc địa. Người đã tiếp thu và làm giàu thêm vốn tri thức
văn hóa phương Đơng và phương Tây.
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Bản sơ thảo lần thứ nhất Đề cương về vấn đề
dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin. Người đã tìm ra được con đường cách mạng
cho dân tộc Việt Nam. Đó là con đường cách mạng vơ sản.
Sau này, khi nói về cảm tưởng đọc Luận cương của Lênin, Người viết: Luận

cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ tin tưởng biết bao! Tơi vui
mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng tối mà tơi nói to lên như đang nói
trước quần chúng đơng đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ đây là cái cần thiết cho
chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta.
Từ đây, Nguyễn Ái Quốc đã chính thức đến với chủ nghĩa Mác-Lênin. Nguyễn Ái
Quốc tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin một cách tự nhiên, rõ ràng như vậy đó là nhờ có
những điều kiện khách quan và chủ quan. Về khách quan : Thứ nhất: Chủ nghĩa Mác –
Lênin mà đặc biệt là Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin chính là con
đường cách mạng của các dân tộc thuộc địa mà Nguyễn ái Quốc mất nhiều năm tìm
kiếm; Thứ hai: Xu thế phát triển mạnh mẽ của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
nói chung và ở các dân tộc thuộc địa nói riêng; Thứ ba: Cách mạng Việt Nam đang bị
khủng hoảng về đường lối và về tổ chức lãnh đạo. Nhân tố chủ quan bao gồm : Thứ nhất:
Người đã có một q trình bơn ba đi tìm đường cứu nước, đã tự rèn luyện mình từ một trí
thức u nước thành một người vơ sản. Đó là điều kiện thuận lợi để trở thành một người
cộng sản khi có điều kiện thuận lợi; Thứ hai: Chủ nghĩa yêu nước trong Hồ Chí Minh và
chủ nghĩa Mác – Lênin có cùng bản chất nên khi gặp nhau nó hồ tan vào nhau một cách
tự nhiên; Thứ ba: do tư duy và sự nhạy cảm về chính trị, vốn kiến thức văn hố Đơng
Tây.
Tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội Đảng xã hội Pháp lần thứ VIII
họp ở Tua (Pháp), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế III (Quốc tế cộng sản),
trở thành người cộng sản đầu tiên ở Việt Nam và tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp.
Ý nghĩa việc Nguyễn Ái Quốc tán thành Quốc Tế III đã đánh dấu một bước ngoặt quan
trọng trong cuộc đời của Nguyễn Ái Quốc, tìm ra con đường giải phóng dân tộc và trở
thành người cộng sản đầu tiên của Việt Nam. Đất nước ta, dân tộc ta thơng qua Nguyễn
Ái Quốc đã tìm ra con đường đúng đắn nhất, đáp ứng yêu cầu lịch sử đặt ra. Mở đầu cho
sự vận động mới của cách mạng Việt Nam. Từ lập trường yêu nước, chủ nghĩa yêu nước,


tinh thần yêu nước, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu và đến với chủ nghĩa Mác-Lênin và trở
thành người cộng sản. Điều này có tác dụng rất lớn đến quá trình thành lập Đảng.

1.3.Nguyễn Ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin và chuẩn bị thành lập
Đảng (1920-1930) :
Từ cuối 1920 đến 6/1923 Người ở Pari - Pháp: Tháng 10/1921 Người đã cùng với
một số nhà hoạt động cách mạng thuộc địa các nước Angiêri, Marốc, Tuynidi... thành lập
Hội liên hiệp thuộc địa. Hội Liên hiệp thuộc địa có mục đích: Truyền bá chủ nghĩa Mác –
Lênin vào các dân tộc thuộc địa và đoàn kết và cổ vũ phong trào đấu tranh của nhân dân
các dân tộc thuộc địa. Năm 1922, Hội đã cho xuất bản tờ báo Le Paria ( Người cùng khổ)
do Hồ Chí Minh làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Đồng thời, Người làm trưởng tiểu ban
nghiên cứu vấn đề Đông Dương trong ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng cộng sản
Pháp.
Người viết tác phẩm: Bản án chế độ thực dân Pháp xuất bản lần đầu tiên ở Pari
năm 1925. Bản án chế độ thực dân Pháp tố cáo trước dư luận Pháp và thế giới những tội
ác của bọn thực dân không chỉ ở Việt Nam mà ở khắp các thuộc địa Pháp. Bằng biểu
tượng “con đỉa hai vòi”, Nguyễn Ái Quốc đã làm cho người đọc thấy rằng chủ nghĩa tư
bản, chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của giai cấp vô sản và nhân dân lao động bị áp
bức, bị bóc lột ở các nước chính quốc và các dân tộc thuộc địa. Bản án chế độ thực dân
Pháp đã góp phần vào việc thiết lập sự liên minh giữa cách mạng vơ sản ở chính quốc với
cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa. Qua đó tác phẩm bước đầu hình nên hệ
thống quan điểm lý luận về con đường cứu nước cho dân tộc. Đó là con đường cách
mạng vô sản.
Tháng 6/1923 - 91924, Nguyễn Ái Quốc ở Liên xô: Người đã dự Hội nghị quốc tế
nông dân (10.1923), dự Đại hội lần thứ V Quốc tế cộng sản (1924). Người đã viết nhiều
bài đăng trên báo của Liên Xơ. Đây là dịp Hồ Chí Minh đi sâu nghiên cứu, học hỏi kinh
nghiệm của cách mạng Tháng Mười Nga, xây dựng lý luận về cách mạng giải phóng dân
tộc.
Từ tháng 11/1924 đến 1927: Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu ( Trung Quốc).
Tháng 6 năm 1925, tại Quảng Châu, Người sáng lập ra Hội Việt Nam Cách mạng thanh
niên (tiền thân là Tâm Tâm Xã -> Cộng sản Đoàn 2/1925 ). Xuất bản báo Thanh Niên.
Nguyễn Ái Quốc đã mở lớp huấn luyện chính trị, đào tạo nhiều cán bộ cách mạng. Các
bài giảng của Người được tập hợp và in thành tác phẩm “ Đường cách mệnh” (xuất bản

