1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Rừng là tài nguyên quý giá của quốc gia,là lá phổi xanh của nhân loại.
Rừng không những là tài nguyên có thể tự tái tạo và phục hồi mà còn có chức
năng sinh thái vô cùng quan trọng. Rừng có ý nghĩa đặc biệt lớn, không chỉ
cung cấp của cải cho nền kinh tế của đất nước mà còn có vai trò quan
trọng trong việc bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ, cải thiện môi trường
và cân bằng sinh thái. Vai trò của rừng là rất to lớn, thế nhưng trong
những năm vừa qua diện tích rừng tự nhiên của chúng ta ngày càng giảm
sút cả về số lượng và chất lượng.
Nguyên nhân là do ý thức tác động bất hợp lý của người dân như
đốt nương làm rẫy, tình trạng khai thác và sử dụng bừa bãi nên thảm
thực vật đã và đang bị suy thoái nghiêm trọng. Từ đó gây ra hậu quả làm
đất bị xói mòn rửa trôi, gây bồi lắng lòng hồ, hạn chế khả năng chứa
nước. Mặt khác, rừng sau khai thác hầu như bị đảo lộn toàn bộ về cấu
trúc, quá trình tái sinh diễn thế theo chiều hướng thoái bộ so với ở tình
trạng nguyên sinh hoặc trước khi khai thác, nhất là ở các lâm phần
không được quản lý tốt.
Mất rừng gây hậu quả nghiêm trọng, như diện tích đất trống đồi núi
trọc tăng lên, là nguyên nhân gây ra hiện tượng xói mòn, rửa trôi, lũ lụt, hạn
hán, mất diện tích đất canh tác, mất đi sự đa dạng sinh học. Từ năm 1992 trở
lại đây nhờ vào các chính sách đúng đắn của chính phủ như giao đất lâm
nghiệp cho hộ gia đình, chương trình 327, dự án trồng mới 5 triệu ha rừng…
diện tích rừng đã có xu hướng phục hồi trở lại. Các giải pháp kĩ thật dựa trên
cơ sở lợi dụng triệt để khả năng tái sinh, diễn thế tự nhiên của thảm thực vật
cùng với các giải pháp đúng đắn về chính sách đất đai, vốn, lao động đã góp
phần vào nâng cao độ che phủ rừng của cả nước.
Từ những năm đầu của thập niên 60, khoanh nuôi phục hồi rừng đã
được quan tâm với phương thức là sử dụng triệt để khả năng tái sinh, diễn thế
1
1
2
tự nhiên để phục hồi rừng thông qua bảo vệ, biện pháp kỹ thuật lâm sinh và
trồng bổ xung nếu cần thiết. Áp dụng cho cả 3 loại rừng: Rừng phòng hộ,
rừng đặc dụng và rừng sản xuất.
Nhiều công trình nghiên cứu trước đây kết luận quy luật tái sinh tự
nhiên là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình phục hồi rừng. Tái sinh tự
nhiên phụ thuộc vào đặc điểm sinh vật, sinh thái học của từng loài cây, điều
kiện lập địa từng vùng và từng hoàn cảnh rừng cụ thể.
Thực tiễn đã chứng minh rằng các giải pháp nhằm phục hồi rừng, quản
lý rừng bền vững chỉ có thể giải quyết thoả đáng một khi có sự hiểu biết đầy
đủ về bản chất quy luật sống của hệ sinh thái rừng. Do đó nghiên cứu cấu trúc
rừng được xem là cơ sở quan trọng nhất, giúp các nhà lâm nghiệp có thể chủ
động trong việc xác lập các kế hoạch và biện pháp kỹ thuật tác động chính
xác vào rừng, góp phần quản lý và kinh doanh rừng lâu bền.
Ở nước các công trình nghiên cứu về đặc điểm cấu trúc rừng IIB còn
chưa nhiều, phạm vi và đối tượng nghiên cứu còn hạn chế. Do đó, việc kế
thừa những tài liệu đã có và tiếp tục đi sâu nghiên cứu cấu trúc rừng phục hồi
là việc làm cần thiết.
Vì lý do đó, được sự đồng ý của trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên,
Ban chủ nhiệm khoa Lâm Nghiệp tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên
cứu một số đặc điểm tái sinh tự nhiên rừng phục hồi trạng thái IIB tại
huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Bổ sung thêm cơ sở dữ liệu về tái sinh tự nhiên rừng phục hồi trạng thái
IIB tại huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên làm cơ sở đề xuất những giải pháp
lâm sinh phù hợp xúc tiến tái sinh rừng.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định được một số đặc điểm tái sinh của rừng phục hồi tự nhiên
trạng thái IIB tại huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên.
2
2
3
- Đề xuất được một số giải pháp lâm sinh nhằm nâng cao hiệu quả của
rừng phục hồi IIB tại khu vực nghiên cứu.
1.4. Ý nghĩa nghiên cứu khoa học
1.4.1. Ý nghĩa học tập và nghiên cứu khoa học
Bổ sung những hiểu biết về đặc điểm cấu trúc và tái sinh tự nhiên của
thảm thực vật rừng phục hồi trạng thái IIB tại huyện Võ Nhai, tỉnh Thái
Nguyên góp phần vào việc nghiên cứu về đa dạng sinh học. Đồng thời giúp
cho sinh viên tiếp cận phương pháp nghiên cứu khoa học, giải quyết vấn đề
thực tiễn của khoa học đặt ra.
1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn sản xuất
Trên cơ sở các quy luật cấu trúc đề xuất một số giải pháp nhằm phục
hồi rừng phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học và quản lý nguồn tài
nguyên rừng tại huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên ngày hiệu quả hơn.
3
3
4
Phần 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Quan điểm lựa chọn trạng thái rừng phục hồi IIB
Hiện nay có nhiều quan điểm phân loại rừng khác nhau, vì vậy đề tài
nhất quán quan điểm phân loại rừng theo Loeschau, 1966 cụ thể như sau:
“Rừng phục hồi trong giai đoạn sau chủ yếu cây ưa sáng mọc nhanh (cây
Thẩu tấu, Hu đay, Màng tang ) đã xuất hiện cây chịu bóng, cây gỗ lớn, có
hiện tượng cạnh tranh không gian dinh dưỡng. Mật độ cây > 1000 cây/ha với
đường kính D
1.3
> 10 cm (đường kính phổ biến không vượt quá 20 cm, trữ
lượng không vượt quá 50 m
3
) - Ký hiệu: IIB”.
2.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
2.2.1. Những nghiên cứu trên thế giới
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu lâm học, hiệu quả của tái sinh
rừng được xác định bởi mật độ, tổ thành loài cây, cấu trúc tuổi, chất lượng
loài cây… Vai trò của cây con là thay thế cây già cỗi, vì vậy hiểu theo nghĩa
hẹp tái sinh rừng là quá trình phục hồi các thành phần cơ bản của rừng chủ
yếu là tầng cây gỗ. Trên thế giới tái sinh rừng đã được nghiên cứu từ hàng
trăm năm trước đây, nhưng từ những năm 1930 mới bắt đầu nghiên cứu tái
sinh rừng nhiệt đới. Do đặc điểm thành phần loài cây của rừng nhiệt đới phức
tạp nên trong quá trình nghiên cứu hầu như các tác giả chỉ tập trung vào các
loài cây gỗ có ý nghĩa nhất định. Tái sinh phục hồi là một trong những vấn đề
chiến lược của ngành Lâm nghiệp.
Trên thế giới, việc nghiên cứu cấu trúc rừng đã được tiến hành từ lâu
nhằm xác định cơ sở khoa học cho việc đề xuất các biện pháp kỹ thuật tác
động vào rừng, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế và môi trường của rừng.
Baur G.N.(1976) [1] đã nghiên cứu các vấn đề về cơ sở sinh thái học
nói chung và về cơ sở sinh thái học trong kinh doanh rừng mưa nói riêng,
trong đó đã đi sâu nghiên cứu các nhân tố cấu trúc rừng, các kiểu xử lý về mặt
lâm sinh áp dụng cho rừng mưa tự nhiên.
