Tải bản đầy đủ (.docx) (84 trang)

Phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011 2015 tại xã phú lâm tĩnh gia thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (393.37 KB, 84 trang )

1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay phát triển nông thôn không còn là việc riêng của các nước
đang phát triển mà là sự quan tâm của cả cộng đồng thế giới. Việt Nam là
nước đông dân, với 80% dân số, 70% lao động nông nghiệp đang sinh sống ở
vùng nông thôn. Nông thôn chiếm vị trí quan trọng trong sự nghiệp phát triển
đất nước. Thực trạng nông thôn Việt Nam hiện nay còn nhiều vấn đề bất cập,
so sánh với thành thị, trình độ văn hóa, đời sống vật chất, văn hóa tinh thần và
khả năng tiếp cận các tiến bộ khoa học kỹ thuật của người dân nông thôn thấp
hơn, cơ sở hạ tầng thiếu thốn, kém hơn cả về số lượng và chất lượng…Tuy
nhiên, nông thôn có tiềm năng đất đai, tài nguyên khoáng sản phong phú,
nguồn nhân lực dồi dào…Là điều kiện thuận lợi thúc đẩy sự phát triển. Xây
dựng, quy hoạch phát triển nông thôn mới nhằm sử dụng hợp lý và hiệu quả
nguồn tài nguyên, nhanh chóng thay đổi bộ mặt nông thôn, phát triển nông
thôn toàn diện, bền vững là nhiệm vụ cần thiết của nước ta trong giai đoạn
hiện nay.
Xây dựng nông thôn mới là bước đầu tiên để tiến tới công nghiệp hóa
và hiện đại hóa. Hội nghị lần thứ 7 của ban chấp hành trung ương Đảng khóa
X đã ban hành nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 về vấn đề nông
nghiệp, nông dân và nông thôn. Nghị quyết đã xác định mục tiêu xây dựng
nông thôn mới đến năm 2020. Ngày 16/4/2009 Thủ Tướng Chính phủ đã có
quyết định số 491/QĐ-TTg ban hành bộ tiêu chí quốc gia (bao gồm 19 tiêu
chí) về nông thôn mới. Đây là cơ sở để chỉ đạo xây dựng mô hình nông thôn
mới nhằm thực hiện các mục tiêu quốc gia về nông thôn phù hợp với điều
kiện kinh tế - xã hội của đất nước.
Chương trình mục tiêu quốc gia về nông thôn mới sẽ được triển khai
trên địa bàn cấp xã trong phạm vi cả nước nhằm phát triển nông thôn toàn
diện; có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và
các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh


1
1
2
công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã
hội nông thôn dân chủ ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc, môi trường sinh
thái được bảo vệ, an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần
của người dân ngày càng nâng cao; theo định hướng xã hội chủ nghĩa [7].
Phú Lâm là một xã bán sơn địa của huyện Tĩnh Gia, đời sống của người
dân còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế. Điều kiện giao thông đi lại, các công
trình phục vụ sản xuất chưa đáp ứng được yêu cầu của người dân…Vì vậy
xây dựng nông thôn mới ở xã Phú Lâm là hết sức cần thiết, phù hợp với yêu
cầu phát triển xã hội, gìn giữ bản sắc văn hóa địa phương và nâng cao chất
lượng cuộc sống của nhân dân; đáp ứng được nội dung tinh thần nghị quyết
Trung ương 7 khóa X của Đảng. Xuất phát từ tình hình trên, tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp thực
hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn
2011-2015 tại xã Phú Lâm -Tĩnh Gia - Thanh Hóa".
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Phân tích thực trạng nông thôn tại địa bàn xã Phú Lâm, huyện Tĩnh
Gia, tỉnh Thanh Hóa. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng xã Phú
Lâm trở thành xã nông thôn mới theo Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới
vào năm 2015.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá thực trạng nông thôn tại xã Phú Lâm, huyện Tĩnh Gia, tỉnh
Thanh Hóa.
- So sánh thực trạng nông thôn xã Phú Lâm với Bộ tiêu chí quốc gia về
nông thôn mới.
- Phân tích những thuận lợi, khó khăn của xã trong xây dựng nông thôn mới.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm đưa xã Phú Lâm thành xã nông thôn

mới vào năm 2015.
2
2
3
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa trong học tập
- Củng cố kiến thức từ cơ sở đến chuyên ngành đã học trong trường, áp
dụng kiến thức đó vào thực tiễn.
- Giúp hiểu sâu sắc thêm về một trong những chương trình lớn thể hiện
sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với nhân dân.
- Rèn luyện kỹ năng thu thập và xử lý số liệu, viết báo cáo.
1.3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn
- Nhận thấy được những gì đã làm được và chưa làm được khi thực
hiện xây dựng mô hình nông thôn mới.
- Là tài liệu tham khảo cho các bạn sinh viên khóa sau có cùng hướng
nghiên cứu.
3
3
4
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
2.1.1. Một số khái niệm liên quan
2.1.1.1. Nông thôn
Hiện nay trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về nông thôn. Có
quan điểm cho rằng cần dựa vào chỉ tiêu phát triển cơ sở hạ tầng, có nghĩa
vùng nông thôn có cơ sở hạ tầng không phát triển bằng vùng đô thị. Quan
điểm khác lại cho rằng nên dựa vào chỉ tiêu trình độ tiếp cận thị trường phát
triển hàng hóa và khả năng tiếp cận thị trường. Một số quan điểm khác nêu ra,
vùng nông thôn là vùng có dân cư làm nông nghiệp là chủ yếu, tức là nguồn

sinh kế chính của cư dân trong vùng là sản xuất nông nghiệp. Những ý kiến
này chỉ đúng khi đặt trong bối cảnh cụ thể của từng nước.
Nông thôn là khái niệm chỉ hệ thống cộng đồng xã hội lãnh thổ được
hình thành trong quá trình phân công lao động xã hội mà ở đó dân cư tương
đối thấp; lao động nông nghiệp chiếm tỉ trọng cao, mối quan hệ cộng đồng
chặt chẽ; do vậy, lối sống, phương thức sống của cộng đồng dân cư nông thôn
khác biệt cộng đồng dân cư thành thị [4].
Như vậy, khái niệm về nông thôn chỉ có tính chất tương đối, thay đổi
theo thời gian và theo tiến trình phát triển kinh tế, xã hội của các quốc gia trên
thế giới. Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam, nhìn nhận dưới góc độ quản
lý, có thể hiểu nông thôn là vùng sinh sống của tập hợp cư dân, trong đó có
nhiều nông dân. Tập hợp cư dân này tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn
hóa, xã hội và môi trường trong một thể chế chính trị nhất định và chịu ảnh
hưởng của các tổ chức khác [5].
2.1.1.2. Phát triển nông thôn
Phát triển nông thôn là một phạm trù rộng được nhận thức với rất nhiều
quan điểm khác nhau. Đã có nhiều nghiên cứu và triển khai ứng dụng thuật
4
4
5
ngữ này ở nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam thuật ngữ này được đề cập và có
sự thay đổi nhận thức qua các thời kỳ. Tuy nhiên chúng ta vẫn chưa có sự tổng
hợp lý luận về thuật ngữ này. Nhiều tổ chức phát triển quốc tế đã nghiên cứu và
vận dụng thuật ngữ này ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Phát triển là một quá trình làm thay đổi liên tục làm tăng trưởng mức
sống của con người và phân phối công bằng những thành quả trong xã hội.
Phát triển nông thôn là quá trình thay đổi bền vững có chủ ý về xã
hội, kinh tế, văn hóa và môi trường, nhằm nâng cao chất lượng đời sống
của người dân [10].
Phát triển nông thôn là một chiến lược nhằm cải thiện các điều kiện