năm 1927). Nội dung chủ yếu “Đường cách mệnh” là:
Thứ nhất: Khẳng định trước hết là phải làm cách mạng, đó là dân tộc cách mạng
và giai cấp cách mạng..
Thứ hai: Xác định rõ kẻ thù của dân tộc và giai cấp cần đánh đổ là đế quốc Pháp
giành độc lập, tự do cho nhân dân.
Thứ ba: Lực lượng cách mạng, chỉ rõ công nông là gốc cách mạng.


Thứ tư: Khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới.
Thứ năm: Cách mạng là ở nhân dân, nhân dân phải được giác ngộ, đoàn kết, được
tổ chức mới tạo nên sức mạnh. Bước đầu hình thành nên tư tưởng phương pháp cách
mạng bạo lực quần chúng.
Thứ sáu: Sự cần thiết phải có Đảng lãnh đạo.
Người khẳng định: “ Trước hết phải có đảng lãnh đạo, để trong thì vận động và tổ
chức dân chúng, ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vơ sản giai cấp mọi nơi”, “
Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới
chạy” ,“Đảng mà khơng có chủ nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có
bàn chỉ nam” Đảng ấy phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động. Tác phẩm Đường cách mệnh đặt nền móng cho việc xác định đường
lối cứu nước của dân tộc. Là nền tảng tư tưởng lý luận cho sự ra đời của Đảng.
Như vậy, thơng qua q trình hoạt động của Hồ Chí Minh từ năm 1921-1927 thì
hệ thống quan điểm lý luận về con đường cách mạng của Người đã thể hiện khá hồn
chỉnh, hình thành hệ thống quan điểm lý luận cách mạng.
1.4. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản :
Trước chiến tranh thế giới thứ I, phong trào cơng nhân cũng đã nổ ra nhưng mang
tính tự phát, riêng lẻ. Sau chiến tranh thế giới thứ I: Với sự truyền bá chủ nghĩa
Mác-Lênin vào Việt Nam, phong trào đã có những nhân tố mới, mang tính tự giác.
Biểu hiện cụ thể, từ năm 1919-1925: nổ ra 25 cuộc bãi công, tiêu biểu: Cuộc bãi
công của 1000 công nhân xưởng sửa chữa tàu thuỷ Ba Son do Tôn Đức Thắng tổ chức.
Các cuộc bãi công của công nhân nổ ra ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Nam Định, Hải

Dương…Các phong trào cơng nhân đã có những bước phát triển mới diễn ra trên quy mô
lớn và thời gian dài hơn.
Từ năm 1926-1929: Phong trào công nhân ngày càng phát triển mạnh với sự ra đời
của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên: Trong những năm 1926-1927, mỗi năm có
hàng chục cuộc bãi cơng. Hai năm 1928-1929 nổ ra hơn 40 cuộc đấu tranh, tiêu biểu: bãi
công ở nhà máy xi măng Hải Phòng, nhà máy sợi Nam Định, nhà máy cưa Bến Thuỷ, mỏ
than Hồng Gai. Các cuộc đấu tranh đó đã kết hợp những khẩu hiệu kinh tế với khẩu hiệu
chính trị, vượt ra ngồi phạm vi một nhà máy, đồn điền, bước đầu đã có sự liên kết nhiều
ngành, nhiều địa phương. Điều đó chứng tỏ trình độ giác ngộ của cơng nhân đã nâng lên
rõ rệt. Phong trào đang phát triển mạnh mẽ, có sức quy tụ và dẫn đầu phong trào yêu
nước nói chung.
Với việc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam thông qua Hội
Việt Nam cách mạng thanh niên. Cách mạng trong nước có những bước phát triển. Đó là
sự xuất hiện của các tổ chức cộng sản, tạo tiền đề cho sự ra đời của Đảng.