Catinot R. (1965) [2]; Plaudy J [9] đã biểu diễn cấu trúc hình thái rừng
bằng các phẫu đồ rừng, nghiên cứu các nhân tố cấu trúc sinh thái thông qua
việc mô tả phân loại theo các khái niệm dạng sống, tầng phiến
4
4
5
Nghiên cứu tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt đới Châu Phi Obrevin 1938
nhận thấy “cây con của loài cây ưu thế trong rừng mưa có thể cực hiếm
hoặc vắng hẳn” mà ông gọi là hiện tượng “Không bao giờ đẻ con cái” của
cây mẹ trong thành phần cây gỗ ở rừng mưa. Tổ thành loài cây mẹ ở tầng trên
và tổ thành loài cây tái sinh ở tầng dưới thường khác nhau rất nhiều.
Đối với rừng nhiệt đới, quá trình tái sinh tự nhiên có nhiều điểm khác
biệt. Van Steenis (1956) đã nêu hai đặc điểm tái sinh phổ biến: Tái sinh phân
tán liên tục của các loài cây chịu bóng và tái sinh vệt của các loài cây ưa sáng.
Ông gọi những loài cây tiên phong là các loài cây tạm cư còn các loài cây
mọc sau là những loài định cư hay định vị. Cách tái sinh để hàn gắn các lỗ
trống trong tán rừng được ví như cách hàn gắn những vết thương ở con người,
mà loài cây tạm thời thì giữ vai trò của bạch huyết làm đông máu. Mangenot
lại gọi những loài cây đó là những loài “làm liền vết sẹo”.
Một số đặc điểm tái sinh phổ biến, dễ nhận thấy theo Van Steenis 1956
là “tái sinh phân tán, liên tục”. Vì rừng mưa nhiệt đới có tổ thành loài cây
phức tạp, khác tuổi nên thời kỳ tái sinh của quần thể diễn ra quanh năm tạo
tiền đề ra một thế hệ rừng mới hỗn loài khác tuổi.
*Nghiên cứu về các nhân tố sinh thái ảnh hưởng đến tái sinh rừng
Cũng theo Obrevin thì trong nhóm các yếu tố sinh thái phát sinh quần
thể thực vật thì nhóm yếu tố khí hậu - thủy văn là nhóm yếu tố chủ đạo, quyết
định hình thái và cấu trúc các kiểu thảm thực vật. Nhóm này gồm các yếu tố
quan trọng nhất là: Nhiệt độ, ánh sáng, lượng mưa, độ ẩm, chế độ gió…
Lamprecht H. (1989) căn cứ vào nhu cầu ánh sáng của các loài cây
trong suốt quá trình sống để phân chia cây rừng nhiệt đới thành nhóm cây ưa
sáng, nhóm cây bán chịu bóng và nhóm cây chịu bóng.
Kết cấu của quần thụ lâm phần có ảnh hưởng đến tái sinh rừng.
L.D.Yurkevich (1960) đã chứng minh sự tàn che tối ưu cho sự phát triển bình
thường của đa số các loài cây gỗ là 0,6 - 0,7.
Trong nghiên cứu tái sinh rừng người ta đều nhận thấy rằng: Tầng cỏ
cây bụi qua thu nhận ánh sáng, ẩm độ và các nguyên tố dinh dưỡng khoáng
của tầng đất mặt đã ảnh hưởng xấu đến cây con tái sinh của các loài cây gỗ.
Những quần tụ kín tán, đất khô và nghèo dinh dưỡng khoáng do đó thảm cỏ
5
5
6
và cây bụi sinh trưởng kém nên ảnh hưởng của nó đến các cây gỗ tái sinh
không đáng kể. Ngược lại, những lâm phần thưa, rừng đã qua khai thác thì
thảm cỏ có điều kiện phát sinh mạnh mẽ. Trong điều kiện này chúng là nhân
tố gây trở ngại lớn nhất cho tái sinh rừng (Xannikov, 1967; Vipper, 1973).
Để xác định mật độ cây tái sinh, đã có nhiều phương pháp khác nhau
như: Phương pháp ô dạng bản theo hê số kích thước (1 - 4m
2
) hoặc điều tra
theo dải hẹp với ô có kích thước (10 - 100m
2
) (Lowdermilk, 1927). Các nhà
nghiên cứu đều có chung một quan điểm thống nhất là hiệu quả tái sinh rừng
được xác định bởi mật độ, tổ thành loài cây, cấu trúc tuổi, chất lượng cây con,
đặc điểm phân bố và độ dài của thời kỳ tái sinh rừng. Sự tương đồng hay khác
biệt giữa tổ thành lớp cây tái sinh và tầng cây gỗ lớn đã được nhiều nhà khoa
học quan tâm. Do tính chất phức tạp về tổ thành loài cây, trong đó chỉ có một
số loài giá trị nên trong thực tiễn lâm sinh người ta chỉ tập trung khảo sát
những loài cây có ý nghĩa nhất định.
2.2.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
Ngay từ những năm 1960 của thế kỷ trước, trên cơ sở kế thừa những
thành tựu về nghiên cứu tái sinh rừng trên thế giới, các nhà lâm học Việt Nam
đã vận dụng vào việc nghiên cứu tái sinh rừng ở nước ta và đã gặt hái được
khá nhiều thành công.
Mặc dù các nghiên cứu trong nước chưa thực sự đa dạng, chưa đánh giá
được một cách đầy đủ và toàn diện về sinh khối nhưng những nghiên cứu ban
đầu về lĩnh vực này có ý nghĩa rất quan trọng, làm nền tảng
phục
vụ
cho
việc
xây
dựng
các
biện pháp, định
hướng
phát
triển
rừng,
đề
ra
biện
pháp
lâm
sinh
hợp
lý.
Công trình nghiên cứu về thảm thực vật rừng ở Việt Nam của Thái Văn
Trừng (những năm 1963, 1970, 1978). Theo ông “Có một nhân tố trong nhóm
sinh thái khí hậu đã khống chế và điều khiển quá trình tái sinh tự nhiên trong
thảm thực vật rừng, đó là nhân tố ánh sáng”. Nếu các điều kiện khác của môi
trường như: đất rừng, nhiệt độ, độ ẩm dưới tán rừng chưa thay đổi thì tổ hợp
các loài cây tái sinh không có những biến đổi lớn và cũng không diễn thế một
cách “hoàn toàn” trong không gian và thời gian như Obrevin đã nhận định.
6
6
7
Diễn thế theo phương thức tái sinh không có quy luật “nhân quả” giữa sinh
vật và hoàn cảnh.
Trần Đình Lý và các cộng sự (1996). Nghiên cứu xác định diện tích và
hệ thống biện pháp kỹ thuật cho việc khoanh nuôi phục hồi rừng. Nghiên cứu
đưa ra một cách nhìn hệ thống và toàn diện về biện pháp kỹ thuật khoanh nuôi
phục hồi rừng. Với việc phân biệt rõ ràng giữa rừng và thảm thực vật, nghiên
cứu đưa ra khái niệm khoanh nuôi phục hồi rừng là “quá trình lợi dụng triệt để
quy luật tái sinh và diễn thế tự nhiên với sự can thiệp hợp lý của con người
nhằm thúc đẩy quá trình phục hồi lại rừng trong một thời gian xác định theo
mục đích đặt ra”. Qua cách nhìn nhận đó xác định được đối tượng cụ thể cho
khoanh nuôi phục hồi rừng. Xác định thời gian khoanh nuôi và tiêu chuẩn cần
đạt của rừng khoanh nuôi. Xác định được nội dung công việc cần tiến hành
trong quá trình khoanh nuôi ở các mức độ khác nhau. Nghiên cứu đã xây dựng
được bản quy phạm cho khoanh nuôi phục hồi rừng và xây dựng được danh lục
sơ bộ gồm 155 loài cây bản địa có thể sử dụng cho việc khoanh nuôi và phục
hồi rừng. Đây là công trình đầu tiên ở việt nam đề cập một cách hệ thống từ cơ
sở khoa học đến quy phạm khoanh nuôi phục hồi rừng ở Việt Nam. Nghiên
cứu này mới chỉ dừng lại ở việc xây dựng quy phạm chưa xây dựng được quy
trình khoanh nuôi cụ thể cho từng vùng và từng loại hình rừng cụ thể.