sống về kinh tế và xã hội của một nhóm người cụ thể - người nghèo ở vùng
nông thôn. Nó giúp những người nghèo nhất trong những người dân sống ở
các vùng nông thôn được hưởng lợi từ sự phát triển.
Trong điều kiện của Việt Nam tổng hợp các quan điểm từ các chiến
lược phát triển kinh tế xã hội của Chính phủ, thuật ngữ này được hiểu như
sau: Phát triển nông thôn là quá trình cải thiện có chủ ý một cách bền vững về
kinh tế, xã hội, văn hóa và môi trường, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống
của người dân nông thôn và có sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước và các tổ
chức khác [5].
2.1.1.3. Nông thôn mới
Trong Nghị quyết số 26-NQ/TW đưa ra mục tiêu: Xây dựng nông
thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu
kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát
triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo
quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân
tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự xã hội được giữ
vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng nâng cao;
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
5
5
6
Như vậy, nông thôn mới trước tiên nó phải là nông thôn, không phải là
thị tứ, thị trấn, thị xã, thành phố và khác với nông thôn truyền thống hiện nay,
có thể khái quát theo 5 nội dung cơ bản sau: Làng xã văn minh, sạch đẹp, hạ
tầng hiện đại; sản xuất phải phát triển bền vững theo hướng kinh tế hàng hóa;
đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn ngày càng được nâng
cao; bản sắc văn hóa dân tộc được gìn giữ và phát triển; xã hội nông thôn an
ninh tốt, quản lý dân chủ [3].
Nông thôn mới chính là nông thôn tiến bộ, cơ sở hạ tầng đồng bộ, đời
sống văn hóa phong phú. Song, có điều không bao giờ thay đổi là nông thôn

mới cũng phải giữ được tính truyền thống, những nét đặc trưng nhất, bản sắc
từng vùng, từng dân tộc và nâng cao giá trị đoàn kết của cộng đồng, mức sống
của người dân.
Trước hết NTM phải là nơi sản xuất nông nghiệp, tạo ra các sản phẩm
có năng suất, chất lượng cao theo hướng sản xuất hàng hóa. Bên cạnh đó
nông thôn mới phải đảm nhận được vai trò gìn giữ văn hóa truyền thống dân
tộc. Làng quê nông thôn Việt Nam khác hẳn so với các nước xung quanh,
ngay cả ở Việt Nam, làng quê dân tộc Thái khác với H’Mông, khác với Êđê,
Bana, người Kinh. Nếu quá trình xây dựng NTM làm phá vỡ chức năng này
là đi ngược lại với lòng dân và làm xóa nhòa truyền thống văn hóa muôn đời
của người dân Việt Nam. Nông thôn mới phải giữ được môi trường sinh thái
hài hòa.
Mô hình nông thôn mới được quy định bởi các tính chất: Đáp ứng yêu
cầu phát triển; có sự đổi mới về tổ chức, vận hành và cảnh quan môi trường;
đạt hiệu quả cao nhất trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội;
tiến bộ hơn so với mô hình cũ; chứa đựng các đặc điểm chung, có thể phổ
biến và vận dụng trên cả nước. Như vậy, có thể quan niệm: Mô hình nông
thôn mới là tổng thể những đặc điểm, cấu trúc tạo thành một kiểu tổ chức
nông thôn theo tiêu chí mới, đáp ứng yêu cầu mới đặt ra cho nông thôn trong
điều kiện hiện nay, là kiểu nông thôn được xây dựng so với mô hình nông
thôn cũ (truyền thống, đã có) ở tính tiên tiến về mọi mặt [17].
6
6
7
* Đặc trưng của mô hình nông thôn mới:
- Nông thôn là lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị
xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Uỷ ban nhân dân xã [2].
- Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại.
- Cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông
nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch.

- Xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc.
- Dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống
chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường.
- Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân - nông dân
- trí thức vững mạnh, tạo nền tảng kinh tế - xã hội và chính trị vững chắc cho
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa [1].
Ngày 16/4/2009 Thủ tướng Chính Phủ đã ký Quyết định số 491/QĐ-
TTg về việc ban hành bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới gồm
19 tiêu chí áp dụng riêng cho từng vùng của Việt Nam. Bộ tiêu chí cụ thể hóa
đặc tính của xây dựng NTM thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH.
Bộ tiêu chí cũng là căn cứ để xây dựng nội dung chương trình mục tiêu
quốc gia về xây dựng NTM, là chuẩn mực để xác lập kế hoạch phấn đấu đạt
19 tiêu chí nông thôn mới. Ngoài ra nó còn là căn cứ để chỉ đạo và đánh giá
kết quả thực hiện xây dựng NTM của các địa phương trong từng thời kỳ; đánh
giá công nhận xã, huyện, tỉnh đạt nông thôn mới.
* Nội dung xây dựng mô hình nông thôn mới tại các xã vùng Bắc
Trung Bộ.
7
7
8
Bảng 2.1: Các tiêu chí xây dựng mô hình nông thôn mới tại xã vùng
Bắc Trung Bộ [6]
TT
Tên
tiêu chí
Nội dung tiêu chí
Chỉ tiêu
chung của
BTB

1
Quy
hoạch và
thực hiện
quy
hoạch
1.1 Quy hoạch đất và hạ tầng thiết yếu cho phát triển
sản xuất nông nghiệp hàng hóa, công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp, dịch vụ
Đạt
1.2 Quy hoạch phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, môi
trường theo tiêu chuẩn mới
Đạt
1.3 Quy hoạch phát triển các khu dân cư mới và chỉnh
trang các khu dân cư hiện có theo hướng văn minh,
bảo tồn được bản sắc văn hóa tốt đẹp
Đạt
2
Giao
thông
2.1 Tỷ lệ Km trục đường liên xã được nhựa hóa hoặc bê
tông hóa đạt chuẩn theo cấp kỹ thuật của Bộ GTVT
100%
2.2 Tỷ lệ Km đường trục thôn, xóm được cứng hóa
đạt chuẩn theo cấp kỹ thuật của Bộ GTVT
70%
2.3 Tỷ lệ Km đường ngõ, xóm sạch và không lầy lội
vào mùa mưa
100% (70%
cứng hóa)