2. Thành lập Đảng cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng
Các tổ chức cộng sản ra đời. Đến năm 1929, phong trào yêu nước và phong trào
cơng nhân Việt Nam phát triển mạnh mẽ, địi hỏi có sự lãnh đạo thống nhất của một Đảng
cách mạng. Yêu cầu khách quan đó tác động vào các tổ chức tiền cộng sản, dẫn đến cuộc
đấu tranh nội bộ và sự phân hóa tích cực trong các tổ chức này, hình thành nên các tổ
chức cộng sản ở Việt Nam
2.1.Từ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đến Đông Dương cộng sản đảng
và An Nam cộng sản đảng :
Cuối tháng 3/1929 một số người tiên tiến của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên (Bắc Kỳ) họp ở số nhà 5Đ, phố Hàm Long (Hà Nội) để thành lập chi bộ cộng sản
đầu tiên do Trần Văn Cung làm bí thư. Chi bộ tích cực chuẩn bị để đi đến thành lập một
đảng cộng sản thay thế Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên.
Tại Đại hội lần thứ nhất của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đầu tháng

5.1929 đã xảy ra sự bất đồng giữa các đoàn đại biểu xung quanh việc xúc tiến thành lập
đảng cộng sản. Đoàn đại biểu Bắc Kỳ rút khỏi đại hội về nước.
Ngày 17.6.1929, tại số nhà 312 Khâm Thiên, Hà Nội, đại biểu các tổ chức cơ sở
cộng sản ở miền Bắc họp đại hội quyết định lập Đông Dương cộng sản đảng, thông qua
tuyên ngôn, điều lệ của Đảng, quyết định xuất bản báo Búa liềm, cử ra Ban chấp hành
trung ương lâm thời của đảng.
Trước nhu cầu phát triển của phong trào cách mạng, đặc biệt sự ra đời của Đông
Dương cộng sản đảng, một số hội viên tiên tiến trong Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên ở Trung Quốc và ở Nam kỳ cũng thành lập một tổ chức cộng sản đảng.
Tháng 11.1929 An Nam cộng sản đảng họp Đại hội tại Sài Gịn để thơng qua
đường lối chính trị, điều lệ đảng và lập ban chấp hành trung ương đảng. Xuất bản tạp chí
Bơnsêvích. Ban chấp hành trung ương gồm: Châu Văn Liêm, Nguyễn Thiệu, Hồ Tùng
Mậu, Trần Mão, Lê Hồng Sơn. Sau khi ra đời, các tổ chức cộng sản đều tự nhận mình là
đảng cách mạng chân chính. Trong q trình hoạt động, các tổ chức cộng sản đã tranh
giành ảnh hưởng của quần chúng, đồng thời cơng kích lẫn nhau.
Mặc dù, hoạt động riêng lẻ, cơng kích lẫn nhau, song từ sự ra đời của Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên đến việc xuất hiện những tổ chức cộng sản là một xu thế
phát triển khách quan của phong trào cách mạng ở Việt Nam lúc bấy giờ.
2.2. Từ Tân Việt cách mạng đảng đến Đơng Dương cộng sản liên đồn :
Trước sự ra đời của Đông Dương cộng sản đảng và An Nam cộng sản đảng đã tác
động mạnh mẽ đến sự phân hoá trong Tân Việt cách mạng đảng.
Tiền thân của Tân Việt cách mạng Đảng là Hội Phục Việt (1925) và đổi thành Hội
Hưng Nam (1926). Để giao lưu với Việt Nam cách mạng thanh niên, tháng 7 – 1926, Hội


Hưng Nam lại đổi tên thành Việt Nam cách mạng Đảng, rồi Việt Nam cách mạng đồng
chí Hội (7 - 1927). Ngày 14/7/1928 Việt Nam cách mạng đồng chí hội họp Đại hội ở Huế
quyết định thành lập Tân việt cách mạng đảng. Tân Việt cách mạng đảng ra đời trong
điều kiện Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên phát triển mạnh và có ảnh hưởng đến
Tân Việt, lơi cuốn nhiều đảng viên tiên tiến đi theo. Trong nội bộ tân Việt đã diễn ra cuộc

đấu tranh giữa hai khuynh hướng tư tưởng cách mạng và cải lương. Cuối cùng xu hướng
cách mạng theo quan điểm vô sản chiếm ưu thế. Một số đảng viên tiên tiến của Tân Việt
đã ngả sang Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.Số tiên tiến cịn lại chuẩn bị tiến tới
thành lập một chính đảng kiểu mới theo chủ nghĩa Mác-Lênin.
Tháng 12/1929 Đông Dương Cộng sản Liên đồn chính thức được thành lập. Với
mục tiêu là đấu tranh giành độc lập hoàn toàn cho xứ Đơng Dương, xóa bỏ nạn người bóc
lột người, xây dựng chế độ cơng nơng chun chính, tiến lên chế độ cộng sản chủ nghĩa.
Như vậy, trong vòng 4 tháng đã có ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam tuyên bố thành
lập. Sự ra đời nhanh chóng của các tổ chức cộng sản phản ánh xu thế tất yếu của phong
trào dân tộc ở Việt Nam. Vì vậy cần phải có một đường lối thống nhất để hợp nhất ba tổ
chức cộng sản lại thành một Đảng. Đó là yêu cầu bức thiết của lịch sử .
2.3. Hội nghị thành lập Đảng và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng :
Hội nghị thành lập Đảng diễn ra khi có những điều kiện lịch sử thuận lợi. Hoạt
động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở trong nước có sức lơi kéo, lay động
quần chúng. Cán bộ đi vào quần chúng thơng qua phong trào “vơ sản hóa”(1928). Giải
thích cho quần chúng nhân dân ý thức được nỗi khổ, nguồn gốc nỗi khổ và chỉ ra con
đường đấu tranh. Phong trào đó cần có một Đảng lãnh đạo. Xu thế khách quan của phong
trào là cần có một Đảng lãnh đạo thống nhất phong trào. Nhu cầu tự thân của những
người cộng sản là tiến tới thành lập một Đảng thống nhất. Các tổ chức đều hoạt động
trong quần chúng, đều muốn Quốc tế cộng sản thừa nhận vai trị lãnh đạo của mình và
đều muốn hợp nhất thành một Đảng duy nhất, tạo sự thống nhất, đoàn kết trong phong
trào cách mạng. Ngoài ra, Quốc tế cộng sản cũng rất quan tâm đến việc hợp nhất các tổ
chức cộng sản ở Đông Dương. Nguyễn Ái Quốc đã chuẩn bị mọi điều kiện về chính trị,
tư tưởng, tổ chức cho việc thành lập một chính Đảng. Trên đây là những điều kiện thuận
lợi để tiến tới hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng duy nhất ở Việt Nam. Đó là
yêu cầu tất yếu khách quan của lịch sử.
Bên cạnh đó cũng có những khó khăn nhất định. Sự khủng bố, đàn áp, bắt bớ của
kẻ thù, chúng bắt bớ, tra tấn hàng loạt cán bộ cách mạng như lập toà án binh để xử án
(1929 tịa án Trung kỳ xử tử hình vắng mặt Nguyễn Ái Quốc). Ngồi ra cịn có tun
truyền chống cộng sản. Sự tồn tại của các tổ chức yêu nước không phải là cộng sản, cũng

