Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

CƠ hội KHI THAM GIA AFTA của VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.9 KB, 10 trang )

CƠ HỘI KHI THAM GIA AFTA CỦA VIỆT NAM
1. Thương mại
1.1. Nhập khẩu:
Trong những năm gần đây, hàng hóa từ ASEAN vào Việt Nam chiếm khoảng
25% kim ngạch nhập khẩu (NK), trong đó nguyên vật liệu dùng cho sản xuất và hàng
công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn. Các mặt hàng này đã có thuế suất dưới 5% trước khi
thực hiện CEPT. Vì vậy, AFTA không có tác động trực tiếp tới việc NK những mặt
hàng này.
Ngoài ra, một số hàng NK có kim ngạch đáng kể ở Việt Nam như xăng dầu, xe
máy chưa được đưa vào danh sách giảm thuế ngay nên trước mắt sẽ nằm ngoài phạm
vi tác động của AFTA.
Về lâu dài, Việt Nam chắc chắn phải đưa thêm những mặt hàng từ danh mục loại
trừ tạm thời có thuế suất trên 20% vào diện cắt giảm ngay, và loại trừ dần các hàng rào
phi thuế quan (nhất là những hạn chế về số lượng nhập khẩu). Khi đó, rất có thể NK,
nhất là những mặt hàng tiêu dùng từ các nước ASEAN vào Việt Nam sẽ tăng lên nếu
những mặt hàng cùng loại sản xuất trong nước không cạnh tranh lại được.
1.2. Xuất khẩu:
a. Xuất khẩu sang các nước ASEAN khác:
Về lý thuyết và dài hạn, AFTA có tác động làm tăng sức cạnh tranh của hàng hóa
Việt Nam trên thị trường ASEAN nhờ giảm thuế quan và loại bỏ các hàng rào phi thuế
quan. Song trong vài năm tới, khả năng AFTA làm tăng kim ngạch xuất khẩu (XK) của
Việt Nam sang các nước này không lớn do các nguyên nhân sau:
Xét về cơ cấu hàng xuất khẩu (XK):
Những năm gần đây, ASEAN thường chiếm khoảng 20-23% kim ngạch xuất khẩu
(XK) của Việt Nam. Đây là một con số đáng kể. Nhưng những mặt hàng được hưởng
thuế suất CEPT lại chỉ chiếm gần 20% kim ngạch XK sang ASEAN, tương đương với
dưới 4% tổng kim ngạch XK của Việt Nam năm 2001. Và mức tăng XK của những
mặt hàng này sang các nước ASEAN khác cũng không lớn.
Hơn nữa, cơ cấu hàng hóa của Việt Nam và ASEAN khá tương đồng. Với trình độ
thua kém hơn, Việt Nam chỉ có thể cạnh tranh trên thị trường ASEAN nhờ tính độc đáo
của chủng loại, mẫu mã và do đó, chỉ mang tính bổ sung cho cơ cấu hàng hóa nước đối


tác.
Xét về bạn hàng:
2/3 doanh số buôn bán của Việt Nam với ASEAN được thực hiện với Singapore.
Phần lớn hàng Việt Nam xuất sang Singapore sẽ được tái xuất sang các nước khác.
Nhưng ở nước này, hệ thống thuế xuất nhập khẩu trước AFTA vốn đã thấp, gần như
bằng 0%. Do vậy, khi thực hiện CEPT trên toàn khối ASEAN, 1/3 kim ngạch xuất
nhập khẩu còn lại của Việt Nam với các nước ASEAN khác sẽ chưa làm thay đổi nhiều
XK Việt Nam nếu xét theo khía cạnh được hưởng ưu đãi thuế NK thấp.
Có thể kết luận rằng: Chỉ khi nào Việt Nam tạo được sự dịch chuyển cơ cấu sản
xuất và XK theo hướng tạo ra được nhiều chủng loại hàng hóa có sức cạnh tranh và
nằm trong danh mục cắt giảm của CEPT, các doanh nghiệp Việt Nam mới có thêm
thuận lợi về yếu tố giá cả khi muốn XK sang ASEAN.
b. Về phần XK sang các nước ngoài ASEAN:
Về dài hạn, AFTA có tác động gián tiếp làm tăng kim ngạch XK của Việt Nam
sang các thị trường ngoài ASEAN do nhập được đầu vào cho sản xuất XK với giá rẻ
hơn từ các nước ASEAN. Mặt khác, với tư cách một thành viên của AFTA, Việt Nam
có điều kiện để khai thác những lợi thế mới trong quan hệ thương mại với nước lớn.
Ví dụ, Việt Nam sẽ được hưởng hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập
của Mỹ(General System of Preference - GSP). Bởi GSP quy định "giá trị một sản phẩm
được sản xuất tại một nước thành viên của một hiệp hội kinh tế, khu vực thương mại tự
do (như AFTA) thì được coi là sản phẩm của một nước" và một sản phẩm NK vào Mỹ
được hưởng GSP nếu "giá trị nguyên liệu NK để sản xuất ra nó chiếm dưới 65% giá trị
sản phẩm sau khi hoàn thành thủ tục hải quan vào Mỹ".
Điều đó có nghĩa là các nước ASEAN có thể nhập nguyên liệu từ các nước thành
viên khác để sản xuất hàng XK sang Mỹ, và hàng XK sẽ được hưởng GSP nếu giá trị
nguyên liệu dưới 65% giá trị sản phẩm. Và do đó, AFTA giúp Việt Nam tăng cường
tiếp cận và thâm nhập thị trường Mỹ - đất nước có kim ngạch NK vượt 1000 tỷ USD
mỗi năm.
Tuy vậy, như trên đã nói, cơ cấu sản phẩm của các nước ASEAN xuất ra thị
trường thế giới lại khá tương đồng với Việt Nam. Và họ cũng được hưởng những lợi

