Tải bản đầy đủ (.docx) (50 trang)

Nghiên cứu đặc điểm tái sinh tự nhiên rừng phục hồi trạng thái IC tại huyện đại từ, tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.37 KB, 50 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT
Ký hiệu Giải thích
IUCN
: International Union for Conservation of Nature
Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế
UNDP
: United Nations Development Programme
Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc
WWF : World Wide Fund For Nature
Quỹ Quốc tế bảo vệ thiên nhiên
Hvn : Chiều cao vút ngọn
D
1,3
: Đường kính thân cây tại vị trí 1,3 m
H
VN
: Chiều cao vút ngọn trung bình
OTC : Ô tiêu chuẩn
ODB : Ô dạng bản
Đ,T,N,B : Đông, Tây, Nam, Bắc
IVI : Chỉ số tổ thành sinh thái tầng cây gỗ( Importance
Value Index)
CTV : Cây triển vọng
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng Nội dung bảng Trang
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình Nội dung hình Trang
5
Phần 1
MỞ ĐẦU


1.1. Đặt vấn đề
Ông cha ta có câu “rừng vàng biển bạc”. Thật đúng vậy, khi nói đến
rừng chúng ta đều biết đến vai trò to lớn của rừng đối với đời sống của con
người. Ngoài chức năng cung cấp gỗ củi, các loại lâm đặc sản, các loài thực
vật quý hiếm, thì rừng còn có một chức năng vô cùng to lớn đó là bảo vệ môi
trường sống của chúng ta. Rừng là lá phổi xanh bảo vệ trái đất, làm giảm hiệu
ứng nhà kính, duy trì độ ổn định tính màu mỡ của đất đai hạn chế lũ lụt hạn
hán, xói mòn đất, bảo tồn nguồn nước,…
Vai trò của rừng là rất to lớn, thế nhưng trong những năm vừa qua rừng
tự nhiên của chúng ta đang bị suy giảm rất nghiêm trọng cả về số lượng và
chất lượng. Theo số liệu công bố của tổ chức IUCN, UNDP và WWF trung
bình mỗi năm trên thế giới mất đi khoảng 20 triệu ha rừng, trong đó rừng bị
mất do đốt phá làm nương rẫy chiếm 50%, cháy rừng 23% do khai thác từ 5-
7% còn lại là do các nguyên nhân khác (ww.vocw.edu.vn). Như vậy theo
thống kê trên ta thấy rằng tỷ lệ rừng bị mất đi do làm nương rẫy là lớn hơn
50%. Việt Nam cũng không nằm ngoại lệ đó. Nhất là ở nước ta rừng tập trung
ở khu vực vùng núi cao, nơi mà trình độ dân trí của người dân còn thấp sống
chủ yếu phụ thuộc vào nguồn tài nguyên rừng nhưng lại thiếu ý thức bảo vệ,
gìn giữ nguồn tài nguyên vô giá này. Đặc biệt với tập quán du canh, du cư,
người dân tuỳ ý đốt nương, làm rẫy. Sau một thời gian canh tác, khi năng suất
cây trồng giảm đi họ chuyển sang một mảnh đất khác vài năm sau mới quay
lại mảnh đất cũ làm cho đất rừng bị suy thoái.
Làm thế nào để bảo vệ và tái tạo lại nguồn tài nguyên rừng, bảo vệ môi
trường sống của chúng ta? Đó đang là vấn đề thu hút được sự quan tâm của
rất nhiều người. Những năm gần đây, thực hiện chủ trương chuyển đổi từ lâm
nghiệp nhà nước tập trung sang lâm nghiệp xã hội, chính phủ đã giao quyền
sử dụng đất lâm nghiệp cho các tổ chức, hộ gia đình. Để trồng rừng, khoanh
nuôi bảo vệ. Các chủ trương chính sách này đã có tác dụng tích cực, rừng đã
5
6

được bảo vệ và dần phục hồi trở lại, diện tích rừng ngày càng tăng, diện tích
đất trống đồi núi trọc ngày càng giảm. Thực tiễn đã chứng minh rằng để thực
hiện tốt mục tiêu là tiết kiệm được thời gian, tiền của trong công tác phục hồi
rừng thì cần có sự hiểu biết đầy đủ về bản chất và qui luật phát triển của hệ
sinh thái rừng, trước hết là quá trình tái sinh tự nhiên. Đồng thời cũng phải
căn cứ vào điều kiện kinh tế xã hội ở mỗi nước, mỗi vùng.
Việc nghiên cứu những đặc điểm tái sinh tự nhiên của rừng là rất cần
thiết, đó sẽ là cơ sở để đưa ra các biện pháp kỹ thuật lâm sinh phù hợp nhằm
tác động vào rừng để giúp cho quá trình tái sinh tự nhiên của rừng diễn ra
được thuận lợi hơn, giúp nâng cao chất lượng rừng.
Cho đến nay, đã có nhiều nghiên cứu về tái sinh tự nhiên rừng nhiệt
đới. Tuy nhiên, rừng nhiệt đới là một đối tượng hết sức đa dạng và phức tạp,
trong khi các nghiên cứu thường mới chỉ tập trung tại một điểm, một vùng
hay một khu vực nhất định nào đó. Vì vậy, tái sinh tự nhiên vẫn đang là nội
dung cần được tiếp tục nghiên cứu.
Xuất phát từ lý do đó, được sự đồng ý của trường Đại học Nông Lâm
Thái nguyên, Ban chủ nhiệm khoa Lâm Nghiệp, tôi đã tiến hành nghiên cứu
đề tài: “Nghiên cứu một số đặc điểm tái sinh tự nhiên rừng phục hồi trạng
thái IC tại huyện Đại Từ - tỉnh Thái Nguyên”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm đánh giá thực trạng khả năng tái sinh tự nhiên trạng thái rừng phục hồi IC tại
huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên làm cơ sở khoa học đề xuất các giải pháp xúc tiến quá
trình phục hồi nhằm nâng cao chất lượng rừng và các quá trình diễn ra trong hệ sinh thái
rừng tự nhiên.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
Góp phần nghiên cứu quá trình tái sinh tự nhiên làm cơ sở khoa học
cho việc đề xuất giải pháp lâm sinh thúc đẩy nhanh quá trình diễn thế và nâng
cao chất lượng của rừng phục hồi.
Nghiên cứu các qui luật tái sinh tự nhiên và bổ sung thêm tư liệu về tái
sinh rừng.