đưa ra chương trình hoạt động và gây khó khăn cho cách mạng như: Đảng lập hiến ( Bùi
Quang Chiêu),.. và bệnh ấu trĩ tả khuynh của những người cộng sản. Còn nặng tâm lý
tiểu tư sản, khi họp phê phán nhau, bài xích lẫn nhau như: Đông Dương Cộng sản cho
rằng An Nam Cộng sản Đảng không phải là cộng sản và ngược lại. Gây sự mất đoàn kết


trong phong trào cách mạng. An Nam Cộng sản đảng cho rằng Đông Dương Cộng sản
đảng “chẳng qua được cái lịng nhiệt thành cách mạng mà thơi, chứ chủ trương hoạt động
của đảng Đơng Dương thì sai nhiều q”, rằng Đơng Dương chưa thật sự là Bơnsêvích,
Đơng Dương coi An Nam là “hoạt đầu, giả cách mạng”.
Từ những thuận lợi và khó khăn trên cho thấy: xu thế tất yếu khách quan cần phải
hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng duy nhất. Đáp ứng yêu cầu tất yếu của
lịch
2.4. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam :
Quá trình chuẩn bị, những vấn đề đặt ra cho Nguyễn Ái Quốc : giải quyết những
bất đồng trước đây của các tổ chức cộng sản để đi đến thống nhất, chuẩn bị các văn kiện
cho Hội nghị và dự kiến ngày và nơi họp hội nghị. Đến đầu tháng 1/1930, mọi việc chuẩn
bị đã cơ bản hoàn thành.
Thời gian: Từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 2 năm 1930, địa điểm: Tại một gia đình
cơng nhân ở bán đảo Cửu Long (Hương Cảng - Trung Quốc) dưới sự chủ trì của Nguyễn
Ái Quốc. Đại biểu tham gia Hội nghị gồm có : Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh
(Đơng Dương Cộng sản đảng), Nguyễn Thiệu và Châu Văn Liêm (An Nam Cộng sản
Đảng), 2 đại biểu nước ngoài và Đơng Dương Cộng sản Liên đồn do hồn cảnh nên
khơng đến kịp dự Hội nghị nhưng đến ngày 24/2/1930 đã thông qua nghị quyết và ra
nhập vào Đảng.
Nội dung Hội nghị thành lập Đảng: Nguyễn Ái Quốc yêu cầu từng người tự kiểm
điểm, thống nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thông qua Cương lĩnh của
Đảng bao gồm: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt, Chương trình
tóm tắt. Cử ra một BCHTW lâm thời gồm 7 đồng chí, do đồng chí Trịnh Đình Cửu đứng
đầu. Gồm:Trịnh Đình Cửu, Trần Văn Lan, Nguyễn Văn Hới, Nguyễn Phong Sắc, Phan

Hữu Lầu, Lưu Lập Đạo, Hồng Quốc Việt.
Hội nghị thành lập Đảng có ý nghĩa như một đại hội, đánh dấu mốc lịch sử về sự
ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam. Quy tụ được được 3 tổ chức cộng sản trong nước
thành một Đảng duy nhất theo một đường lối chính trị đúng đắn. Tạo sự thống nhất tư
tưởng và hành động của phong trào cách mạng và truyền thống đoàn kết trong Đảng và
dân tộc từ đó về sau.
2.5. Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng :
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam tạo ra bước ngoặt vĩ đại cho cách mạng
Việt Nam. Đối với giai cấp cơng nhân, chuyển từ tự phát lên tự giác, có ý thức giác ngộ
giai cấp và nắm quyền lãnh đạo thơng qua chính Đảng. Đánh dấu sự trưởng thành của
giai cấp công nhân. Lãnh đạo phong trào cách mạng đi đến thắng lợi. Kết thúc thời kỳ
khủng hoảng giai cấp lãnh đạo. Đối với dân tộc, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng bế tắc