Đào
Công
Khanh
(1996)
[7]
,
Bảo
Huy
(1993) [6]
đã
căn
cứ
vào
tổ
thành
loài
cây
mục
đích
để
phân
loại
rừng
phục
vụ
cho
việc
xây
dựng
các
biện pháp
lâm
sinh.
Lê
Sáu
(1996) [10] dựa
vào
hệ
thống
phân
loại
của
Thái
Văn
Trừng
kết
hợp
với
hệ
thống
phân
loại
của
Loeschau,
chia
rừng
ở
khu
vực
Kon
Hà Nừng
thành
6
trạng
thái.
Viện khoa học Lâm nghiệp (2001) [14] xây dựng chuyên đề về canh tác
nương rẫy. Chuyên đề đã giới thiệu các công trình nghiên cứu về đánh giá hiện
trạng canh tác nương rẫy ở Tây Nguyên (1998-1999) (Đỗ Đình Sâm và cộng
sự), canh tác nương rẫy của một số dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên (Võ Đại
Hải, Trần Văn Con, Nguyễn Xuân Quát và cộng sự), kết quả nghiên cứu xây
dựng mô hình canh tác nương rẫy theo hướng sử dụng đất bền vững ở Tây Bắc
(Ngô Đình Quế và cộng sự). Các tác giả đã phân tích khá sâu sắc về tập quán
7
7
8
canh tác nương rẫy ở Tây Nguyên và các chính sách, giải pháp sử dụng hợp lý
đất rừng. Giới thiệu kết quả bước đầu khảo nghiệm 4 mô hình sử dụng cây họ
đậu để làm tăng độ che phủ, phục hồi nhanh độ phì đất bỏ hoá và làm tăng
năng suất cây trồng nông nghiệp.
Lâm Phúc Cố (1994, 1996) [3], [4] nghiên cứu diễn thế rừng thứ sinh
sau nương rẫy ở Púng Luông, Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái đã phân chia
thành 5 giai đoạn và kết luận: diễn thế thứ sinh sau nương rẫy theo hướng đi
lên tiến tới rừng cao đỉnh. Tổ thành loài tăng dần theo các thời gian phát triển
từ 4 loài (dưới 5 năm) tăng dần lên 5 loài (trên 25 năm). Rừng phục hồi có
một tầng cây gỗ giao tán ở thời gian 10 tuổi và đạt độ tàn che 0,4.
Đặng Kim Vui (2002) [13] khi nghiên cứu cấu trúc rừng phục hồi sau
nương rẫy ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên với đối tượng là rừng phục hồi
tự nhiên ở các giai đoạn tuổi khác nhau, đã nghiên cứu về cấu trúc tổ thành
loài, cấu trúc dạng sống, cấu trúc hình thái, mật độ, độ phủ, của các trạng thái
rừng và kết luận: Tổng số loài cây của hệ sinh thái rừng phục hồi giảm dần khi
giai đoạn tuổi tăng lên, đồng thời số loài cây gỗ tăng dần, số loài cây cỏ, cây
bụi giảm nhanh. Theo quá trình phục hồi, trạng thái rừng có sự thay đổi về tầng
thứ và thành phần thực vật ở các tầng, ở giai đoạn cuối của quá trình phục hồi
(từ 10 - 15 tuổi) rừng có cấu trúc 5 tầng rõ rệt. Trên cơ sở đó tác giả đề xuất
một số giải pháp nâng cao hiệu quả phục hồi rừng sau nương rẫy.
Nghiên cứu về rừng thứ sinh phục hồi tự nhiên trên đất sau nương rẫy ở
tỉnh Sơn La tác giả Lê Đồng Tấn (2003) [11] cho biết kết cấu tổ thành rừng
thứ sinh phục hồi sau nương rẫy khá đơn giản. Được thể hiện ở hệ số tổ thành
của tổ hợp loài ưu thế cao, nhiều nơi chỉ 2 đến 3 loài đã chiếm ưu thế tuyệt
đối. Phân bố cây trên mặt đất là phân bố ngẫu nhiên, nhưng đối với từng loài
cây thì là phân bố cụm.
Vũ Tiến Hinh (1991) [5] Nghiên cứu đặc điểm quá trình tái sinh của
rừng tự nhiên ở Hữu Lũng (Lạng Sơn) và vùng Ba Chẽ (Quảng Ninh) đã nhận
xét: hệ số tổ thành tính theo % số cây của tầng tái sinh và tầng cây cao có liên
hệ chặt chẽ. Đa phần các loài có hệ số tổ thành tầng cây cao càng lớn thì hệ số
tổ thành tầng tái sinh cũng vậy.
8
8
9
Với sự trợ giúp của các chuyên gia Trung Quốc trong thời gian từ năm
1962 đến 1969, Viện điều tra - Quy hoạch rừng Việt Nam đã tiến hành điều
tra tái sinh tự nhiên trên một số tỉnh: Quảng Bình, Nghệ An, Yên Bái. Ô tiêu
chuẩn được lập với diện tích 2000m
2
cho từng trạng thái. Đo đếm cây tái sinh
trong ô dạng bản có diện tích từ 100 - 125m
2
, kết hợp điều tra theo tuyến. Từ
đó tiến hành phân chia trạng thái rừng và đánh giá tái sinh.
Vũ Đình Huề đã chia tái sinh ra làm 5 cấp: Rất tốt, tốt, trung bình, xấu
và rất xấu. Trong nghiên cứu này, việc đánh giá tái sinh mới chỉ dựa vào số
lượng chưa quan tâm đến chất lượng tái sinh.
Trong nghiên cứu tái sinh sau nương rẫy tại tỉnh Thái Nguyên và Bắc
Kạn. Phạm Ngọc Thường (2003) đã nhận xét phân bố tái sinh cây gỗ theo cấp
chiều cao có dạng một đỉnh và sử dụng hàm phân bố Weibull để mô phỏng
quy luật đó. Ngoài ra tác giả còn cho thấy mật độ cây tái sinh giảm dần theo
thời gian phục hồi rừng.
Khi phân tích “tiêu chuẩn khoanh nuôi” rừng, Nguyễn Luyện (1993)
đưa ra 3 nội dung: Tiêu chuẩn về điều kiện tự nhiên; Tiêu chuẩn về sinh vật
học và tiêu chuẩn về kinh tế - xã hội. Trong 3 tiêu chuẩn này, tiêu chuẩn về
kinh tế - xã hội là tiêu chuẩn khó xác định nhất.
Phục hồi rừng bằng phương thức khoanh nuôi chính là sự “tận dụng
triệt để khả năng tái sinh và diễn thế tự nhiên để tạo lại rừng, thông qua các
biện pháp ngăn chặn có tính chất hành chính các tác động từ bên ngoài như:
khai thác, chặt phá, chăn thả, lửa rừng… (Bộ Lâm nghiêp, 1998). Theo cách
định nghĩa này thì phục hồi rừng bằng khoanh nuôi thực chất là một giải pháp
kinh tế - xã hội trong đó bao hàm ý nghĩa lâm sinh học. Thể hiện ở chỗ phải
xác định tiêu chuẩn và điều kiện cho khoanh nuôi.
2.3. Tổng quan khu vực nghiên cứu
2.3.1. Điều kiện tự nhiên
2.3.1.1. Vị trí địa lý
Võ Nhai là huyện vùng cao của tỉnh Thái Nguyên, trung tâm huyện lỵ
cách trung tâm tỉnh lỵ 37 km.
- Phía Bắc giáp huyện Na Rì tỉnh Bắc Kạn.
9
9
10
- Phía Tây giáp huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn và huyện Đồng Hỷ tỉnh
Thái Nguyên.
- Phía Nam giáp huyện Yên Thế tỉnh Bắc Giang.
- Phía Đông giáp huyện Bắc Sơn tỉnh Lạng Sơn
Toàn Huyện có 14 xã và một thị trấn.
