Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tiểu luận cao học môn triết mối quan hệ biện chứng giữa hội nhập kinh tế với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.96 KB, 26 trang )

MỤC LỤC:

TT

Trang

I

Mở đầu

1

II

Nội dung

3

Chương 1: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến trong phép biện 3
chứng duy vật
1.1

Các định nghĩa

3

1.2

Tính tất yếu phải hội nhập kinh tế

6



Chương 2: Mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ 6
với hội nhập kinh tế quốc tế
2.1

Một số đặc trưng của nền kinh tế độc lập tự chủ

6

2.2

Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế

8

2.3

Mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng kinh tế độc lập tự chủ với 8
hội nhập kinh tế quốc tế

2.4

Những lợi ích và hạn chế của việc hội nhập kinh tế quốc tế

11

2.5

Vấn đề hội nhập kinh tế ở Việt Nam


12

2.5.1 Đường lối quan điểm của Đảng ta trong quá trình hội nhập

12

2.5.2 Quá trình hội nhập ở Việt Nam

14

2.5.3 Những lợi ích và hạn chế của Việt Nam trong quá trình hội nhập

15

2.5.4 Một số ý kiến và giải pháp cho quá trình hội nhập ở Việt Nam

16

III.

Kết luận

1


I. Mở Đầu
Tồn cầu hố kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đang trở thành một xu
thế khách quan và tất yếu của tất cả các nước trên thế giới, không kể các nước
đang phát triển hay phát triển, các nước giàu hay nghèo. Trong xu thế đó quốc
gia nào có chiến lược, chính sách, biện pháp và cơng cụ quản lí hợp lí sẽ mang

lại lợi ích, sự phát triển về kinh tế cho quốc gia đó, ngược lại sẽ mang lại kết quả
xấu. Để có thể tranh thủ các nguồn lực từ bên ngồi đặc biệt là nguồn vốn, tiến
bộ khoa học công nghệ... địi hỏi các nước phải có sự mở cửa, sự giao lưu, buôn
bán hợp tác với các nước trên thế giới mà đặc biệt là các nước tư bản phát triển.
Tuy vậy đi song song với việc hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta cần phải có sự
thống nhất nhận thức về việc giữ độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập. Đây là
một mối lo ngại lớn với các nước trên thế giới đặc biệt là các nước đang phát
triển. Mối lo này phần nào cũng có lí do chính đáng bởi hầu hết các nước đang
phát triển đều có xuất phát điểm từ một nền kinh tế ``nghèo nàn, lạc hậu, khoa
học cơng nghệ cịn thấp kém, năng suất lao động còn chưa cao, sức cạnh tranh về
các loại hàng hoá trên thị trường thế giới thấp trong khi đó các nước đi trước có
lợi thế hơn hẳn về mọi mặt, việc mở rộng quan hệ với các nước đó sẽ dẫn đến
tình trạng các nước kém phát triển khó tránh khỏi bị lệ thuộc về kinh tế và từ chỗ
bị lệ thuộc về kinh tế có thể bị lệ thuộc về chính trị dẫn tới không giữ vững được
chủ quyền. Thực tế ngày nay cho thấy có rất nhiều nước trên thế giới đã bị lệ
thuộc quá nhiều vào các nước tư bản nên mọi đường lối, chính sách phát triển
kinh tế đều bị các nước tư bản này chi phối và nắm giữ. Điển hình như nước
Cuba có một thời gian đã bi phụ thuộc quá nhiều vào Mĩ. Vốn là một nước trồng
rất nhiếu mía song khoa học kĩ thuật của nước này lại thấp kém cho nên để sản
xuất đường Cuba phải nhập khẩu trang thiết bị của Mĩ. Lợi dụng thời cơ này Mĩ
đã tìm mọi cách để gây áp lực về kinh tế đối với Cuba và buộc Cuba phải lệ
2


thuộc vào Mĩ. Dựa vào đó Mĩ đã nắm được quyền chi phối về kinh tế cũng như
chính trị ở Cuba.
Hiện nay nước Việt Nam ta cũng đang tham gia vào các tổ chức, hiệp hội
trên thế giới. Nước ta cũng là một nước nghèo nàn, lạc hậu hơn rất nhiều so với
các nước khác vì vậy chúng ta phải chủ động tham gia hội nhập kinh tế gắn liền
với việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Đảng và nhà nước ta đã xác định

độc lập tự chủ kinh tế là nền tảng vật chất cơ bản bảo đảm sự bền vững của đất
nước ta về chính trị .
Chính vì việc hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đang là một vấn đề nóng
bỏng, cấp bách và cần thiết đối với tất cả các quốc gia trên thế giới trong đó có
cả nước ta. Vì vậy đề tài này có một ý nghĩa thực tiễn vơ cùng quan trọng đối với
các nước trên thế giới trong việc đề ra các đường lối, chính sách trong quan hệ
giao lưu, bn bán với nước ngồi. Vì lí do nay tôi đã quyết định chọn đề tài
"Mối quan hệ biện chứng giữa hội nhập kinh tế với xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ" với hy vọng bài tiểu luận này sẽ góp một phần nhỏ vào cơng việc xây
dựng nền kinh tế nước ta ngày càng giàu mạnh .
Trong q trình viết bài tiểu luận tơi đã nhận được sự chỉ dẫn nhiệt tình của TS
Mai Xuân Hợi. Tôi xin chân thành cảm ơn.