đường lối. Kể từ đây dân tộc Việt Nam, cách mạng Việt Nam đã có Đảng tiên phong lãnh
đạo. Đáp ứng được yêu cầu của lịch sử đặt ra lúc bấy giờ.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp: chủ nghĩa Mác-Lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Là kết quả của sự vận dụng
phát triển, sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể Việt Nam. Công thức
chung thành lập một Đảng cộng sản là: chủ nghĩa Mác-Lênin và phong trào cơng nhân.
Cịn ở Việt Nam, do những đặc điểm riêng mà Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết
hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đây là quy
luật ra đời đặc thù của Đảng cộng sản Việt Nam. Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, thể hiện tư duy độc lập, tự chủ,
tự cường và sáng tạo của Người. Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn kết hợp với tinh hoa văn
hoá dân tộc và nhân loại đã giúp Hồ Chí Minh tìm được con đường cứu nước đúng đắn.
II. Cơ sở thực tiễn :
1. Quan điểm “ Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sự phát
triển cao và thống nhất của phong trào công nhân, phong trào yêu nước được
soi sáng bởi chủ nghĩa Mác - Lênin ” :

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời phản ánh cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân
đến thời kỳ tự giác; là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước. Lý luận về tính tất yếu của sự kết hợp ấy đã được
đề ra trong học thuyết Mác -Lênin. Song, trong mỗi nước, sự kết hợp ấy lại là một sản
phẩm của lịch sử, lại được thực hiện bằng con đường riêng biệt, tùy theo điều kiện không
gian và thời gian.
Việt Nam là một quốc gia dân tộc được hình thành từ rất sớm, có nền văn hiến lâu
đời, trong đó, yêu nước là truyền thống quý báu và đặc sắc, là chủ lưu xuyên suốt lịch sử
dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm nhận thức được chủ nghĩa dân tộc là động
lực lớn của đất nước.
Khái quát về sự hình thành Đảng Cộng sản Việt nam, Hồ Chí Minh đã nêu trong
tác phẩm Thường Thức Chính Trị (1953): Đảng kết hợp phong trào Cách mạng Việt Nam
với chủ nghĩa Mác - Lênin. Năm 1960, Người lại viết: Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng đầu
năm 1930. Đây là luận điểm mới của Hồ Chí Minh về sự hình thành Đảng Cộng sản Việt
Nam. Trong khi khẳng định quy luật chung của sự ra đời của chính Đảng vô sản, Người
đã đánh giá cao phong trào yêu nước Việt Nam, xem đó như một trong các nhân tố hình
thành nên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Luận điểm ấy đã quán triệt đầy đủ học thuyết Mác - Lênin về Đảng Cộng sản và
phù hợp với hoàn cảnh một nước thuộc địa nửa phong kiến, có truyền thống yêu nước, có
số lượng cơng nhân ít nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với phong trào yêu nước ngay từ
khi mới ra đời. Đó là kết quả của sự vận dụng sáng tạo quan điểm xây dựng Đảng kiểu


mới của Lênin vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam; khơng những có ý nghĩa quan
trọng đối với q trình cách mạng Việt Nam mà nó cịn có ý nghĩa quốc tế to lớn, nhất là
với những nước có hồn cảnh tương đồng.
Sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết về sự ra đời của Đảng Cộng sản dựa
trên căn cứ lý luận và điều kiện lịch sử cụ thể:
Một là, sau khi xâm lược nước ta, thực dân Pháp thực hiện chính sách khai thác tài

nguyên, bóc lột sức lao động, chỉ xây dựng một số nhà máy trực tiếp phục vụ cho chính
sách khai thác. So với nhiều nước trên thế giới và khu vực, giai cấp công nhân Việt Nam
ra đời chậm và nhỏ bé. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa
lần thứ nhất (1897-1913).
Hai là, từ khi thực dân Pháp xâm lược đất nước ta, phong trào đấu tranh chống
thực dân Pháp liên tục diễn ra. Phong trào yêu nước chống Pháp có trước phong trào
công nhân. Phong trào yêu nước chống Pháp đã ni dưỡng lịng u nước và tinh thần
dân tộc trong các tầng lớp nhân dân, trong công nhân. Mục tiêu đấu tranh trước mắt của
phong trào công nhân phù hợp với mục tiêu của phong trào yêu nước là đánh đổ thực dân
Pháp, đem lại độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân. Do đó, vào cuối những năm 30
của thế kỷ XX, phong trào yêu nước dần dần trở thành một bộ phận của cuộc đấu tranh
chống thực dân Pháp.
Ba là, Nguyễn Ái Quốc sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Người đã đi từ chủ
nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong quá trình tìm đường cứu nước,
Người đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và từ đó Người đã dày cơng truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lênin vào Việt Nam, vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Việc
thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên (1925) bao gồm những chiến sĩ yêu nước
để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước là hiện thân của sự kết hợp ba yếu tố
ngay từ những bước chuẩn bị ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào công nhân, phong
trào yêu nước đã giúp Đảng ta ngay từ khi mới ra đời phát huy được truyền thống yêu
nước, đoàn kết được các lực lượng cách mạng và nhờ đó giữ được quyền lãnh đạo cách
mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam tuyển lựa đảng viên không những trong phong trào cơng
nhân mà cịn chọn những phần tử tiên tiến giác ngộ chủ nghĩa cộng sản trong nơng dân,
trí thức và trong phong trào u nước. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là kết quả của quá
trình vận động hợp quy luật, của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mác - Lênin,
phong trào công nhân với phong trào yêu nước Việt Nam. Đảng ra đời đã chấm dứt thời
kỳ khủng hoảng sâu sắc về giai cấp lãnh đạo và đường lối cứu nước ở nước ta từ cuối thế
kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Sự kiện đó chứng tỏ giai cấp cơng nhân nước ta đã trưởng thành
"đủ sức lãnh đạo cách mạng”. Từ đây, giai cấp cơng nhân Việt Nam đã có một bộ tham