6
7
1.4. Ý nghĩa của đề tài
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu
Góp phần củng cố phương pháp nghiên cứu khoa học cho sinh viên,
giúp sinh viên vận dụng những kiến thức đã học trong trường vào công tác
nghiên cứu khoa học và thực tiễn sản xuất lâm nghiệp một cách có hiệu quả.
1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn
Phục hồi rừng để bảo vệ nguồn gen duy trì tính đa dạng sinh học và cân
bằng sinh thái trong vùng là hết sức cần thiết, do đó kết quả của nghiên cứu
này sẽ góp phần làm sáng tỏ đặc điểm tái sinh và khả năng phục hồi tự nhiên
thảm thực vật tại khu vực nghiên cứu.
7
8
Phần 2
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
2.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Trong những năm gần đây việc nghiên cứu về rừng tự nhiên, đặc biệt là
chủ đề tái sinh rừng đã thu hút được sự chú ý của các nhà nghiên cứu trong và
ngoài nước. Nhìn chung những nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc xây
dựng các mô hình chuẩn làm cơ sở khoa học và lý luận cho công tác kinh
doanh rừng.
Tuy vậy đối tượng rừng tự nhiên rất đa dạng, phong phú và phức tạp về
tổ thành loài cây, tầng tán… Mỗi một khu vực khác nhau với những điều kiện
lập địa khác nhau thì sẽ hình thành nên một kiểu rừng riêng, cho nên vấn đề
nghiên cứu về tái sinh, cấu trúc còn gặp nhiều khó khăn trở ngại. Dưới đây là
một số nghiên cứu có liên quan đến nội dung đề tài.
2.1.1. Khái quát trạng thái rừng phục hồi IC
Rừng IC là đất trống đồi núi trọc có cây bụi xen cây gỗ (các cây gỗ tái
sinh có độ tàn cho 10% với mật độ cây gỗ tái sinh có chiều cao lơn hơn 1 mét

đạt từ 1000 cây/ha trở lên)[12].
Tái sinh tự nhiên là quá trình tạo thành thế hệ rừng mới bằng con đường
tự nhiên về cơ bản không có sự tác động của con người. Kết quả của phương
thức tái sinh tự nhiên này phụ thuộc vào quy luật khách quan của tự nhiên.
2.1.2. Khái niệm tái sinh rừng
Hiện nay có rất nhiều những khái niệm có đề cập đến tái sinh rừng,
dưới đây là một số những khái niệm.
Phùng Ngọc Lan (1986)[7] Tái sinh rừng được hiểu theo nghĩa rộng là
sự tái sinh của cả hệ sinh thái rừng. Tái sinh rừng, hiểu theo nghĩa hẹp là quá
trình phục hồi lại thành phần cơ bản của rừng.
Ngô Quang Đê và cộng sự (1992)[4] tái sinh tự nhiên là quá trình hình
thành rừng mới bằng con đường tự nhiên về cơ bản không có sự tác động của
con người. Kết quả của phương thức tái sinh này phụ thuộc vào quy luật
khách quan của tự nhiên. Tái sinh nhân tạo là phương thức tái sinh có sự tác
động tích cực của con người từ khi gieo trồng, chăm sóc rừng mới trên đất
rừng. Về mặt kỹ thuật tái sinh nhân tạo và trồng rừng là giống nhau nhưng
8
9
khác nhau ở địa điểm tiến hành. Trồng rừng là tiến hành trên đất chưa có rừng
hoặc có rừng nhưng đã mất từ lâu, đất không có tính chất đất rừng. Cây tái
sinh có triển vọng là cây con tái sinh có chiều cao bằng hoặc vượt chiều cao
thảm tươi, cây bụi xung quanh nó và có phẩm chất từ trung bình trở lên. Khi
vận dụng quy luật này cần thống nhất ba yêu cầu sau: thứ nhất, cây đó qua
thời gian cây mạ, có khả năng chống đỡ với điều kiện bất lợi của ngoại cảnh;
Thứ hai, chiều cao cây tái sinh phải bằng hoặc vượt chiều cao cây bụi, thảm
tươi xung quanh nó; Thứ ba, cây có sinh lực tốt, không cong queo, sâu bệnh.
Tái sinh rừng là một quá trình sinh học mang tính đặc thù của hệ sinh
thái rừng. Biểu hiện đặc trưng của tái sinh rừng là sự xuất hiện một thế hệ cây
con của những loài cây gỗ ở nơi có hoàn cảnh rừng:dưới tán rừng,lỗ trống
trong rừng, rừng sau khai thác, trên đất rừng sau làm nương rẫy… Theo nghĩa

hẹp,tái sinh rừng là quá trình phục hồi lại thành phần cơ bản của rừng, chủ
yếu là tầng cây gỗ. Theo nghĩa rộng là sự tái sinh của một hệ sinh thái rừng.
Đứng trên quan điểm triết học, tái sinh rừng là một quá trình phủ định
biện chứng: rừng non hay thay thế rừng già trên cơ sở được thừa hưởng hoàn
cảnh thuận lợi do thế hệ rừng ban đầu tạo nên. Đứng trên quan điểm chính trị
kinh tế học, tái sinh rừng là quá trình tái sản xuất mở rộng tài nguyên rừng.
Đương nhiên, điều kiện này chỉ có thể trở thành hiện thực khi ta nắm chắc
được các biện pháp kỹ thuật lâm sinh chính xác, nhằm điều hoà và định
hướng các quá trình tái sinh phục vụ mục tiêu kinh doanh đã đề ra. Như vậy,
tái sinh rừng không còn chỉ là tự nhiên, kỹ thuật mà còn là vấn đề kinh tế xã
hội (sinh thái rừng - Hoàng Kim Ngũ - Phùng Ngọc Lan, 1998)[8].
2.1.3. Các nghiên cứu về tái sinh tự nhiên trên thế giới
Hiện nay trên thế giới đã có rất nhiều những công trình nghiên cứu,
những tài liệu nói về tái sinh rừng.
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu thì hiệu quả tái sinh rừng được
xác định bởi mật độ, tổ thành loài cây, cấu trúc tuổi, chất lượng cây con, đặc
điểm phân bố. Sự tương đồng hay khác biệt giữa tổ thành lớp cây con và tầng
cây gỗ đã được nhiều nhà khoa học quan tâm (Mibbre-ad, 1930; Richards,
1952; Baur G.N, 1964; Rollet, 1969). Do tính phức tạp về tổ thành loài cây,
trong đó chỉ có một số loài cây có giá trị nên trong thực tiễn người ta chỉ khảo
sát những loài cây có ý nghĩa nhất định.
9
10
Trên thế giới tái sinh rừng được nghiên cứu từ hàng trăm năm trước
đây, nhưng từ những năm 1930 mới bắt đầu nghiên cứu tái sinh rừng nhiệt
đới. Do thành phần đặc điểm loài cây phức tạp của rừng nhiệt đới nên trong
quá trình nghiên cứu, hầu như các tác giả chỉ tập trung vào nghiên cứu các
loài cây gỗ có ý nghĩa nhất định. Tái sinh phục hồi rừng là một trong những
vấn đề chiến lược của ngành Lâm nghiệp.
Nghiên cứu tái sinh ở rừng nhiệt đới Châu Phi, Obrevin (1938) nhận