3


II. Nội dung
Chương 1:

Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến
trong phép biện chứng duy vật
1.1. Các định nghĩa:
Phép biện chứng là khoa học về mối liên hệ phổ biến, nó chẳng qua là bộ
mơn khoa học nghiên cứu những quy luật vận động phát triển của tự nhiên, xã
hội và tư duy. Như vậy phép biện chứng đã thừa nhận sự vật, hiện tượng của thế
giới khách quan tồn tại theo mối quan hệ phổ biến, chúng vận động, phát triển
theo quy luật nhất định. Phép biện chứng có nhiệm vụ phải chỉ ra những quy luật
đó để định hướng cho con người trong nhiệm vụ thực tiễn. Phép biện chứng có
4



ba hình thức cơ bản trong quá trình phát triển của triết học đó là: Phép biện chứng
chất phác, phép biện chứng duy tâm, phép biện chứng duy vật .
Thời cổ đại, do trình độ tư duy phát triển chưa cao, khoa học chưa phát triển
nên các nhà triết học chỉ dựa vào cảm giác, vào cái nhìn trực tiếp để xem xét mọi
vật. Phép biện chứng này còn thiếu nhiều căn cứ khoa học do vậy mà nó đã bị
phép siêu hình, xuất hiện từ nửa cuối thế kỉ XV thay thế. Phép biện chứng duy
tâm xuất hiện trong triết học Cantơ và hoàn thiện trong triết học của Hêghen.
Tính chất duy tâm trong phép biện chứng của Hêghen được thể hiện ở chỗ: Ông
coi ý niệm tuyệt đối có trước và trong q trình vận động phát triển cuối cùng nó
lại trở về với chính mình trong tinh thần. Kế thừa có chọn lọc những thành tựu
của các nhà triết học trước đó Mác và Anghen đã sáng lập ra chủ nghĩa duy vật
biện chứng và phép biện chứng. Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ
sở một hệ thống những nguyên lí, những phạm trù cơ sở, những quy luật phổ
biến phản ánh đúng đắn hiện thực. Trong hệ thống đó ngun lí về mối liên hệ
phổ biến là một trong những nguyên lí khái quát nhất. Mối liên hệ phổ biến là
khái niệm đúng để chỉ sự ràng buộc, nương tựa, tác động qui định lẫn nhau của
các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Trong thực tế người ta luôn đặt
ra các câu hỏi các sự vật hiện tượng có mối quan hệ tác động qua lại với nhau
hay không? Những người theo quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện
tượng tồn tại trong trạng thái độc lập, tách rời nhau, cái này tồn tại bên cạnh cái
kia. Nếu giữa chúng có mối quan hệ thì cũng chỉ là mối liên hệ bên ngồi. Cịn
những người theo quan điểm biện chứng lại cho rằng các sự vật, hiện tượng, các
quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập vừa qui định tác động qua lại chuyển hoá
lẫn nhau. Phép duy vật biện chứng khẳng định mọi sự vật hiện tượng đều tồn tại
trong mối liên hệ phổ biến. Sự vật là tiền đề, là điều kiện tồn tại và phát triển
của nhau. Chúng thường xuyên thâm nhập, chuyển hoá lẫn nhau làm cho ranh
giới giữa các lớp sự vật khơng phải là tuyệt đối mà bao giờ cũng có lớp trung
5



gian chuyển tiếp. Mối liên hệ phổ biến không chỉ diễn ra giữa các sự vật khác
nhau mà còn diễn ra trong bản thân từng sự vật và đều là khách quan. Mặc dù sự
vật tồn tại trong những mối liên hệ phổ biến với nhiều mối liên hệ khác nhau
nhưng vị trí, vai trị của từng mối liên hệ không giống nhau trong tổng số mối
liên hệ về sự vật, trong đó có mối liên hệ giữ vai trị quyết định đén sự tồn tại,
vận động biến đổi của sự vật như mối liên hệ bên trong, bản chất .... Cịn những
mối liên hệ khác chỉ có những ảnh hưởng nhất định.
Tuy vậy mọi mối liên hệ của các sự vật hiện tượng là khách quan, là vốn
có của mọi sự vật, hiện tượng. Ngay cả những vật vô tri vô giác cũng đang hàng
ngày chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng khác như: ánh sáng, nhiệt độ, độ
ẩm..... và đôi khi cũng chịu sự tác động của con người. Con người - một sinh vật
phát triển cao nhất trong tự nhiên luôn chịu sự tác động của các sự vật, hiện
tượng trong giới tự nhiên và ngay cả các yếu tố trong chính bản thân nó. Ngồi
sự tác động của tự nhiên như các sự vật khác còn tiếp nhận sự tác động của xã
hội và của những người khác. Chính con người và chỉ có con người mới có thể
tiếp nhận vơ vàn mối quan hệ đó. Vấn đề là con người phải hiểu biết các mối liên
hệ, vận dụng chúng vào hoạt động của mình giải quyết các mối liên hệ phù hợp
nhằm phục vụ nhu cầu lợi ích của xã hội và của bản thân. Mối liên hệ khơng chỉ
mang tính khách quan mà cịn mang tính phổ biến. Tính phổ biến của mối liên hệ
được thể hiện ở chỗ: thứ nhất bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự
vật, hiện tượng khác. Khơng có sự vật, hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ.
Trong thời đại ngày nay khơng một quốc gia nào khơng có quan hệ, liên hệ với
quốc gia khác về mọi mặt của đời sống xã hội. Chính vì thế hiện nay trên thế
giới đã và đang xuất hiện xu hướng tồn cầu hố, khu vực hoá mọi mặt của đời
sống xã hội. Nhiều vấn đề đã và đang trở thành vấn đề toàn cầu như: đói nghèo,
bệnh tật ....