mưu của giai cấp và dân tộc lãnh đạo, đánh dấu sự chiến thắng của chủ nghĩa Mác Lênin đối với các trào lưu tư tưởng phi vô sản.
Với sự chuẩn bị công phu của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, năm 1930 Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thành lập, đảm nhiệm vai trò lãnh đạo


của Cách mạng Việt Nam. Đảng ra đời là bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam trong thời
đại mới, đó là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam được lịch sử giao cho sứ mệnh nắm
quyền lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam.
Sự ra đời của Đảng với hệ thống tổ chức chặt chẽ và Cương lĩnh lãnh đạo đúng
đắn đã chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc những năm
đầu thế kỷ XX. Đảng ra đời làm cho cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khăng
khít của cách mạng thế giới. Là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên cho mọi thắng lợi của cách
mạng nước ta, là nhân tố quyết định phương hướng phát triển và đưa đến thắng lợi trong
sự nghiệp giành độc lập, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Là con đường đúng đắn và phù hợp
với quy luật phát triển của lịch sử. Như vậy, có thể khẳng định:
Thứ nhất, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Học thuyết
Mác - Lênin khẳng định rằng, Đảng cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác
- Lênin với phong trào công nhân. Quy luật chung này được lãnh tụ Nguyễn ái Quốc vận
dụng sáng tạo vào điều kiện Việt Nam, nơi giai cấp cơng nhân cịn ít về số lượng, nhưng
người vơ sản bị áp bức, bóc lột thì đơng. Sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước dẫn đến sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam.
Muốn xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải coi trọng đầy đủ
cả ba yếu tố trên.
Thứ hai, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự phát triển cao và thống
nhất của phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đảng ta là con đẻ của phong trào
cách mạng của công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động và trưởng thành thông qua
đấu tranh chống đế quốc, chống phong kiến. Muốn củng cố và phát triển Đảng, đòi hỏi
phải củng cố và phát triển phong trào cách mạng của quần chúng. Đảng mật thiết liên hệ

với quần chúng, hướng dẫn, lãnh đạo phong trào quần chúng, thông qua thực tiễn phong
trào cách mạng mà củng cố và phát triển Đảng.
Thứ ba, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả thống nhất của phong trào cách
mạng trong cả nước, là sự đồng tâm nhất trí của những chiến sĩ tiên phong. Những người
cộng sản Việt Nam dù ở trong Đông Dương cộng sản đảng, An Nam cộng sản đảng hay
Đông Dương cộng sản liên đồn, lúc bấy giờ tuy có những vấn đề bất đồng, nhưng đã
biết đề cao trách nhiệm của đội tiên phong, đặt lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp lên trên hết
nên đã sớm thống nhất vào một đảng duy nhất để lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Thứ tư, đường lối chiến lược và sách lược cách mạng của Đảng được thể hiện
trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt là phù hợp với yêu cầu của toàn Đảng và
toàn dân, đã trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết các lực lượng và lãnh đạo phong trào
cách mạng từ khi Đảng được thành lập.
Thực tiễn cách mạng nước ta ngày càng khẳng định sự đúng đắn và sáng tạo của
những tư tưởng chiến lược và sách lược trên của chủ tịch Hồ Chí Minh. Cụ thể là Đại hội


đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã khẳng định rằng : "lấy chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động" của toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân ta trong giai đoạn hiện nay.
2. Bài học kinh nghiệm trong thời kỳ hội nhập từ quan điểm trên :
Quan điểm “ Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sự phát triển
cao và thống nhất của phong trào công nhân, phong trào yêu nước được soi sáng bởi chủ
nghĩa Mác - Lênin ” có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm quý báu soi sáng các chặng
đường cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong thời kỳ đẩy mạnh hội nhập quốc tế hiện nay.
Cụ thể là :
Một là, xây dựng một đảng Mác - Lênin có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trí tuệ
sáng suốt, thường xun vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, gắn bó mật thiết
với nhân dân, có đội ngũ cán bộ, đảng viên tiên phong, gương mẫu, chiến đấu hy sinh vì
độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Bài học này giữ vị trí hàng đầu,
bởi vì, sau thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám, Đảng Cộng sản Việt Nam, được

