Tải bản đầy đủ (.docx) (138 trang)

123doc day van tich hop trong mon tieng viet o lop 4 lop 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (431.86 KB, 138 trang )

ĐỖ THỊ NGUYỆT

DẠY VĂN TÍCH HỢP TRONG
MƠN TIẾNG VIỆT Ở LỚP 4, LỚP 5

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC


ĐỖ THỊ NGUYỆT

DẠY VĂN TÍCH HỢP TRONG
MƠN TIẾNG VIỆT Ở LỚP 4, LỚP 5

Chuyên ngành: Giáo dục học (Bậc Tiểu học)
Mã số: 60 14 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đỗ Huy Quang


LỜI CẢM ƠN

Học viên xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới Ban giám hiệu Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội II; các Thầy, cô giáo khoa Sau đại học; các
Thầy, cô giáo đã giảng dạy và tập thể lớp Cao học K14 Giáo dục học đã
giúp đỡ, động viên và tạo mọi điều kiện để học viên có thể hồn thành
khóa học cũng như luận văn tốt nghiệp.
Đặc biệt, học viên xin được gửi lời biết ơn chân thành nhất tới
Giảng viên hướng dẫn khoa học PGS.TS Đỗ Huy Quang. Trong suốt thời
gian học tập tại trường, thầy đã dạy dỗ, chỉ bảo tận tình để học viên hoàn


thành Luận văn Cao học này.
Xin chân thành cảm ơn !

HỌC VIÊN

Đỗ Thị Nguyệt


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa
từng được ai cơng bố trong bất kì cơng trình nghiên cứu nào khác.
Nếu những cam kết trên là không đúng sự thật, tôi xin chịu trách
nhiệm trước pháp luật.

Hà Nội, ngày .... tháng.... năm 2012
Tác giả luận văn

Đỗ Thị Nguyệt


MỤC LỤC
1.1.1....................................................................................................
1.1.2
Biện pháp bồi dưỡng kiến thức về văn qua phân môn Tập
đọc ở lớp


DANH MỤC VIẾT TẮT


CCGD :

Cải cách Giáo dục

CTVH :

Cảm thụ văn học

THCS :

Trung học cơ sở

THPT :
SGK
:
TV
:
GD
:
GV
:
HS
:
ĐC
:
TN
:

Trung học phổ

thông
Sách giáo khoa
Tiếng Việt
Giáo dục
Giáo viên
Học sinh
Đối chứng
Thực nghiệm


MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1 Bậc tiểu học có dạy văn
Dạy học tích hợp góp phần nâng cao chất lượng giáo dục là một mục tiêu
quan trọng mà Bộ giáo dục đặt ra đối với các cấp học pho thơng. Trong chương
trình bậc THCS, THPT, ba phân mơn: Văn, TV, Tập làm văn đã được tích hợp
thành một môn Ngữ Văn. Ớ bậc tiểu học, một câu hỏi lớn đặt ra là: có dạy văn
cho HS khơng? Trong “Hỏi đáp về dạy học Tiếng Việt 2”, (Nguyễn Minh
Thuyết chủ biên), có nêu ra câu hỏi “Sách Tiếng Việt có dạy văn học khơng?”,
rồi trả lời: “Chương trình mơn TV cịn có nhiệm vụ trang bị kiến thức văn học
và nhiều kiến thức kỹ năng khác, đồng thời bồi dưỡng tư tưởng tình cảm, nhân
cách cho các em. Riêng kiến thức văn học, thông qua hệ thống bài tập đọc và
các văn bản khác, SGK giới thiệu cho học sinh các tác phẩm hoặc trích đoạn tác
phẩm văn học có nội dung và hình thức nghệ thuật phù hợp với trình độ nhận
thức của các em” [23] - tr 13,14. Như vậy là bậc tiểu học có dạy văn, nhưng dạy
những gì, dạy thế nào? Mục tiêu dạy TV tiểu học chỉ ghi ngắn gọn: “Cung cấp
cho HS những kiến thức sơ giản về tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về xã
hội, tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học của Việt Nam và của nước
ngoài”. Cần làm rõ nội dung dạy văn ở tiểu học.
1.2 Bậc tiểu học cần phải dạy văn và dạy văn tích hợp

Lớp 4 và 5 là hai lớp cuối cấp. Các em sẽ học lên bậc học trên, sẽ học
đọc hiểu văn bản, thuộc mơn Ngữ Văn, Ớ Phịng giáo dục, hàng năm đều tổ
chức các kỳ thi chọn HS giỏi, trong đó có nội dung thử thách năng khiếu văn.
HS muốn dự thi phải được rèn cách cảm thụ văn và viết văn. Chúng tôi dạy lớp
4 và 5 phải tìm đủ loại sách: TV nâng cao, bồi dưỡng cảm thụ văn, bài thi HS
giỏi để bồi dưỡng năng lực văn cho các em. HS giỏi văn thường có ý thức đọc