6



Thứ hai, mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt, cụ thể tuỳ
theo điều kiện nhất định. Song, dù dưới những hình thức nào chúng cũng chỉ là
biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất. Nghiên cứu mối liên hệ của
các sự vật, hiện tượng trên thế giới ta cịn thấy rõ tính đa dạng, nhiều vẻ của nó.
Dựa vào tính đa dạng đó có thể phân chia ra các mối liên hệ khác nhau theo từng
cặp: Mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu và thứ
yếu.... Chính tính đa dạng trong q trình tồn tại và phát triển bản thân sự vật,
hiện tượng qui định tính đa dạng của mối liên hệ. Vì vậy trong một sự vật có thể
bao gồm rất nhiều mối liên hệ chứ khơng phải chỉ có một mối liên hệ xác định.
Song mỗi cặp mối liên hệ có những đặc trưng riêng tuy theo từng điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể các mối liên hệ tương ứng sẽ giữ vai trò quyết định. Sự phân chia
từng cặp mối liên hệ chỉ mang tính tương đối vì mỗi loại mối liên hệ chỉ là một
hình thức, một bộ phận của mối liên hệ phổ biến. Mỗi loại mối liên hệ trong từng
cặp có thể chuyển hố lẫn nhau tuỳ theo phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc
do kết quả của sự vận động và phát triển của chính các sự vật. Tuy sự phân chia
thành các loại mối liên hệ chỉ mang tính tương đối nhưng sự phân chia đó lại rất
cần thiết bởi vì mỗi loại mối liên hệ có vị trí và vai trị xác định trong sự vận
động và phát triển của sự vật. Con người phải nắm bắt đúng các mối liên hệ đó
để có cách tác động phù hợp nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của
mình. Từ nội dung của mối liên hệ phổ biến bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong
thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác và mối liên
hệ rất đa dạng phong phú do đó trong hoạt động nhận thức cũng như trong hoạt
động thực tiễn chúng ta phải có quan điểm tồn diện tránh quan điểm phiến diện,
chỉ xét sự vật, hiện tượng ở một mối liên hệ đã vội vàng kết luận về bản chất hay
về tính qui luật của chúng. Quan điểm tồn diện địi hỏi khi ngiên cứu phải xem
xét sự vật, phải xem xét tất cả các mối quan hệ vốn có của nó nhưng khơng được
đặt các mối quan hệ có vị trí vai trị như nhau. Cần phải phân biệt được đâu là
7



những mối quan hệ bản chất tất yếu của sự vật, đâu là những mối quan hệ khác
để từ đó có kết luận đúng về sự vật. Trong thực tế theo quan điểm toàn diện khi
tác động vào sự vật chúng ta không những phải chú ý đến những mối liên hệ nội
tại của chúng mà còn phải lưu ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với sự vật
khác và sự chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng trong từng điều kiện. Đồng thời
chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để
tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Với tư cách là những nguyên tắc
phương pháp luận quan điểm tồn diện góp phần định hướng chỉ đạo hoạt động
nhận thức và thực tiễn cải tạo hiện thực, cải tạo chính bản thân chúng ta. Thực
hiện đúng quan điểm đó chính là chúng ta đã nắm được và vận dụng tốt phương
pháp biện chứng trong nhận thức về hoạt động thực tiễn.
1.2 Tính tất yếu phải hội nhập kinh tế quốc tế:
Hội nhập kinh tế quốc tế vừa là một tất yếu khách quan vừa là yêu cầu phát
triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia trên thế giới. Mỗi quốc gia trên thế giới
khơng thể tự mình xây dựng được một nền kịnh tế phát triển bất kể nước ấy giầu
hay nghèo đặc biệt là đối với các nước chậm phát triển và đang phát triển. Nền
kinh tế của các nước này còn thấp kém, chậm phát triển, khoa học học kỹ thuật
còn thua xa các nước tư bản thì việc mở rộng giao lưu, bn bán với các nước
trên thế giới là một vấn đề cần thiết và mang tính tất yếu trong giai đoạn hiện nay.
Vịêt Nam cũng nằm trong các nước đang phát triển, xuất phát điểm của
nước ta là một nước nông nghiệp nghèo, do vậy chúng ta cần phải mở rộng quan
hệ với các nước khác nhằm tạo thuận lợi để xây dựng và phát triển kinh tế. Trong
Đại hội Đảng 9 của ta vừa qua, Đảng đã nêu ra "Chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực nâng cao hiệu quả hợp tác
quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hố và bảo vệ mơi trường".

8



Chương 2:
Mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
với hội nhập kinh tế quốc tế
2.1 Một số đặc trưng của nền kinh tế độc lập tự chủ:
Khác với trước đây khi nói tới độc lập tự chủ về kinh tế, nhiều người
thường hình dung tới một nền kinh tế khép kín, tự cung, tự cấp. Trong điều kiện
hiện nay đọc lập tự chủ về kinh tế phải là độc lập, tự chủ trong phát triển kinh tế
thị trường và tự chủ mở cửa, hội nhập có hiệu quả với nền kinh tế thế giới, tích
cực tham gia vào sự giao lưu, hợp tác, phân công lao động quốc tế trên cơ sở
phát huy tốt nội lực, lợi thế so sánh của quốc gia để cạnh tranh có hiệu quả trên
thương trường quốc tế. Do vậy độc lập tự chủ trong điều kiện hiện nay có các
đặc trưng sau: trước hết và quan trọng nhất là phải đảm bảo lợi ích phát triển của
quốc gia ở mức cao nhất có thể được. Có thể có một nền kinh tế khơng phụ thuộc
hồn tồn vào bên ngồi, tự đảm bảo được các nhu cầu chủ yếu trong nước. Các
mối quan hệ giữa nước đó với các nước trên thế giới phải được xem xét đánh giá
trên tiêu chuẩn có đảm bảo được lợi ích phát triển của đất nước khơng? Đó mới
là mục tiêu cho mọi chiến lược phát trển. Trong điều kiện hội nhập quốc tế tiến
triển như hiện nay mọi nền kinh tế ngày càng có sự ràng buộc, phụ thuộc vào các
9