tồn dân tộc tơn vinh là đảng cầm quyền, hơn 70 năm qua, lãnh đạo nhân dân ta tiến hành
các cuộc kháng chiến trường kỳ giải phóng đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do
đó, trong mọi thời kỳ phát triển của cách mạng nước ta, Đảng ln ln phải có bản lĩnh
chính trị vững vàng, trí tuệ sáng suốt, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, gắn
bó mật thiết với nhân dân, có đội ngũ cán bộ, đảng viên tiên phong, gương mẫu, chiến
đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.
Q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) và hội nhập quốc
tế hiện nay, là một cơng cuộc hết sức to lớn, tồn diện, sâu sắc và triệt để, trong khi tình
hình kinh tế, chính trị và quân sự trên thế giới, trong khu vực đang diễn biến hết sức phức
tạp, khó lường ảnh hưởng trực tiếp đến cách mạng nước ta. Điều đó, làm cho bài học này
càng có giá trị lý luận, thực tiễn hết sức sâu sắc. Báo cáo Chính trị Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII của Đảng, xác định rõ: "Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng
cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng”. Các nội dung và biện pháp thực hiện trên từng
lĩnh vực về chính trị, tư tưởng, tổ chức... được Đại hội xác định rất sâu sắc và triệt để, các
hội nghị Trung ương Đảng sau Đại hội đã, đang triển khai thực hiện bài bản, toàn diện và
mạnh mẽ trong toàn Đảng. Vấn đề đặt ra lúc này là, các cấp bộ Đảng, từng cán bộ, đảng
viên cần quán triệt sâu sắc, tập trung mọi nỗ lực cùng toàn Đảng thực hiện thắng lợi chủ
trương, đường lối đã được vạch ra. Bởi vì, xây dựng Đảng vững mạnh, trong sạch là trách
nhiệm và nghĩa vụ của mọi cấp bộ Đảng và từng cán bộ, đảng viên. Từng cán bộ, đảng
viên, từng tế bào của Đảng có vững mạnh, trong sạch, thì tồn Đảng mới trong sạch,
vững mạnh, mới có đủ năng lực để lãnh đạo tồn dân thực hiện thắng lợi cơng cuộc đẩy
mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế đang diễn ra hết sức sôi động.
Hai là, huy động sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và phương châm "thêm bạn
bớt thù” của Cách mạng Tháng Tám vận dụng cho quá trình hội nhập quốc tế hiện nay.
Đây là bài học ông, cha đã thực hiện trong suốt mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ


nước, được Đảng và Bác Hồ kế thừa, phát triển, nâng lên tầm cao mới kể từ thời kỳ vận
động, tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công cho đến ngày nay. Tuy nhiên, trong
từng giai đoạn khác nhau, vận dụng bài học này có sự uyển chuyển cho phù hợp với tình

hình thời cuộc. Nhờ huy động sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân và phương châm
chỉ đạo chiến lược "dĩ bất biến ứng vạn biến” cách mạng nước ta đã vượt qua thời kỳ
"ngàn cân treo sợi tóc”, ra sức chống giặc đói, giặc dốt và thù trong, giặc ngoài ngay sau
khi Cách mạng Tháng Tám thành cơng. Sau đó, tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến
chống thực dân, đế quốc, thu non sông về một mối, thống nhất đất nước.
Có thể khẳng định, nhờ huy động sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc và
đường lối đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, chúng ta đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn trong xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, trước bối cảnh quốc tế có
nhiều biến đổi hết sức phức tạp, bất lợi cho cách mạng nước ta vào nửa cuối thế kỷ XX
và những thập niên đầu thế kỷ XXI.
Quá trình hội nhập quốc tế hiện nay, bài học huy động sức mạnh đại đoàn kết dân
tộc và "thêm bạn bớt thù” càng có ý nghĩa sâu sắc. Bởi vì, cùng với hơn 90 triệu người
dân ở trong nước, chúng ta có hơn 6 triệu kiều bào đang sinh sống trên khắp thế giới.
Huy động được sức mạnh đại đồn kết tồn dân tộc, thì khơng chỉ vốn và tri thức của
trong nước, mà kiều bào ta ở nước ngoài cũng được đầu tư ngày càng to lớn, toàn diện
cho sự nghiệp xây dựng đất nước và hội nhập quốc tế. Thời gian gần đây, nhiều doanh
nhân, trí thức Việt kiều đã về nước đầu tư. Hàng năm, lượng kiều hối thu về trên chục tỷ
USD, nhiều tri thức khoa học, kinh nghiệm tổ chức quản lý kinh tế, xã hội của thế giới
được chuyển giao phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước. Đó là những minh chứng về
tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc đã được Đảng, Nhà nước vận dụng sáng tạo, phát huy
mạnh mẽ trong giai đoạn mới của cách mạng nước ta, khởi nguồn từ Cách mạng Tháng
Tám năm 1945.
Về đường lối đối ngoại trong thời gian tới, Đại hội XII của Đảng, chỉ rõ: "Bảo
đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp
quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại;
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm của cộng đồng quốc tế... nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững mơi trường hịa bình, ổn
định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống
nhân dân; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hịa bình, độc

lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”. Nghiên cứu đường lối đối ngoại của
Đảng, trong chặng đường tiếp theo của cách mạng nước ta cho thấy, bài học kinh nghiệm
từ Cách mạng Tháng Tám đã được nâng lên tầm cao mới. Đó là, sự kết hợp một cách
nhuần nhuyễn giữa huy động sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc với thu hút các
nguồn lực của quốc tế để phát triển đất nước trong tiến trình hội nhập. Triển khai thực
hiện thắng lợi chủ trương chỉ đạo chiến lược của Đảng, nhất định đất nước ta sẽ ngày
càng phồn thịnh sánh vai với các cường quốc năm châu.