thấy “Cây con của các của các loài cây ưu thế trong rừng mưa là rất hiếm
hoặc vắng hẳn” mà ông gọi là hiện tượng “Không bao giờ sinh đẻ con cái”
của cây mẹ trong thành phần cây gỗ ở rừng mưa. Tổ thành loài cây mẹ ở tầng
trên và tổ thành cây tái sinh ở tầng dưới thường khác nhau rất nhiều.
A.Obrevin đã khái quát hoá các hiện tượng tái sinh ở rừng nhiệt đới Châu Phi
để đúc kết nên lý luận bức khảm tái sinh, nhưng phần lý giải các hiện tượng
đó còn bị hạn chế. Vì vậy các lý luận của ông còn ít sức thuyết phục, chưa
giúp ích cho thực tiễn sản xuất cá biện pháp kỹ thuật điều khiển tái sinh rừng
theo các mục tiêu kinh doanh đã đề ra.
Quá trình tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt đới vô cùng phức tạp và còn ít
được nghiên cứu. Phần lớn tài liệu nghiên cứu về tái sinh tự nhiên ở rừng mưa
thường chỉ tập trung vào một số loài cây có giá trị kinh tế dưới điều kiện rừng
đã út nhiều bị biến đổi. Van Steenis (1956)[14] đã nghiên cứu hai đặc điểm tái
sinh phổ biến của rừng mưa nhiệt đới là tái sinh phân tán liên tục của các loài
cây chịu bóng và tái sinh vệt của các loài cây ưu sáng. Ông gọi các loài cây
tiên phong là các loài cây tạm cư, còn các loài cây mọc sau là những loài định
cư hay định vị. Cách tái sinh để hàn gắn các lỗ trống trong tán rừng được ví
như cách hàn gắn những vết thương ở cơ thể con người, mà loài cây tạm thời
thì giữ vai trò của bạch huyết làm đông máu. Mangenot lại gọi những loài cây
đó là những loài “làm liền vết sẹo”.
Về phương pháp điều tra tái sinh tự nhiên, nhiều tác giả đã sử dụng
cách lấy mẫu ô vuông theo hệ thống của Lowdermilk (1927) với diện tích ô
đo đếm thông thường từ 1 đến 4m2. Diện tích ô đo đếm nhỏ nên thuận lợi
trong điều tra nhưng số lượng ô phải đủ lớn mới phản ánh trung thực tình hình
tái sinh rừng. Để giảm sai số trong khi thống kê tái sinh tự nhiên, Barnard
10
11
(1950) đã đề nghị một phương pháp “điều tra chẩn đoán” mà theo đó kích
thước ô đo đếm có thể thay đổi tuỳ theo giai đoạn phát triển của cây tái sinh ở
các trạng thái rừng khác nhau.

Các công trình nghiên cứu về phân bố tái sinh tự nhiên rừng nhiệt đới
đáng chú ý là các công trình nghiên cứu của Richards, P.W (1952), Bernard
Rollet (1974), tổng kết các kết quả nghiên cứu về phân bố số cây tái sinh tự
nhiên đã nhận xét: Trong các ô có kích thước nhỏ (1 x 1m, 1 x 1,5m) cây tái
sinh tự nhiên có dạng phân bố cụm, một số ít có phân bố Poison. Ở Châu Phi
trên cơ sở các số liệu thu thập Tayloer (1954), Barnard (1955) xác định số
lượng cây tái sinh trong rừng nhiệt đới thiếu hụt cần thiết phải bổ sung bằng
trồng rừng nhân tạo. Ngược lại các tác giả nghiên cứu về tái sinh tự nhiên
rừng nhiệt đới Châu Á như Budowski (1956), Bava (1954), Atinot (1965) lại
nhận định dưới tán rừng nhiệt đới nhìn chung có đủ số lượng cây tái sinh có
giá trị kinh tế, do vậy các biện pháp kỹ thuật lâm sinh đề ra cần thiết để bảo
vệ và phát triển cây tái sinh có sẵn dưới tán rừng (Nguyễn Duy Chuyên,
1996)[3].
Các nhân tố sinh thái đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình tái sinh
tự nhiên của rừng và nó đã thu hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu
thông qua các kết quả nghiên cứu như:
Becker, nhà lâm học người Đức cho rằng “ánh sáng là chiếc đòn bẩy
mà nhà lâm học dùng để điều khiển sự sống của rừng theo hướng có lợi về
kinh tế”.
Lamprecht H. (1969) căn cứ vào nhu cầu ánh sáng của các loài cây
trong suốt quá trình sinh sống để phân chia cây rừng nhiệt đới thành các nhóm
cây ưa sáng, nhóm cây bán chịu bóng và nhóm cây chịu bóng.
Obrevin thì trong nhóm các yếu tố sinh thái phát sinh các quần thể thực
vật thì nhóm yếu tố khí hậu - thuỷ văn là nhóm yếu tố chủ đạo quyết định
hình thái và cấu trúc các kiểu thảm thực vật. Nhóm này gồm các yếu tố quan
trọng nhất đó là: nhiệt độ, ánh sáng, lượng mưa, độ ẩm, chế độ gió,…
Kết cấu của quần thụ lâm phần có ảnh hưởng đến tái sinh rừng.
I.D.Yurkevich (1960) đã chứng minh độ tàn che tối ưu cho sự phát triển bình
thường của đa số các loài cây gỗ là 0,6 - 0,7.
11