2.4 Tỷ lệ Km đường trục chính nội đồng được cứng
hóa, xe cơ giới đi lại thuận tiện
70%
3 Thủy lợi
3.1 Hệ thống thủy lợi cơ bản đáp ứng yêu cầu sản
xuất và dân sinh
Đạt
3.2 Tỷ lệ Km kênh mương do xã quản lý được kiên cố
hóa
85%
4 Điện
4.1 Hệ thống điện được đảm bảo yêu cầu kỹ thuật của
ngành điện
Đạt
4.2 Tỷ lệ hộ sử dụng điện thường xuyên, an toàn từ
các nguồn
98%
5
Trường
học
Tỷ lệ trường học các cấp: Mầm non, mẫu giáo, tiểu
học, THCS có cơ sở vật chất đạt chuẩn quốc gia
80%
6
Cơ sở vật
chất văn
hóa
6.1 Nhà văn hóa và khu thể thao đạt chuẩn của Bộ
VH-TT-DL
Đạt

6.2 Tỷ lệ thôn có nhà văn hóa và khu dân cư thể thao
thôn đạt quy định của Bộ VH-TT-DL
100%
7
Chợ nông
thôn
Chợ đạt chuẩn của Bộ xây dựng Đạt
8
Bưu điện
8.1 Có điểm phục vụ bưu chính viễn thông Đạt
8.2 Có Internet đến thôn Đạt
TT Tên tiêu chí Nội dung tiêu chí
Chỉ tiêu chung của
BTB
8
8
9
9
Nhà ở dân cư
9.1 Nhà tạm, dột nát Không
9.2 Tỷ lệ hộ có nhà
ở đạt tiêu chuẩn của
Bộ xây dựng
80%
10 Thu nhập
Thu nhập bình quân
đầu người/năm so
với mức bình quân
chung của tỉnh
1,4 lần

11 Hộ nghèo Tỷ lệ hộ nghèo 5%
12 Cơ cấu lao động
Tỷ lệ lao động trong
độ tuổi làm việc
trong lĩnh vực nông
lâm, ngư nghiệp
35%
13 Hình thức sản xuất
Có tổ hợp tác hoặc
hợp tác xã hoạt
động có hiệu quả

14
Giáo dục
14.1 Phổ cập giáo
dục trung học
Đạt
14.2 Tỷ lệ học sinh
tốt nghiệp THCS
được tiếp tục học
trung học (phổ
thông, bổ túc, học
nghề)
85%
14.3 Tỷ lệ lao động
qua đào tạo
> 35%
15
Y tế
15.1 Tỷ lệ người

dân tham gia các
hình thức bảo hiểm
y tế
30%
15.2 Y tế xã đạt
chuẩn quốc gia
Đạt
16
Văn hóa
Xã có từ 70% số
thôn, bản trở lên đạt
tiêu chuẩn làng văn
hóa theo quy định
của Bộ VH - TT -
DL
Đạt
17 Môi trường 17.1 Tỷ lệ hộ được
sử dụng nước sạch
hợp vệ sinh theo
tiêu chuẩn Quốc gia
85%
17.2 Các cơ sở sản
xuất kinh doanh đạt
tiêu chuẩn về môi
trường
Đạt
9
9
10
17.3 Không có các

hoạt động gây suy
giảm môi trường và
có các hoạt động
phát triển môi
trường xanh, sạch,
đẹp
Đạt
17.4 Nghĩa trang
được xây dựng theo
quy hoạch
Đạt
17.5 Chất thải, nước
thải được thu gom
và xử lý theo quy
định
Đạt
18
Hệ thống tổ chức
chính trị xã hội
vững mạnh
18.1 Cán bộ xã đạt
chuẩn
Đạt
18.2 Có đủ các tổ
chức trong tổ chức
chính trị theo quy
định
Đạt
18.3 Đảng bộ, chính
quyền xã đạt tiêu

chuẩn “trong sạch
vững mạnh”
Đạt
18.4 Các tổ chức
đoàn thể chính trị
của xã đều đạt danh
hiệu tiến tiến trở lên
Đạt
19 An ninh TTXH
An ninh trật tự xã
hội được giữ vững
Đạt
2.1.2. Một số văn bản chính sách của Nhà nước và địa phương có liên quan
- Nghị quyết số 26/NQ-TW ngày 05/08/2008 của Ban chấp hành Trung
ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân và nông thôn.
- Quyết định 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ về
việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới.
- Thông tư số 54/2009/TT-BNNPTNT, ngày 21/8/2009 của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn Hướng dẫn thực hiện Bộ tiêu chí quốc gia về
nông thôn mới;
- Quyết định số 800/QĐ-TTg, ngày 4 tháng 6 năm 2010 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn
10
10
11
mới giai đoạn 2010 - 2020;
- Quyết định số 1457/QĐ-UBND ngày 11/5/2011 của chủ tịch ủy ban
nhân dân tỉnh Thanh Hóa về việc ban hành hướng dẫn lập quy hoạch xây
dựng xã nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
- Quyết định số: 1442/QĐ-UBND ngày 12/4/2010 của chủ tịch UBND

tỉnh Thanh Hóa về việc thành lập ban chỉ đạo chương trình xây dựng NTM
tỉnh Thanh Hóa.
- Quyết định số 2005/QĐ-UBND ngày 07/06/2010 của Uỷ ban nhân
dân tỉnh Thanh Hóa về việc phê duyệt đề án xây dựng NTM tỉnh Thanh Hóa
giai đoạn 2010-2020, định hướng đến năm 2030.
- Kế hoạch số 157/KH-UBND ngày 25/02/2011 của Uỷ ban nhân dân
huyện Tĩnh Gia về việc triển khai chương trình xây dựng NTM huyện Tĩnh
Gia giai đoạn 2011-2015.
- Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Tĩnh Gia nhiệm kỳ 2010-
2015 và nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ xã Phú Lâm nhiệm kỳ 2010-2015.
- Các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của các Bộ ngành Trung ương,
UBND tỉnh Thanh Hóa, huyện Tĩnh Gia, liên quan đến chương trình xây dựng
nông thôn mới.
2.2.Cơ sở thực tiễn
2.2.1. Tình hình xây dựng nông thôn mới trên thế giới
2.2.1.1. Trung Quốc
Nông thôn Việt Nam và Trung Quốc có nhiều nét tương đồng. Trung
Quốc đã thực hiện nhiều chính sách cải cách ở nông thôn. Đến năm 2009, thu
nhập bình quân của cư dân nông thôn lần đầu tiên đạt mức trên 5.000 NDT
tăng 8,5% so với năm trước. Cũng trong năm 2009, Trung Quốc đầu tư làm
mới và sửa chữa khoảng 300.000 km đường bộ nông thôn; hỗ trợ trên 46 triệu
người nghèo đảm bảo đời sống tối thiểu; triển khai thí điểm ở 320 huyện về
bảo hiểm dưỡng lão xã hội nông thôn [11].
11
11
12
Việc chỉ đạo của Chính phủ trước kia cũng theo kiểu mệnh lệnh hành
chính, nên việc thực hiện khá miễn cưỡng. Sau đó, việc thực hiện xây dựng
NTM linh hoạt hơn, dựa trên quy hoạch tổng thể (ngân sách nhà nước và địa
phương). Căn cứ tình hình cụ thể ở các địa phương, đặc điểm tự nhiên, xã hội,