nước khác. Nếu sự ràng buộc đó đảm bảo tốt hơn cho lợi ích phát triển quốc gia
thì đó là một điều nên làm. Nền kinh tế nước ta trong thời kỳ đổi mới đã ngày
càng mở rộng, giao lưu với các nước khác; kim ngạch xuất khẩu của ta năm
1999 chiếm tới trên 90% GDP, vốn đầu tư nước ngoài chiếm 28% tổng đầu tư xã
hội. Đặc trưng thứ hai của nền kinh tế độc lập tự chủ đó là sức cạnh tranh của
nền kinh tế phải được cải thiện và tăng dần. Sức cạnh tranh này được thể hiện ở
các mặt. Thể chế chính trị, kinh tế xã hội phải đủ mạnh đủ tạo ra một môi trường
đầu tư, kinh doanh thuận lợi, chi phí và rủi ro thấp; khả năng sinh lợi lớn. Cơ cấu

kinh tế gồm những ngành có khả năng cạnh tranh cao, có khả năng tự điều chỉnh,
tự rút khỏi những ngành kém khả năng cạnh tranh. Cơ cấu doanh nghiệp cũng
phải bao gồm những doanh nghiệp có sức mạnh trên thị trường. Biểu hiện tập
trung của sức cạnh tranh của nền kinh tế là ở chất lượng, giá thành sản phẩm và
dịch vụ của đất nước. Nếu sản phẩm và dịch vụ của một quốc gia có giá thành
cao, chất lượng lại thấp thì nó sẽ khó tiêu thụ và kết cục là gây suy thối nền
kinh tế. Trong điều kiện đó khó có thể nói đến độc lập và tự chủ. Cịn một nền
kinh tế làm ra các sản phẩm có chất lượng cao, giá thành thấp thì có thể chiếm
lĩnh thị trường trong nước và quốc tế tạo ra thu nhập lớn. Một nền kinh tế có sức
cạnh tranh cao như vậy trong điều kiện hội nhập kinh tế hiện nay là một nền kinh
tế có tính độc lập, tự chủ cao. Đặc trưng thứ ba của nền kinh tế độc lập tự chủ đó
là khả năng ứng phó có hiệu qủa với những chấn động chính trị, kinh tế, xã hội
bên ngồi. Những chấn động đó có thể là một cuộc khủng hoảng…
Chiến lược tốt nhất của một quốc gia là cố tránh tham gia những cuộc
chiến tranh ở bên ngoài và tránh để xảy ra xung đột và chiến tranh ở trong nước.
Song một nền kinh tế có sức cạnh tranh cao, có dự trữ ngoại tệ lớn sẽ có sức chịu
đựng lớn so với nền kinh tế lạc hậu. Một nền kinh tế hội nhập quốc tế cao lợi ích
quốc gia đan xen chặt chẽ với lợi ích của nhiều quốc gia khác, nhiều trung tâm

10


kinh tế thì sẽ có nhiều khả năng kết sức mạnh quốc gia với sức mạnh quốc tế để
bảo vệ đất nước tốt hơn.
2.2 Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế:
Các nguyên tắc hội nhập kinh tế quốc tế nói cung và WTO nêu ra là khơng
phân biệt đối xử, tiếp cận thị trưởng, cạnh tranh công bằng, áp dụng các hành
động khẩn cấp trong trường hợp cần thiết, dành ưu đãi cho các nước đang và
chậm phát triển. Nội dung của hội nhập kinh tế là mở cửa thị trường, tạo điều
kiện thuận lợi để tự do bn bán, phát triển.

Về thương mại hàng hố: các nước cam kết bãi bỏ hàng rào phi thuế quan
như giấy phép xuất khẩu,… Về thương mại dịch vụ, các nước mở cửa thị trường
cho nhau với 4 phương thức: cung cấp qua biên giới, sử dụng dịch vụ ngoài lãnh
thổ, thông qua doanh nhâ, hiện diện thể nhân,…
Về thị trường đầu tư: không áp dụng đối với đầu tư nước ngồi các u
cầu về tỷ lệ nội địa hố cân bằng xuất nhập khẩu, hạn chế tiếp cận nguồn ngoại
tệ… Các nguyên tắc này được tất cả các nước thành viên WTO và các nước đang
gia nhập WTO thừa nhận và thực hiện.
2.3 Mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
và hội nhập kinh tế.
Trong xu thế tồn cầu hố và hội nhập quốc tế, sự tuỳ thuộc lẫn nhau về
kinh tế ngày càng gia tăng, các nước trên thế giới đều rất coi trọn đến khả năng
độc lập tự chủ về kinh tế nhằm đảm bảo lợi ích chính đáng của quốc gia, dân tộc
mình trong cuộc cạnh tranh kinh tế gay gắt và để xác lập một vị thế chính trị nhất
định trên trường quốc tế.
Độc lập tự chủ về kinh tế phải được đặt trong mối quan hệ biện chứng với
độc lập tự chủ về chính trị và các mặt khác để tạo thành sức mạnh tổng hợp của
một quốc gia. Độc lập tự chủ vè kinh tế trước hết là không bị chi phối lệ thuộc
11