ích tương tự. Do đó, tham gia AFTA, Việt Nam tiếp tục phải chấp nhận cạnh tranh rất
quyết liệt với các thành viên khác trong hiệp hội không chỉ trên thị trường khu vực.
Cũng cần nói thêm rằng, việc Việt Nam tham gia AFTA và tổ chức Hợp tác
Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương ( APEC ) tháng 11/1998 là những sự chứng minh,
là bước chuẩn bị, tập dượt để gia nhập WTO.
2. Đầu tư nước ngoài
2.1. Đầu tư từ các nước ASEAN khác
AFTA có tác động phân công lại các nguồn lực trong khu vực theo hướng hợp lý
hóa. Khi không còn bảo hộ, một số ngành công nghiệp của một số nước sẽ bộc lộ sự
thua kém về khả năng cạnh tranh, để tồn tại, hoặc để thu được nhiều lợi nhuận hơn, các
nhà kinh doanh trong những ngành này sẽ đầu tư sang các nước ASEAN khác có các
yếu tố thuận lợi hơn, trong đó có Việt Nam.
Ngoài ra, với tiến trình hiện thức hóa Khu vực đầu tư ASEAN (AIA), các nhà đầu
tư ASEAN nói riêng và các nhà đầu tư nước ngoài nói chung sẽ có nhiều thuận lợi về
thủ tục hành chính và tâm lý khi đầu tư vào Việt Nam.
2.2. Đầu tư nước ngoài từ các nước khác
Về lý thuyết, một khu vực thương mại tự do sẽ làm tăng đầu tư từ ngoài khu vực.
Đó là bởi các nhà đầu tư có thể sản xuất hàng hóa tại một hay một số nước và đưa ra
tiêu thụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế thấp và hàng rào thuế quan dần được
dỡ bỏ. Khi các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào một nước, họ sẽ có một thị trường
tiềm năng rộng lớn hơn nhiều lần nước đó.
Áp dụng lý thuyết đó vào AFTA và Việt Nam, thì các nhà đầu tư nước ngoài khi
đầu tư vào Việt Nam, họ sẽ không chỉ nghĩ đến một thị trường với 80 triệu dân, mà còn
tính đến cả thị trường ASEAN với trên 500 triệu người.
Nhưng trên thực tế, thuế chỉ là một trong rất nhiều yếu tố được xem xét để đi đến
quyết định đầu tư. Thuế thấp sẽ mất đi ý nghĩa thu hút đầu tư nước ngoài nếu không đi
kèm với sự ổn định chính trị, xã hội, luật đầu tư nước ngoài thông thoáng, nguồn lao
động giá rẻ và có tay nghề cao Có thể lấy ví dụ đơn cử là Indonesia hiện nay. Mặc dù
Indonesia đã hoàn thành AFTA, nhưng rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài như Sony ,
Matsushita đã và đang rời bỏ nước này sang Trung Quốc, Malaysia hay Việt Nam vì

