Tải bản đầy đủ (.docx) (51 trang)

Nghiên cứu một số đặc điểm tái sinh tự nhiên rừng phục hồi trạng thái IC tại huyện võ nhai tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.06 KB, 51 trang )

1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Từ xa xưa ông cha ta đã biết tầm quan trọng của rừng và có câu “rừng
vàng biển bạc”. Rừng có sự ảnh hưởng rất lớn trong đời sống của con người
từ thủa khai sơn lập địa. Rừng bảo vệ con người trước thiên tai, là nguồn cung
cấp các nhu cầu hằng ngày của con người và là tấm lá chắn thép trước quân
thù. Rồi khi khoa học hiện đại phát triển rừng có thêm một chức năng vô cùng
quan trọng - chức năng không thể thiếu đó là “lá phổi xanh của trái đất”. Thế
nhưng một thực trạng đã và đang xảy ra đó là mỗi năm thế giới mất đi 20
triệu ha rừng (theo kết quả nghiên cứu IUCN, UNDP và WWB (năm 1993)).
Có rất nhiều nguyên nhân khiến rừng mất đi nhưng chủ yếu do các nguyên
nhân như: đốt rừng làm nương rẫy (50%), cháy rừng (23%) và do khai thác
(5% - 7%) còn lại là do các nguyên nhân khác [4].
Ở Việt Nam, rừng và đất rừng chiếm ¾ tổng diện tích đất tự nhiên.
Nhưng hiện nay mật độ che phủ giảm đi rõ rệt, có thể nhìn thấy qua số liệu
thống kê như sau:
Năm 1943 độ che phủ là 43%, năm 1993 là 28%, năm 1999 là 33,2%
(theo thống kê của Viện Điều Tra Quy Hoạch Rừng năm 1995).
Mất rừng dẫn tới những hậu quả vô cùng to lớn, ảnh hưởng nặng nề tới
đời sống con người ở hiện tại và trong tương lai. Mất rừng dẫn tới hạn hán lũ
lụt và hệ quả của nó là nghèo đói và bệnh tật. Mất rừng là mất đi nguồn sống
của chính chúng ta, con người sẽ không tồn tại nếu mất hết rừng. Vì thế tái
sinh phục hồi rừng là nhiệm vụ to lớn, quan trọng và vô cùng cấp thiết của
ngành lâm nghiệp Việt Nam cũng như các nước khác trên toàn thế giới.
Chỉ có phục hồi lại rừng thì mới đảm bảo tương lai cho thế hệ mai sau
được bền vững. Nhưng phục hồi rừng là quá trình sinh địa hết sức phức tạp
bao gồm nhiều giai đoạn, qua một khoảng thời gian dài và cuối cùng xuất
hiện thảm cây gỗ bắt đầu khép tán. Tùy vào địa hình, địa mạo, điều kiện kinh
tế của khu vực mà con người sử dụng các biện pháp tác động vào quá trình


phục hồi. Theo đó chia ra thành các giải pháp phục hồi như sau: tái sinh tự
nhiên, xúc tiến tái sinh tự nhiên và tái sinh nhân tạo.
1
2
Tuy nhiên tái sinh tự nhiên chưa được thực hiện trên diện rộng vì rừng
nhiệt đới nước ta là một tổng thể phức tạp và đa dạng nên chỉ tập trung nghiên
cứu được ở một vùng, một mảng hay một điểm nhất định.
Từ tất cả các vần đề nêu trên tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên
cứu một số đặc điểm tái sinh tự nhiên rừng phục hồi trạng thái IC tại
huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá thực trạng về khả năng tái sinh tự nhiên ở trạng thái rừng phục
hồi IC tại huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên làm cơ sở khoa học đề xuất các
giải pháp xúc tiến quá trình phục hồi nhằm nâng cao chất lượng rừng và đưa
ra các giải pháp kĩ thuật lâm sinh để phục vụ cho quá trình phục hồi rừng sau
nương rẫy.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
Góp phần nghiên cứu quá trình tái sinh tự nhiên làm cơ sở khoa học cho
việc đề xuất các giải pháp kĩ thuật lâm sinh thúc đẩy quá trình diễn thế, nâng
cao chất lượng rừng và đất rừng.
1.4. Ý nghĩa của đề tài
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu
Góp phần củng cố phương pháp nghiên cứu khoa học cho sinh viên,
giúp sinh viên học đi đôi với hành, vận dụng sách vở và những điều được
giảng dạy trên lớp vào thực tế một cách hiệu quả. Giúp sinh viên nắm vững
các kiến thức đã học áp dụng vào thực tiễn sản xuất lâm nghiệp, là tiền đề cho
các nghiên cứu tiếp theo.
1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Phục hồi rừng để bảo vệ nguồn gen, duy trì tính đa dạng và cân bằng
sinh thái. Đồng thời làm sáng tỏ đặc điểm tái sinh và khả năng phục hồi tự