vào bên ngồi về đường lối, chính sách phát triển kinh tế vào những điều kiện
kinh tế chính trị mà họ muốn áp đặt cho ta trong trợ giúp, hợp tác song phương,
đa phương,.. mà những điều kiện ấy sẽ gây tổn hại cho chủ quyền quốc gia và lợi
ích cơ bản của dân tộc. Độc lập tự chủ về kinh tế cũng có nghĩa là trước những
chấn động của thị trường, của khủng hoảng kinh tế - tài chính, cũng như trước sự
bao vây, cơ lập từ bên ngồi vẫn giữ được sự ổn định và phát triển cần thiết,
khơng bị sụp đổ về kinh tế, chính trị. Khác với trước đây khi nói đến độc lập tự
chủ về kinh tế, nhiều người thường hình dung tới một nền kinh tế khép kín, tự
cung tự cấp. Trong điều kiện hiện nay độc lập tự chủ về kinh tế phải là độc lập tự

chủ trong phát triển kinh tế thị trường và chủ động hội nhập có hiệu quả với nền
kinh tế thế giới, tích cực tham gia vào sự giao lưu, hợp tác, phân công lao động
quốc tế trên cơ sở phát huy tốt nhất nội lực, lợi thế so sánh của quốc gia để cạnh
tranh có hiệu qủa trên trường quốc tế. Quan niệm độc lập tự chủ theo kiểu tự
cung, tự cấp đã được kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới chứng minh là
không phù hợp với xu thế của thời đại, và làm cho đất nước ngày càng tụt hậu xa
hơn. Đến tình trạng chậm phát triển về kinh tế không được khắc phục sẽ nảy sinh
ra nhiều vấn đề xã hội nan giải, tạo nguy cơ từ bên trong đối với trật tự, an tồn
xã hội và điều đó cuối cùng sẽ gây cho quốc gia đó khó giữ vững được con
đường và mơ hình phát triển đã lựa chọn. Trong vài chục năm gần đây, tình hình
thế giới cũng có rất nhiều biến đổi quan trọng theo các hướng chủ yếu sau đây:
một là xu thế hồ bình, hợp tác và phát triển, xu thế này càng ngày càng trở
thành xu thế chính thay thế cho sự đối đầu giữa các siêu cường, sự xung đột,
chạy đua vũ trang giữa hai hệ thống xã hội đối lập, các cuộc chiến tranh xâm
lược đã bị lên án khắp nơi. Đây chính là điều kiện quan trọng giúp cho các quốc
gia có thể mở cửa đất nước tham gia hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển kinh
tế. Mơ hình kinh tế phát triển trong xu thế hồ bình đang thay thế cho mơ hình
kinh tế trong tình trạng đối đầu và chiến tranh lạnh. Hai là xu thế phát triển công
12


nghệ đang chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức. Trong những thập niên vừa qua
sự phát triển của công nghệ đang chuyển đổi sang nền kinh tế vô cùng lớn. Các
ngành công nghiệp truyền thống, sản xuất ra các hàng hố vật chất, kể cả các
ngành cơng nghiệp nặng đang ngày càng kém hiệu quả mất dần vai trò quan
trọng của chúng với phát triển kinh tế. Trên thực tế trogn mấy năm gần đây các
sản phẩm đã liên tục bị giảm giá, đã giảm tới trên 30% giá do vậy những ngành
này đang gặp nhiều khó khăn.
Trong khi đó các ngành kinh tế tri thức lại phát triển với tốc độ cao và đạt
nhiều hiệu qủa. Trong điều kiện hiện nay, các lợi thế về tài nguyên, nguồn vốn,

lao động… ngày càng giảm và lợi thế về tri thức và kỹ năng ngày càng
tăng. ở Mỹ tỷ lệ đóng góp của ngành sản xuất điện tử - tin học làm tăng trưởng
kinh tế lên tới 45% trong 3 năm qua cịn mức đóng góp của ngành xây dựng và
xe hơn vốn là ngành trụ cột của kinh tế Mỹ lại giảm chỉ còn 14% và 4%. Lợi
nhuận của hãng Intel, Microsoft đạt mức 24% doanh thu kéo dài trong khi các
ngành công nghiệp truyền thống chỉ đạt ở mức trên 10%.
Xu hướng thứ ba là xu hướng toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế phát
triển nhanh chóng. Trong điều kiện nền kinh tế thế giới phát triển và những đặc
trưng chủ yếu trên mơ hình phát triển kinh tế theo hướng hội nhập kinh tế quốc
tế là căn cứ để phát triển các ngành kinh tế có lợi thế cạnh tranh cao. Đương
nhiên, việc phát triển kinh tế này phải đặt trong mối quan hệ biện chứng với độc
lập tự chủ. Độc lập tự chủ trong mơ hình kinh tế theo hướng hội nhập quốc tế
chấp nhận sự phụ thuộc lẫn nhau trên cơ sở cùng có lợi trong quan hệ giữa các
quốc gia. Sự phụ thuộc này diễn ra trên hầu hết các lĩnh vực từ hoạch định chính
sách phát triển,… ví dụ như trong Liên minh Châu Âu, hiện đã có đồng tiền
chung, các quốc gia thành viên phải bảo đảm duy trì một mức thâm hụt ngân
sách và lạm phát chung. Trong mô hình kinh tế này các quốc gia tuy vẫn có
quyền tự chủ, quyền tự chọn các ngành kinh tế có lợi cho mình. Thực tế cho thấy
13