thêm nhiều sách, thuộc nhiều thơ, sưu tầm nhiều lời nói hay, ý nghĩa. Từ đó, các
em ham thích và học tốt các phân môn TV. Nhưng thời gian để bồi dưỡng HS
giỏi thường cấp tập trong một thời gian ngắn, để đối phó nên thày trị đều mệt
mỏi, hiệu quả không cao. Chúng tôi nghĩ, nếu xác định được nội dung văn cần
chuẩn bị cho HS, rồi bồi dưỡng cho các em trong suốt năm học, thông qua các
bài học thuộc các phân mơn, các hoạt động nội khóa, ngoại khóa, thì khả năng
văn học của các em và chất lượng dạy TV nhất định được cải thiện.
1.3 Hiểu biết về văn và cách dạy văn là nhu cầu của mỗi người GV tiểu
học
Là GV tiểu học đang trực tiếp đứng lớp, dạy cho khối 4 và 5 chúng tôi ý
thức được tầm quan trọng, sự cần thiết phải dạy văn, bồi dưỡng năng lực văn
cho HS. Các bài tập đọc, câu chuyện kể, đoạn văn đoạn thơ để dạy Tập làm văn,
Luyện từ và câu, đều là những văn bản nghệ thuật. Phải làm cho HS cảm nhận
được cái hay cái đẹp, ý nghĩa sâu xa và ham thích đọc những văn bản đó thì giờ
học mới sinh động, hấp dẫn. Từ đó, mọi mục tiêu rèn kỹ năng tiếng Việt, hình
thành tình yêu tiếng Việt, hình thành nhân cách cho HS mới đạt được theo chiều
sâu một cách tự nhiên. Nhưng dạy văn ở tiểu học rất khó khăn. Văn vốn trừu
tượng, tiếp nhận văn cần đến những khái niệm về văn mà HS tiểu học đều chưa
có. Vậy có thể dạy những gì về văn cho HS lớp 4, lớp 5, và dạy bằng cách nào.
Chúng tơi muốn tự mình khám phá, hiểu biết, bo sung cho hành trang kinh
nghiệm nghề nghiệp để đảm bảo dạy tốt, hiệu quả cao mơn TV ở tiểu học.
Đó là nguồn động lực tinh thần để tôi chọn đề tài nghiên cứu cho luận

văn: “Dạy văn tích hợp trong mơn Tiếng Việt ở lớp 4, lớp 5”
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Nghiên cứu vấn đề dạy văn cho HS tiểu học đã được một số tác giả đề
cập tới. Có thể chia các cơng trình của các tác giả nghiên cứu về vấn đề này theo


ba hướng chính sau:
-

Nghiên cứu hoạt động dạy cảm thụ văn học nói chung cho HS tiểu học
Theo hướng nghiên cứu này nhiều tác giả viết sách để hướng dẫn GV và

HS cách cảm thụ văn học, tìm cái hay cái đẹp trong các văn bản văn chương
như: Đinh Trọng Lạc, “Vẻ đẹp của ngôn ngữ văn học qua các bài tập đọc lớp 4
lớp 5” (1996) NXB GD; Trần Mạnh Hưởng “Luyện tập về cảm thụ văn học ở
Tiểu học” (2010) NXB GD; Nguyễn Trí, Nguyễn Trọng Hồn “Tìm vẻ đẹp bài
văn ở Tiểu học” (2004) NXB GD.Tạ Đức Hiển, Nguyễn Việt Nga, Phạm Đức
Minh “Cảm thụ văn tiểu học 4” (2005) NXB GD.
-

Nghiên cứu hoạt động rèn kĩ năng văn cho HS trong một phân môn Tiếng
Việt
Nhiều tác giả quan tâm đến vấn đề dạy văn ở tiểu học thông qua hoạt

động đọc hiểu trong giờ Tập đọc như: Nguyễn Thị Hạnh “Rèn luyện kỹ năng
đọc hiểu cho học sinh lớp 4 lớp 5” (1999). “Dạy đọc hiểu ở Tiểu học” (2002)
NXB ĐHQG. Hồng Hịa Bình “Dạy tập đọc theo quan điểm giao tiếp trong
sách Tiếng Việt 2” (2003). Tạp chí GD số 73. Lê Hữu Tỉnh- chủ biên (2012)
Rèn kỹ năng cảm thụ văn học qua các bài tập đọc, lớp 2,3,4,5 NXB Giáo dục
Việt Nam

-

Lý luận về bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh tiểu học.
Hướng nghiên cứu này có các cuốn sách như “Bồi dưỡng năng lực cảm
thụ văn chương cho học sinh tiểu học ” (2011) , tác giả Lê Thị Lan Anh Phạm Minh Diệu - Nguyễn Đình Mai - Hoàng Thị Mai; Bồi dưỡng học
sinh giỏi Tiếng Việt ở tiểu học (2010) của Lê Phương Nga, NXB ĐHSP
Hà Nội. Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học II (2010) của Lê
Phương Nga, NXB ĐHSP Hà Nội. Những cuốn sách này đã cung cấp
cho GV tiểu học những tri thức chuyên sâu về năng lực cảm thụ văn học
và phương pháp bồi dưỡng cảm thụ văn chương cho HS.


Trong các cơng trình nghiên cứu đã cơng bố, chúng tơi thấy hoạt động dạy
văn tích hợp trong các phân môn Tiếng Việt cho HS lớp 4, lớp 5 chưa có cơng
trình nào đi sâu tìm hiểu. Các bài báo, cuốn sách nghiên cứu những vấn đề liên
quan đến đề tài đề tài luận văn của chúng tôi sẽ là những gợi ý và định hướng
quan trọng để chúng tôi tham khảo và đi tiếp.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
3.1 Tìm ra các biện pháp dạy văn tích hợp để góp phần nâng cao chất
lượng dạy và học các phân môn TV lớp 4, lớp 5.
3.2 Nhận thức đầy đủ và thực hiện triệt để quan điểm dạy học tích hợp
Ngữ Văn của Bộ giáo dục và đào tạo.
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
4.1 Tìm hiểu cơ sở lí luận và thực tiễn của các vấn đề về văn, văn trong
các phân mơn TV, quan điểm tích hợp và dạy văn tích hợp trong các
phân môn Tiếng Việt ở Tiểu học.
4.2 Đề xuất những biện pháp để dạy văn tích hợp ở lớp 4, lớp 5 phù hợp
với HS tiểu học và đạt kết quả cao.
4.3 Tiến hành thực nghiệm sư phạm.
5. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

5.1. Đối tượng nghiên cứu
Chương trình, SGK và hoạt động dạy học tích hợp văn trong các phân
môn TV.
5.2 Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu về việc dạy văn tích hợp trong một số phân môn
TV ở khối lớp 4, lớp 5.
- Phạm vi thực nghiệm: HS lớp 4, lớp 5 trường Tiểu học Hồng Hoa
Thám - Quận Ba Đình - Hà Nội và trường Uy Nỗ - Đông Anh - Hà Nội.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