Ba là, giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình
đẩy mạnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay. Bài học kinh nghiệm này, bắt
nguồn từ phương hướng chiến lược của cách mạng nước ta được xác định trong Cương
lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng, "Làm cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng ruộng
đất để đi tới xã hội cộng sản”. Về thực chất, đó là đường lối giương cao hai ngọn cờ độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, được thực hiện một cách nhất quán, sâu sắc và triệt để từ
trong quá trình vận động tiến tới Cách mạng Tháng Tám; đồng thời, được vận dụng một
cách nhuần nhuyễn, sáng tạo trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ xâm lược và trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hội nhập quốc tế là quá trình nền kinh tế, xã hội nước ta mở rộng hợp tác, giao lưu với
tất cả các quốc gia, các vùng lãnh thổ trên thế giới, mỗi quốc gia có trình độ kinh tế, chế
độ chính trị khác nhau. Q trình hội nhập càng sâu rộng thì tính phức tạp, khó khăn càng
lớn, nhất là trong thời gian gần đây, nước ta vừa ký và cam kết thực hiện các hiệp định
thương mại thế hệ mới như Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP và một số
hiệp định thương mại khác.
Sự tác động tiêu cực của cơ chế kinh tế và các vấn đề phát sinh trong q trình hội
nhập quốc tế có tác động hết sức to lớn đối với vấn đề giữ vững độc lập dân tộc và định
hướng xã hội chủ nghĩa. Vì lẽ đó, giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ
nghĩa trong quá trình đẩy mạnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng trong giai đoạn hiện
nay, vẫn giữ nguyên giá trị lý luận và thực tiễn. Bài học chỉ được vận dụng một cách
nhuần nhuyễn, sáng tạo khi mọi cấp, mọi ngành, từng cán bộ, đảng viên và quần chúng

nhân dân nhận thức đầy đủ, sâu sắc.


C. KẾT LUẬN
Dân tộc Việt Nam với truyền thống hào hùng hàng nghìn năm lịch sử, dựng nước
và giữ nước đã đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, nhưng chói lọi nhất là từ khi có Đảng
cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã làm nên bản anh hùng ca bất hủ của một dân tộc anh hùng
trong thời đại Hồ Chí Minh.
Sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam, là sự kiện gắn liền với
tên tuổi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh. Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn
con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vơ sản, chính
là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong
trào cách mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách
mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và
phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Chính đường lối này là cơ sở đảm
bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc cùng chung tư
tưởng và hành động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành những thắng lợi to lớn sau
này. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định phương hướng phát triển, bước đi của cách
mạng Việt Nam trong suốt 85 năm qua.
Đó là một mốc lớn, bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm
dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước.Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt
do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, được Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam thông qua đã xác định: cách mạng Việt Nam phải tiến hành cách mạng giải phóng
dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con đường cách
mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng xã hội, giải phóng con người. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương
lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng
thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn bám sát thực tiễn cách mạng, phân tích sâu sắc thời
cuộc, nắm vững mâu thuẫn cơ bản, thấy rõ mâu thuẫn chủ yếu trong mỗi thời kỳ, xác
định đúng đắn những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng. Đảng ln nhạy bén, bám sát
tình hình thời cuộc để xác định đúng đắn nhiệm vụ, phương pháp cách mạng phù hợp đưa
đất nước tiến lên giành nhiều thắng lợi to lớn. Trong thực tiễn, Đảng luôn kết hợp chặt
chẽ giữa kiên trì chuẩn bị lực lượng với nắm vững thời cơ, khi thời cơ đến đã biết chớp
lấy, kịp thời tổ chức, động viên nhân dân cả nước đứng lên đấu tranh giành thắng lợi.
Đảng luôn nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và trải nghiệm thực tiễn để có đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo
làm nên những bước ngoặt lớn của cách mạng Việt Nam. Và chắc chắn trong thời gian
tới, Đảng ta sẽ tiếp tục lãnh đạo đất nước tiến lên không ngừng, đạt được nhiều thắng lợi
to lớn hơn trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước.


D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam những trang sử vẻ vang (1930 – 2002), Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, 2003.
2. “Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, một sự kiện quan trọng hàng đầu trong lịch sử
Việt Nam thế kỷ XX”, GS. Văn Tạo, tạp chí Lịch sử Đảng, số 3 – 2000.
3. Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia – Sự thật, 2012.
4. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
2001.
5. Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam ( dangcongsan.vn )
6. Thư ký Pháp lý ( thukyphaply.com )
7. Tin tức thông tấn xã Việt Nam ( baotintuc.vn )
8. Tạp chí Cộng sản ( www.tapchicongsan.org.vn )
9. Tuyên giáo - Tạp chí của Ban Tuyên giáo Trung ương ( tuyengiao.vn )
10. Lý luận chính trị ( lyluanchinhtri.vn )




×