2.3.1.2. Đất đai địa hình
Huyện Võ Nhai có diện tích tự nhiên là 84.510,41 ha. Địa hình tương
đối phức tạp đồi gò xen lẫn núi cao bị chia cắt. Do vị trí địa lý, toàn huyện
được chia thành 3 tiểu vùng:
Tiểu vùng 1:
Gồm các xã dọc quốc lộ 1B là La Hiên, Lâu Thượng, Phú Thượng, thị
trấn Đình Cả. Thị trấn Đình Cả là trung tâm kinh tế - chính trị, văn hóa - xã
hội của huyện, tập trung các cơ quan nhà nước và là đô thị thuộc loại 5. Tiểu
vùng 1 có đường giao thông, địa hình dọc theo tuyến Quốc lộ 1B tương đối
bằng phẳng, có điều kiện thuận lợi để xây dựng đô thị và các điểm vệ tinh
phục vụ cho đô thị phát triển.
Tiểu vùng 2:
Gồm 5 xã phía nam là Tràng Xá và Bình Long được quy định quản lý
quy hoạch như đô thị loại 5. Tiểu vùng 2 có đường giao thông tỉnh lộ 265 từ
Đình Cả - Tràng Xá - Dân Tiến - Bình Long vơi huyện Hữu Lũng tỉnh Lạng
Sơn được đấu nối với Quốc lộ 1A; đường Tràng Xá - Liên Minh - Văn Hán
(Đồng Hỷ). Đây là khu vực nếu được đầu tư có điều kiện phát triển tương đối
thuận lợi.
Tiểu vùng 3:
Gồm 6 xã phía Bắc của huyện là Nghinh Tường, Sảng Mộc, Thượng
Nung, Vũ Chấn, Thần Sa, Cúc Đường. Có 2 trung tâm cụm xã là Cúc Đường
và Nghinh Tường được qui định quản lý quy hoạch như đô thị loại 5. Các xã
thuộc tiểu vùng 3 có địa hình núi đa vôi cao, hiểm trở, trong các năm gần đây
đã được Nhà nước quan tâm đầu tư cho cơ sở hạ tầng nhưng giao thông đi lại
vẫn còn rất khó khăn.
10
10
11
2.3.1.3. Đất đai và thổ nhưỡng
Võ Nhai là một huyện miền núi rộng lớn nhất tỉnh Thái Nguyên, nhưng
tiềm năng đất đai sử dụng cho mục đích sản xuất nông nghiệp không lớn, đất dành
cho phát triển đô thị và giao thông đã trở nên khan hiếm. Điều này ảnh hưởng trực
tiếp đến sự phân bố lại dân cư, khu cụm công nghiệp trong tương lai.
- Đất phù sa: 1.816 ha chiếm 2,16% diện tích tự nhiên của toàn huyện.
- Đất đen: 935,5 ha chiếm 1,11 % diện tích tự nhiên.
- Đất xám bạc màu: 63.917,7 ha chiếm 76,08% diện tích đất tự nhiên,
phân bố ở các thung lũng trên địa bàn tất cả các xã trong huyện.
- Đất đỏ: 3.770,80 ha, chiếm 4,49% diện tích tự nhiên.
- Các loại đất khác: 13.570,44 ha chiếm 16,16%.
2.3.1.4. Khí hậu thuỷ văn
* Khí hậu
Võ Nhai có khí hậu mang đặc điểm chung của khí hậu miền núi Bắc Bộ
đó là khí hậu nhiệt đới gió mùa hàng năm chia thành 2 mùa rõ rệt là mùa mưa
và mùa khô có những đặc điểm cơ bản như sau:
- Mùa mưa kéo dài từ tháng 4 đến tháng 10 tập trung chủ yếu vào tháng
6,7,8 chiếm trên 70% lượng mưa cả năm. Nhiệt độ trung bình ngày mùa này
là 27,8
0
C, số giờ nắng trung bình là 7,1 giờ/ngày.
- Mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, mùa này có nhiệt độ
trung bình ngày là 14,9
0
C, lượng mưa ít, số giờ năng trung bình là 3,8 giờ/ngày.
- Nhiệt độ chênh lệch giữa tháng nóng nhất (tháng 6: 28,9
0
C) với tháng
lạnh nhất (Tháng 1: 15,2
0
C) là 13,7
0
C. Tổng số giờ nắng dao động từ 1.300
đến 1.750 giờ và không đều cho các tháng trong năm.
2.3.2. Thực trạng phát triển các ngành kinh tế
2.3.2.1. Kinh tế nông nghiệp
* Trồng trọt
- Cây lương thực
Trọng tâm của sự phát triển cây lương thực là tăng cường việc áp dụng
các tiến bộ khoa học kỹ thuật về giống, thâm canh năng suất cao, tăng vụ để
tăng sản lượng và tăng hiệu quả kinh tế.
11
11
12
a. Lúa
Ổn định diện tích lúa nương, tận dụng các dải đất ven sông, suối, nơi có
điều kiện thủy lợi để mở rộng việc thâm canh lúa, tăng diện tích 2 vụ lúa ở
những vùng được nâng cấp, cải tạo thủy lợi đồng thời áp dụng những
giống
mới có năng suất cao, chất lượng tốt kết hợp với việc thâm canh cây lúa.
b. Ngô
Ổn định việc phát triển ngô trên diện tích đất bằng, ít dốc, đất sỏi bãi,
mở rộng diện tích ngô xuân trên đất lúa bỏ hoang vụ xuân, diện tích ngô đông
trên diện tích 2 vụ lúa.
c. Cây có củ:
Khoai lang và sắn là hai cây ăn củ chính được trồng chủ yếu để đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng và phục vụ chăn nuôi, cung cấp nguyên liệu cho công
nghiệp chế biến thức ăn gia súc trong và ngoài huyện.
d. Rau, đậu:
Hiện nay rau được trồng để cung cấp cho nhu cầu của nội huyện, một
số ít cung cấp cho thành phố Thái Nguyên. Diện tích trồng rau đậu phấn đấu
hàng năm đạt từ 1.100 - 1.200 ha, trong đó tập trung vào cây đỗ tương chất
lượng cao.
- Cây công nghiệp hàng năm.
a. Thuốc lá:
Là loại cây công nghiệp chủ lực trên địa bàn huyện Võ Nhai, được
trồng chủ yếu ở 3 xã Phú Thượng, Lâu Thượng, Bình Long.
b. Đỗ tương:
Đỗ tương là một trong những nông sản mũi nhọn của huyện trong
tương lai, đặc biệt là ở tiểu vùng 2 và 3.
c. Cây lạc
Cây lạc được bố trí gieo trồng rộng khắp trên địa bàn toàn huyện Võ Nhai
và trồng trong vụ xuân, còn vụ mùa chiếm 1/3 diện tích gieo trồng cả năm
- Cây lâu năm
a. Cây chè:
Thái nguyên là tỉnh có thương hiệu chè nổi tiếng trên khắp cả nước,
lượng chè trên địa bàn tỉnh hàng năm sản xuất ra khoảng 100.000 tấn chè búp,
12
12
13
trong đó lượng chè trên địa bàn huyện sản xuất ra là không nhỏ 3.080 tấn.
Chủ yếu đẩy mạnh việc phát triển chè tại các xã Tràng Xá, Liên Minh, Lâu
Thượng, La Hiên, Thần Sa Cần mở rộng diện tích trồng giống chè lai, chè
cành giống mới như LDP1, TRI777 để nâng cao chất lượng sản phẩm.
b. Cây ăn quả:
Trong giai đoạn 2011-2020 dự kiến quy hoạch vùng cây ăn quả hàng
hóa dự kiến như sau:
+ Mơ, mận, hồng: 100 ha bố trí ở cả 3 tiểu vùng
+ Nhãn, vải: 400 ha bố trí ở cả ba tiểu vùng.
+ Cam, quýt: 200 ha, trong đó vùng 1 bố trí 100-120 ha bằng giống cam
quýt Bắc Sơn.