6.1 Phương pháp nghiên cứu lý thuyết, tong hợp các vấn đề lý luận về
văn, cảm thụ văn, văn ở tiểu học, phương pháp bồi dưỡng năng lực
văn cho HS tiểu học.
6.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn, điểu tra, kháo sát, thống kê, phân
tích, nhận xét, đánh giá từ chương trình, SGK, hoạt động dạy học, sản
phẩm bài làm của HS thuộc môn TV.
6.3 Phương pháp thực nghiệm, gồm thực nghiệm từng phần, thông qua
các bài tập, và thực nghiệm tổng thể, thông qua một số giờ dạy.
7. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu xác định được cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn của vấn đề về văn ở
tiểu học, mối quan hệ văn và tiếng Việt để từ đó đề xuất các biện pháp dạy văn
tích hợp trong các phân mơn TV thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả
dạy học môn TV, bồi dưỡng được tâm hồn tình cảm cho HS, giúp HS thêm yêu
quý, tự hào về sự trong sáng và giàu đẹp của TV.


NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ DẠY
VĂN TÍCH HỢP TRONG CÁC PHÂN MƠN CỦA TIẾNG VIỆT

Ở LỚP 4, LỚP 5
1.1 Cơ sở lí luận
1.1.1

Cơ sở văn học
Tầm quan trọng của hoạt động dạy văn trong trường tiểu học

Văn học là một loại hình nghệ thuật, là một bộ phận hoạt động tinh thần cơ
bản làm nên sự phong phú của nhân cách, đặc biệt làm nảy sinh tư tưởng, tình cảm,
trí tưởng tượng, niềm tin và hành động nhân đạo cho con người trong môi trường
xã hội và tự nhiên. Văn học là nghệ thuật ngơn từ, phản ánh cuộc sống bằng hình
tượng, là nguồn suối quan trọng của tri thức, kinh nghiệm sống của nhân loại mà
con người cần tiếp thu và phát triển.
Văn học có chức năng xã hội, tham mỹ to lớn, cho nên tác phẩm văn học
được đưa vào chương trình giáo dục trẻ em từ trước tuổi đến trường pho thông và
trong suốt những năm học phổ thông.
* Văn bản và tác phẩm
- Văn bản:
Văn bản là sản phẩm hoàn chỉnh của một hành vi tạo lời hay phát ngôn,
mang một nội dung giao tiếp xác định, thể hiện dưới dạng âm thanh hay chữ viết.
Văn bản có tính hồn chỉnh, được triển khai một cách đầy đủ, chính xác, mạch lạc.
Các phần, các đoạn, các câu được tổ chức, sắp xếp theo một trật tự hợp lí để thể
hiện nội dung của văn bản. Văn bản có tính mạch lạc về nội dung và liên kết chặt
chẽ về hình thức.
Văn bản gồm có văn bản nghệ thuật, văn bản khoa học, văn bản hành chính,
văn bản cơng vụ,.... Văn bản nghệ thuật thể hiện rõ quan điểm, ý tưởng, cảm xúc
của người viết. Các văn bản còn lại địi hỏi tính chính xác và khách quan cao.
Trong văn bản nghệ thuật, nếu xét về mặt ngữ nghĩa sẽ bao gồm nghĩa tường minh
và nghĩa hàm ẩn. Nghĩa tường minh là nghĩa được biểu hiện trên bề mặt của các từ



ngữ, câu, đoạn trên văn bản. Nghĩa hàm an là nghĩa được suy ra từ nghĩa tường
minh và từ hoàn cảnh giao tiếp cụ thể của văn bản. Nghĩa tường minh lại bao gồm
nghĩa sự vật sự việc, còn gọi là nghĩa miêu tả, và nghĩa tình thái. Nghĩa tình thái là
nghĩa thể hiện tình cảm, cảm xúc, thái độ của người viết (nói) với sự vật sự việc và
với người đọc, người nghe.
Trong phân môn Tập đọc ở tiểu học, văn bản các bài đọc chủ yếu là văn bản
nghệ thuật, là những câu chuyện, bài thơ và là phần để HS luyện đọc. Giờ Tập đọc,
HS được rèn luyện các năng lực đọc trơn, đọc nhanh, đọc lướt; đọc to, đọc nhỏ,
đọc thầm; đọc đúng, đọc hiểu, đọc diễn cảm; đọc đúng tiếng, từ, câu, đoạn, trên
văn bản. Đọc văn bản để HS từng bước nhận ra và hiểu nghĩa tường minh và một
phần nghĩa hàm an của văn bản. Cịn nói theo sách Ngữ Văn THCS, THPT thì đọc
văn bản để làm hiện ra và cảm hiểu tác phẩm trong văn bản.
- Tác phẩm:
Tác phẩm là linh hồn chứa trong văn bản. Thông qua thao tác tinh thần là
hình dung, tưởng tượng kết hợp với những hiểu biết vốn có khi đọc văn bản mà tác
phẩm hiện lên trong đầu mỗi người đọc. Phân tách tác phẩm ra khỏi văn bản là
quan điểm của Lý thuyết tiếp nhận. Đi theo lý thuyết này, môn văn ở THCS và
THPT khơng gọi là giảng văn hay phân tích tác phẩm nữa mà là đọc hiểu. Đọc văn
bản để hiểu tác phẩm. Lý thuyết tiếp nhận đề cao vai trò bạn đọc trong quá trình
tiếp nhận.
“Văn bản là duy nhất, tác phẩm là vô vàn” , trong tiếp nhận văn học, người đọc
có thể tán thành, đồng cảm với tác phẩm, tác giả hoặc chối bỏ một số vấn đề trong
tác phẩm, người ta gọi đó là khoảng cách thẩm mĩ. Điều này phụ thuộc vào sự từng
trải của mỗi cá nhân, điều kiện xã hội, nhu cầu, hứng thú, trình độ của người đọc.
Kayser, nhà lí luận văn học theo chủ nghĩa cấu trúc viết: "Tác phẩm văn học
sống và phát sinh không phải là hào quang của một cái gì khác mà là một cấu trúc
ngơn ngữ khép kín”
Trong chương trình, SGK TV ở tiểu học khơng có yêu cầu phải phân biệt