ngay các quốc gia có nhiều ngành cơng nghiệp nền tảng khá phát triển như Nhật
Bản mà vẫn phụ thuộc bên ngoài một cách đáng sợ. Nhật phải nhập 100% dầu
mỏ để có ngành hố dầu và năng lượng điện, nhập khẩu phần quặng sắt để có
ngành luyện kim, nhập khẩu phần lớn bằng phát minh sáng chế để có ngành
cơng nghiệp chế tạo,… Nếu có chiến tranh xảy ra, các hoạt động nhập khẩu này
chỉ bị ngừng trệ một thời gian ngắn thơi thì các ngành cơng nghiệp sẽ hồn tồn
bị tê liệt và nền kinh tế Nhật khó tránh khỏi tổn thất. Nếu sợ sự phụ thuộc này,
nước Nhật sẽ không thể phát triển được. Nhưng bù lại, Nhật lại xuất khẩu ô tô,
hàng điện tử và những loại hàng chất lượng cao khác buộc các quốc gia khác

phải lệ thuộc vào Nhật những mặt hàng nay. Chính mối quan hệ lệ thuộc lẫn
nhau làm cho kinh tế Nhật có thể đứng vững ngay cả trong cuộc khủng hoảng
dầu lửa những năm 70.
Song cũng cần phải nói rằng trong qúa trình hội nhập kinh tế cần phải
tránh sự lệ thuộc quá nhiều vào các nước. Đây là một vấn đề đã xảy ra với một
số nước, nhất là các nước kém phát triển. Do trình độ khoa học, nền sản xuất
nước này còn chậm phát triển nên đã bị lệ thuộc hoàn toàn vào tư bản nước
ngoài kể cả về kinh tế lẫn chính trị.
Vì vậy cần phải nhấn mạnh rằng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
cần phải phát huy tính độc lập tự chủ, phát huy nội lực của nền kinh tế, phải lấy
nội lực của nền kinh tế làm yếu tố quyết định sự phát triển của nền kinh tế, còn
những yếu tố bên ngồi chỉ là quan trọng.
2.4 Những lợi ích, hạn chế của việc hội nhập kinh tế quốc tế:
Như chúng ta đã phân tích hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách
quan, nó có những tác động tích cực tới việc phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Hội nhập kinh tế thúc đẩy sự phát triển và xã hội hoá các lực lượng sản xuất,
đem lại sự tăng trưởng kinh tế cao. Nó làm tăng nhanh tổng sản lượng thế giới:
ngày nay tổng sản phẩn thể giới ước tính khoảng 30.000 tỷ úD gấp khoảng 23
14


lần tổng sản phẩm thế giới vào những năm trước đây. Theo đó sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế tồn cầu cũng có những thay đổi cơ bản. Nếu những năm 60, nông
lâm thủy sản chiếm 10,4% , công nghiệp chiếm 28,1% và dịch vụ chiếm 50,4%
thì cho tới nay cơ cấu tương ứng là 4,4%; 21,4% và 62,4%. Bên cạnh đó sự liên
kết thị trường thế giới thành một hệ thống hữu cơ ngày càng tăng với tốc độ tăng
trưởng cao hơn nhiều tốc độ tăng trưởng sản xuất. Hệ thống thơng tin tồn cầu
phát triển nhanh chóng kết nối các vùng địa lý trên trái đất vào một hệt hống góp
phần tác động có hiệu quả vào phát triển kinh tế xã hội. Mặt khác, tồn cầu hố
thúc đẩy q trình tự do hố thương mại; làm làm hoặc huỷ bỏ các hàng rào

thương mại làm cho hàng hố của mỗi nước có thị trường tiêu thụ quốc tế rộng
hơn do đó kích thích sản xuất phát triển. Nhờ đó thúc đẩy phân cơng lao động
quốc tế, theo hướng chun mơn hố làm cho nguồn lực ở mỗi nước và trên thế
giới được sử dụng có hiệu quả hơn.
Tự do hoá thương mại đặt ra cho các doanh nghiệp phải tiến hành những
cải cách sâu rộng để nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả kinh tế, phát huy lợi
thế của mình và hạn chế những rủi ro trong cuộc cạnh tranh quốc tế.
Tuy vậy, tự do hoá thương mại không đưa lại những kết qủa như nhau đối
với các nước lớn. Nhìn chung các nước phát triển có lợi thế là nền kinh tế họ đã
phát triển cao, khả năng cạnh tranh lớn. Mặt khác, hội nhập kinh tế làm gia tăng
các luồng chuyển giao vốn và cơng nghệ. Nó củng cố và tăng cường các thể chế
quốc tế, thúc đẩy sự xích lại gần nhau giữa các dân tộc. Bên cạnh đó ta cũng
khơng thể khơng nói đến mặt trái của việc hội nhập kinh tế gây ra. Song song với
việc hội nhập kinh tế thì khoảng cách giầu nghèo giữa các nước ngày càng tăng.
Các mối lợi thu được từ tồn cầu hố kinh tế được phân phối không đều và
không công bằng. Các quốc gia phát triển có lợi thế thường thu lợi nhiều trong
kinh tế. Sự bất bình đẳng ngày càng tăng. Dân số ở một số nơi cịn có mức sống
thấp hơn trước. Tồn thế giới hiện nay vẫn cịn hơn 1 tỷ người nghèo. Các nước
15


phát triển với 1/5 dân số thế giới chiếm 86% GDP toàn cầu, 4/5 thị trường xuất
khẩu, 1/3 vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi trong khi đó các nước nghèo nhất với
1/5 dân số thế giới chỉ tạo ra được 1% GDP thế giới. Mặt khác, hội nhập kinh tế
còn tạo nên sự thách thức mới đối với nền độc lập chủ quyền quốc gia, làm xói
mịn quyền lực Nhà nước, dân tộc. Chủ quyền quốc gia bị hạn chế một cách
tương đối, tính độc lập của các quốc gia bị giảm dần,… Hội nhập còn làm cho
nhiều hoạt động và đời sống của con người trở nên kém an tồn, từ an tồn kinh
tế, tài chính, văn hố, xã hội, mơi trường đến an tồn chính trị. Cuộc khủng
hoảng tài chính ở Đơng á 1997 - 1998 đã ảnh hưởng nghiêm trọng, kéo dài và