+ Na, xoài: 40ha bố trí ở cả ba tiểu vùng, chủ yếu tập trung ở tiểu vùng 2, 3.
c. Cây đặc sản:
Dự kiến bố trí cây đặc sản ở tiểu vùng 1 và một ít ở tiểu vùng 3, nơi có
điều kiện thích hợp đối với cây trám trắng: 2.000 cây trám chủ yếu ở tiểu
vùng 3. Diện tích hồi, quế, trám bố trí chủ yếu trên đất lâm nghiệp và một
phần đất nông nghiệp có độ dày tầng đất, độ dốc thích hợp.
d. Cây lâu năm khác
Duy trì các loại cây lâu năm khác như hiện nay (175 ha). Bảng dưới đã
trình bày hiện trạng và dự báo diện tích, năng suất, sản lượng của một số cây
trồng chính của huyện Võ Nhai.
* Lâm nghiệp
Giai đoạn 2016-2020, tiếp tục đẩy mạnh công tác trồng rừng, chăm sóc
rừng và khai thác gỗ, sản lượng gỗ khai thác đạt khoảng 3.000 m
3
và khoảng
60.000 cây tre nứa và diện tích rừng đến năm 2020 là: 59.600 ha.
2.3.2.2. Tài nguyên rừng
* Tài nguyên rừng
Võ Nhai có 61.759,07 ha đất lâm nghiệp chiếm 73,57% so với tổng
diện tích đất tự nhiên. Hiện tại tài nguyên rừng huyện Võ Nhai còn nghèo,
phần lớn là rừng non mới phục hồi, mới trồng, trữ lượng còn ít nhưng với chủ
trương xã hội hóa lâm nghiệp, giao đất giao rừng cho dân, Nhà nước hỗ trợ
13
13
14
tích cực vốn và giống vì vậy trong tương lai gần tài nguyên rừng sẽ trở thành
thế mạnh trong phát triển kinh tế huyện Võ Nhai.
Trong đó:
+ Rừng đặc dụng: 17.300 ha
+ Rừng phòng hộ: 17.300 ha
+ Rừng sản xuất: 25.000 ha
2.3.3. Thực trạng cơ sở hạ tầng
2.3.3.1. Giao thông
Toàn huyện Võ Nhai có 638,7 km đường giao thông, trong đó đường
quốc lộ dài 28 km (QL 1B), đường tỉnh lộ có chiều dài 23,5 km kéo dài từ Đình
Cả đến Bình Long; 98,9 km đường giao thông liên huyện; 486,4 km đường giao
thông liên xã, đường nội thị Đình Cả 1,4 km.
Trên địa bàn huyện hiện nay có quốc lộ 1B chạy qua, phần chạy qua
huyện cơ bản đã được cải tạo nâng cấp, còn lại khoảng 10 km cần đưa vào kế
hoạch đầu tư nâng cấp trong thời gian tới, nhằm giảm bớt sự khó khăn cho
các phương tiện tham gia giao thông.
Tuyến đường từ thị trấn Đình Cả đi xã Bình Long đến nay đã trải nhựa
xong, nhưng còn một số cầu cống vẫn chưa hoàn thành, tuy nhiên đã giải
quyết rất nhiều khó khăn trong việc đi lại của nhân dân trong và ngoài huyện.
Các tuyến đường từ đường 1B vào các xã ở phía bắc như Thượng
Nung, Thần Xa, Nghinh Tường, Sảng Mộc trước đây đi lại rất khó khăn, hiện
nay đã được cải tạo nâng cấp, dải nhựa vì vậy ô tô đã đi vào được đến trung
tâm xã.
Các tuyến giao thông liên xã, liên thôn xóm cơ bản vẫn là các tuyến
đường đất, việc đi lại gặp rất nhiều khó khăn nhất là vào mùa mưa.
2.3.3.2. Thủy lợi
Được sự hỗ trợ của nhà nước và sự đóng góp của nhân dân, Võ Nhai đã
đầu tư xây dựng một số công trình thuỷ lợi vừa và nhỏ nhằm phục vụ tưới tiêu
cho sản xuất nông nghiệp, ngoài việc sử dụng nguồn nước thiên nhiên.
Toàn huyện có 54 công trình thuỷ lợi chính bao gồm: 8 hồ chứa, 36 đập
tràn và 24 trạm bơm, có tổng số 94,12 km kênh mương dẫn nước, trong đó
kênh xây kiên cố là 29,841 km, kênh đất là 64,28 km.
14
14
15
Các công trình thuỷ lợi tập trung đa số ở các vùng trung tâm và một số
xã phía Nam của huyện.
Lượng nước của 8 hồ chứa với các công trình thuỷ lợi được xây dựng
gần đây đã hỗ trợ rất lớn cho việc thâm canh tăng năng suất cây trồng, đảm
bảo tưới cho 3.526 ha.
Tuy nhiên do phần lớn các công trình thuỷ lợi của huyện đều có quy
mô nhỏ, diện tích tưới ít và phân tán. Khả năng tưới của các công trình còn
thấp là do:
+ Nguồn vốn hạn hẹp, không đủ để đầu tư đồng bộ.
+ Đa số các công trình đã xây dựng từ lâu lại không được thường xuyên tu
bổ đến nay đã hư hỏng nhiều, các đập dâng, hồ chứa nước bị rò rỉ, các cống lấy
nước bị hở gây thất thoát nước, giảm khả năng tích nước của các đập, hồ chứa.
+ Do hệ thống kênh mương, rạch dẫn nước tưới chạy dọc theo sông
suối, theo sườn núi lại không được xây dựng kiên cố (chủ yếu là bằng đất)
nên tổn thất trên kênh rất lớn và thường hay bị hư hoặc bồi đắp khi có mưa lũ,
hiệu suất sử dụng thấp so với thiết kế ban đầu.
+ Công tác quản lý thuỷ nông còn kém, việc tưới nước còn thiếu khoa
học, gây lãng phí đặc biệt là với vụ đông xuân. Khi lưu lượng nước ở các
sông suối giảm, khả năng tưới càng bị giảm sút mạnh.
+ Ý thức sử dụng nước, bảo vệ các công trình thuỷ lợi của người dân
còn chưa cao.
Như vậy để các công trình thuỷ lợi phát huy được hiệu quả, huyện cần
đầu tư vốn làm kiên cố, nâng cấp số công trình đã cũ, làm mới một số công
trình mới theo kế hoạch đã đề xuất. Phải có chính sách thu thuỷ lợi phí bắt
buộc để tái đầu tư và tăng cường công tác quản lý thuỷ nông.
2.3.3.3. Y tế
Võ Nhai là một huyện vùng cao của tỉnh Thái Nguyên nhưng đã có
100% số xã, thị trấn có Bác sỹ đang công tác tại Trạm Y tế trong toàn huyện.
Các trạm y tế xã đã có công tác y học cổ truyền, có vườn thuốc nam và điều
trị bệnh nhân theo phương pháp y học cổ truyền. Hiện nay có 10/15 xã đạt
chuẩn Quốc gia về Y tế, cơ sở nhà Trạm của các Trạm Y tế xã và thị trấn
được đầu tư xây mới, nâng cấp nên cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu khám
15
15
16
chữa bệnh cho nhân dân trong huyện. Hiện trạng cơ sở vật chất kỹ thuật trên
địa bàn huyện năm 2010 như sau:
+ Bệnh viện đa khoa huyện: 1 bệnh viện (có 80 giường bệnh), với đội
ngũ bác sỹ là 44 người.
+ Phòng khám đa khoa khu vực: Đến nay huyện đã có 2 phòng khám
đa khoa (tổng cộng có 10 giường bệnh), với đội ngũ y, bác sỹ là 10 người.
+ Trạm y tế xã: 15 trạm (có 75 giường bệnh).
Tính đến nay trên địa bàn huyện hiện có 41 bác sỹ, 36 y sỹ, 47 y tá, 17
nữ hộ sinh và 11 cán bộ ngành dược.