văn bản và tác phẩm, nhưng là GV thì phải nhận thức rõ điều này.
1.1.1.2

Thành phần văn trong các phân mơn Tiếng Việt

Để có cơ sở xác định thành phần văn, chúng tơi bắt đầu từ việc phân tích
mục tiêu mơn TV
* Mục tiêu, nhiệm vụ chương trình Tiếng Việt ở Tiểu học
Chương trình tiểu học mới (ban hành theo Quyết định ngày 9/11/2001 của
Bộ Giáo dục và Đào tạo) xác định mục tiêu, nhiệm vụ như sau:
“Môn Tiếng Việt ở trường tiểu học nhằm:
1. Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe,
nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của
lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao
tác tư duy.
2. Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về tiếng Việt và những hiểu
biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, văn hóa, văn học của Việt
Nam và nước ngồi.
3. Bồi dưỡng tình u tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng,
giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam
xã hội chủ nghĩa”.
Dựa theo các cuốn sách viết về bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn chương cho
HS Tiểu học, có thể xác định kiến thức và kỹ năng văn ở Tiểu học gồm 3 nội dung
như sau:
- Bồi dưỡng vốn sống cho học sinh bằng cách cung cấp nhiều câu chuyện,
bài thơ, đoạn văn, trong đó chứa đựng những tri thức phong phú và đa diện về
cuộc sống, con người để học sinh tích lũy tri thức và kinh nghiệm cuộc sống.
-


Bồi dưỡng vốn tri thức Ngữ Văn cho học sinh Tiểu học, bao gồm tri thức về
thể loại văn học, về thành phần của nội dung, nghệ thuật tác phẩm văn học,
về đặc điểm của ngôn ngữ nghệ thuật, về cách đọc hiểu các tầng nghĩa
trong văn bản nghệ thuật.


-

Rèn kỹ năng tư duy và trau dồi vốn ngôn ngữ cho học sinh, bao gồm:
+ Kỹ năng đọc hiểu, gồm nhiều thao tác của tư duy lôgic như phân tích,

tổng hợp, so sánh, đánh giá, suy luận của tư duy hình tượng như: quan sát, lựa
chọn, liên tưởng, tưởng tượng, thể nghiệm. Đọc hiểu cũng bao gồm nhiều yếu tố:
cảm xúc, thái độ, sự rung cảm thẩm mỹ.
+ Kỹ năng diễn đạt và biểu đạt, thể hiện nhận thức, suy nghĩ, tình cảm, thái
độ một cách mạch lạc, tạo lập được những văn bản có hình ảnh, cảm xúc, sinh
động, giàu chất văn, chất thẩm mỹ.
+ Góp phần rèn luyện những phẩm chất như: tính cẩn thận, lịng u thích
cái đẹp, tinh thần trách nhiệm, ý thức tự trọng và thái độ tôn trọng người khác (thể
hiện qua chữ viết).
* Thành phần văn trong phân mônTập đọc:
Tập đọc là phân mơn quan trọng nhất trong hoạt động dạy tích hợp kiến
thức văn cho HS. Những văn bản mà SGK lựa chọn sử dụng trong chương trình rất
phong phú nhưng hầu hết là các văn bản nghệ thuật, gồm nhiều thể loại (văn học
Việt Nam, văn học nước ngoài, truyện co tích, truyền thuyết, truyện ngụ ngơn, thơ,
ca dao tục ngữ,...)
Ví dụ:
-

Bài Dế Mèn bênh vực kẻ yếu (TV 4 - Tập 1 - Trang 4, 15)

Đây là một đoạn trích trong tác phẩm nổi tiếng Dế Mèn phiêu lưu kí của nhà

văn Tơ Hồi. Tác phẩm kể về những cuộc phiêu lưu của chú Dế Mèn.
Nhà văn tơ Hồi viết truyện từ năm 1941 được in lại nhiều lần và đã được đông
đảo bạn đọc thiếu nhi trong nước và quốc tế yêu thích.
- Bài Ca dao về lao động sản xuất (TV 5 - Tập 1 - Trang 168)
Đây là tong hợp một số câu ca dao về lao động trên đồng ruộng, một nghề
nặng nhọc. Người nông dân đã phải vô cùng vất vả để làm ra hạt gạo cho mọi
người.
Trong phân môn Tập đọc, định hướng khai thác thành phần văn còn thể hiện


ở hệ thống câu hỏi tìm hiểu bài. HS được diễn đạt, bộc lộ suy nghĩ và cảm xúc của
mình khi trả lời các câu hỏi và bài tập. Hệ thống câu hỏi cuối mỗi bài giúp HS nắm
được nội dung của bài học, phát hiện các từ quan trọng, những từ mới cần giải
nghĩa, phát hiện các hình ảnh, chi tiết có giá trị tiêu biểu, hiểu được nội dung, ý
nghĩa, lời khuyên của bài. Sự thông hiểu nội dung sẽ chi phối trở lại tạo ra một
cách đọc có chất lượng hơn. Có những bài là trích đoạn của các tác phẩm lớn
nhưng hệ thống câu hỏi khai thác bài phù hợp với trình độ nhận thức của từng khối
lớp. Từ đó, HS hiểu được chất văn chứa đựng trong mỗi tác phẩm. Hệ thống câu
hỏi tìm hiểu bài mà SGK biên soạn bao gồm những câu hỏi tái hiện (yêu cầu thuật
lại câu chữ, hình ảnh, chi tiết,... trong bài học) và câu hỏi suy luận (yêu cầu phán
đốn, phân tích, tổng hợp, nêu ý kiến riêng,.).
Ví dụ:
- Bài “Mẹ ốm” (TV4 - tập 1)
1. Em hiểu những câu thơ sau muốn nói lên điều gì?
Lá trầu khô giữa cơi trầu
Truyện Kiều gấp lại trên đầu bấy nay
Cánh màn khép lỏng cả ngày
Ruộng vườn vắng mẹ cuốc cày sớm trưa