12
Đối với rừng nhiệt đới thì các nhân tố sinh thái như nhân tố ánh sáng
(thông qua độ tàn che của rừng), độ ẩm của đất, kết cấu quần thụ, cây bụi,
thảm tươi là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tái sinh rừng,
cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, đề cập đến vấn đề này. Tác
giả G. N. Baur (1976)[13] cho rằng, sự thiếu hụt ánh sáng ảnh hưởng đến phát
triển của cây con còn đối với sự nẩy mầm và phát triển của cây mầm ảnh
hưởng này thường không rõ ràng và thảm cỏ, cây bụi có ảnh hưởng đến sinh
trưởng của cây tái sinh. Ở những quần thụ kín tán, thảm cỏ và cây bụi kém
phát triển nhưng chúng vẫn có ảnh hưởng đến cây tái sinh. Nhìn chung ở rừng
nhiệt đới, tổ thành và mật độ cây tái sinh thường khá lớn nhưng số lượng loài
cây có giá trị kinh tế thường không nhiều và được chú ý hơn, còn các loài cây
có giá trị kinh tế thấp thường ít được nghiên cứu, đặc biệt là đối với tái sinh ở
các trạng thái rừng phục hồi sau nương rẫy.
Nghiên cứu khả năng tái sinh tự nhiên của thảm thực vật sau nương rẫy
từ 1 - 20 năm ở vùng Tây Bắc Ấn Độ, Ramakrishnan (1981,1992) đã cho biết
chỉ số đa dạng loài rất thấp. Chỉ số loài ưu thế đạt đỉnh cao nhất ở pha đầu của
quá trình diễn thế và giảm dần theo thời gian bỏ hoá. Long Chun và cộng sự
(1993) đã nghiên cứu đa dạng thực vật ở hệ sinh thái nương rẫy tại
Xishuangbanna tỉnh Vân Nam - Trung Quốc nhận xét: tại Baka khi nương rẫy
bỏ hoá được 3 năm thì có 17 họ, 21 chi, 21 loài thực vật, bỏ hoá 19 năm thì có
60 họ, 134 chi, 167 loài.
Tái sinh tự nhiên của thảm thực vật sau nương rẫy được một số tác giả
nghiên cứu. Saldarriaga (1991) nghiên cứu tại rừng nhiệt đới ở Colombia và
Venezuela nhận xét: sau khi bỏ hoá số lượng loài thực vật tăng dần từ ban đầu
đến rừng thành thục. thành phần của các loài cây trưởng thành phụ thuộc vào
tỷ lệ các loài nguyên thuỷ mà nó được sống sót từ thời gian đầu của quá trình
tái sinh, thời gian phục hồi khác nhau phụ thuộc vào mức độ, tần số canh tác
của khu vực đó (dẫn theo Phạm Hồng Ban). Kết quả nghiên cứu của tác giả
Lambertetal (1989), Warner (1991), Rouw (1991) đều cho thấy quá trình diễn

thế sau nương rẫy như sau: đầu tiên đám nương rẫy được các loài cỏ xâm
chiếm, nhưng sau một năm loài cây gỗ tiên phong được gieo giống từ vùng
lân cận hỗ trợ cho việc hình thành quần thụ các loài cây gỗ, tạo ra tiểu hoàn
12
13
cảnh thích hợp việc sinh trưởng của cây non. những loài cây gỗ tiên phong
chết đi sau 5 - 10 năm và được thay thế dần bằng các loài cây rừng mọc chậm,
ước tính cần phải mất hàng trăm năm thì nương rẫy cũ mới chuyển thành loại
hình rừng gần với dạng nguyên sinh ban đầu.
Tóm lại, kết quả nghiên cứu tái sinh tự nhiên của thảm thực vật rừng
trên thế giới cho chúng ta những hiểu biết các phương pháp nghiên cứu, quy
luật tái sinh tự nhiên ở một số nơi. Đặc biệt, sự vận dụng các hiểu biết về quy
luật tái sinh để xây dựng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh hợp lý nhằm quản lý
tài nguyên rừng một cách bền vững. Các kết quả nghiên cứu này làm cơ sở
cho nghiên cứu tái sinh rừng phục hồi sau nương rẫy ở nước ta.
2.1.4. Các nghiên cứu về tái sinh tự nhiên ở Việt Nam
Việt Nam nằm trong khu vực có khí hậu nhiệt đới gió mùa nên rừng ở
nước ta mang những đặc trưng của rừng nhiệt đới. Đa dạng về thành phần loài
và có cấu trúc rất phức tạp. Nhưng hiện nay diện tích rừng tự nhiên không còn
nhiều mà chủ yếu là rừng trồng và rừng thứ sinh phục hồi sau những tác động
của con người. Chính vì vậy mà những vấn đề liên quan đến phát triển loại
rừng trồng và rừng thứ sinh phục hồi đang là vấn đề được quan tâm.
TS. Vũ Tiến Hinh (1991)[5] khi nghiên cứu đặc điểm tái sinh tự
nhiên tại Hữu Lũng (Lạng Sơn) và vùng Ba Chẽ (Quảng Ninh) đã nhận
thấy rằng, hệ số tổ thành tính theo % số cây của tầng tái sinh và tầng cây
cao có liên quan chặt chẽ với nhau. Các loài có hệ số tổ thành ở tầng cây
cao càng lớn thì hệ số tổ thành ở tầng tái sinh cũng vậy. Ngoài ra còn một
số tác giả như Vũ Đình Huề, Ngô Văn Trai, Phạm Đình Tam, Trần Xuân Thiệp,
Nguyễn Duy Chuyên, Phùng Ngọc Lan…
Khi bàn về vấn đề đảm bảo tái sinh trong khai thác rừng, Phùng Ngọc

Lan (1984)[6] đã nêu kết quả tra dặm hạt Lim xanh dưới tán rừng ở lâm
trường Hữu Lũng, Lạng Sơn. Ngay từ giai đoạn nẩy mầm, bọ xít là nhân tố
gây ảnh hưởng đáng kể đến tỷ lệ nẩy mầm.
Trần Ngũ Phương (2000)[9] khi nghiên cứu các quy luật phát triển rừng
tự nhiên miền Bắc Việt Nam đã nhấn mạnh quá trình diễn thế thứ sinh của
rừng tự nhiên như sau: “Trường hợp rừng tự nhiên có nhiều tầng khi tầng trên
già cỗi, tàn lụi rồi tiêu vong thì tầng kế tiếp sẽ thay thế; trường hợp nếu chỉ có
13
14
một tầng thì trong khi nó già cỗi một lớp cây con tái sinh xuất hiện và sẽ thay
thế nó sau khi nó tiêu vong hoặc cũng có thể một thảm thực vật trung gian
xuất hiện thay thế, nhưng về sau dưới lớp thảm thực vật trung gian này sẽ
xuất hiện một lớp cây con tái sinh lại rừng cũ trong tương lai và sẽ thay thế
thảm thực vật trung gian này, lúc bấy giờ rừng cũ sẽ được phục hồi dưới dạng
gần giống với rừng khí hậu ban đầu”.
Vũ Đình Huề (1969) đã chia tái sinh ra làm 5 cấp: Rất tốt, tốt, trung
bình, xấu, và rất xâu. Trong nghiên cứu này, việc đánh giá tái sinh mới chỉ
dựa vào số lượng chưa quan tâm đến chất lượng tái sinh.
Để đánh giá vai trò tái sinh và phục hồi rừng tự nhiên ở các vùng miền
Bắc, Trần Xuân Thiệp (1995) nghiên cứu tập trung vào sự biến đổi về lượng,
chất lượng của tái sinh tự nhiên và rừng phục hồi. Qua đó, tác giả kết luận:
rừng phục hồi vùng Đông Bắc chiếm trên 30% diện tích rừng hiện có, lớn
nhất so với các vùng khác. Khả năng phục hồi hình thành các rừng vườn,
trang trại rừng đang phát triển ở các tỉnh trong vùng. Rừng Tây Bắc phần lớn
diện tích rừng phục hồi sau nương rẫy, diễn thế rừng ở nhiều vùng xuất hiện
nhóm cây ưa sáng chịu hạn hoặc rụng lá, kích thước nhỏ và nhỡ là chủ yếu và
nhóm cây lá kim rất khó tái sinh phục hồi trở lại do thiếu lớp cây mẹ
Nguyễn Thị Thoa (2003)[11] tái sinh là một quá trình sinh học mang
tính đặc thù của hệ sinh thái rừng, mà biểu hiện là sự xuất hiện của một thế hệ
cây con của những loài cây gỗ. Hiểu theo nghĩa hẹp tái sinh rừng là một quá