Các chương trình y tế quốc gia được tổ chức thực hiện tốt, phòng chống
tốt các dịch bệnh không để xảy ra những dịch bệnh lớn. Các chỉ số sức khoẻ
cộng đồng đã có nhiều tiến bộ. Chương trình tiêm chủng mở rộng đạt 99,6%,
tiêm AT cho phụ nữ có thai 1.036 người. Việc khám bệnh miễn phí cho người
nghèo, gia đình chính sách được quan tâm hơn, tỷ lệ người nghèo được khám
chữa bệnh miễn phí đạt 100%. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng
giảm từ 28,6 % (2006) xuống còn 24,0 % (2010). Cán bộ dân số đã làm tốt
công tác tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện công tác Dân số -
KHHGĐ nhằm ổn định dân số, giảm tỷ lệ sinh, đặc biệt là tỷ lệ sinh con thứ
3. Nâng cao chất lượng dân số góp phần vào xoá đói giảm nghèo của địa
phương, tỷ lệ phát triển dân số qua 5 năm đã và đang có xu hướng giảm
dần.Nhìn chung công tác chăm sóc sức khoẻ cho người dân trên địa bàn huyện
Võ Nhai là tốt, tuy nhiên bên cạnh đó ngành y tế cũng còn gặp nhiều khó khăn.
Hiện nay một số nhà trạm đã xuống cấp nghiêm trọng không đáp ứng được nhu
cầu chăm sóc sức khoẻ cho người dân trong xã, đặc biệt là khi người dân có nhu
cầu nằm điều trị tại trạm
2.3.3.4. Văn hoá, thông tin, thể dục thể thao
Trong giai đoạn 2006-2010, hàng năm các hoạt động văn hóa văn nghệ
thường xuyên được tổ chức từ huyện xuống xã, đặc biệt phục vụ đồng bào ở
vùng sâu, vùng xa. Văn hóa dân tộc truyền thống đã được xây dựng, được
nghiên cứu và phục hồi nhằm giữ gìn bản sắc văn hóa, di tích lịch sử dân tộc.
Nếp sống văn minh trong cưới xin, việc tang, lễ hội và các hoạt động
tôn giáo tín ngưỡng đã được xây dựng. Đồng thời vận động phong trào toàn
16
16
17
dân xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa luôn được đặt lên hàng
đầu. Năm 2010 toàn huyện Võ Nhai tỷ lệ hộ đăng ký gia đình đạt chuẩn văn
hoá là 77 %; tỷ lệ làng, xóm, khu phố đạt chuẩn văn hoá là 53,4 %; tỷ lệ cơ
quan, đơn vị đạt chuẩn văn hoá là 78 %.
Hiện nay trên địa bàn huyện đã có 01 nhà văn hoá cấp huyện, 03 nhà
văn hoá cấp xã, 141/172 xóm có nhà văn hoá. Phong trào thể dục thể thao
luôn được đẩy mạnh, hàng năm huyện luôn tổ chức một số giải đấu cầu lông,
bóng đá, bóng chuyền, cấp huyện và cấp xã, thu hút đông đảo vận động viên
tham gia, và nhân dân hưởng ứng.
Hệ thống phát thanh và truyền hình huyện đã phát triển khá toàn diện.
Hiện nay, huyện Võ Nhai đã có 3 trạm tiếp sóng truyền hình được đầu tư xây
dựng ở cả ba vùng. Trong những năm qua, công tác thông tin, phát thanh
truyền hình huyện đã thực hiện tốt vai trò cùng với đài truyền hình quốc gia,
đài truyền hình tỉnh đã tuyên truyền đường lối, chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước, có sức hấp dẫn, được đông đảo quần chúng tiếp nhận.
Tính đến nay huyện Võ Nhai đã có 15/15 thư viện, tủ sách xã, thị trấn
hoạt động. Tuy nhiên do điều kiện về cơ sở vật chất của một số xã thư viện, tủ
sách chưa phát huy được hết tác dụng, hiệu quả tuyên truyền chưa cao.
Hiện nay đội ngũ cán bộ phòng Văn hoá còn quá mỏng, chính vì thế
việc bố trí cán bộ đến cơ sở trong các hoạt động thường niên là rất khó khăn.
Đội ngũ cán bộ xã còn kiêm nhiệm nhiều việc, trình độ văn hoá cũng như
chuyên môn chưa đồng đều.
2.3.3.5. Thương mại, dịch vụ
* Thương mại
Phát triển thị trấn Đình Cả thành một trung tâm giao dịch thương mại,
bán buôn, bán lẻ, xúc tiến thị trường, vận động đầu tư lớn của huyện Võ Nhai
và phát triển thương mại giao lưu buôn bán với các xã trọng điểm dọc theo
quốc lộ 1B. Xây dựng hệ thống thương mại của huyện theo hướng văn minh,
hiện đại. Các nhiệm vụ cụ thể cần thực hiện theo định hướng này là:
17
17
18
* Dịch vụ
- Dịch vụ bưu chính - viễn thông
Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin, nhanh chóng đổi mới,
đảm bảo thông tin liên tục, thông suốt, an toàn, văn minh, tiện lợi.
Phát triển mạng bưu cục, kiốt, điểm bưu điện một cách hợp lý; nâng
cao chất lượng dịch vụ bưu chính; phát triển các dịch vụ mới; tăng cường cơ
sở vật chất kỹ thuật.
Đẩy nhanh và mở rộng mạng điện thoại, kết nối Internet rộng rãi, toàn
huyện máy điện thoại khoảng 30 máy trên 100 người dân vào năm 2020.
Duy trì và mở rộng việc cung cấp các dịch vụ công ích (thông tin
cứu hỏa, thông tin cứu nạn, cấp cứu y tế, thông tin khẩn cấp về an ninh trật
tự xã hội, ).
Đảm bảo đến năm 2015 ít nhất 85 % số xã có điểm truy nhập Internet
công cộng và nâng tỷ lệ này lên 100 % vào năm 2020.
- Dịch vụ du lịch
* Định hướng chung phát triển du lịch ở Võ Nhai đến năm 2020
Thị trường du lịch: Tập trung khai thác theo thứ tự ưu tiên các thị
trường sau: khách du lịch từ Hà Nội; khách trong tỉnh và một số tỉnh lân cận.
Sản phẩm du lịch: Du lịch sinh thái; du lịch lịch sử đặc biệt là “Du lịch
về chiến khu xưa”; du lịch văn hóa - lễ hội - làng nghề.
Đầu tư vào du lịch: Tạo ra hệ thống cơ sở vật chất du lịch có chất
lượng tốt, khá đồng bộ; đa dạng hóa, tạo nhiều sản phẩm du lịch đặc thù có
khả năng cạnh tranh; kéo dài thời gian lưu trú và tăng mức chi tiêu của khách;
khai thác, bảo vệ, tôn tạo và phát triển nguồn tài nguyên và cải thiện môi
trường du lịch.
Khu vực ưu tiên đầu tư: Hang Phượng Hoàng - Suối Mỏ Gà, Khảo cổ
Thần Sa, Rừng Khuôn Mánh, Hang Huyện, Chùa Hoài.
Hướng hợp tác du lịch: Hình thành được tour du lịch dọc theo Quốc lộ
1B, điểm du lịch và các tuyến du lịch, liên kết giữa các điểm, khu du lịch nội
vùng, liên kết vùng.
- Dịch vụ vận tải, kho bãi
Với dự báo tăng trưởng kinh tế cao hơn hẳn giai đoạn hiện tại và những
bước đột phá trong phát triển một số ngành, lĩnh vực của huyện trong thời kỳ
18
18
19
quy hoạch, ngành dịch vụ vận tải, kho bãi có rất nhiều cơ hội để phát triển.
Chiều hướng phát triển vận tải chủ yếu trên địa bàn huyện Võ Nhai chủ yếu là
vận tải đường bộ, vì vậy cần nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải để đáp ứng
ngày càng tốt hơn nhu cầu vận chuyển hàng hóa và hành khách của huyện,
vùng. Tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia cung ứng dịch vụ
vận tải.
Kết hợp chặt chẽ sự phát triển dịch vụ vận tải với sự phát triển du lịch.
- Dịch vụ tài chính - ngân hàng, bảo hiểm
Dịch vụ tài chính - ngân hàng
Dịch vụ tài chính, ngân hàng là dịch vụ nền tảng. Tuy nhiên, các dịch
vụ này ở Võ Nhai hiện chưa đa dạng và chưa bao trùm hết các nhu cầu thực tế
của doanh nghiệp. Hướng phát triển trong tương lai là:
Xây dựng dịch vụ ngân hàng đa năng, hiệu quả, phù hợp với hệ thống
ngân hàng cả nước. Tạo thuận lợi để các ngân hàng trong nước thành lập các văn
phòng giao dịch tại Võ Nhai.
Hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật, tăng cường hợp tác, nâng chất
lượng, trình độ các dịch vụ tài chính, ngân hàng đạt tới các tiêu chuẩn của tỉnh
và của cả nước.
Thu hút các thành phần kinh tế tham gia thị trường dịch vụ tài chính, ngân
hàng. Đổi mới phong cách giao tiếp trong hệ thống tài chính ngân hàng để các
dịch vụ này được cung cấp theo một phong cách thực sự văn minh, hiện đại và
lịch sự.
Dịch vụ bảo hiểm
Phổ cập dịch vụ bảo hiểm trong mọi hoạt động kinh tế, xã hội. Dự kiến
tốc độ tăng trưởng doanh thu phí bảo hiểm bình quân khoảng 20 - 25 %/năm.
Mở rộng và phát triển đa dạng các dịch vụ bảo hiểm. Khai thác có hiệu
quả thị trường bảo hiểm đối với cả cá nhân và doanh nghiệp, tổ chức, nhất là
trong giai đoạn 2011 - 2020 khi nhu cầu đối với dịch vụ này lớn hơn do nền
kinh tế tỉnh đạt trình độ phát triển cao hơn. Mở rộng các loại dịch vụ bảo
hiểm trong mọi lĩnh vực sản xuất, đời sống, tập trung vào dịch vụ bảo hiểm
vận tải, bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu, bảo hiểm tiền gửi/tiền vay, bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm y tế tự nguyện. Có cơ chế ưu đãi để
khuyến khích sự phát triển dịch vụ bảo hiểm nông dân.
19
19
20
2.3.3.6. Thành phần dân tộc, dân số
Theo số liệu thống kê của huyện đến năm 2010 trên địa bàn huyện có
64.958 nhân khẩu, bao gồm 8 dân tộc anh em sinh sống, trong đó: Người Tày,
Nùng chiếm 21%; Người Kinh chiếm: 38 %; Người dân tộc thiểu số khác chiếm:
41 %. Dân số trung bình của huyện Võ Nhai tăng bình quân 1,42 % /năm
- Số người sống ở thành thị: 3.526 người, chiếm 5,48 %
- Số người sống ở nông thôn: 60.816 người, chiếm 94,52 %
- Dân số nữ: 32.265 người, chiếm 49,67 %
- Dân số Nam: 32.693 người, chiếm 50,33 %
- Dân cư huyện Võ Nhai phân bố không đồng đều, ở vùng cao và vùng
núi dân cư rất thưa thớt, trong khi đó ở vùng thành thị dân cư lại dày đặc. Mật
độ dân số bình quân là 77,37 người/km
2
, cao nhất là ở thị trấn Đình Cả
(352,08 người/km
2
), thấp nhất là ở xã Thần Sa (23,45 người/km
2
). Mật độ dân
số này thuộc loại thấp so với các huyện khác trong tỉnh Thái Nguyên.
2.3.3.7. Thực trạng phát triển các khu dân cư
Mục tiêu của việc phát triển kinh tế - xã hội là đem lại mức sống cao về
vật chất, tinh thần cho cộng đồng dân cư của huyện. Việc phát triển các điểm
dân cư và phát triển nông thôn vừa có tác dụng trực tiếp đối với mức sống,
vừa có tác dụng gián tiếp đối với việc tạo ra những thuận lợi cho cơ sở hạ
tầng (giao thông, điện, cấp thoát nước), vì vậy hướng tác động chính trong
tương lai là:
- Bố trí các cụm, tuyến dân cư tập trung, tiện lợi cho xây dựng cơ sở hạ
tầng phục vụ sinh hoạt và sản xuất.
- Từng bước kiên cố hóa nhà ở tiến tới xây dựng theo hướng khang
trang và tiện nghi, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Hiện nay các điểm dân cư phân bố chủ yếu ven quốc lộ và tuyến đường
liên xã. Dự kiến sẽ tiếp tục phát triển các điểm dân cư trên các tuyến đường
trục, thu hút các hộ sống rải rác trong các khu vực sản xuất vào các điểm dân
cư tập trung. Xây dựng thêm các điểm dân cư tiếp nhận dân.
Hiện nay toàn huyện mới có 60 % nhà kiên cố và bán kiên cố. Dự kiến năm
2010 sẽ nâng lên 70 %, năm 2015 sẽ nâng lên 85 % và đến năm 2020 đạt 95 %
nhà kiên cố và bán kiên cố.
20
20
21
Phần 3
ĐỐI TƯỢNG, ĐỊA ĐIỂM, NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng, phạm vi và giới hạn nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Cây tái sinh phục hồi tự nhiên trạng thái
rừng IIB.
- Phạm vi và giới hạn nghiên cứu: Cây tái sinh dưới tán rừng phục hồi
trạng thái IIB tại 2 xã: Liên Minh và Tràng Xá,huyện Võ Nhai, tỉnh Thái
Nguyên. Nghiên cứu về một số đặc điểm cấu trúc tổ thành cây tái sinh (tần số
xuất hiện, độ phong phú loài, xác định tính đa dạng loài); quy luật phân bố số
loài, số cây theo cấp chiều cao; những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cây
tái sinh trong trạng thái thảm thực vật trạng thái rừng IIA tại huyện Võ Nhai.
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Địa điểm: Xã Liên Minh và xã Tràng Xá, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái
Nguyên.
- Thời gian: Tiến hành từ tháng 01/2012 đến tháng 05/2012.
3.3. Nội dung nghiên cứu
- Khái quát đặc điểm cấu trúc tầng cây gỗ
- Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc cây tái sinh
+ Đặc điểm cấu trúc tổ thành, mật độ cây tái sinh.
+ Chất lượng và nguồn gốc cây tái sinh và tỷ lệ cây tái sinh triển vọng.
+ Đánh giá chỉ số đa dạng sinh học (Shannon - Weaver).
+ Chất lượng và nguồn gốc cây tái sinh.
- Nghiên cứu quy luật phân bố cây tái sinh
+ Phân bố số cây theo cấp chiều cao.
+ Phân bố loài cây theo cấp chiều cao.
- Ảnh hưởng của một số nhân tố đến tái sinh tự nhiên
+ Ảnh hưởng của yếu tố đất đến tái sinh rừng.
+ Ảnh hưởng của yếu tố địa hình đến tái sinh rừng.
+ Ảnh hưởng của yếu tố con người đến tái sinh rừng.
- Đề xuất một số giải pháp kỹ thuật lâm sinh cho trạng thái trạng thái
rừng IIA tại khu vực nghiên cứu.
21
21
22
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Phương pháp luận
Vận dụng quan điểm sinh thái phát sinh quần thể trong thảm thực vật
rừng nhiệt đới của Thái Văn Trừng (1978) [12]: Thảm thực vật rừng là tấm
gương phản chiếu một cách trung thành nhất mà lại tổng hợp được các điều
kiện của hoàn cảnh tự nhiên đã thông qua sinh vật để hình thành những quần
thể thực vật. Thảm thực vật tái sinh tự nhiên phản ánh ảnh hưởng tổng hợp
của các nhân tố sinh thái đến quá trình phục hồi rừng thứ sinh.
Đề tài đã sử dụng phương pháp điều tra ô tiêu chuẩn đại diện ở trạng
thái thảm thực vật rừng đã chọn, số liệu đảm bảo tính đại diện, khách quan và
chính xác. Đề tài sử dụng các phương pháp phân tích số liệu truyền thống, các
mô hình đã được kiểm nghiệm, đảm bảo tính khoa học.
3.4.2. Phương pháp thu thập số liệu
3.4.2.1. Tính kế thừa
- Những tư liệu về điều kiện tự nhiên, khí hậu, thuỷ văn, đất đai, địa
hình, tài nguyên rừng.
- Tư liệu về điều kiện dân sinh, kinh tế, xã hội.
- Những kết quả nghiên cứu có liên quan đến đề tài như: Kết quả điều
tra hệ thực vật và thảm thực vật rừng tại khu vực nghiên cứu.