2. Sự quan tâm chăm sóc của xóm làng đối với mẹ của bạn nhỏ được thể hiện
qua những câu thơ nào?
3. Những chi tiết nào trong bài thơ bộc lộ tình yêu thương sâu sắc của bạn nhỏ
đối với mẹ?
* Ngoài ra, định hướng rèn luyện năng lực văn trong phân mơn Tập đọc cịn
thể hiện rõ nét ở phần “Luyện đọc diễn cảm”. Đọc diễn cảm là một yêu cầu
đặt ra khi đọc những văn bản văn chương hoặc có các yếu tố của ngơn ngữ
nghệ thuật. Đó là việc đọc thể hiện ở kĩ năng làm chủ ngữ điệu, chỗ ngừng
giọng, cường độ giong v.v... để biểu đạt đúng ý nghĩ và tình cảm mà tác giả
gửi gắm trong bài đọc, đồng thời biểu hiện được sự thông hiểu, cảm thụ của


người đọc đối với tác phẩm.
* Thành phần văn trong phân môn Kể chuyện
Kể chuyện cũng là phân môn chiếm nhiều thời lượng trong chương trình TV,
đó là vì vị trí và tầm quan trọng của nó trong việc hình thành nhân cách cho HS.
Cũng giống như phân môn Tập đọc, chất văn trong phân môn Kể chuyện
cũng thể hiện ở ngữ liệu bài học là những câu chuyện hấp dẫn, cảm động, giàu ý
nghĩa. Phần lớn những câu chuyện được đưa vào chương trình là những tác phẩm
văn học, là hệ thống các tác phẩm truyện kể trong nước và quốc tế phù hợp với lứa
tuổi. Cũng có một số truyện kể không thuộc loại sáng tác văn học nhưng cũng có
tính văn chương (tính nghệ thuật). Những câu chuyện này tác động mạnh đến tâm
hồn HS, giúp các em rút ra được những bài học nhận thức thấm thía. HS sẽ được
bồi dưỡng về nhận thức, tình cảm, được làm giàu vốn từ và phát triển tư duy, đặc
biệt là tư duy hình tượng.
Ngồi việc được nghe chuyện, kể chuyện, HS cịn được tìm hiểu ý nghĩa của
truyện. Phần lớn các câu hỏi nhằm tìm hiểu nội dung, ý nghĩa nhân văn, ý nghĩa
GD, nhưng cũng có một số câu hỏi nhằm tìm hiểu giá trị nghệ thuật, phát hiện các
yếu tố thẩm mĩ trong truyện kể.
Ví dụ:

- Bài Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai (TV5 - Tập 1 - Trang 40)
Câu 2: Trao đổi với các bạn trong lớp về ý nghĩa của câu chuyện.
Văn trong phân mơn Kể chuyện cịn thể hiện ở việc rèn kĩ năng nói biểu
cảm cho học sinh trước đơng người. Để truyền tải được cảm xúc đến người nghe,
người kể chuyện ngồi việc rèn lời nói gãy gọn mạch lạc cịn phải biết nhập vai
nhân vật và diễn xuất có hồn. Qua các tiết Kể chuyện, HS sẽ dần hoàn thiện và có
kĩ năng giao tiếp sao cho người nghe cảm thấy hứng thú, ý thức được cái hay, cái
đẹp trong ngôn ngữ.
* Thành phần văn trong phân môn Luyện từ và câu
Theo quan điểm giao tiếp, các kiến thức và kĩ năng về từ và câu cần cung


cấp, hình thành cho HS phải theo hướng thực hành. HS thực hành rèn luyện kĩ
năng trên cơ sở ngữ liệu được rút ra từ thực tiễn giao tiếp sinh động. Các ngữ liệu
trích đoạn từ văn bản nghệ thuật được đặt ở vị trí ưu tiên số một.
Thơng qua ngữ liệu từ thực tiễn giao tiếp phong phú, đa dạng, HS được mở
rộng vốn hiểu biết về đời sống. Các em được tiếp xúc với các mảng hiện thực khác
nhau và hiểu rõ hơn về nhà trường, bạn bè, thầy cô, biết thêm về cây cối, vật nuôi
trong nhà, về thế giới tự nhiên bao la xung quanh,... Ngữ liệu cung cấp cho HS vẻ
đẹp tiếng Việt có trong hàng trăm tình huống giao tiếp tự nhiên khác nhau, từ đó
giúp các em học cách dùng tiếng Việt sao cho chính xác, tinh tế, biểu cảm
Ngữ liệu được lấy từ những mảng giao tiếp tươi nguyên sự sống sẽ giúp GV
và HS dễ dàng vượt qua những nội dung môn học từ ngữ, ngữ pháp mà xưa nay
vẫn bị định kiến là: khơ, khó. Ngữ liệu với nội dung gần gũi quen thuộc và được
diễn đạt trong sáng, nghệ thuật ngồi mục đích làm vật liệu mẫu để mở rộng vốn
từ, nhận biết các kiểu câu,. còn phải đáp ứng yêu cầu là ngữ liệu về lời nói chuẩn
mực, lời nói văn hóa để các em học tập.
Ví dụ:
Bài Luyện tập viết tên người, tên địa lý Việt Nam (TV4 - tập 1)
Câu 1: Viết lại cho đúng các tên riêng trong bài ca dao sau:

Rủ nhau chơi khắp Long Thành
Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai:
Hàng bồ, hàng bạc, hàng gai
Hàng Buồm, Hàng Thiếc, Hàng hài, Hàng Khay
Mã vĩ, Hàng Điếu, hàng giày
Hàng Lờ, hàng cót, hàng mây, hàng Đàn
GV cũng có thể khai thác chất văn từ những bài học Luyện từ và câu về biện
pháp tu từ so sánh, nhân hóa; các kiến thức về tiếng Việt. Bởi vì khi dạy HS nắm
vững các biện pháp này, GV một mặt giúp HS hiểu cái hay cái đẹp của ngôn từ


tiếng Việt, mặt khác giúp các em có kĩ năng viết các câu văn giàu hình ảnh.
Ví dụ:
Bài Đại từ xưng hô (TV5 - Tập 1 - Trang 104)
Phần Luyện tập
Bài 1: Tìm các đại từ xưng hơ và nhận xét về thái độ, tình cảm của nhân vật
khi dùng mỗi đại từ trong đoạn văn sau:
Trời mùa thu mát mẻ. Trên bờ sông, một con rùa đang cố sức tập chạy. Một
con thỏ thấy thế liền mỉa mai:
-