nhiên của thảm thực vật tại huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên.
- Do chưa có bất cứ đề tài nào nghiên cứu về khả năng tái sinh tự nhiên
rừng phục hồi IC tại huyên Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên nên khả năng áp dụng
vào thực tiễn của đề tài cao.
2
3
Phần 2
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở khoa học về tái sinh phục hồi rừng
2.1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
Rừng IC là đất trống đồi núi trọc có cây bụi xen cây gỗ (các cây gỗ tái
sinh có độ tàn cho 10% với mật độ cây gỗ tái sinh có chiều cao lớn hơn 1 mét
đạt từ 1000 cây/ha trở lên) (theo Nguyễn Thanh Tiến và cs, 2008) [11].
Tái sinh tự nhiên là quá trình tạo thành thế hệ rừng mới bằng con đường
tự nhiên về cơ bản không có sự tác động của con người. Kết quả của phương
thức tái sinh tự nhiên này phụ thuộc vào quy luật khách quan của tự nhiên.
2.1.2. Cơ sở khoa học nghiên cứu tái sinh phục hồi rừng
Như ta đã biết thuật ngữ tái sinh là chỉ lớp cây thế hệ non của tầng cây
gỗ, sống và phát triển dưới tán rừng. Là đối tượng thay thế tầng cây gỗ phía
trên khi tầng cây này được khai thác. Tái sinh tự nhiên ta có thể hiểu theo
nghĩa như sau: tái có nghĩa là diễn tả sự lặp lại của toàn bộ quần xã sinh vật
giống như nó đã từng xuất hiện trong tự nhiên, sinh có nghĩa là phục hồi lại,
làm sống lại cái gì đã bị suy thoái, xáo trộn một cách tự nhiên không chịu tác
động của con người.
Phùng Ngọc Lan (1986) [5] tái sinh rừng được hiểu theo nghĩa rộng là
sự tái sinh của cả hệ sinh thái rừng, theo nghĩa hẹp là quá trình phục hồi lại
thành phần cơ bản của rừng.
Đối với rừng nhiệt đới thì các nhân tố sinh thái như nhân tố ánh sáng
(thông qua độ tàn che của rừng), độ ẩm của đất, kết cấu quần thụ, cây bụi,
thảm tươi là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tái sinh rừng,

cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, đề cập đến vấn đề này. Tác
giả Baur G. N. (1976) [3] cho rằng: “sự thiếu hụt ánh sáng ảnh hưởng đến
phát triển của cây con, còn đối với sự nảy mầm và phát triển của cây mầm
ảnh hưởng này thường không rõ ràng và thảm cỏ, cây bụi có ảnh hưởng đến
sinh trưởng của cây tái sinh. Ở những quần thụ kín tán, thảm cỏ và cây bụi
kém phát triển nhưng chúng vẫn có ảnh hưởng đến cây tái sinh. Nhìn chung
ở rừng nhiệt đới, tổ thành và mật độ cây tái sinh thường khá lớn nhưng số
3
4
lượng loài cây có giá trị kinh tế thường không nhiều và được chú ý hơn,
còn các loài cây có giá trị kinh tế thấp thường ít được nghiên cứu, đặc biệt
là đối với tái sinh ở các trạng thái rừng phục hồi sau nương rẫy.
Trong nghiên cứu tái sinh rừng người ta nhận thấy rằng tầng cỏ và cây bụi
qua thu nhận ánh sáng, độ ẩm và các nguyên tố dinh dưỡng khoáng của tầng
đất mặt đã ảnh hưởng xấu đến cây con tái sinh của các loài cây gỗ. Những quần
thụ kín tán, đất khô và nghèo dinh dưỡng khoáng do đó thảm cỏ và cây bụi sinh
trưởng kém nên ảnh hưởng của nó đến các cây gỗ tái sinh không đáng kể.
Ngược lại, những lâm phần thưa, rừng đã qua khai thác thì thảm cỏ có điều
kiện phát sinh mạnh mẽ. Trong điều kiện này chúng là nhân tố gây trở ngại rất
lớn cho tái sinh rừng (Xannikov, 1967; Vipper, 1973) (theo Nguyễn Văn Thêm,
1992) [9].
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu thì hiệu quả tái sinh rừng được
xác định bởi mật độ, tổ thành loài cây, cấu trúc tuổi, chất lượng cây con, đặc
điểm phân bố. Sự tương đồng hay khác biệt giữa tổ thành lớp cây con và tầng
cây gỗ đã được nhiều nhà khoa học quan tâm (Mibbre-ad, 1930; Richards,
1952; Baur G.N, 1964; Rollet, 1969). Do tính phức tạp về tổ thành loài cây,
trong đó chỉ có một số loài cây có giá trị nên trong thực tiễn người ta chỉ khảo
sát những loài cây có ý nghĩa nhất định.
2.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
2.2.1. Những nghiên cứu về tái sinh tự nhiên trên thế giới

Như chúng ta đã biết tái sinh rừng là một quá trình sinh học mang tính
đặc thù của hệ sinh thái rừng, biểu hiện của nó là sự xuất hiện của một thế hệ
cây con của những loài cây gỗ ở những nơi còn hoàn cảnh rừng như: dưới tán
rừng, lỗ trống trong rừng, đất rừng sau khai thác, đất rừng sau nương rẫy. Vai
trò lịch sử của lớp cây tái sinh là thay thế thế hệ cây già cỗi. Vì vậy, tái sinh
rừng được hiểu theo nghĩa hẹp là quá trình phục hồi thành phần cơ bản của
rừng chủ yếu là tầng cây gỗ.
Theo Baur G. N. (1976) tái sinh phục hồi rừng là “phát triển một loạt
những biện pháp xử lí để thu được tái sinh, ở điều kiện cường tráng và lành
mạnh, đưa lớp cây tái sinh này đến tuổi thành thục là nền tảng của một
phương thức lâm sinh và phương thức này đến lượt nó lại là một trong những
cơ sở chủ yếu để kinh doanh rừng với một phương pháp bền vững”.
4
5
Trong những năm gần đây việc nghiên cứu về rừng tự nhiên đã được
nhiều tác giả trong và ngoài nước quan tâm. Nhìn chung những nghiên cứu
này mới chỉ dừng lại ở việc xây dựng các mô hình chuẩn làm cơ sở khoa học
và lý luận cho công tác kinh doanh rừng.
Tuy vậy đối tượng rừng tự nhiên rất đa dạng, phong phú và phức tạp về
tổ hình loài cây, tầng tán… mỗi vùng địa lý khác nhau hình thành nên một
kiểu rừng riêng cho nên vấn đề nghiên cứa về cấu trúc còn gặp rất nhiều khó
khăn, trở ngại.
Quá trình tái sinh tự nhiên ở rừng tự nhiên vô cùng phức tạp và còn ít
được quan tâm nghiên cứu. Phần lớn tài liệu nghiên cứu về tái sinh tự nhiên
của rừng mưa chỉ tập trung vào một số loài cây có giá trị kinh tế dưới điều
kiện rừng ít nhiều đã bị biến đổi Van Steenis J. (1965) đã nghiên cứu hai đặc
điểm tái sinh phổ biến của rừng mưa nhiệt đới là tái sinh phân tán liên tục của
các loài cây chịu bóng và tái sinh vệt của các loài cây ưu sáng.
Nghiên cứu tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt đới Châu Phi Obrevin (1938)
nhận thấy “cây con của loại cây ưu thế trong rừng mưa có thể cực hiếm hoặc