để đưa ra chính sách, biện pháp thích hợp. Ngân sách nhà nước chủ yếu dùng
làm đường, công trình thủy lợi,… một phần dùng để xây nhà ở cho dân. Đối
với nhà ở nông thôn, nếu địa phương nào ngân sách lớn, nông dân chỉ bỏ ra
một phần, còn lại là tiền của ngân sách.
Nhà nước đầu tư nhiều hơn vào nông nghiệp. Đầu tiên là đầu năm 2006
Trung Quốc xoá bỏ thuế nông nghiệp đã tồn tại 2.600 năm, đã cắt 120 tỷ
nguyên (15 tỷ USD) gánh nặng thuế của nông dân. Việc xoá bỏ thuế làm cho
ngân sách các xã giảm nhiều, nhất là ở các vùng không có hoạt động phi nông
nghiệp. Ngân sách cho phát triển nông thôn tăng lên. Xây dựng một cơ chế để
công nghiệp và đô thị thúc đẩy phát triển nông thôn. Sự phân phối thu nhập
quốc dân sẽ được điều chỉnh để cho việc tiêu thụ thuế và đầu tư ngân sách và
tài sản cố định và tín dụng sẽ tăng cho nông nghiệp và nông thôn. Hỗ trợ từ
vốn nhà nước sẽ lớn và tăng liên tục. Phần lớn trái phiếu và vốn ngân sách sẽ
đi về phát triển nông thôn. Đặc biệt đầu tư để cải tiến sản xuất và điều kiện
sống sẽ trở thành một luồng ổn định để tăng vốn cho xây dựng. Năm 2005
Nhà nước đã chi 297,5 tỷ nguyên cho tam nông, năm 2006: 339,7 tỷ và năm
2007: 391,7 tỷ [21].
Công cuộc cải cách nông thôn của Trung Quốc trải qua nhiều dấu mốc.
Trong đó, những mốc quan trọng là xóa bỏ công xã nhân dân; xác lập thể chế
kinh doanh hai tầng kết hợp, lấy kinh doanh bao thầu gia đình làm cơ sở; mở
cửa toàn diện thị trường nông sản; xóa bỏ thuế nông nghiệp, và thực hiện trợ
cấp trực tiếp cho nông dân. Trung Quốc thực hiện nội dung hai mở, một điều
chỉnh là mở cửa giá thu mua, thị trường mua bán lương thực; một điều chỉnh
là chuyển từ trợ cấp gián tiếp qua lưu thông thành trợ cấp trực tiếp cho nông
dân trồng lương thực.
Định hướng phát triển tài chính hỗ trợ tam nông ở Trung Quốc là nông
nghiệp hiện đại, nông thôn đô thị hóa và nông dân chuyên nghiệp hóa. Trong
12
12
13

chính sách tài chính, để tăng thu nhập cho nông dân, Trung Quốc tăng đầu tư
hỗ trợ về giá mua giống, hỗ trợ thu mua lương thực không thấp hơn giá thị
trường, mua máy móc thiết bị nông nghiệp và vốn. Cùng đó, Trung Quốc cũng
tập trung xây dựng cơ chế hướng nghiệp, đào tạo kỹ năng làm việc, đặc biệt là
lao động trẻ. Ngoài ra, bên cạnh giảm thu phí và thuế với nông dân, Trung
Quốc còn có chủ trương, đảm bảo trong vòng 3 năm xóa bỏ tình trạng các xã,
thị trấn không có dịch vụ tài chính tiền tệ cơ bản. Đồng thời, thúc đẩy việc mua
đồ gia dụng, ô tô, xe máy tại các xã, bằng cách nhà nước trợ cấp 13% trên tổng
giá trị hàng hoá khi nông dân mua sản phẩm (do nhà nước định hướng).
2.2.1.2. Hàn Quốc
Sau trận lụt lớn năm 1969, người dân Hàn Quốc phải tu sửa lại nhà cửa,
đường sá, ruộng vườn mà không có sự trợ giúp của chính phủ. Trong khi đi
thị sát tình hình dân chúng, Tổng thống Hàn Quốc lúc bấy giờ là Park Chung
Hy nhận ra rằng viện trợ của chính phủ cũng là vô nghĩa nếu người dân không
nghĩ cách tự cứu lấy mình. Hơn thế nữa, khuyến khích người dân tự hợp tác
và giúp đỡ nhau là điểm mấu chốt để phát triển nông thôn.
Những ý tưởng này chính là nền tảng của phong trào “Saemaulundong”
được đích thân Tổng thống Park phát động vào ngày 22/4/1970. “Saemaul”
theo nghĩa tiếng Hàn là “sự đổi mới của cộng đồng” được ghép với
“undong” có nghĩa là một phong trào và cụm từ “Saemaulundong” có nghĩa
là phong trào đổi mới cộng đồng. Vì phong trào bắt đầu từ nông thôn nên
“Saemaulundong” được hiểu là “phong trào đổi mới nông thôn”. Sự ra đời
kịp thời của “Saemaulundong” vào đúng lúc nông thôn Hàn Quốc đang trì trệ
trong đói nghèo cần có sự bứt phá mạnh mẽ và những kết quả khả quan đạt
được ngay sau đó đã làm nức lòng nông dân cả nước. Tới năm 1974, chỉ sau 4
năm phát động “Saemaulundong”, sản lượng lúa tăng đến mức có thể tự túc
lương thực, phổ biến kiến thức nông nghiệp đã tạo nên một cuộc cách mạng
trong phương pháp canh tác, thu nhập một năm của hộ nông dân (674 nghìn
won tương đương 562 USD) cao hơn so với hộ ở thành thị (644 nghìn won
tương đương 537 USD). Vào năm 1980, bộ mặt nông thôn có thể nói đã hoàn

13
13
14
toàn thay đổi với đầy đủ điện, đường, nước sạch, công trình văn hóa…
“Saemaulundong” từ một phong trào ở nông thôn đã lan ra thành một phong
trào đổi mới toàn xã hội Hàn Quốc [12].
Bộ mặt nông thôn Hàn Quốc đã có những thay đổi hết sức kỳ diệu.
Trong 8 năm từ 1971-1978, Hàn Quốc đã cứng hóa được 43.631km đường
làng nối với đường của xã, trung bình mỗi làng nâng cấp được 1.322m đường;
cứng hóa đường ngõ xóm 42.220km, trung bình mỗi làng là 1.280m; xây
dựng được 68.797 cầu (Hàn Quốc là đất nước có nhiều sông suối), kiên cố
hóa 7.839km đê, kè; xây 24.140 hồ chứa nước và 98% hộ có điện thắp sáng.
Đặc biệt, vì không có quỹ bồi thường đất và các tài sản khác nên việc hiến
đất, tháo dỡ công trình, cây cối, đều do dân tự giác bàn bạc, thỏa thuận, ghi
công lao đóng góp và hy sinh của các hộ cho phong trào.
Nhờ phát triển giao thông nông thôn nên các hộ có điều kiện mua sắm
phương tiện sản xuất. Cụ thể là năm 1971 cứ 3 làng mới có 1 máy cày thì đến
năm 1975 trung bình mỗi làng đã có 2,6 máy cày, rồi nâng lên 20 máy vào
năm 1980. Từ đó tạo phong trào cơ khí hóa trong sản xuất nông nghiệp, áp
dụng công nghệ cao, giống mới lai tạo đột biến, công nghệ nhà lưới, nhà kính
trồng rau, hoa quả đã thúc đẩy năng suất, giá trị sản phẩm nông nghiệp tăng
nhanh. Năm 1979 Hàn Quốc đã có 98% số làng tự chủ về kinh tế.
Ông Le Sang Mu, cố vấn đặc biệt của Chính phủ Hàn Quốc về nông,
lâm, ngư nghiệp cho biết: Chính phủ hỗ trợ một phần đầu tư hạ tầng để nông
thôn tự mình vươn lên, xốc lại tinh thần, đánh thức khát vọng tự tin. Thắng lợi
đó được Hàn Quốc tổng kết thành 6 bài học lớn [14].
Thứ nhất, phát huy nội lực của nhân dân để xây dựng kết cấu hạ tầng
nông thôn phương châm là nhân dân quyết định và làm mọi việc “Nhà nước
bỏ ra 1 vật tư, nhân dân bỏ ra 5-10 công sức và tiền của”. Dân quyết định
loại công trình, dự án nào cần ưu tiên làm trước, công khai bàn bạc, quyết