toàn diện đến các nước này. Lạm phát và thất nghiệp gia tăng, nền sản xuất phải
cơ cấu lại, tệ nạn xã hội ngày càng tràn lan: nghiện hút, mại dâm… Tuy trong
quá trình hội nhập kinh tế ta đã tiếp thu được nhiều tinh hoa văn hố trên thế giới
song cũng chính trong q trình thâm nhập văn hố ngày càng làm cho những
giá trị văn hoá riêng, truyền thống của mỗi nước bị xói mịn, huỷ hoại, bởi vậy
vấn đề cần đặt ra là hội nhập nhưng khơng để hồ tan, khơng để đánh mất đi bản
sắc văn hoá dân tộc.
Tuy cũng có nhiều hạn chế song ta cũng cần phải khẳng định rằng trong
quá trình hội nhập kinh tế thì thành tựu là chủ yếu, mặt hạn chế chỉ là một phần nhỏ.
2.5 Vấn đề hội nhập kinh tế ở Việt Nam:
2.5.1 Đường lối quan điểm của Đảng ta trong quá trình hội nhập:
Việt Nam ta hiện nay đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, chúng
ta đã và đang tham gia các tổ chức, các hiệp hội trên thế giới. Chúng ta đã đề ra
quan điểm: “Việt Nam khơng những là bạn mà cịn là đối tác của tất cả các nước
trên thế giới”. Quan điểm đó xuất phát từ những thành tựu mà nước ta đạt được
trong những năm gần đây đồng thời cũng từ những điều kiện, hồn cảnh kinh tế
của nước ta. Nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo đảm thành công cho việc hội
nhập kinh tế ở nước ta đó là giữ vững và phát huy tinh thần độc lập tự chủ. Đảng
16


ta quan niệm độc lập tự chủ không phải là biệt lập, khơng phải là đóng kín.
Trong hoạt động đối ngoại cần phải có tư duy độc lập, biện chứng biết tiếp thu
kinh nghiệm của các dân tộc, ứng dụng phù hợp với điều kiện đặc thù của đất
nước và tự quyết định chủ trương, hành động của mình. Chính sự đánh giá, dự
báo chính xác chiều hướng phát triển của thế giới để có chính sách kịp thời đã
góp phần làm nên thắng lợi của công tác đối ngoại. Ngày nay trong xu thế tồn
cầu hố phát triển mạnh mẽ với tác động cả hai mặt tích cực và tiêu cực, chúng
ta cần phải giữ vững độc lập tự chủ, giữ vững bản sắc dân tộc thì mới có thể vượt
qua thử thách, giành lấy thời cơ, tranh thủ mức cao nhất mặt tích cực của hội

nhập kinh tế, tạo điều kiện đưa đất nước tiến kịp với sự phát triển của khu vực và
thế giới. Do vậy độc lập tự chủ là cơ sở để thực hiện đường lối đối ngoại rộng
mở, đa phương hoá, đa dạng hoá. Nên Đại hội IX của Đảng không những vẫn
tiếp tục xác định Việt Nam là bạn mà còn bổ sung Việt Nam sẵn sàng là đối tác
tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế và chủ động hội nhập quốc tế.
Xuất phát từ mục tiêu bảo vệ chủ quyền dân tộc, chủ động hội nhập quốc
tế và khu vực trong hoạt động đối ngoại Việt Nam sẵn sàng gác lại quá khứ,
hướng tới tương lai, thiết lập quan hệ bình thường với các nước trên ngun tắc
tơn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, vì sự nghiệp phát triển của
mỗi nước. Hiện nay Việt Nam đã có quan hệ đối ngoại với 168 nước trên thế
giới, quan hệ với gần 500 tổ chức phi chính phủ nước ngồi trong đó có 380 tổ
chức có dự án hoạt động ở Việt Nam. Đảng và nhà nước ta đã đề ra một số quan
điểm, đường lối trong quá trình hội nhập :
Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của tồn dân, trong q trình hội
nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế của
tồn xã hội, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.

17


Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, vừa có
nhiều cơ hội, vừa khơng ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khơn khéo và linh hoạt
trong việc xử lý hai mặt của hội nhập, tuỳ theo đối tượng, vừa đề phòng tư tưởng
trì trệ, thụ động, vừa phải chống tư tưởng giản đơn, nơn nóng.
Nhận thức đầy đủ đặc điểm nền kinh tế nước ta, từ đó Đảng và Nhà nước
ta đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất
nước, vừa đáp ứng các quy định của tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia;
tranh thủ những ưu đãi dành cho các nước đang phát triển và các nước có nền
kinh tế chuyển đổi từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường.