vắng hẳn” mà ông gọi hiện tượng “không bao giờ sinh đẻ con cái” của cây mẹ
trong thành phần cây gỗ ở rừng mưa. Tổ thành loài cây mẹ ở tầng trên và tổ
thành loài cây tái sinh ở tầng dưới thường khác nhau rất nhiều.
Đối với rừng nhiệt đới quá trình tái sinh tự nhiên có nhiều điểm khác
biệt. Van Steenis (1956) (theo Phùng Ngọc Lan) đã nêu hai đặc điểm tái sinh tự
nhiên phổ biến: tái sinh phân tán liên tục của loài cây chịu bóng và tái sinh vệt
của loài cây ưa sáng. Ông gọi những loài cây tiên phong là các loài cây tạm cư,
còn những loài cây mọc sau là những loài định cư hay định vị. Cách tái sinh để
hàn gắn các lỗ trong tán rừng được ví như cách hàn gắn các vết thương ở con
người, mà loài cây tạm thời thì giữ vai trò của bạch huyết làm đông máu.
Mangenot lại gọi những loài cây đó là những loài “làm liền vết sẹo”.
Một số đặc điểm tái sinh phổ biến, dễ nhận thấy theo Van Stennit
(1956) là “tái sinh phân tán liên tục”. Vì rừng mưa nhiệt đới có tổ thành loài
cây phức tạp, khác tuổi nên thời kì tái sinh của quần thể diễn ra quanh năm,
tạo tiền đề ra một thế hệ rừng mới hỗn loài khác tuổi.
5
6
Vấn đề tái sinh rừng nhiệt đới được thảo luận nhiều nhất là hiệu quả
các cách sử lý lâm sinh liên quan đến tái sinh của các loài cây mục đích ở các
kiểu rừng. Từ đó các nhà lâm sinh học đã xây dựng thành công nhiều phương
thức chặt tái sinh. Công trình của Walton, Bernard A. B., R. C-Wyatt Smith
(1950) với phương thức rừng đồng tuổi ở Mã Lai; Taylor (1954), Jones (1960)
với phương thức chặt dần tái sinh dưới tán rừng ở Nijêria và Gana. Nội dung
hiệu quả của từng phương thức đối với tái sinh đã được G. N. Baur (1976)
tổng kết trong tác phẩm cơ sở sinh thái học trong kinh doanh rừng.
Về phương pháp điều tra tái sinh tự nhiên, nhiều tác giả đã sử dụng
cách lấy mẫu ô vuông theo hệ thống của Lowdermilk (1927) với diện tích ô
đo đếm thông thường từ 1 đến 4 m
2
. Diện tích ô đo đếm nhỏ nên thuận lợi

trong điều tra nhưng số lượng ô phải đủ lớn mới phản ánh trung thực tình hình
tái sinh rừng. Để giảm sai số trong khi thống kê tái sinh tự nhiên, Barnard
(1950) đã đề nghị một phương pháp “điều tra chẩn đoán” mà theo đó kích
thước ô đo đếm có thể thay đổi tùy theo giai đoạn phát triển của cây tái sinh ở
các trạng thái rừng khác nhau.
Các công trình nghiên cứu về phân bố tái sinh tự nhiên rừng nhiệt đới
đáng chú ý là công trình nghiên cứu của P.W. Richards (1952), Bernard Rollet
(1974) tổng kết các kết quả nghiên cứu về phân bố số cây tái sinh tự nhiên đã
nhận xét: trong các ô có kích thước nhỏ (1 m x 1 m; 1 m x 1,5 m) cây tái sinh tự
nhiên có dạng phân bố cụm, một số ít có phân bố Poisson. Ở Châu Phi trên cơ sở
các số liệu thu thập Tayloer (1954), Barnard (1955) xác định số lượng cây tái
sinh trong rừng nhiệt đới thiếu hụt cần thiết phải bổ sung bằng trồng rừng nhân
tạo. Ngược lại, các tác giả nghiên cứu về tái sinh tự nhiên rừng nhiệt đới Châu Á
như Budowski (1956), Bava (1954), Atinot (1965) lại nhận định dưới tán rừng
nhiệt đới nhìn chung có đủ số lượng cây tái sinh có giá trị kinh tế, do vậy các
biện pháp lâm sinh đề ra cần thiết để bảo vệ và phát triển cây tái sinh có sẵn dưới
tán rừng (theo Nguyễn Duy Chuyên, 1995).
Để xác định mật độ cây tái sinh có nhiều phương pháp khác nhau như :
Phương pháp ô dạng bản theo hệ só kích thước (1 - 4 m
2
) hoặc điều tra theo dải
hẹp với ô có kích thước (10 -100 m
2
) (Lowdermilk 1927). Các nhà nghiên cứu
đều có chung một quan điểm thống nhất là hiệu quả tái sinh rừng được xác định
6
7
bởi mật độ, tổ thành loài cây, cấu trúc tuổi, chất lượng cây con, đặc điểm phân bố
và độ dài của thời kì tái sinh rừng. Sự tương đồng hay khác biệt giữa tổ thành lớp
cây tái sinh và tầng cây gỗ lớn đã được nhiều nhà khoa học quan tâm