định thiết kế và chỉ đạo thi công, nghiệm thu công trình. Năm 1971, Chính
phủ chỉ hỗ trợ cho 33.267 làng, mỗi làng 335 bao xi măng. Năm 1972 lựa
chọn 1.600 làng làm tốt được hỗ trợ thêm 500 bao xi măng và 1 tấn sắt thép.
14
14
15
Sự trợ giúp này chính là chất xúc tác thúc đẩy phong trào nông thôn mới, dân
làng tự quyết định mức đóng góp đất, ngày công cho các dự án.
Thứ hai, phát triển sản xuất để tăng thu nhập. Khi kết cấu hạ tầng phục
vụ sản xuất được xây dựng, các cơ quan, đơn vị chuyển giao tiến bộ kỹ thuật,
giống mới, khoa học công nghệ giúp nông dân tăng năng suất cây trồng, vật
nuôi, xây dựng vùng chuyên canh hàng hóa. Chính phủ xây dựng nhiều nhà
máy ở nông thôn để chế biến và tiêu thụ nông sản cũng như có chính sách tín
dụng nông thôn, cho vay thúc đẩy sản xuất. Từ năm 1972 đến năm 1977 thu
nhập trung bình của các hộ tăng lên 3 lần.
Thứ ba, đào tạo cán bộ phục vụ phát triển nông thôn Hàn Quốc, xác
định nhân tố quan trọng nhất để phát triển phong trào “làng mới” là đội ngũ
cán bộ cơ sở theo tinh thần tự nguyện và do dân bầu. Hàn Quốc đã xây dựng
3 trung tâm đào tạo quốc gia và mạng lưới trường nghiệp vụ của các ngành ở
địa phương. Nhà nước đài thọ, mở các lớp học trong thời gian từ 1-2 tuần để
trang bị đủ kiến thức thiết thực như kỹ năng lãnh đạo cơ bản, quản lý dự án,
phát triển cộng đồng.
Thứ tư, phát huy dân chủ để phát triển nông thôn. Hàn Quốc thành lập
hội đồng phát triển xã, quyết định sử dụng trợ giúp của Chính phủ trên cơ sở
công khai, dân chủ, bàn bạc để triển khai các dự án theo mức độ cần thiết của
địa phương. Thành công ở Hàn Quốc là xã hội hóa các nguồn hỗ trợ để dân tự
quyết định lựa chọn dự án, phương thức đóng góp, giám sát công trình.
Thứ năm, phát triển kinh tế hợp tác từ phát triển cộng đồng Hàn Quốc
đã thiết lập lại các hợp tác xã (HTX) kiểu mới phục vụ trực tiếp nhu cầu của
dân, cán bộ HTX do dân bầu chọn. Phong trào “làng mới” là bước ngoặt đối

với sự phát triển của HTX hoạt động đa dạng, hiệu quả trong dịch vụ tín
dụng, cung cấp đầu vào cho sản xuất, tiếp thị nông sản, bảo hiểm nông thôn
và các dịch vụ khác. Trong vòng 10 năm, doanh thu bình quân của 1 HTX
tăng từ 43 triệu won lên 2,3 tỉ won.
Thứ sáu, phát triển và bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường bằng sức mạnh
toàn dân. Chính phủ quy hoạch, xác định chủng loại cây rừng phù hợp, hỗ trợ
15
15
16
giống, tập huấn cán bộ kỹ thuật chăm sóc vườn ươm và trồng rừng để hướng
dẫn và yêu cầu tất cả chủ đất trên vùng núi trọc đều phải trồng rừng, bảo vệ
rừng. Nếu năm 1970 phá rừng còn là quốc nạn thì 20 năm sau rừng xanh đã
che phủ khắp nước và đây được coi là một kỳ tích của phong trào “làng
mới”.
2.2.1.3. Mỹ
Mỹ là nước có điều kiện tự nhiên cực kỳ thuận lợi để phát triển nông
nghiệp. Vùng Trung Tây của nước này có đất đai mầu mỡ nhất thế giới.
Lượng mưa vừa đủ cho hầu hết các vùng của đất nước; nước sông và nước
ngầm cho phép tưới rộng khắp cho những nơi thiếu mưa.
Bên cạnh đó, các khoản vốn đầu tư lớn và việc tăng cường sử dụng lao
động có trình độ cao cũng góp phần vào thành công của ngành nông nghiệp
Mỹ. Điều kiện làm việc của người nông dân làm việc trên cánh đồng rất
thuận lợi: Máy kéo với các ca bin lắp điều hòa nhiệt độ, gắn kèm theo những
máy cày, máy xới và máy gặt có tốc độ nhanh và đắt tiền. Công nghệ sinh
học giúp phát triển những loại giống chống được bệnh và chịu hạn. Phân hóa
học và thuốc trừ sâu được sử dụng phổ biến, thậm chí theo các nhà môi
trường quá phổ biến. Công nghệ vũ trụ được sử dụng để giúp tìm ra những
nơi tốt nhất cho việc gieo trồng và thâm canh mùa màng. Định kỳ, các nhà
nghiên cứu lại giới thiệu các sản phẩm thực phẩm mới và những phương
pháp mới phục vụ việc nuôi trồng thủy, hải sản, chẳng hạn như tạo các hồ