trình phục hồi lại thành phần cơ bản của rừng, chủ yếu là tầng cây gỗ. Phục
hồi rừng bằng khoanh nuôi có nghĩa là lợi dụng tái sinh tự nhiên kết hợp với
sự tác động hợp lý của con người tạo ra một thế hệ mới có thành phần loài
cây đáp ứng mục đích kinh doanh và phù hợp với điều kiện tự nhiên, tạo ra hệ
sinh thái rừng ổn định, bền vững hơn hệ sinh thái ban đầu đã bị tác động. Tái
sinh rừng mưa nhiệt đới có đặc điểm là phân tán liên tục, ngoài ra còn có tái
sinh theo vệt. Rừng nhiệt đới Việt Nam thích hợp với cả hai kiểu tái sinh trên,
ngoài ra còn có hiện tượng nẩy mầm đồng thời tạo ra thế hệ rừng tiên phong thuần
loài như rừng Sau Sau (Hữu Lũng - Lạng Sơn), rừng Bồ Đề (Vĩnh Phúc)… Rừng
tự nhiên ở nước ta thường bị tác động không theo quy tắc nên quy luật tái sinh
14
15
cũng bị xáo trộn. Do đó việc nghiên cứu tái sinh rừng nhiệt đới rất phức tạp
và khó khăn.
Công trình nghiên cứu về thảm thực vật rừng Việt Nam của Thái Văn
Trừng (những năm 1963, 1970, 1978) theo ông “Có một nhân tố trong nhóm
sinh thái khống chế và điều khiển quá trình tái sinh tự nhiên trong thảm thực
vật rừng, đó là nhân tố ánh sáng”. Nếu các điều kiện khác của môi trường
như: đất rừng, nhiệt độ, độ ẩm dưới tán rừng chưa thay đổi thì tổ hợp các loài
cây tái sinh không có những biến đổi lớn và cũng không diễn thế một cách
tuần hoàn trong không gian và theo thời gian mà diễn thế theo những phương
thức tái sinh có qui luật nhân quả giữa sinh vật và môi trường.
Hiện tượng tái sinh lỗ trống ở rừng thứ sinh Hương Sơn, Hà Tĩnh đã
được Phạm Đình Tam (1987)[10] làm sáng tỏ. Theo tác giả, số lượng cây tái
sinh xuất hiện khá nhiều dưới các lỗ trống khác nhau. Lỗ trống càng lớn cây tái
sinh càng nhiều và hơn hẳn những cây kín tán. Từ đó tác giả đề xuất phương
thức khai thác chọn, tái sinh tự nhiên cho đối tượng rừng khu vực này.
Khi nghiên cứu quy luật phân bố cây tái sinh tự nhiên rừng lá rộng
thường xanh hỗn loại vùng Quỳ Châu Nghệ An. Nguyễn Duy Chuyên (1996)
[3] đã nghiên cứu phân bố cây tái sinh theo chiều cao, phân bố tổ thành cây

tái sinh, số lượng cây tái sinh. Trên cơ sở phân tích toán học về phân bố cây
tái sinh cho toàn lâm phần, tác giả cho rằng loại rừng trung bình (IIIA2) cây
tái sinh tự nhiên có dạng phân bố Poisson, ở các loại rừng khác cây tái sinh có
phân bố cụm
Từ những kết quả nghiên cứu trên đã cho thấy rằng, vấn đề tái sinh tự
nhiên đã được các nhà lâm sinh học trong nước quan tâm rất nhiều và đươc
thể hiện qua những công tình nghiên cứu của các tác giả đã được công bố và
đăng trên các tạp chí. Các kết quả trên đã đặt ra nền móng cho việc lựa chọn
đối tượng, đề xuất và lựa chọn các giải pháp khoanh nuôi phục hồi rừng và
kinh doanh rừng một cách bền vững.
2.2. Điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội khu vực nghiên cứu
Do thời gian có hạn nên đề tài chỉ tập trung điều tra nghiên cứu trên địa
bàn của hai xã đó là xã Quân Chu và xã La Bằng, đây là địa điểm nghiên cứu
chính của đề tài.
15
16
2.2.1. Điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội của xã La Bằng
2.2.1.1. Điều kiện tự nhiên
a. Vị trí địa lý
Xã La Bằng là xã miền núi nằm ở phía Tây của huyện Đại Từ, có vị trí
địa lý tiếp giáp với các đơn vị sau:
Phía bắc giáp xã Phú Xuyên
Phía Nam giáp xã Hoàng Nông
Phía đông giáp xã Bản Ngoại
Phía Tây giáp huyện Sơn Dương - tỉnh Tuyên Quang
b. Địa hình - Đất đai
La Bằng là một xã miền núi nên địa hình đặc trưng là các dãy núi có độ
dốc lớn và bị chia cắt bởi hệ thống sông suối và khe rạch. Địa hình dốc dần từ
Tây Bắc xuống Đông Nam, độ dốc trung bình từ 2-6%
Xã La Bằng có:

Tổng diện tích đất tự nhiên là: 2213,88 ha; Đất lâm nghiệp: 1519,42ha
chiếm; Đất sản xuất nông nghiệp là 453,56 ha chiếm; Đất phi nông nghiệp là
221,37 ha; Còn lại là đất chưa sử dụng
c. Đặc điểm khí hậu thuỷ văn
* Khí hậu
La Bằng là một xã miền núi, khí hậu mang tính chất đặc thù của vùng
nhiệt đới gió mùa, được chia thành bốn mùa rõ rệt.
Nhiệt độ cao nhất khoảng 36-380C (tháng 7-8), nhiệt độ thấp nhất
khoảng 7-90C (tháng 1- 2)
Lượng mưa trung bình hàng năm 1600-1800mm. Nhìn chung khí
hậu và thời tiết của xã La Bằng tương đối thuận lợi cho phát triển trồng
trọt, chăn nuôi.
* Thuỷ văn
Hệ thống thuỷ văn của xã La Bằng qua số liệu thống kê cho thấy xã có
hệ thống sông ngòi khá lớn. Hệ thống mương máng của xã đã và đang từng
bước được xây dựng. Nhờ vậy mà xã La Bằng đã chủ động hơn trong vấn đề
tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp.
16
17
d. Các nguồn tài nguyên
- Tài nguyên đất: Tổng diện tích đất tự nhiên là 2213,88 ha. Trong đó:
diện tích đất nông nghiệp 1976,08ha, đất phi nông nghiệp 221,37 ha, đất chưa
sử dụng 16,43 ha.
- Tài nguyên nước: Nguồn nước mặt gồm có hệ thống Suối La Bằng và
hệ thống kênh mương nội đồng, ao hồ, đập nằm rải rác trong xã, tạo điều kiện
khá thuận lợi cho sinh hoạt và sản xuất của nhân dân. Nguồn nước ngầm tuy
chưa được khảo sát cụ thể, nhưng qua thực tế sử dụng của nhân dân, cho thấy
mực nước ngầm có độ sâu từ 4-15m, chất lượng nước tốt.
- Tài nguyên khoáng sản: Trên địa bàn xã La Bằng có một mỏ quặng
thiếc nằm trong Vườn quốc gia Tam Đảo, hiện nay vẫn đang quản lý chưa