Đã gọi là chậm như rùa mà cũng đòi tập chạy à?
Rùa đáp:

-

Anh đừng giễu tôi! Tôi với anh thử chạy thi coi ai hơn!
Thỏ ngạc nhiên:

-


Rùa mà dám chạy thi với thỏ sao? Ta chấp chú em một nửa đường đó.
Theo La Phơng - Ten
Cũng có thể khai thác thành phần văn trong các bài học mở rộng vốn từ. HS

chỉ có thể phát triển vốn từ trên cơ sở có vốn sống phong phú, có năng lực gọi tên
chính xác các sự vật, hoạt động, tính chất, trạng thái,... một cách hệ thống. Muốn
HS có năng lực đó GV phải có biện pháp dạy HS kĩ năng quan sát, liên tưởng,
tưởng tượng đúng hướng.
* Thành phần văn trong phânTập làm văn
Tập làm văn là một phân mơn có ý nghĩa thực hành - tong hợp. Ớ đây, tất cả
các kiến thức, kinh nghiệm, vốn sống và kĩ năng của HS đều được huy động để giải
quyết một tình huống sáng tạo cụ thể. Khác với trước đây, Tập làm văn hiện nay
không chỉ coi trọng phương diện ngôn ngữ viết, cũng không chỉ rèn luyện một số
thao tác diễn đạt., mà mở rộng kĩ năng diễn đạt bằng ngôn ngữ nói, tăng cường
quan sát, tưởng tượng, liên tưởng, so sánh và thể nghiệm,.
Việc hướng dẫn HS tạo ra các sản phẩm giao tiếp phải triệt để tuân theo
nguyên tắc giao tiếp. Theo nguyên tắc này vai người nói (tả, kể) trong từng ngôn


bản phải được thể hiện rõ và phù hợp với hồn cảnh giao tiếp. u cầu cá thể hóa
từng đề văn để mỗi sản phẩm văn bản sáng tạo của từng em in rõ cảm xúc cá nhân
là hướng đến mục đích đó.
Trong phân mơn Tập làm văn, một số kiểu văn bản (như miêu tả, kể chuyện)
có liên quan mật thiết đến việc dạy các yếu tố văn cho HS. Các bài văn, đoạn văn
mẫu được chọn lựa cũng phải là những văn bản nghệ thuật.
Ví dụ:
Bài Luyện tập tả cảnh (TV5 - Tập 1 - Trang 31)
Câu 1: Đọc bài văn sau và trả lời câu hỏi:
Mưa rào

Một buổi có những đám mây lạ bay về. Những đám mây lớn, nặng và đặc xịt
lổm ngổm đầy trời. Mây tản ra từng nắm nhỏ rồi san đều trên một nền đen xám xịt.
Gió nam thổi giật mãi. Gió bỗng đổi mát lạnh, nhuốm hơi nước. từ phía nam bỗng
nổi lên một hồi khua động dạt dào. Mưa đã xuống bên kia sơng: gió càng thêm
mạnh, mặc sức điên đảo trên cành cây.
Mưa đến rồi, lẹt đẹt... lẹt đẹt... mưa giáo đầu. Những giọt nước lăn xuống
mái phên nứa: mưa thực rồi. Mưa ù xuống khiến cho mọi người không tưởng được
là mưa lại kéo đến chóng thế. Lúc nãy là mấy giọt lách tách, bây giờ bao nhiêu
nước tuôn rào rào. Nước xiên xuống, lao xuống, lao vào trong bụi cây. Lá đào, lá
na, lá sói vẫy tai run rẩy. Con gà sống ướt lướt thướt ngật ngưỡng tìm chỗ trú.
Mưa xuống sầm sập, giọt ngã, giọt bay, bụi nước tỏa trắng xóa.
(Theo Tơ Hồi)
Tập đọc và Kể chuyện cung cấp sẵn một ngữ liệu văn chương, còn các kiểu
bài Tập làm văn này lại yêu cầu HS phải sáng tạo nên các ngữ liệu ấy. Những kết
quả sáng tạo của các em chưa hẳn đã có được chất văn, nhưng từ góc nhìn của
người dạy học thì đây chính là con đường đi đến với thế giới văn chương của các
em. Bồi dưỡng năng lực văn là một trong những nội dung quan trọng trong dạy học
phân môn Tập làm văn.


* Thành phần văn trong phân mơn Chính tả
Nếu hiểu văn là cái đẹp thì việc dạy HS suy nghĩ hướng tới cái đẹp, biết nói
lời đẹp, tạo ra những văn bản đẹp là GV đã dạy văn cho HS. Phân môn Tập đọc,
Kể chuyện, Luyện từ và câu, Tập làm văn đã dạy cho HS có vốn sống phong phú,
từ ngữ đa dạng và biết diễn đạt cảm xúc, nhận thức của mình sao cho đúng và hay
thì phân mơn Chính tả có nhiệm vụ rèn luyện cho các em cách trình bày các nội
dung đó bằng nét chữ đẹp, văn bản đẹp.
Từ yêu cầu viết đúng, viết đẹp các bài chính tả trong chương trình; viết đúng
cỡ chữ, trình bày bài hợp lí trong một bài chính tả góp phần hỗ trợ cho các mơn
học khác và đặc biệt là phân môn Tập làm văn. Qua hai phân mơn này, HS sẽ biết

cách trình bày một đoạn văn, bài văn,... đạt được yêu cầu về mặt tham mĩ cho bài
viết.
1.1.1.3 Bồi dưỡng kỹ năng CTVH và năng lực văn cho HS Tiểu học
-