nhân tạo để nuôi cá [14].
Ngành nông nghiệp Mỹ đã phát triển thành một ngành “kinh doanh
nông nghiệp”, một khái niệm được đặt ra để phản ánh bản chất tập đoàn lớn
của nhiều doanh nghiệp nông nghiệp trong nền kinh tế Mỹ hiện đại. Kinh
doanh nông nghiệp bao gồm rất nhiều doanh nghiệp nông nghiệp và các cơ
cấu trang trại đa dạng, từ các doanh nghiệp nhỏ một hộ gia đình cho đến các
tổ hợp rất lớn hoặc các công ty đa quốc gia sở hữu những vùng đất đai lớn
hoặc sản xuất hàng hóa và nguyên vật liệu cho nông dân sử dụng. Cũng giống
như một doanh nghiệp công nghiệp tìm cách nâng cao lợi nhuận bằng việc tạo
16
16
17
ra quy mô lớn hơn và hiệu quả hơn, nhiều nông trại Mỹ cũng ngày càng có
quy mô lớn hơn và củng cố hoạt động của mình sao cho linh hoạt hơn.
Cũng giống như một doanh nghiệp công nghiệp tìm cách nâng cao lợi
nhuận bằng việc tạo ra quy mô lớn hơn và hiệu quả hơn, nhiều nông trại Mỹ
cũng ngày càng có quy mô lớn hơn và củng cố hoạt động của mình sao cho
linh hoạt hơn. Sự thật, ngành nông nghiệp Mỹ đã phát triển thành một ngành
“kinh doanh nông nghiệp”, một khái niệm được đặt ra để phản ánh bản chất
tập đoàn lớn của nhiều doanh nghiệp nông nghiệp trong nền kinh tế Mỹ hiện
đại. Kinh doanh nông nghiệp bao gồm rất nhiều doanh nghiệp nông nghiệp và
các cơ cấu trang trại đa dạng, từ các doanh nghiệp nhỏ một hộ gia đình cho
đến các tổ hợp rất lớn hoặc các công ty đa quốc gia sở hữu những vùng đất
đai lớn hoặc sản xuất hàng hóa và nguyên vật liệu cho nông dân sử dụng. Sự
ra đời ngành kinh doanh nông nghiệp vào cuối thế kỷ XX đã tạo ra ít trang
trại hơn nhưng các trang trại có quy mô lớn hơn nhiều. Đôi khi được sở hữu
bởi những cổ đông vắng mặt, các trang trại mang tính tập đoàn này sử dụng
nhiều máy móc hơn và ít bàn tay của nông dân hơn. Vào năm 1940, có 6 triệu
trang trại và trung bình mỗi trang trại khoảng 67 hecta. Đến cuối thập kỷ
1990, chỉ có khoảng 2,2 triệu trang trại nhưng trung bình mỗi trang trại có

diện tích 190 hecta. Cũng chính trong khoảng giai đoạn này, số lao động nông
nghiệp giảm rất mạnh từ 12,5 triệu người năm 1930 xuống còn 1,2 triệu người
vào cuối thập kỷ 1990 dù cho dân số của Mỹ tăng hơn gấp đôi. Vào năm
1900, một nửa lực lượng lao động là nông dân nhưng đến cuối thế kỷ này chỉ
còn 2% lao động trong các trang trại. Và gần 60% trong số nông dân còn lại
đó đến cuối thế kỷ này chỉ làm việc một phần thời gian trên trang trại; thời
gian còn lại họ làm những việc khác không thuộc trang trại để bù đắp thêm
thu nhập cho mình. Chi phí đầu tư vốn cao, cho đất đai và trang thiết bị khiến
cho việc dành toàn bộ thời gian làm việc trên trang trại là cực kỳ khó khăn
cho hầu hết mọi người [20].
Hiện nay, trong cuộc sống hiện đại ồn ào, đầy sức ép, người Mỹ ở vùng
đô thị hay ven đô hướng về ngôi nhà thô sơ, ngăn nắp và những cánh đồng,
17
17
18
phong cảnh miền quê truyền thống, yên tĩnh. Tuy nhiên, để duy trì “trang trại
gia đình” và phong cảnh làng quê đó thực sự là một thách thức.
2.2.2. Tình hình xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam
Ở Việt Nam, Chương trình xây dựng thí điểm MHNTM trong thời kỳ
CNH - HĐH được triển khai thực hiện theo kết luận số 32 - KL/TW ngày
20/11/2008 của Bộ Chính trị và Thông báo kết luận số 238 - TP/TW ngày
7/4/2009 của Ban bí thư về Đề án “Xây dựng thí điểm mô hình NTM”, nhằm
tổ chức thực hiện Nghị quyết số 26 - NQ/TW ngày 5/8/2008 của Hội nghị
lần thứ 7, BCH Trung ương Đảng (khóa X) về “nông nghiệp, nông dân, nông
thôn”. Chương trình đã thành công bước đầu và đạt được một số kết quả
quan trọng.
Ngay trong những năm đầu triển khai, chương trình mục tiêu quốc gia
về xây dựng nông thôn mới đã trở thành phong trào của cả nước, các nhiệm
vụ về xây dựng nông thôn mới được xác định rõ trong nghị quyết đại hội
Đảng các cấp từ tỉnh đến huyện và xã. Ban bí thư Trung ương khóa X đã

trực tiếp chỉ đạo Chương trình thí điểm xây dựng mô hình nông thôn mới
cấp xã tại 11 xã điểm ở 11 tỉnh, thành phố đại diện cho các vùng, miền [15].
Các xã điểm được chọn bao gồm Thanh Chăn (Điện Biên), Tân Thịnh (Bắc
Giang), Hải Đường (Nam Định), Thụy Hương (Hà Nội), Tam Phước (Quảng
Nam), Tân Lập (Bình Phước), Gia Phố (Hà Tĩnh), Tân Hội (Lâm Đồng), Tân
Thông Hội (TP. Hồ Chí Minh), Mỹ Long Nam (Trà Vinh) và Đình Hòa
(Kiên Giang).
Ở Thái Nguyên: Ngay sau khi có Nghị quyết số 26 - NQ/TW ngày
5/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Nghị quyết số 24/2008/NQ
- CP ngày 28/10/2008 của Chính phủ về nông nghiệp, nông dân và nông thôn,
Thái Nguyên đã xây dựng chương trình hành động cụ thể và ra chỉ thị về xây
dựng NTM. Theo đánh giá năm 2011, công tác xây dựng nông thôn mới trên
địa bàn tỉnh Thái Nguyên đã được triển khai sâu rộng và tương đối đồng bộ.
Thái Nguyên đã kiện toàn ban chỉ đạo ở cả 3 cấp tỉnh, huyện, xã; đã thực hiện
tốt công tác tham mưu cho ban chỉ đạo thông qua việc ban hành các văn bản,
18
18
19
tài liệu phục vụ cho công tác chỉ đạo và tuyên truyền về chương trình xây
dựng nông thôn mới; Thái Nguyên đã làm tốt công tác thông tin tuyên truyền
đến với người dân về mục đích, ý nghĩa, trách nhiệm trong công tác xây dựng
nông thôn mới [13].
Sau hơn 2 năm triển khai thực hiện, cơ cấu kinh tế nội ngành tiếp tục
có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ, giá trị sản xuất toàn ngành tăng bình
quân 5,04% một năm. Sản lượng lương thực 3 năm qua tăng vững chắc, đảm
bảo an ninh lương thực trên địa bàn, góp phần quan trọng vào phát triển nông
thôn và ổn định xã hội (bình quân lương thực đầu người năm 2008 đạt 366,1
kg/người/năm, đến năm 2010 đạt 369,5 kg/người/năm). Sản lượng chè tăng
bình quân 8,2%/năm; sản lượng các cây trồng khác có mức tăng 5 - 9%. Tuy
nhiên, việc chuyển dịch cơ cấu và đổi mới cách thức trong sản xuất còn chậm,

phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ, sức cạnh tranh thấp, thiếu mô hình sản xuất hiệu
quả, chưa đủ sức phát triển hàng hóa, chưa phát huy tốt các nguồn lực. Công
nghiệp, dịch vụ phát triển chậm, chưa đủ sức thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và lao động ở nông thôn. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn
còn yếu kém; năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai chưa đủ mạnh. Đời
sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn còn thấp, chênh lệch giàu,
nghèo giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng còn lớn, tỷ lệ hộ nghèo còn
cao. Nhận thức về xây dựng NTM của một bộ phận nhân dân còn hạn chế,
vẫn còn tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước. Nguồn vốn đầu
tư cho chương trình xây dựng NTM chưa đáp ứng yêu cầu…
Ở Thanh Hóa: Thực hiện Kế hoạch số 49/KH-UBND ngày 24/8/2010,
Thông báo kết luận số 122/TB-UBND ngày 18/10/2010, Kế hoạch số 60/KH-
UBND ngày 29/10/2010 của Chủ tịch UBND tỉnh về triển khai thực hiện
nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới, công tác triển khai thực hiện nhiệm vụ
xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh đã có chuyển biến tích cực: Ban chỉ
đạo xây dựng nông thôn mới đã được thành lập ở hầu hết các huyện và một số
xã; các sở, ban, ngành cấp tỉnh và cấp uỷ, chính quyền các huyện đã vào cuộc
một cách quyết liệt để triển khai thực hiện chương trình, nhiều huyện đã ban
19
19
20
hành các chỉ thị, nghị quyết chuyên đề về xây dựng nông thôn mới; công tác
tập huấn, tuyên truyền đã được triển khai, tạo chuyển biến một bước trong
nhận thức của cán bộ và nhân dân về mục tiêu, nhiệm vụ và nội dung xây
dựng nông thôn mới; một số xã đặc biệt là các xã điểm của tỉnh đã chủ động
thực hiện và hoàn thành thêm được từ 1 - 3 tiêu chí so với đề án được duyệt,
nhiều xã do các huyện chỉ đạo đã hoàn thành điều tra, đánh giá thực trạng và
đang tiếp tục triển khai các nội dung xây dựng nông thôn mới theo kế hoạch.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, vẫn còn một số tồn tại, hạn chế: Công
tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các Nghị quyết của Đảng về nông

nghiệp, nông dân, nông thôn và chương trình xây dựng nông thôn mới chưa
thường xuyên và hiệu quả; một số đơn vị và nhân dân chưa nhận thức đầy đủ
về tầm quan trọng, nội dung và ý nghĩa của chương trình, chưa xem chương
trình xây dựng nông thôn mới là cuộc vận động lớn, sâu rộng đến các cấp uỷ,
chính quyền và nhân dân, còn tâm lý trông chờ; nhiều địa phương còn lúng
túng trong việc lựa chọn phương pháp, cách làm; kết quả đạt được còn hạn
chế, chuyển biến chưa đồng đều [18].
Sau ba năm thí điểm, chương trình xây dựng NTM đã thành công bước
đầu và đạt được một số kết quả quan trọng cả về kinh tế, xã hội và kinh
nghiệm tổ chức chỉ đạo của các ngành, các cấp. Những kết quả chủ yếu là:
Mô hình nông thôn mới đã hình thành trên thực tế tại các xã thí điểm của
Trung ương và địa phương. Một số xã thí điểm đạt kết quả khá toàn diện như:
Hải Đường (Nam Định), Tân Thịnh (Bắc Giang), Tân Thông Hội (Tp. Hồ Chí
Minh), Thanh Tân, Bình Định (Thái Bình). Một số xã đạt kết quả một số mặt
như quy hoạch, phát triển sản xuất hàng hóa gắn với quy hoạch cải tạo đồng
ruộng, dồn điền đổi thửa ở Tân Thịnh (Bắc Giang), Thanh Tân, Bình Định
(Thái Bình); mô hình liên kết sản xuất ở Thụy Hương (Hà Nội), Tân Hội
(Lâm Đồng); mô hình thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông thôn ở Tân
Thông Hội (Tp.Hồ Chí Minh), Tân Lập (Bình Phước)… Hiện, các mô hình
này đang là điểm sáng thu hút sự quan tâm, học hỏi và cũng là căn cứ để Ban
chỉ đạo Trung ương rút kinh nghiệm chỉ đạo cả nước [16].
20
20
21
Chương trình xây dựng thí điểm mô hình nông thôn mới được thực
hiện thí điểm tại 11 xã trong giai đoạn 2009 - 2011 đã rút ra năm bài học kinh
nghiệm [19]:
- Tiến hành xây dựng nông thôn mới trên địa bàn xã, trước tiên phải
làm tốt công tác tuyên truyền sâu rộng để nâng cao nhận thức trong cộng
đồng dân cư về nội dung, phương pháp, cách làm, cơ chế chính sách của Nhà

nước về xây dựng nông thôn mới… Để cả hệ thống chính trị ở cơ sở và người
dân hiểu rõ. Đây là chương trình phát triển kinh tế xã hội tổng thể, toàn diện,
lâu dài trong nông thôn, không phải là một dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng. Xây dựng nông thôn mới phải do cộng đồng dân cư làm chủ; huy động
nội lực là chính với sự hỗ trợ một phần của Nhà nước thì công cuộc xây dựng
nông thôn mới thành công và bền vững.
- Phải coi trọng công tác xây dựng và đào tạo đội ngũ cán bộ nòng cốt
ở các cấp, nhất là đội ngũ cán bộ cơ sở.
- Đa dạng hóa việc huy động nguồn lực để xây dựng nông thôn mới
theo phương châm: “Huy động nguồn lực từ cộng đồng là quyết định sự tham
gia của doanh nghiệp và xã hội là quan trọng, sự hỗ trợ từ ngân sách Nhà
nước là cần thiết”.
- Để xây dựng nông thôn mới, cần có sự tập trung chỉ đạo cụ thể liên
tục, đồng bộ và huy động được sự tham gia của cả hệ thống chính trị.
- Xây dựng nông thôn mới cấp xã phải có cách làm chủ động, sáng tạo,
phù hợp với điều kiện và đặc điểm của xã, tránh rập khuôn, máy móc.
Phần 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Thực trạng nông thôn theo Bộ tiêu chí
quốc gia về nông thôn mới tại xã Phú Lâm - Tĩnh Gia - Thanh Hóa.
21
21
22
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu
* Về không gian: Đề tài nghiên cứu tại địa bàn xã Phú Lâm, huyện Tĩnh
Gia, tỉnh Thanh Hóa.
* Về thời gian: Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 2 năm 2012 đến tháng 5
năm 2012