được khai thác. Có nguồn tài nguyên khoáng sản đá, cát, sỏi cung cấp cho các
công trình xây dựng cơ sở hạ tầng cũng như phục vụ cho xây dựng của nhân
dân địa phương.
- Nguồn nhân lực: Theo điều tra tại thời điểm 01/10/2010 tổng số người
trong độ tuổi lao động là 2513 người, trong đó lao động trong lĩnh vực nông
nghiệp 2136 người (chiếm 85%), lao động trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp, dịch vụ là 377 người (chiếm 15%). Với thu nhập bình quân
đạt 14tr đồng/người/năm (2010) (bằng 0,96 lần so với mức thu nhập bình
quân chung của tỉnh Thái Nguyên đối với khu vực nông thôn).
2.2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Xã La Bằng có 3766 khẩu /937 hộ gia đình; số hộ nghèo của xã năm
2011 theo chuẩn mới là:152 hộ chiếm 16,8%.
- Y tế: có 01 trạm y tế với 5 cán bộ và 10 nhân viên y tế thôn bản phục
vụ công tác khám chữa bệnh cho nhân dân trong xã.
- Chợ: Trên địa bàn xã có 1 chợ (Chợ La Bằng) nằm giáp ranh giữa
xóm La Bằng và xóm Đồng Tiến, với tổng diện tích 3500m2, đáp ứng một
phần nhu cầu giao lưu thương mại của địa phương
- Giáo dục: Xã có 3 nhà trường: 1 trường THCS, 1 trường Tiểu học, 1
trường Mầm Non xã với tổng số học sinh của 3 nhà trường: 673 học sinh và
61 thầy cô giáo làm công tác giảng dạy. Cả 3 trường đều đạt chuẩn quốc gia.
17
18
100% trẻ em trong độ tuổi đi học được đến trường, không có trẻ em bỏ học
sớm, tỷ lệ tốt nghiệp các cấp hàng năm đạt 100%.
- Điện: Toàn xã có 4 trạm biến áp, nguồn điện hiện nay đáp ứng nhu
cầu sinh hoạt, nhưng chưa đủ công suất để phục vụ cho sản xuất của nhân dân
trong xã. Tỷ lệ hộ sử dụng điện là 99%.
- Giao thông: Tổng số km đường giao thông trên địa bàn xã là
46,88km. Xã có 13,2 km đường liên xã, 10,1km đường liên thôn, với 9,89km
đường đã được cứng hoá.

- Hệ thống thuỷ lợi: Toàn xã có 24,42km kênh mương, đã kiên cố hoá
được 13,44km đạt 55,04%. Hệ thống thuỷ lợi của xã chủ động được nguồn
nước tưới, đảm bảo đủ nước tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp và các hoạt
động dân sinh. Xã có 1 đập chứa nước nằm ở xóm Kẹm.
2.2.1.3. Nhận xét chung
* Thuận lợi:
- Điều kiện về tự nhiên, thổ nhưỡng, nước tưới tiêu tương đối thuận lợi
cho nhân dân phát triển kinh tế nông nghiệp, đảm bảo an ninh lương thực, có
cây kinh tế mũi nhọn là cây Chè, là hàng hoá đặc sản ở địa phương
- La Bằng có hệ thống giao thông tương đối phát triển, vị trí địa lý
khá thuận lợi, hệ thống đường trục xã, liên xã đã được trải nhựa nên tạo
điều kiện cho phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và giao lưu buôn bán, trao
đổi hàng hoá.
- Nguồn lao động dồi dào, cần cù sáng tạo, nhận thức về pháp luật, về
khoa học kỹ thuật của người dân đã được nâng lên thông qua các chương
trình đào tạo tập huấn.
* Khó khăn, thách thức:
- Khả năng khai thác đất, đặc biệt là đất sản xuất nông nghiệp còn yếu,
chưa quy hoạch thành các vùng sản xuất hàng hoá. Trong những năm qua tuy
đã nỗ lực phấn đấu cứng hoá đường giao thông nông thôn và kênh mương,
đường xóm, nội đồng song tỷ lệ đạt còn thấp so với tiêu chí nông thôn mới,
đường xóm bề rộng còn nhỏ hẹp.
18
19
2.2.2. Điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội của xã Quân Chu
2.2.2.1. Điều kiện tự nhiên
a) Vị trí địa lý
- Quân Chu là một xã nằm ở phía Nam của huyện Đại Từ - tỉnh thái Nguyên.
Với tổng diện tích 4570ha. Cách trung tâm huyện 19km
- Phía Tây giáp tỉnh Vĩnh Phúc.

- Phía Đông giáp thị trấn Quân Chu và xóm Thậm Thình (thuộc xã
Cát Nê).
- Phía Bắc giáp xã Cát Nê (thuộc huyện Đại Từ).
- Phía Nam giáp xã Phúc Thuận (thuộc huyện Phổ Yên).
- Với vị trí địa lý này, xã có điều kiện phát huy khai thác tiềm năng đất
đai cũng như các nguồn lực khác cho sự phát triển kinh tế xã hội.
b) Địa hình
Xã Quân Chu có địa hình mang nhiều nét đặc trưng của vùng núi, trung
du. Là địa hình tiếp giáp giữa dãy Tam Đảo và thung lũng chân Tam Đảo có
độ cao thấp khác nhau, có độ cao từ 300 - 600m. Phía đông Bắc là thung lũng
hẹp trải dài dọc xã xen lẫn những quả đồi nhỏ, thấp.
c) Khí hậu thuỷ văn
Theo số liệu của tỉnh Thái Nguyên, khí hậu xã Quân Chu cũng như huyện
Đại Từ chịu ảnh hưởng trực tiếp của khí hậu nhiệt đới gió mùa. Theo số liệu
thống kê, xã Quân Chu có một số đặc điểm về khí hậu, thuỷ văn như sau:
* Khí hậu:
- Nhiệt độ, lượng mưa và độ ẩm:
+ Nhiệt độ trung bình năm từ 24º - 26ºC
+ Lượng mưa bình quân tương đối cao 1872 mm/năm
+ Độ ẩm bình quân 80 - 85%
- Gió:
+ Gió mùa Đông Bắc từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau.
+ Gió mùa Đông Nam từ tháng 4 đến tháng 10.
+ Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 9.
+ Lũ lụt thường từ tháng 6 đến tháng 8.
+ Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau.
19
20
+ Tháng khô hanh nhất vào tháng 12 và tháng 1.
- Sương:

+ Sương mù: Thường thấy có trong tháng 1 và tháng 3.
+ Sương muối: Thường có và dao động trong các ngày từ mồng 5 đến
15 tháng 12, gây ảnh hưởng cho sản xuất nông - lâm nghiệp.
- Sông suối:
Do địa hình phức tạp, dãy núi Tam Đảo chạy dài cho nên đã tạo ra rất
nhiều những khe suối lớn, nhỏ khác nhau nhưng tập trung tạo thành 6 con suối,
đó chính là: Suối xóm Vang; Suối Đá Trắng; Suối Đá Đen; Suối Đát Ngao;
Suối Khuân Đải; Suối Chiểm.
d. Các nguồn tài nguyên
- Tài nguyên đất: Tổng diện tích đất tự nhiên cua Quân chu là 4249ha.
Đất lâm nghiệp trên địa bàn toàn xã: 3020,53ha (trong đó diện tích đất rừng tự
nhiên là: 2.598,98ha). Đất nông nghiệp là: 3764,08 ha, trong đó diện tích đất
trồng lúa một vụ là57,6ha; diện tích trồng lúa hai vụ là: 86,4ha; diện t ích đất
trồng màu là: 7,9ha.
- Tài nguyên nước: Quân Chu có hệ thống sông ngòi khá dày đặc, có
rất nhiều những khe suối lớn, nhỏ khác nhau, tập trung thành 6 con con suối
lớn. Hệ thống kênh mương nội đồng, ao hồ, đập nằm rải rác trong xã, tạo điều
kiện khá thuận lợi cho sinh hoạt và sản xuất của nhân dân.
- Ngoài ra trên địa bàn xã Quân chu còn có một số những nguồn tài
nguyên khác như khoáng sản, nguồn nhân lực phục vụ cho sản xuất…
2.2.2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
a) Dân số và thành phần dân tộc.
- Theo số liệu điều tra cuối năm 2010 của UBND xã Quân Chu, tổng số
dân của xã là 3732 người.
- Xã có 7 dân tộc anh em chung sống, trong đó: Dân tộc Kinh chiếm
60%; Dân tộc Dao chiếm 22.5%; Dân tộc Sán Dìu chiếm 15%; Dân tộc Tày,
Nùng, Mường, Thái chiếm 2.5%.
b) Văn hoá xã hội
- Giáo dục: Trình độ dân trí 100% đã phổ cập tiểu học, không còn tỷ lệ
mù chữ. Tổng số học sinh của xã trong các trường mầm non, tiểu học, THCS

cho đến nay là 868 học sinh và 73 thầy cô giáo.
20
21
- Y tế: Xã có 1 trạm xá gồm 6 phòng, có 1 bác sỹ và 3 y sĩ. Trạm xá đã
thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ khám chữa bệnh cho nhân dân. Trạm có khả
năng sơ cấp cứu ban đầu cho bệnh nhân trước khi chuyển tới bệnh viện.
- Tình hình trật tự an toàn xã hội: Thực hiện đồng bộ các biện pháp
nghiệp vụ quản lý địa bàn, quản lý đối tượng, xây dựng các phương án đấu
tranh phòng ngừa tội phạm, đẩy mạnh đấu tranh phòng chống tội phạm và tệ n
nạ xã hội. Trong năm 2010, tình hình an ninh trật tự trên địa bàn xã Quân Chu
nhìn chung cơ bản ổn định, không có mâu thuẫn, không có khiếu kiện trong
quần chúng nhân dân, không có đối tượng nghiện hút, bên cạnh đó nạn cờ bạc
vẫn còn nhưng với quy mô nhỏ lẻ.
c) Giao thông, điện
- Đã có đường liên thôn, liên xóm, có đường ô tô đến được trung tâm
các xóm, có 5.4km đường bê tông nông thôn.
- Xã đã được đầu tư lưới điện Quốc gia, đến nay có 98% số hộ gia đình
đã có điện lưới Quốc gia.
d) Hệ thống thuỷ lợi
Xã có 18 đập dâng nước và 17,8km kênh mương phục vụ tưới tiêu cho
143ha diện tích lúa nước, trong đó đập đã được kiên cố là 3 đập, có 2,3km
kênh mương đã được kiên cố hoá.
2.2.2.3. Nhận xét chung
* Thuận lợi:
Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của huyện uỷ, UBND huyện Đại Từ.
Toàn Đảng, cùng với sự thuận lợi về những nguồn lực sẵn có như điều kiện tự
nhiên, khí hậu, đất đai, thuỷ văn, nguồn lao động… Toàn thể cán bộ và nhân
dân các dân tộc trong xã đã thực hiện tốt các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng,
HĐND và các văn bản chỉ đạo của cấp trên trong việc điều hành thực hiện
hoàn thành các mục tiêu kinh tế - chính trị trong 6 tháng đầu năm 2011. Vẫn

giữa sự tăng trưởng ổn định. Năng suất lúa vụ xuân so với các năm trước đạt
cao và vượt mức kế hoạch giao, các hoạt động tiểu thủ công nghiệp và kinh
doanh dịch vụ tăng đã góp phần từng bước nâng cao đời sống của nhân dân và
tạo đà cho sự phát triển trong thời gian tới. Tình hình an ninh - chính trị - trật
tự an toàn xã hội luôn được giữ vững tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân yên
tâm sản xuất.
21
22
* Khó khăn
Đầu năm thời tiết khô hạn kéo dài gây thiếu nước cho việc sản xuất vụ
xuân, các loại sâu bệnh hại cây trồng phát triển nhanh, dịch bệnh lở mồm long
móng bùng phát và lây lan mạnh trên đàn gia súc gây ảnh hưởng đến đời sống
kinh tế và phát triển chăn nuôi của nhân dân.
Đường giao thông xuống cấp, các hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ sản
xuất sinh hoạt còn nhiều thiếu thốn như: Hệ thống thuỷ lợi, phòng khám chữa
bệnh, trang thiết bị y tế, giáo dục, nhà văn hoá, cụm loa truyền thanh xóm…
Ngoài ra do địa hình chia cắt phức tạp, dân cư sống rải rác thưa thớt, trình độ
dân trí không đồng đều… đã ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương.
22
23
Phần 3
ĐỐI TƯỢNG, ĐỊA ĐIỂM, NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng, phạm vi và giới hạn nghiên cứu
- Đối tượng: Thảm thực vật tái sinh tự nhiên trạng thái rừng phục hồi IC .
- Phạm vi và giới hạn nghiên cứu: Cây tái sinh dưới tán rừng phục hồi
trạng thái IC tại 2 xã: Quân Chu và La Bằng, huyện Đại Từ, tỉnh Thái
Nguyên. Nghiên cứu về một số đặc điểm cấu trúc tổ thành cây tái sinh (tần số
xuất hiện, độ phong phú loài, xác định tính đa dạng loài); quy luật phân bố số