(Mibbread, 1930; Richard, 1933; Aubréville, 1938; Beard, 1946; Lebrun
và Gilbert, 1954; Joné, 1955-1956; Schultz, 1960; Baur, 1964; Rollet,
1969). Do tính chất phức tạp về tổ thành loài cây, trong đó chỉ có một số
loài có giá trị nên trong thực tiễn lâm sinh người ta chỉ tập trung khảo sát
những loài có giá trị nhất định.
Tái sinh tự nhiên của thảm thực vật sau nương rẫy được một số tác giả
nghiên cứu. Saldarriaga (1991) nghiên cứu tại rừng nhiệt đới ở Colombia và
Venezuela nhận xét: sau khi bỏ hoá, số lượng loài thực vật tăng dần từ ban đầu
đến rừng thành thục. Thành phần của các loài cây trưởng thành phụ thuộc vào tỷ
lệ các loài nguyên thuỷ mà nó được sống sót từ thời gian đầu của quá trình tái
sinh, thời gian phục hồi khác nhau phụ thuộc vào mức độ, tần số canh tác của
khu vực đó (theo Phạm Hồng Ban, 2000) [1].
Nghiên cứu khả năng tái sinh tự nhiên của thảm thực vật sau nương rẫy từ
1 - 20 năm ở vùng Tây Bắc Ấn Độ, Ramakrishnan (1981-1992) đã cho biết chỉ
số đa dạng loài rất thấp. Chỉ số loài ưu thế đạt đỉnh cao nhất ở pha đầu của quá
trình diễn thế và giảm dần theo thời gian bỏ hoá. Long Chun và cộng sự (1993)
đã nghiên cứu đa dạng thực vật ở hệ sinh thái nương rẫy tại Xishuangbanna tỉnh
Vân Nam, Trung Quốc nhận xét: tại Baka khi nương rẫy bỏ hoá được 3 năm thì
có 17 họ, 21 chi, 21 loài thực vật, bỏ hoá 19 năm thì có 60 họ, 134 chi, 167 loài.
(dẫn theo Phạm Hồng Ban, 2000) [1].
2.2.2. Những nghiên cứu về tái sinh tự nhiên ở Việt Nam
Vấn đề tái sinh đã được Viện Điều Tra Quy Hoạch Rừng tiến hành
nghiên cứu từ những năm 60 (thế kỷ XX) tại địa bàn một số tỉnh Quảng Ninh,
Yên Bái, Nghệ An, Hà Tĩnh (Hương Sơn, Hương Khê), Quảng Bình các kết
quả nghiên cứu bước đầu đã được Nguyễn Vạn Thường (1991) [12] tổng kết
và kết luận về tình hình tái sinh tự nhiên của một số khu rừng miền Bắc Việt
Nam, hiện tượng tái sinh dưới tán rừng của các loài cây gỗ đã tiếp diễn liên
tục, không mang tính chất chu kỳ. Sự phân bố số cây tái sinh không đồng đều,
số cây mạ có h < 20 cm chiếm ưu thế rõ rệt so với lớp cây ở các cấp kích
7