3.2. Nội dung và phương pháp nghiên cứu
3.2.1. Nội dung nghiên cứu
- Tìm hiểu điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội trên địa bàn xã
Phú Lâm - Tĩnh Gia - Thanh Hóa.
- Đánh giá thực trạng nông thôn (các tiêu chí để đánh giá như: quy
hoạch và thực hiện quy hoạch, giao thông, thủy lợi, điện, cơ sở vật chất, chợ,
trường học, bưu điện, thu nhập, cơ cấu lao động, hộ nghèo, hình thức tổ chức
sản xuất, y tế, văn hóa, môi trường, an ninh, giáo dục, hệ thống tổ chức chính
trị xã hội…). So sánh thực trạng nông thôn xã Phú Lâm với 19 tiêu chí do
Thủ tướng Chính Phủ ban hành.
- Phân tích thuận lợi, khó khăn của xã khi xây dựng nông thôn mới.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm đưa xã Phú Lâm thành xã nông thôn
mới vào năm 2015.
3.2.2. Phương pháp nghiên cứu
3.2.2.1. Phương pháp điều tra thu thập số liệu
Các số liệu sơ cấp và thứ cấp có liên quan đến nội dung nghiên cứu sẽ
được điều tra, thu thập trong quá trình thực hiện đề tài.
Thu thập số liệu thứ cấp:
Trong đề tài sử dụng số liệu đã công bố của các cơ quan thống kê, các
sách báo tài liệu, báo cáo tổng kết đã được công bố của xã và huyện để thu
thập các tài liệu có liên quan về điều kiện tự nhiên, dân sinh, hạ tầng kinh tế
xã hội, văn hóa, môi trường của khu vực nghiên cứu.
Thu thập số liệu sơ cấp:
22
22
23
Phương pháp PRA: PRA là một loạt các biện pháp tiếp cận và phương
pháp khuyến khích lôi cuốn người dân tham gia cùng chia sẻ thảo luận, phân
tích kiến thức của họ về đời sống, điều kiện nông thôn để họ lập kế hoạch
thảo luận cũng như thực hiện và giám sát, đánh giá. Đề tài này đã sử dụng

các công cụ PRA sau:
- Quan sát trực tiếp: Quan sát một cách có hệ thống các sự việc, sự vật,
sự kiện với các mối quan hệ và trong một bối cảnh tồn tại của nó. Quan sát
trực tiếp cũng là một phương cách tốt để kiểm tra chéo những câu trả lời của
người dân địa phương. Trong quá trình nghiên cứu đề tài tôi sử dụng phương
pháp quan sát trực tiếp thực trạng hạ tầng kinh tế xã hội trên địa bàn xã.
- Phương pháp phỏng vấn theo bộ câu hỏi đã định sẵn: Đề tài đã sử
dụng 02 mẫu phiếu điều tra để thu thập thông tin.
+ Phiếu 01: Được dùng để thu thập thông tin về tình hình cơ bản của
xã. Nội dung phiếu điều tra cung cấp các thông tin chủ yếu như: Về quy
hoạch, điện, đường giao thông, trường học, trạm y tế, chợ, bưu điện, giáo
dục…Cách tiến hành: Sử dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp linh hoạt với
cán bộ chỉ đạo chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn xã.
+ Phiếu số 02: Được dùng để thu thập thông tin về các hộ dân trong xã.
Nội dung phiếu điều tra cung cấp các thông tin về các hộ dân trong xã như:
Nhân khẩu, lao động, tuổi, trình độ văn hóa của chủ hộ, trình độ dân trí, nhà
ở, thu nhập, nghề nghiệp, công trình phục vụ sinh hoạt, chuồng trại chăn
nuôi… Những thông tin này được thể hiện bằng những câu hỏi cụ thể để họ
hiểu, trả lời chính xác và đầy đủ. Cách tiến hành: Sử dụng phương pháp
phỏng vấn trực tiếp linh hoạt với hộ dân, đàm thoại với họ với các câu hỏi đã
chuẩn bị sẵn. Phỏng vấn số hộ đã chọn, kiểm tra tính thực tiễn của thông tin
qua quan sát trực tiếp. Chọn hộ điều tra: Áp dụng phương pháp chọn mẫu
ngẫu nhiên phân tầng: Trên địa bàn xã hiện nay có 9 thôn, với mỗi thôn chọn
ngẫu nhiên 10 hộ theo tỷ lệ giàu nghèo. Như vậy tổng số mẫu điều tra là 90
hộ/9 thôn.
3.2.2.2. Phương pháp phân tích, xử lý số liệu
23
23
24
- Từ các nguồn số liệu điều tra thu thập được trên địa bàn nghiên cứu.

Sau đó tiến hành tổng hợp, xử lý và phân tích số liệu.
- Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu: Sử dụng phương pháp này
để tổng hợp các số liệu thu thập được sau đó xử lý trên bảng tính Excel, phân
tích đánh giá tình hình thực hiện.
- Phương pháp đối chiếu so sánh: Phương pháp này xác định xu hướng,
mức độ biến động của các chỉ tiêu phân tích, phản ánh chân thực hiện tượng
nghiên cứu, giúp cho việc tổng hợp tài liệu, tính toán các chỉ tiêu được đúng
đắn, cũng như giúp cho việc phân tích tài liệu được khoa học, khách quan,
phản ánh đúng những nội dung cần nghiên cứu.
24
24
25
Phần 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu
4.1.1. Điều kiện tự nhiên
4.1.1.1. Vị trí địa lý
* Về vị trí địa lý: Theo bản đồ Việt Nam năm 2000 Phú Lâm nằm:
- Từ 21
0
44’00’’ đến 21
0
48’30” vĩ độ Bắc.
- Từ 105
0
67’81” đến 105
0
76’30” kinh độ Đông.
* Giáp giới:
- Phía Đông giáp xã Trúc Lâm huyện Tĩnh Gia;

- Phía Tây giáp xã Phú Sơn và huyện Như Thanh;
- Phía Nam giáp xã Tùng Lâm và xã Tân Trường huyện Tĩnh Gia;
- Phía Bắc giáp xã Nguyên Bình huyện Tĩnh Gia.
Xã Phú Lâm là một xã bán sơn địa của huyện Tĩnh Gia, có chiều rộng
từ Tây sang Đông dài 8,37km; từ Bắc xuống Nam dài 4,77km. Trung tâm xã
cách huyện lỵ thị trấn Còng gần 12km về phía Tây Nam. Cách khu công
nghiệp kinh tế Nghi Sơn 6km về phía Tây. Xã Phú Lâm có vị trí địa lý tương
đối thuận lợi là điều kiện tốt để phát triển kinh tế - xã hội một cách toàn diện.
4.1.1.2. Địa hình địa mạo
Địa hình xã Phú Lâm tương đối phức tạp, bị chia cắt bởi nhiều đồi núi,
sông suối. Trung tâm xã hình thành như một thung lũng khép kín được tạo bởi
hai dãy núi cao là Lâm Động và Cây Thị từ Đông sang Tây. Núi có độ cao
tuyệt đối từ 25m đến 670km, độ dốc từ 5 đến 35 độ, cá biệt có nơi độ dốc trên
40 độ. Hướng dốc thấp dần từ Tây sang Đông. Do cấu tạo của địa hình dẫn
đến quá trình lở đất và xói mòn ngày càng mạnh và đã tạo cho nơi đây được
thiên nhiên ban tặng cho nhiều hồ đập chứa nước lớn nhỏ cung cấp nguồn
nước tưới cho sản xuất nông nghiệp và phục vụ nước sinh hoạt cho nhân dân.
25
25

×