Kết hợp chặt chẽ quá trình Hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững
an ninh, quốc phịng, thơng qua hội nhập để tăng cường sức mạnh tổng hợp của
quốc gia, nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất nước, cảnh giác với những
mưu toan thông qua hội nhập để thực hiện ý đồ “diễn biến hồ bình” đối với
nước ta.
Từ mục tiêu và quan điểm chỉ đạo quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,
nhiệm vụ cụ thể trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là :
Phải tiến hành rộng rãi công tác tư tương, tuyên truyền, giải thích trong
các tổ chức Đảng, chính quyền đồn thể, trong các doanh nghiệp và các tầng lớp
nhân dân để đạt được nhận thức và hành động thống nhất và nhất quán về Hội
nhập kinh tế quốc tế.
Phải căn cứ vào nghị quyết của Đại hội IX, chiến lược phát triển kinh tế
– xã hội 2001 – 2010, cũng như các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà
nước ta tham gia, xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập mà một lộ trình cụ
thể để các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp khẩn trương sắp xếp lại và
nâng cao hiệu quả sản xuất, nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh, bảo đảm
cho hội nhập có kết quả.
2.5.2. Các bước tham gia hội nhập của Việt Nam :
18


Từ ngày 25 tháng 7 năm 1995, ta đã trở thành thành viên chính thức của
ASEAN và từ ngày 01 tháng 01 năm 1996 bắt đầu thi hành nghĩa vụ thành viên
của ASEAN bằng cách chính thức tham gia vào Khu vực Mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA) và Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung của
ASEAN (AFTA/CEPT). Tham gia vào ASEAN, ta đã trở thành thành viên của
một tổ chức khu vực gồm 10 nước thành viên có diện tích 4,5 triệu km 2 với dân
số khoảng 500 triệu người với tổng sản phẩm quốc gia khoảng 737 tỷ USD và
tổng buôn bán thương mại khoảng 720 tỷ USD. Bằng việc tham gia vào
AFTA/CEPT, Việt Nam sẽ phải tuân thủ và thực hiện đầy đủ các quy định, cam

kết cơ bản và bắt buộc của Hiệp định nhưng vẫn phải tìm những cách vận dụng
phù hợp các quy định có tính linh hoạt của Hiệp định để vừa bảo hộ một cách
hợp lý, đồng thời nâng dần khả năng sản xuất cũng như cạnh tranh của các ngành
sản xuất tỏng nước nhằm giảm tối đa những bất lợi của ta khi thực hiện các bước
tham gia vào AFTA/CEPT.
Ngày 15 tháng 6 năm 1996, ta đã gửi đơn xin gia nhập Diễn đàn hợp tác
kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC) và tháng 11 năm 1998 đã trở thành
thành viên chính thức của tổ chức này, một tổ chức hiện có 21 thành viên, trong
đó bao gồm cả các nền kinh tế phát triển, đang phát triển và chuyển đổi (từ kinh
tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường). Mục tiêu của APEC cũng là phát
triển bền vững thơng qua các chương trình thúc đẩy mở cửa và thuận lợi hoá
thương mại, đầu tư, hợp tác kinh tế – kỹ thậut theo các ngun tắc bình đẳng,
cùng có lợi, tự nguyện, cơng khai và không phân biệt đối xử giữa các nước thành
viên cũng như các đối tác không là thành viên. Các cam kết mang tính tự nguyện
nhưng việc thực hiện là bắt buộc, do tuyên bố ở cấp cao và hàng năm được đưa
ra kiểm điểm. Các vấn đề chính trị, tuy được quan tâm nhưng thường được bàn
một cách không chính thức.
2.5.3. Những kết quả đạt được :
19


Những kết quả của công cuộc đổi mới đạt được trong 10 năm qua có thể
nói là chưa từng có trong lịch sử Việt Nam. ở phần trên cũng đã nói đến một
phần nào đó thành tựu mà Việt Nam đã đạt được thông qua các giải pháp được
áp dụng trong công cuộc đổi mới kinh tế, phần này muốn tập trung phân tích các
kết quả của cơng cuộc đổi mới trên ba lĩnh vực : tốc độ tăng trưởng, chuyển đổi
cơ cấu kinh tế và các vấn đề xã hội.
Trước hết phải kể đến mức tăng trưởng cao.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) trong thời kỳ 1991 – 2000 đã tăng bình
qn hàng năm là 7,4%, theo đó tổng giá trị GDP đạt gấp đôi năm 1990. GDP

theo đầu người tăng 1,8 lần.
Nông nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng khá và toàn diện trên nhiều lĩnh vực.
Giá trị sản lượng tồn ngành tăng bình qn hàng năm 5,6%. Trong đó nơng
nghiệp tăng 5,4%, thuỷ sản tăng 9,1%, lâm nghiệp tăng 2,1%.
Nổi bật nhất là sản lượng lương thực tăng bình quân mỗi năm 1,1, triệu
tấn. Sản lượng lương thực năm 2000 đạt 34 triệu tấn, đưa mức lương thực bình
quân đầu người từ 294,9 kg năm 1990 lên trên 436 kg năm 2000. Việt Nam từ nước
nhập khẩu lương thực hàng năm, trở thành nước xuất khẩu gạo thứ hai thế giới.
Sản lượng của một số cây công nghiệp trong thời kỳ 1999 – 2000 đã tăng
khá cao : cà phê tăng 4,7 lần, cao su 4,5 lần, chè tăng 2 lần, mía tăng 3 lần, bơng
tăng 9,7 lần.
Sản lượng thuỷ sản tăng bình quân trong 10 năm là 8,85%. Giá trị sản
lượng cơng nghiệp tăng bình qn trong 10 năm qua là khoảng 12,8 – 13% năm.
Công nghiệp chế biến đã có tốc độ tăng trưởng khá và đã chiếm tới 60,6%
giá trị tồn ngành cơng nghiệp năm 1999.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã tăng lên đáng kể .Tính đến q I
năm 1999 đã có 2624 dự án được cấp giấy phép đầu tư với tổng vốn đăng kí là
35,8 tỉ USD ,nếu tính cả vốn bổ xung là 40,3 tỉ USD .
20



×