3.4.2.2. Thu thập số liệu
Để mô tả một quần xã thực vật, số liệu cần phải được thu thập trên
một số ô gọi là ô tiêu chuẩn (OTC) có tổng diện tích đủ lớn. Việc áp dụng
phương pháp điều tra theo OTC đang được áp dụng rộng rãi trên thế giới
cũng như trong nước áp dụng rộng rãi khi nghiên cứu về rừng nhiệt đới
như: H. Lamprecht (1969), Lâm Phúc Cố (1994, 1996), Lê Đồng Tấn
(2003) tiến hành điều tra thành phần loài cây trên diện tích OTC 400 m
2
;
Trần Xuân Thiệp (1995), Phạm Ngọc Thường (2001) sử dụng OTC có diện
tích từ 500 m
2
trở lên.
* Đối với ô tiêu chuẩn tạm thời: Diện tích OTC: 2500 m
2
(50 m x 50 m),
hình dạng OTC phụ thuộc vào địa hình.
- Phân bố: OTC đặt ngẫu nhiên, đại diện cho địa hình, độ dốc, điều kiện
thổ nhưỡng khác nhau. Các OTC được đánh dấu ngoài hiện trường thông qua
hệ thống cột mốc gồm 4 cột đặt ở 4 góc của ô. Phần trên mặt đất 0,5m ghi rõ
số hiệu OTC và hướng xác định các góc còn lại.
22
22
23
- Thu thập số liệu: Trong trạng thái lập 3 OTC. Trong mỗi ô, thống kê
các chỉ tiêu tầng cây gỗ như sau:
+ Đo đường kính với những cây gỗ có D
1.3
≥ 6 cm bằng thước kẹp kính
hoặc thước đo chu vi sau đó quy đổi ra đường kính.
+ Đo chiều cao H
vn
và H
dc
bằng thước sào đo cao chia vạch đến 0,1 m.
+ Đo đường kính tán D
t
theo hướng ĐT - NB sau đó lấy giá trị trung bình.
* Đối với ô thứ cấp:
Trong OTC, lập 5 ô thứ cấp 25 m
2
(5 m x 5 m) trong đó 4 ô ở 4 góc và
1 ở giữa. Điều tra thống kê toàn bộ những cây tái sinh có D
1.3
< 6 cm vào
phiếu điều tra theo các chỉ tiêu:
- Tên loài cây tái sinh, loài nào chưa rõ thì thu thập tiêu bản để giám định.
- Đo chiều cao cây tái sinh bằng thước sào.
- Chất lượng cây tái sinh:
+ Cây tốt: Là cây có thân thẳng, không cụt ngọn, sinh trưởng phát triển
tốt, không sâu bệnh.
+ Cây xấu là những cây cong queo, cụt ngọn, sinh trưởng phát triển
kém, sâu bệnh, còn lại là những cây có chất lượng trung bình.
- Xác định nguồn gốc cây tái sinh (tái sinh chồi, hạt).
- Điều tra khoảng cách giữa các cây tái sinh: Trên OTC thứ cấp, chọn
cây tái sinh bất kỳ, đo khoảng cách từ cây tái sinh đã chọn đến cây tái sinh
gần nhất bằng thước dây với độ chính xác đến cm. Mỗi trạng thái phục hồi đo
30 khoảng cách, kết quả ghi vào phiếu điều tra khoảng cách cây tái sinh.
Hình 3.01. Hình dạng, kích thước OTC và sơ đồ bố trí ô thứ cấp
23
23
24
Ô dạng bản được bố trí trong OTC
* Đối với ô dạng bản: Trong một ô thứ cấp, lập 1 ô dạng bản 1 m
2
(1 m
x 1m) ở chính giữa để điều tra đất và vật rơi rụng và điều tra cây bụi, dây leo
và thảm tươi. Thành phần loài lớp cây bụi, dây leo và thảm tươi được xác
định tên.
* Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tái sinh tự nhiên
- Ảnh hưởng của địa hình đến tái sinh tự nhiên: Các yếu tố địa hình
(chân, sườn, đỉnh) được xác định thông qua việc lập ô sơ cấp.
+ Xác định hướng phơi (Đ, T, N, B) bằng địa bàn cầm tay.
+ Đo cấp độ dốc (3 cấp độ dốc Cấp I: 10 - 15
0
; Cấp II: 15 - 20
0
; Cấp III
> 20
0
) trong các ô tiêu chuẩn sơ cấp bằng địa bàn cầm tay.
- Ảnh hưởng của con người đến tái sinh: Thể hiện thông qua tập quán
phát nương làm rẫy, canh tác nông nghiệp và chăn thả gia súc ở trạng thái
rừng IIB. Đây là áp lực lớn đối với việc khôi phục và phát triển rừng ở các
vùng núi cao.
Qua đó thấy được sự ảnh hưởng của nó đến mật độ, số loài, tỷ lệ cây
triển vọng, chất lượng cây tái sinh ở mỗi địa phương.
* Nghiên cứu phẫu diện đất và thảm mục
- Số lượng: 1 phẫu diện cho 1 OTC (Cứ một OTC được lập ta tiến
hành đào 1 phẫu diện)
- Chọn địa điểm đào phẫu diện: Đại diện cho OTC, nằm trong ô thứ
cấp, đánh dấu lên bản đồ địa hình.
- Quy định đào phẫu diện: Quy cách: Dài 120-150 cm, rộng 70-90 cm,
sâu 120-150 cm. (Nếu tầng đất mỏng, gặp tầng cứng rắn độ sâu cần đạt 80-
100 cm). Khi đào phẫu diện cần lưu ý:
+ Mặt phẫu diện để mô tả cần hướng về nơi ánh sáng mặt trời
+ Phía mặt mô tả sau khi đào đúng quy cách cần được làm phẳng, xén
cho thẳng góc.
+ Khi đào phẫu diện lớp đất mặt để riêng sang hai bên, không dẫm đạp
mặt phía trên làm mất trạng thái tự nhiên của đất.
- Mô tả phẫu diện:
+ Chụp ảnh cảnh quan và chụp hình thái phẫu diện
24
24
25
+ Địa điểm đào phẫu diện : huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên
+ Mô tả theo bản tả phẫu diện theo biểu mẫu 05.
- Xác định độ ẩm đất và chất lượng đất thông qua đào phẫu diện đất
(Phần ghi chú ở mẫu biểu 05).
- Đo đếm lượng hạt giống có trong tầng thảm mục: Xác định bằng cách
thu gom toàn bộ lớp thảm mục, sau đó dùng sàng để tách lọc và phân loại hạt
giống. Lượng hạt giống trong đất được tính bằng g/m
2
.
3.4.2.3. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
a. Tổ thành tầng cây gỗ
Tổ thành là chỉ tiêu biểu thị tỉ lệ mỗi loài hay nhóm loài tham gia tạo
thành rừng, tùy thuộc vào số lượng loài có mặt trong lâm phần mà phân chia
lâm phần thành rừng thuần loài hay hỗn loài, các lâm phần rừng có tổ thành
loài khác nhau thì chức năng phòng hộ, bảo vệ môi trường sinh thái và tính đa
dạng sinh học cũng khác nhau.
Để đánh giá đặc điểm cấu trúc tổ thành sinh thái của quần hợp cây gỗ,
chúng tôi sử dụng chỉ số mức độ quan trọng (Importance Value Index = IVI),
tính theo công thức:
2
(%)
DiAi
IVIi
+
=
(3.1)
Trong đó:
IVI
i
là chỉ số mức độ quan trọng (tỷ lệ tổ thành) của loài thứ i.
A
i
là độ phong phú tương đối của loài thứ i:
100(%)
1
x
Ni
Ni
Ai
s
i
∑
=
=
(3-2)
Trong đó: N
i
là số cá thể của loài thứ i; s là số loài trong quần hợp
D
i
là độ ưu thế tương đối của loài thứ i:
1
(%) 100
s
i
Gi
Di x
Gi
=
=
∑
(3-3)
Trong đó: G
i
là tiết diện thân của loài thứ i; s là số loài trong quần hợp
25
25