8
thước khác. Những loài cây gỗ mềm, ưa sáng, mọc nhanh có khuynh hướng
phát triển mạnh và chiếm ưu thế trong lớp cây tái sinh. Những loài cây gỗ
cứng sinh trưởng chậm chiếm tỷ lệ thấp và phân bố tản mạn, thậm chí còn
vắng bóng trong thế hệ sau trong rừng tự nhiên.
Công trình nghiên cứu về thảm thực vật rừng ở Việt Nam của Thái Văn
Trừng (những năm 1963, 1970, 1978), theo ông “có một nhân tố trong nhóm
sinh thái khí hậu đã khống chế và điều khiển quá trình tái sinh tự nhiên trong
thảm thực vật rừng đó là nhân tố ánh sáng”. Nếu các điều kiện khác của môi
trường như đất rừng, nhiệt độ, độ ẩm dưới tán rừng chưa thay đổi thì tổ hợp
các loài cây tái sinh không có những biến đổi lớn và cũng không diễn thế một
cách “hoàn toàn” trong không gian và thời gian như Obrevin đã nhận định.
Diễn thế theo phương thức tái sinh không có quy luật “nhân quả” giữa sinh
vật và hoàn cảnh.
Với sự giúp đỡ của các chuyên gia Trung Quốc trong thời gian từ năm
1962 đến 1969, Viện Điều Tra Quy Hoạch Rừng Việt Nam đã tiến hành điều
tra tái sinh tự nhiên trên một số tỉnh: Quảng Bình, Nghệ An, Yên Bái. Ô tiêu
chuẩn được lập với diện tích 2000 m
2
, kết hợp điều tra theo tuyến. Từ đó tiến
hành phân chia trạng thái rừng và đánh giá tái sinh.
Trần Ngũ Phương (1970) [7] khi nghiên cứu về kiểu rừng nhiệt đới mưa
mùa lá rộng thường xanh đã có nhận xét: “rừng tự nhiên dưới tác động của con
người khai thác hoặc làm nương rẫy lặp đi lặp lại nhiều lần thì kết quả cuối cùng
là sự hình thành đất trống, đồi núi trọc. Nếu chúng ta để thảm thực vật hoang dã
tự nó phát triển lại thì sau một thời gian dài trảng cây bụi, trảng cỏ sẽ chuyển dần
lên những dạng thực bì cao hơn thông qua quá trình tái sinh tự nhiên và cuối
cùng rừng sẽ có thể phục hồi dưới dạng gần giống rừng ban đầu”.
Trong nghiên cứu tái sinh sau nương rẫy tại tỉnh Thái Nguyên và Bắc
Cạn, Phạm Ngọc Thường (2003) [13] đã nhận xét “phân bố tái sinh cây gỗ

theo cấp chiều cao có dạng một đỉnh và sử dụng hàm phân bố Weibull để mô
phỏng quy luật đó”. Ngoài ra tác giả còn cho thấy mật độ cây tái sinh giảm
dần theo thời gian phục hồi rừng.
Trần Ngũ Phương (2000) [8] khi nghiên cứu các quy luật phát triển
rừng tự nhiên miền Bắc Việt Nam đã nhấn mạnh quá trình diễn thế thứ sinh
8
9
của rừng tự nhiên như sau: “trường hợp rừng tự nhiên có nhiều tầng khi tầng
trên già cỗi, tàn lụi rồi tiêu vong thì tầng kế tiếp sẽ thay thế; trường hợp nếu
chỉ có một tầng thì trong khi nó già cỗi một lớp cây con tái sinh xuất hiện và
sẽ thay thế nó sau khi nó tiêu vong hoặc cũng có thể một thảm thực vật trung
gian xuất hiện thay thế, nhưng về sau dưới lớp thảm thực vật trung gian này
sẽ xuất hiện một lớp cây con tái sinh lại rừng cũ trong tương lai và sẽ thay thế
thảm thực vật trung gian này, lúc bấy giờ rừng cũ sẽ được phục hồi”.
Tác giả Nguyễn Ngọc Lung (1993) [6] và cộng sự khi nghiên cứu về
khoanh nuôi và phục hồi rừng đã cho rằng, nghiên cứu quá trình tái sinh phải
nắm chắc các yếu tố môi trường và các quy luật tự nhiên tác động lên thảm
thực vật. Qua đó xác định các điều kiện cần và đủ để tác động của con người
đi đúng hướng, quá trình này được gọi là xúc tiến tái sinh tự nhiên.
Theo Vũ Đình Huề (1969) đã chia tái sinh làm 5 cấp: rất tốt, tốt, trung
bình, xấu và rất xấu. Trong nghiên cứu này việc đánh giá tái sinh mới chỉ dựa
vào số lượng chứ chưa quan tâm tới chất lượng tái sinh.
Để đánh giá vai trò tái sinh và phục hồi rừng tự nhiên ở các vùng miền
Bắc, Trần Xuân Thiệp (1995) [10] nghiên cứu tập trung vào sự biến đổi về
lượng, chất lượng của tái sinh tự nhiên và rừng phục hồi. Qua đó, tác giả kết
luận: rừng phục hồi vùng Đông Bắc chiếm trên 30% diện tích rừng hiện có,
lớn nhất so với các vùng khác. Khả năng phục hồi hình thành các rừng vườn,
trang trại rừng đang phát triển ở các tỉnh trong vùng. Rừng Tây Bắc phần lớn
diện tích rừng phục hồi sau nương rẫy, diễn thế rừng ở nhiều vùng xuất hiện
nhóm cây ưa sáng chịu hạn hoặc rụng lá, kích thước nhỏ và nhỡ là chủ yếu và