lo ngại và thất vọng trước nạn khủng bố, mâu thuẫn sắc tộc, bất ổn quyền lực và tham
nhũng
Đó cũng thách thức chung cho tất cả các thành viên của AFTA. Vì nếu như trước
đây, Indonesia hay Việt Nam không phải là thành viên của AFTA, để vượt qua hàng
rào thuế quan và các hạn chế NK vào thị trường Indonesia hay Việt Nam, các nhà đầu
tư nước ngoài buộc phải đầu tư tại nước sở tại. Nhưng nay Việt Nam đã là thành viên
AFTA, nếu môi trường đầu tư vào Việt Nam không hấp dẫn, thì thay vì đầu tư Việt
Nam, các nhà đầu tư nước ngoài có thể sẽ đầu tư vào các nước ASEAN khác, hoặc đơn
giản hơn, chỉ cần mở rộng hoặc tăng thêm công suất của các nhà máy sẵn có tại các
nước AFTA, đặc biệt là đối với các dây chuyền sản xuất đã gần hết khấu hao nhưng
vẫn vận hành tốt, rồi từ đó bán hàng sang Việt Nam.
Như vậy, để tận dụng được những cơ hội thu hút đầu tư từ các nước khác mà
AFTA đem lại, Việt Nam cần phải tiếp tục cải thiện một cách đồng bộ và toàn diện môi
trường đầu tư.
3. Công nghiệp
Về lâu dài, khi các ngành công nghiệp của những nước thành viên không còn
được bảo hộ, AFTA sẽ làm thay đổi cơ cấu công nghiệp khu vực theo hướng chuyên
môn hóa và phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý hơn. Nhưng đây là sự thay đổi và
phân bổ mang tính động và phụ thuộc chủ yếu vào sự lựa chọn và nỗ lực chủ quan của
từng nước.
Singapore sẽ đẩy mạnh phát triển các ngành hóa chất, trang thiết bị vận tải và
linh kiện điện tử, trong khi đó sẽ bỏ ngỏ các ngành cần nhiều lao động và khoáng sản.
Malaysia thì có sự sắp xếp ngược lại. Các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động
và nguyên liệu như công nghiệp giấy, chế biến gỗ, may mặc và dệt sẽ tăng nhanh.
Trong khi đó, các ngành thiết bị vận tải, hóa chất, đồ gỗ, thực phẩm đã qua chế biến sẽ
giảm mạnh.
Cũng giống như tại các nước ASEAN, ở một mức độ nào đó, AFTA sẽ làm thay
đổi cơ cấu công nghiệp của Việt Nam. Trong đó, một số ngành sẽ phát triển, một số
ngành sẽ bị thu hẹp.
Tuy vậy, AFTA cũng tạo cho chúng ta điều kiện và thời gian để chuẩn bị và

vươn lên để có thể đứng vững và phát triển vì:
Thứ nhất, mọi thời hạn thực hiện và hoàn thành AFTA/CEPT đối với Việt Nam
được cộng thêm 3 năm;
Thứ hai, cũng như các nước ASEAN khác, Việt Nam không cần phải đưa ngay
một lúc tất cả các danh mục hàng hóa vào chương trình giảm thuế. Những mặt hàng
nào có tỷ trọng NK cao và có khối lượng giá trị tiêu thụ lớn trên thị trường nội địa có
thể sẽ đưa vào giảm thuế chậm hơn;
Thứ ba, sau khi một mặt hàng được giảm thuế, các hàng rào phi thuế quan (nếu
có đối với mặt hàng đó) sau đó 5 năm mới phải xóa bỏ;
Thứ tư, việc cắt giảm thuế NK đối với một số nguyên liệu, sản phẩm đầu vào sẽ
làm giảm chi phí sản xuất và do vậy, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh cho một
số sản phẩm công nghiệp.
Vấn đề đặt ra đối với các nhà hoạch định chính sách cũng như các nhà kinh
doanh là làm thế nào để tận dụng được những cơ hội và thời gian một cách có hiệu quả,
định hướng cơ cấu công nghiệp và mặt hàng kinh doanh như thế nào để có thể phát huy
được lợi thế so sánh của Việt Nam trong phân công lao động khu vực.
Trên cơ sở định hướng phát triển công nghiệp theo cơ chế kinh tế mở, Nhà nước
cần tạo môi trường thuận lợi và đầu tư thích đáng, đồng thời áp dụng các biện pháp bảo
hộ hợp lý trong thời gian cho phép để các ngành có tiềm năng phát triển có thể cạnh
tranh không những trên thị trường trong nước mà còn trong khu vực và trên thế giới.
Tuy nhiên, mọi sự bảo hộ của Nhà nước đều có giới hạn. Để đứng vững và phát
triển, các doanh nghiệp cần phải khẩn trương nghiên cứu nhu cầu thị trường trong nước
và khu vực, khả năng cạnh tranh của các nước ASEAN trong cùng lĩnh vực để kịp thời
điều chỉnh cơ cấu sản xuất, đổi mới trang thiết bị và công nghệ, nâng cao năng lực
quản lý khi sự bảo hộ không còn nữa, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi Việt Nam về
cơ bản sẽ hoàn thành AFTA vào năm 2005.
4. Ngân sách nhà nước
Tham gia AFTA và thực hiện chương trình cắt giảm thuế quan theo CEPT chắc
chắn sẽ tác động tới nguồn thu cho ngân sách, ít nhất là trong giai đoạn đầu khi Việt
Nam thực sự cắt giảm thuế quan, tức là từ 1/7 năm nay. Theo số liệu những năm gần