CTVH là khả năng nhận thức và rung cảm trước cái hay cái đẹp trong nội
dung, nghệ thuật của tác phẩm văn chương. Rèn kỹ nắng CTVH cho HS tiểu
học thường được coi là nhiệm vụ của phân mơn Tập đọc. Lê Hữu Tỉnh cùng
một nhóm tác giả đã dựa vào từng bài tập đọc ở lớp 2, lớp 3, lớp 4, lớp 5,
viết cuốn “Rèn kỹ năng cảm thụ văn học qua các bài tập đọc ” để giúp các
thày cô giáo tiểu học khai thác cái hay cái đẹp, chất văn trong các văn bản
đọc.
- Bồi dưỡng năng lực văn cho HS tiểu học khơng phải chỉ có CTVH mà cịn

phải thơng qua tất cả các phân môn TV để dạy cho các em biết lĩnh hội văn bản
(cảm thụ) và tạo lập văn bản. Bên cạnh đó, muốn cho HS phát triển năng lực văn,
GV còn phải hướng dẫn để HS nhận thấy được cái hay, cái đẹp trong cuộc sống
-

Dạy văn tích hợp trong các phân mơn TV chính là thơng qua q trình dạy
học các phân mơn để bồi dưỡng vốn sống, vốn hiểu biết cho HS, cung cấp
dần cho HS những kiến thức về văn, bồi dưỡng kĩ năng cảm thụ và tư duy
cho HS.


+ Tại sao phải bồi dưỡng vốn sống, vốn hiểu biết :
Vốn sống là một khái niệm rộng, bao gồm toàn bộ tri thức, kinh nghiệm về
cuộc sống của mỗi cá nhân. Đó là tất cả những hiểu biết và cách ứng xử của mỗi
người trong những mối quan hệ với thiên nhiên và xã hội.
Trong lý thuyết tiếp nhận văn chương, ta đã biết rằng, để tiếp nhận một cách

tốt nhất thì người đọc phải có một tầm đón nhất định, và ta cũng cần quan tâm đến
khoảng cách giữa bạn đọc và tác phẩm, bạn đọc và nhà văn. Tầm đón của bạn đọc
ở mức độ nào thì tiếp nhận văn chương ở mức độ đó. Vì thế trường học phải có kế
hoạch nâng cao tầm đón cho HS. Khoảng cách về thời điểm sống, văn hóa, phong
tục, biểu tượng của người đọc so với nhà văn, với tác phẩm khơng giống nhau.
Chính vì thế người dạy cần hướng dẫn cho HS biết lấp đầy dần khoảng cách bằng
việc cung cấp vốn sống, vốn hiểu biết cho HS.
+ Bồi dưỡng kiến thức về văn :
Kiến thức về văn là những hiểu biết về tác phẩm văn học và ngơn ngữ nghệ
thuật. Những kiến thức đó trước hết là sự hiểu biết về nội dung, nghệ thuật, giá trị
của tác phẩm văn học.
Cung cấp dần cho HS những kiến thức về văn như tác phẩm, văn bản, văn
bản nghệ thuật, nhà văn, hình ảnh, cốt truyện, nhân vật, chi tiết nghệ thuật, biện
pháp tu từ,... Đây chính là cơng cụ để HS khám phá văn bản.
Chương trình và SGK TV tiểu học đã lựa chọn, giới thiệu những đoạn văn,
câu thơ và những tác phẩm có giá trị thuộc nhiều quốc gia trên thế giới. Có khi
chúng được chế tác lại sao cho phù hợp với lứa tuổi tiểu học. Đó là ngữ liệu của
các bài Tập đọc, Kể chuyện và Tập làm văn... Nói chung, với các câu thơ, đoạn
văn, bài thơ hay truyện kể... đều có yêu cầu đọc - hiểu, có câu hỏi tìm hiểu nội
dung và nghệ thuật, nhằm giúp các em có được những hiểu biết cụ thể về giá trị
mỗi tác phẩm.
Tong số những hiểu biết cụ thể đó cho phép các em sau này sẽ tiến xa hơn
trong việc khám phá ý nghĩa xã hội - nhân văn, lịch sử văn học, phong cách nhà


văn... trong từng tác phẩm cụ thể, cũng như trong các giai đoạn, các thời đại...
Q trình đó cũng giúp HS tích lũy được vốn từ, ngày càng phong phú, có
được khả năng diễn đạt một cách chính xác, mạch lạc, linh hoạt và tinh tế.
+ Bồi dưỡng kĩ năng cảm thụ và tư duy cho HS
Kỹ năng cảm thụ ở tiểu học được thể hiện trước hết là kĩ năng đọc - hiểu văn

bản và đọc diễn cảm văn bản. Đó là mức sơ giản và chung nhất của nhận thức cảm
tính và lí tính. Nó cũng bao gồm nhiều yếu tố cảm xúc, thái độ, sự rung cảm thẩm
mĩ. Kĩ năng đọc - hiểu bao gồm nhiều thao tác của đọc, của tư duy lơ gích, đánh
giá và suy luận... ; của tư duy hình tượng, như quan sát, lựa chọn, so sánh - liên
tưởng, tưởng tượng, thể nghiệm,v.v...
Kĩ năng diễn đạt và biểu đạt là những kĩ năng để HS biết thể hiện suy nghĩ,
kết quả cảm thụ của mình một cách mạch lạc, cũng như biểu thị được tình cảm,
cảm xúc một cách sinh động và có hồn.
1.1.2 Cơ sở ngơn ngữ
1.1.2.1 Quan điểm tích hợp thể hiện trong chương trình, nội dung và
phương pháp dạy học mơn TV ở Tiểu học
Tích hợp nghĩa là tong hợp trong một đơn vị học, thậm chí một tiết học hay
một bài tập nhiều mảng kiến thức và kĩ năng liên quan với nhau nhằm tăng cường
hiệu quả GD và tiết kiệm thời gian học tập cho người học. Có thể thực hiện tích
hợp theo chiều ngang và tích hợp theo chiều dọc.
a. Tích hợp theo chiều ngang là tích hợp kiến thức tiếng Việt với các mảng
kiến thức về văn học, thiên nhiên, con người và xã hội theo nguyên tắc đồng
quy. Đây chính là giải pháp để thực hiện mục tiêu “cung cấp cho HS những
kiến thức sơ giản về tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự
nhiên và con người, về văn hóa, văn học của Việt Nam và của nước ngồi.”
Theo quan điểm tích hợp, các phân mơn (Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Tập
viết, Luyện từ và câu, Tập làm văn) trước đây ít gắn bó với nhau, nay được
tập hợp lại xung quanh trục chủ điểm và các bài đọc. Các nhiệm vụ cung


cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng cũng gắn bó chặt chẽ với nhau hơn trước.
b. Tích hợp theo chiều dọc nghĩa là tích hợp ở một đơn vị kiến thức và kĩ năng
mới những kiến thức và kĩ năng đã học trước đó theo nguyên tắc đồng tâm.
Cụ thể là: kiến thức và kĩ năng của lớp trên, bậc học trên bao hàm kiến thức
và kĩ năng của lớp dưới, cấp học dưới, nhưng cao hơn và sâu hơn. Đây là

giải pháp củng cố và dần dần nâng cao kiến thức và kĩ năng của HS, để các
kiến thức và kĩ năng ấy thực sự là của mỗi người học, góp phần hình thành ở
các em những phẩm chất mới của nhân cách.
Thể hiện quan điểm tích hợp trong chương trình và SGK TV ở tiểu học, cịn
một nội dung quan trọng nữa mà ít được nói đến, đó là tích hợp văn trong TV.
Trong cuốn Bồi dưỡng học sinh giỏi tiếng Việt ở tiểu học, GS Lê Phương Nga nhấn
mạnh: “Chương trình tiểu học khơng có mơn văn nhưng vẫn hướng đến hình thành
năng lực văn. Mục đích này được thực hiện tích hợp qua dạy tiếng mẹ đẻ (tiếng
Việt) Từ đó, tiêu chí xác định những HS có năng khiếu tiếng Việt, GS cho rằng, đó
là “các em có lịng say mê văn học, có hứng thú với nghệ thuật ngơn từ, các em
u thích thơ ca, ham mê đọc sách báo, thích nghe kể chuyện...các em thích thú
quan sát, quan tâm đến mọi người và mọi vật xung quanh, không hờ hững trước vẻ
đẹp của ngơn từ văn chương, thích đọc, ghi nhớ và ghi chép những câu văn, thơ
hay. Ớ tiểu học, nói giỏi mơn Tiếng Việt cũng có nghĩa là có năng lực tiếng Việt và
văn học’”. Trong cuốn « Bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn chương cho HS tiểu học
», các tác giả của sách cũng khẳng định « Ngay từ bậc tiểu học, năng lực CTVH
của HS đã hình thành và phát triển. Nếu không chủ động bồi dưỡng năng lực này
thì tình cảm thẩm mỹ, tâm hồn, nhân cách của HS sẽ phát triển không đúng như
mục tiêu GD đã đề ra. Sẽ là quá muộn nếu không bồi dưỡng năng lực CTVC cho
HS ngay từ bậc tiểu học ».
1.1.2.2 Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ và quan điểm giao tiếp trong
dạy học TV
* Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ


Theo Từ điển Thuật ngữ ngôn ngữ học, giao tiếp là “sự thông báo hay
truyền đạt thông báo nhờ một hệ thống mã nào đó ”. Theo đó, có thể hiểu giao tiếp
là hoạt động giữa hai người hay hơn hai người nhằm bày tỏ với nhau một thơng tin
trí tuệ hoặc thông tin cảm xúc, một ý muốn hành động hay một phán xét về sự vật,
hiện tượng nào đó.

Hoạt động giao tiếp có thể được thực hiện bằng nhiều cách thức, qua những
phương tiện khác nhau, như ánh sáng, màu sắc, âm thanh, cử chỉ, điệu bộ,... Nhưng
giao tiếp bằng ngơn ngữ là hình thức giao tiếp cơ bản và quan trọng nhất của xã hội
loài người.
Hoạt động giao tiếp bằng ngơn ngữ có thể thực hiện dưới hai dạng: giao tiếp
dạng nói và giao tiếp dạng viết.
Ớ giao tiếp dạng nói (nhất là hội thoại), hoạt động nói năng của con người
thường bao gồm ba giai đoạn:
-

Giai đoạn tâm lí: Khi ở người nảy sinh một ý tưởng, một nội dung, ý tưởng
đó được mã hóa dưới dạng tín hiệu ngơn ngữ.

-

Giai đoạn sinh lí: Các cơ quan phát âm hoạt động để cấu tạo các tín hiệu âm
thanh và phát ra các tín hiệu đó.

-

Giai đoạn vật lí: Các âm thanh truyền thành sóng âm qua mơi trường khơng
khí, các âm thanh này có những đặc trưng vật lí về độ cao, độ dài, độ
mạnh,... Chúng truyền đến cơ quan thính giác (tai) của người nghe.
Ớ người nghe, sau đó cũng lần lượt diễn ra các giai đoạn trên, nhưng theo

trật tự có phần khác để tiếp nhận thông tin, xử lý thông tin và phản hồi.
Trong giao tiếp dạng ngơn ngữ viết thì một hoạt động giao tiếp vẫn bao gồm
hai quá trình: tạo lập văn bản để phát tin (do người viết thực hiện) và lĩnh hội văn
bản để nhận tin (do người đọc thực hiện). Tuy nhiên ở dạng viết, hoạt động giao
tiếp ngơn gữ có thể có những ưu thế hơn dạng nói: có thể diễn ra trong khoảng

khơng gian xa xơi, cách biệt (viết thư, viết báo, truyện,.. cho người khác đọc ở
những nơi xa xôi), hoặc khoảng thời gian khác biệt (người xưa vẫn giao tiếp với


×