nhóm cây lá kim rất khó tái sinh phục hồi trở lại do thiếu lớp cây mẹ
2.3. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu
2.3.1. Điều kiện tự nhiên
2.3.1.1. Vị trí địa lý
Võ Nhai là huyện vùng cao của tỉnh Thái Nguyên, có giới hạn địa lí
105
0
45 - 106
0
17 độ kinh Đông, 21
0
36- 21
0
56 độ vĩ Bắc, cách thành phố Thái
Nguyên 37 km về phía Đông Bắc. Toàn huyện có 14 xã và 1 thị trấn.
- Phía Đông giáp huyện Bắc Sơn tỉnh Lạng Sơn.
9
10
- Phía Tây giáp huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Cạn và huyện Đồng Hỷ tỉnh
Thái Nguyên.
- Phía Nam giáp huyện Yên Thế tỉnh Bắc Giang.
- Phía Bắc giáp huyện Na Rì tỉnh Bắc Cạn.
Diện tích tự nhiên của Võ Nhai là 845,1 km
2
; trong đó, đất lâm nghiệp
chiếm trên 561,27 km
2
, đất nông nghiệp 77,24 km
2
, đất nuôi trồng thủy sản

1,55 km
2
, đất phi nông nghiệp 22,13 km
2
và đất chưa sử dụng 182,92 km
2
.
Trong lòng đất có nhiều loại khoáng sản quý: chì, kẽm, vàng ở Thần Sa; phốt
pho ở La Hiên có trữ lượng khá (60.000 tấn). Ngoài ra, Võ Nhai còn có các
loại khoáng sản vật liệu xây dựng: đá xây dựng, đá sét, cát sỏi, đặc biệt là sét
xi măng ở Cúc Đường có trữ lượng lớn, chất lượng tốt.
2.3.1.2. Địa hình
Địa hình nghiên cứu phức tạp,không đồng nhất, đồi gò xen lẫn núi cao
bị chia cắt, Võ Nhai có địa hình chủ yếu là đồi núi thấp và núi đá vôi, xen
giữa là những vùng đất bằng phẳng nhỏ, nằm dọc các khe suối, triền sông.
2.3.1.3. Khí hậu thủy văn
* Khí hậu
Chịu ảnh hưởng chế độ mưa vùng núi Bắc Bộ, mùa mưa ở Võ Nhai
thường diễn ra từ tháng 4 đến tháng 10; mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm
sau. Lượng mưa trung bình hằng năm 1.941,5 mm và phân bố không đều,
chủ yếu tập trung vào các tháng mùa mưa, khoảng 1.765 mm (chiếm 91%
tổng lượng mưa cả năm). Lượng mưa lớn nhất thường diễn ra vào tháng 8,
trung bình khoảng 372,2 mm. Ở Võ Nhai thường xuất hiện sương muối (tháng
12 và tháng 1 hàng năm). Võ Nhai nằm trong vùng lạnh của tỉnh Thái
Nguyên. Nhiệt độ trung bình hằng năm 22,9
0
C. Từ thượng tuần tháng 5 đến
hạ tuần tháng 9 là những tháng có nhiệt độ cao, nóng nhất là tháng 6, tháng 7,
khoảng 27,9
0