đây, NK từ các nước ASEAN chiếm khoảng 20-23% kim ngạch NK của Việt Nam,
trong khi đó, thuế NK (trừ dầu thô) đóng góp khoảng 25% tổng số thu ngân sách. Như
vậy, về mặt số học đơn thuần, khi cắt giảm thuế quan, rõ ràng nguồn thu ngân sách sẽ
bị giảm.
Về dài hạn, AFTA sẽ làm tăng hiệu quả sản xuất trong nước. Như vậy, cơ sở để
tính toán rằng, về dài hạn, phần giảm của thuế NK do thực hiện CEPT sẽ được bù lại
bằng tăng thu do kim ngạch buôn bán tăng và tăng thu từ các loại thuế khác như thuế
giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập công ty
Tuy nhiên, đây cũng chỉ là lý thuyết, thực tế còn phụ thuộc vào sự phát triển của
sản xuất trong nước, hiệu quả của hệ thống thuế và bộ máy thu thuế.
Tóm lại, tham gia ASEAN và AFTA là bước đi tất yếu đầu tiên của Việt Nam trên
con đường hội nhập với khu vực và thế giới. Sự kiện này mở ra cho Việt Nam nhiều cơ
hội mới cũng như nhiều thách thức to lớn. Cơ hội và thách thức đan xen lẫn nhau, đòi
hỏi sự nỗ lực cả tầm vĩ mô và vi mô để khai thác triệt để các cơ hội và hạn chế đến
mức thấp nhất ảnh hưởng tiêu cực do các thách thức đưa đến.
Không nên coi việc thực hiện AFTA như một quá trình hay hành động riêng biệt,
mà phải đặt nó trong lộ trình hội nhập và tự do hóa thương mại tổng thể, trong đó, mục
tiêu nhất quán được xác định bởi khuôn khổ WTO.
Quan điểm của nhiều doanh nghiệp Việt Nam hiện nay cho rằng: tham gia vào
AFTA doanh nghiệp Việt Nam cho rằng: tham gia vào AFTA doanh nghiệp Việt Nam
sẽ gặp nhiều khó khăn thách thức hơn là cơ hội. Lý giải cho quan điểm này bắt nguồn
từ thực trạng yếu kém của các Doanh nghiệp Việt Nam cũng như khả năng cạnh tranh
của các Doanh nghiệp Việt Nam trước các đối tác ASEAN, đặc biệt là ASEAN 5. Tuy
nhiên nếu xem xét nội dung AFTA đối chiếu vào hoạt động của DNVN, có thể thấy
nếu các DNVN có chiến lược, giải pháp đúng đắn sẽ tận dụng được những cơ hội thuận
lợi.
Thứ nhất: Qúa trình hội nhập sẽ ép buộc DNVN phải tự đổi mới và nâng cao
hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tích cực áp dụng các thành tựu khoa học công
nghệ và cung cách làm ăn mới. Hội nhập bắt buộc và khuyến khích các DNVN tập
trung vào những ngành được ưu đãi lớn và ngừng sản xuất những mặt hàng không có