loài, số cây theo cấp chiều cao; những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cây
tái sinh trong trạng thái thảm thực vật trạng thái rừng IC tại huyện Đại Từ.
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Địa điểm: Xã Quân Chu
Xã La Bằng
- Thời gian: Tiến hành từ tháng 02/2012 đến tháng 06/2012.
3.3. Nội dung nghiên cứu
- Khái quát đặc điểm cấu trúc tầng cây gỗ
- Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc cây tái sinh
+ Đặc điểm cấu trúc tổ thành, mật độ cây tái sinh.
+ Chất lượng và nguồn gốc cây tái sinh và tỷ lệ cây tái sinh triển vọng.
+ Đánh giá chỉ số đa dạng sinh học (Shannon - Weaver).
+ Chất lượng và nguồn gốc cây tái sinh.
- Nghiên cứu quy luật phân bố cây tái sinh
+ Phân bố số cây theo cấp chiều cao.
+ Phân bố loài cây theo cấp chiều cao.
- Ảnh hưởng của một số nhân tố đến tái sinh tự nhiên
+ Ảnh hưởng của yếu tố đất đến tái sinh rừng.
+ Ảnh hưởng của yếu tố địa hình đến tái sinh rừng.
+ Ảnh hưởng của yếu tố con người đến tái sinh rừng.
- Đề xuất một số giải pháp kỹ thuật lâm sinh cho trạng thái trạng thái rừng IIA tại
khu vực nghiên cứu.
23
24
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Phương pháp luận
Vận dụng quan điểm sinh thái phát sinh quần thể trong thảm thực vật
rừng nhiệt đới của Thái Văn Trừng (1978) Thảm thực vật rừng là tấm gương
phản chiếu một cách trung thành nhất mà lại tổng hợp được các điều kiện của
hoàn cảnh tự nhiên đã thông qua sinh vật để hình thành những quần thể thực

vật. Thảm thực vật tái sinh tự nhiên phản ánh ảnh hưởng tổng hợp của các
nhân tố sinh thái đến quá trình phục hồi rừng thứ sinh.
Đề tài đã sử dụng phương pháp điều tra ô tiêu chuẩn đại diện ở trạng
thái thảm thực vật rừng đã chọn, số liệu đảm bảo tính đại diện, khách quan và
chính xác. Đề tài sử dụng các phương pháp phân tích số liệu truyền thống, các
mô hình đã được kiểm nghiệm, đảm bảo tính khoa học.
3.4.2. Phương pháp thu thập số liệu
3.4.2.1. Tính kế thừa
- Những tư liệu về điều kiện tự nhiên, khí hậu, thuỷ văn, đất đai, địa hình, tài
nguyên rừng.
- Tư liệu về điều kiện dân sinh, kinh tế, xã hội.
- Những kết quả nghiên cứu có liên quan đến đề tài như: Kết quả điều tra hệ thực
vật và thảm thực vật rừng tại khu vực nghiên cứu.
3.4.2.2. Thu thập số liệu
Để mô tả một quần xã thực vật, số liệu cần phải được thu thập trên
một số ô gọi là ô tiêu chuẩn (OTC) có tổng diện tích đủ lớn. Việc áp dụng
phương pháp điều tra theo OTC đang được áp dụng rộng rãi trên thế giới
cũng như trong nước áp dụng rộng rãi khi nghiên cứu về rừng nhiệt đới
như: H. Lamprecht (1969), Lâm Phúc Cố (1994, 1996), Lê Đồng Tấn
(2003) tiến hành điều tra thành phần loài cây trên diện tích OTC 400 m
2
;
Trần Xuân Thiệp (1995), Phạm Ngọc Thường (2001) sử dụng OTC có diện
tích từ 500 m
2
trở lên.
* Đối với ô tiêu chuẩn tạm thời: Diện tích OTC: 2500 m
2
(50 m x 50 m),
hình dạng OTC phụ thuộc vào địa hình.

- Phân bố: OTC đặt ngẫu nhiên, đại diện cho địa hình, độ dốc, điều kiện
thổ nhưỡng khác nhau. Các OTC được đánh dấu ngoài hiện trường thông qua
hệ thống cột mốc gồm 4 cột đặt ở 4 góc của ô. Phần trên mặt đất 0,5m ghi rõ
số hiệu OTC và hướng xác định các góc còn lại.
24
25
- Thu thập số liệu: Trong trạng thái lập 3 OTC theo phương pháp điển
hình. Trong mỗi ô, thống kê các chỉ tiêu tầng cây gỗ như sau:
+ Đo đường kính với những cây gỗ có D
1.3
≥ 6 cm bằng thước kẹp kính hoặc thước
đo chu vi sau đó quy đổi ra đường kính.
+ Đo chiều cao H
vn
và H
dc
bằng thước sào đo cao chia vạch đến 0,1 m.
+ Đo đường kính tán D
t
theo hướng ĐT - NB sau đó lấy giá trị trung bình.
* Đối với ô thứ cấp:
Trong OTC, lập 5 ô thứ cấp 25 m
2
(5 m x 5 m) trong đó 4 ô ở 4 góc và 1 ở giữa.
Điều tra thống kê toàn bộ những cây tái sinh có D
1.3
< 6 cm vào phiếu điều tra theo các chỉ
tiêu:
- Tên loài cây tái sinh, loài nào chưa rõ thì thu thập tiêu bản để giám định.
- Đo chiều cao cây tái sinh bằng thước sào.

- Chất lượng cây tái sinh:
+ Cây tốt: Là cây có thân thẳng, không cụt ngọn, sinh trưởng phát triển tốt, không
sâu bệnh.
+ Cây xấu là những cây cong queo, cụt ngọn, sinh trưởng phát triển kém, sâu bệnh,
còn lại là những cây có chất lượng trung bình.
- Xác định nguồn gốc cây tái sinh (tái sinh chồi, hạt).
- Điều tra khoảng cách giữa các cây tái sinh: Trên OTC thứ cấp, chọn cây tái sinh
bất kỳ, đo khoảng cách từ cây tái sinh đã chọn đến cây tái sinh gần nhất bằng thước dây
với độ chính xác đến cm. Mỗi trạng thái phục hồi đo 30 khoảng cách, kết quả ghi vào
phiếu điều tra khoảng cách cây tái sinh.
Hình 3.01. Sơ đồ bố trí OTC và ô thứ cấp thứ cấp thu thập số liệu
25

×