tính cạnh tranh. Sức ép to lớn nhất đó đòi hỏi các DNVN phải đuổi kịp và vượt các
nước khác về mẫu mã, chất lượng và giá cả hàng hóa, nếu không sẽ phá sản và trao thị
trường Việt Nam cho các đối thủ khu vực và thế giới.
Thứ hai: DNVN có thể hạ giá thành sản phẩm do mua được nguyên vật liệu đầu
vào rẻ hơn. Đây là cơ hội không dễ có được với bất cứ một doanh nghiệp nào. Những
khó khăn khan hiếm nguyên liệu cho sản xuất sẽ được giải quyết. Nếu DNVN tận dụng
tốt cơ hội này họ sẽ đủ sức vươn lên cạnh tranh với các đối thủ khác.
Thứ ba: DNVN sẽ tự trải qua quá trình sàng lọc tự nhiên thông qua cạnh tranh
quốc tế. Những doanh nghiệp nhà nước (DNNN) xưa nay làm ăn thua lỗ nhưng vẫn
được trợ cấp sẽ nhanh chóng bị thay thế bởi các doanh nghiệp nước ngoài hay doanh
nghiệp trong nước có đủ khả năng. Do đó sản xuất trong nước sẽ hiệu quả hơn và thích
ứng nhanh chóng với các điều kiện thay đổi.
Thứ tư: AFTA tạo điều kiện thuận lợi mở rộng thị trường hàng hóa dịch vụ xuất
khẩu cho các DNVN hội nhập vào thương mại khi vực.
Nội dung của AFTA đã đưa ra các nguyên tắc về xóa bỏ hàng rào thuế quan và
phi thuế quan, thực hiện nguyên tắc không phân biệt đối xử trong thương mại, các
tranh chấp thương mại được giải quyết công bằng, thực hiện bình đẳng trong đàm
phán. Thông qua các nguyên tắc này, khi các DNVN tham gia AFTA các sản phẩm sẽ
được hưởng thuế suất ưu đãi hơn cả thuế suất tối huệ quốc mà các nước ASEAN sẽ
dành cho các nước thành viên WTO.
Thực tế thương mại hai chiều giữa Việt Nam và các nước ASEAN kể từ khi Việt
Nam là thành viên chính thức của ASEAN (1995) và khi Việt Nam tham gia AFTA
(1996) và khi Việt Nam tham gia AFTA (1996) cho đến nay cho thấy các sản phẩm
đóng góp của DNVN trong thương mại nội bộ khu vực tăng lên.
Thứ năm: Thông qua AFTA, các DNVN có cơ hội thuận lợi mở rộng hợp tác đầu
tư, chuyển giao công nghệ, tận dụng lợi thế vị nhân công, tài nguyên thiên nhiên nhằm
nâng cao khả năng cạnh tranh.
Khi môi trường thương mại nội bộ khu vực ngày càng tự do cũng có nghĩa là mức
độ hội nhập kinh tế giữa các nước thành viên ngày càng tăng lên. Các hình thức liên
kết khác như: Đầu tư nội bộ ASEAN (AIA), hợp tác công nghiệp (AICO), tài chính,

giao thông vận tải, năng lương đang tạo điều kiện cho các DNVN có đủu khả năng
nâng cao hiệu quả sản xuất và chất lượng sản phẩm. Mặt khác, do có đảm bảo bằng
cam kết đa phương nên các nhà đầu tư ASEAN và nước ngoài yên tâm đầu tư và
chuyển giao công nghệ tại thị trường Việt Nam cũng như các DNVN đầu tư ra nước
ngoài được đối xử bình đằng.
Thứ sáu: tham gia AFTA, các DNVN có khả năng rút ngắn khoảng cách tụt hậu,
tranh thủ và bổ sung các lợi thế sẵn có giữa các doanh nghiệp trong nội bộ khu vực.
Mặc dù có sự trùng lặp về cơ cấu ngoại thương giữa Việt Nam và ASEAN nhưng
cá nhiều lĩnh vực DNVN có thể khai thác từ thị trường ASEAN như: Việt Nam có thế
mạnh về các sản phẩm nông sản, hàng dệt, may mặc trong khi đó ta cũng có nhu cầu
khập khẩu máy móc hạng trung bình, các sản phẩm hóa chất, bán thành phẩm từ các
nước ASEAN với giá thấp hơn so với khu vực khác trên thế giới. Nếu tranh thủ được
các lợi thế này DNVN sẽ có lợi do tăng được khả năng cạnh tranh với các đối thủ bên
ngoài ASEAN về giá cả, chi phí vận chuyển. Ngoài ra trong quá trình hội nhập kinh tế,
các DNVN có thể học hỏi kinh nghiệm quản lý, tiếp thu kỹ thuật công nghệ, đặc biệt
đối với các doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ từ các nước ASEAN khác.
Thứ bảy: Vị thế của DNVN được cải thiện nhờ quá trình đa phương hóa, đa dạng
hóa các mối quan hệ khu vực và thế giới. Trên cơ sở nguyên tắc đồng thuận cũng như
sức mạnh tập thể của tổ chức ASEAN, các DNVN sẽ tạo được thị và lực trong đàm
phán thương mại song phương và đa phương với các cường quốc kinh tế cũng như các
tổ chức quốc tế như APEC, EU, WTO
Tài liệu tham khảo:
1. Giaó trình Kinh tế quốc tế, GS-TS. Hoàng Thị Chỉnh, [ 2005 ], Nhà xuất bản thống
kê.
2. Việt Nam và các tổ chức kinh tế quốc tế.

×