C. Nhiệt độ cao tuyệt đối khoảng 39
0
5 C (tháng 6), thấp tuyệt đối
là 3
0
C (tháng 1). Tổng số giờ nắng trong năm dao động từ 1300 đến 1750 giờ
và không đều cho các tháng trong năm.
* Thủy văn
Chịu ảnh hưởng chế độ mưa vùng núi Bắc Bộ, mùa mưa ở Võ Nhai
thường diễn ra từ tháng 4 đến tháng 10; mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm
10
11
sau. Lượng mưa trung bình hằng năm 1.941,5 mm và phân bố không đều,
chủ yếu tập trung vào các tháng mùa mưa, khoảng 1.765 mm (chiếm 91%
tổng lượng mưa cả năm). Lượng mưa lớn nhất thường diễn ra vào tháng 8,
trung bình khoảng 372,2 mm.
Nguồn nước trên địa bàn huyện Võ Nhai khá phong phú, nhưng phân
bố không đều. Ngoài nguồn nước mặt từ sông, suối, còn có các mạch nước
ngầm từ các hang động trong núi đá vôi.
Võ Nhai có hai con sông nhánh thuộc hệ thống sông Cầu và sông
Thương, được phân bố ở phía Bắc và phía Nam huyện. Sông Nghinh Tường
có chiều dài 46 km, bắt nguồn từ những dãy núi của vòng cung Bắc Sơn
(Lạng Sơn), chảy qua các xã Nghinh Tường, Sảng Mộc, Thượng Nung, Thần
Sa, rồi đổ ra sông Cầu. Khoảng 40% chiều dài dòng chảy là vùng đá vôi,
thung lũng thường hẹp và sâu, vách đá dựng đứng. Sông Dong bắt nguồn từ
xã Phú Thượng, chảy qua thị trấn Đình Cả, Tràng Xá, Dân Tiến, Bình Long,
sang địa phận tỉnh Bắc Giang và đổ về sông Thương.
Võ Nhai có 11 hồ chứa nước, 50 phai, đập kiên cố, 12 trạm bơm, 132
kênh mương do Nhà nước hỗ trợ và nhân dân đóng góp xây dựng.
2.3.2. Thực trạng phát triển các ngành kinh tế

* Kinh tế nông nghiệp
Võ Nhai có các loại đất phù sa (1.816 ha, chiếm 2,15% diện tích); đất
đen (935 ha chiếm 1,11% diện tích); đất xám bạc màu (63.917,7 ha chiếm
75,63% diện tích); các loại đất khác (11.070,4 ha chiếm 16,65% diện tích).
Đất đai ở Võ Nhai phù hợp với nhiều loại cây trồng như: ngô, đỗ tương, thuốc
lá, mía, lạc, chè…
Tại Võ Nhai có diện tích nuôi trồng thủy sản là 227,87 ha chiếm 2,7%.
Diện tích đất lâm nghiệp là 61759,02 ha chiếm 73%.
* Tài nguyên rừng
Theo số liệu thống kê năm 2009 hiện nay Võ Nhai co 54317,73 ha là
đất có rừng.Trong đó có các khu rừng bảo vệ nghiêm ngặt như Thần Sa -
Phượng Hoàng, rừng Khuôn Mánh… Tài nguyên động thực vật vô cùng
phong phú. Võ Nhai là một trong những huyện có diện tích che phủ lớn nhất
Thái Nguyên, diện tích che phủ tới 63,3%.
11
12
Do diện tích đất lâm nghiệp lớn, lại là huyện vùng cao khí hậu nhiệt đới
nên hệ thực vật có nhiều gỗ quý từ nhóm II đến nhóm VIII, song đến nay trữ
lượng không còn nhiều. Rừng già và rừng trung bình chiếm tỷ lệ thấp, chủ
yếu là ở các vùng sâu, vùng xa. Ngoài rừng gỗ còn có rừng tre, nứa, vầu
Trong 50.595 ha rừng có: rừng gỗ: 20.115 ha; rừng tre, nứa, vầu: 603
ha; rừng hỗn giao: 3.440,87 ha và rừng núi đá: 26.437 ha.
Hệ động vật tương đối phong phú, đa dạng, gồm các loại thú rừng, bò
sát, chim. Hiện nay số lượng động vật đang bị suy giảm nhiều do nạn săn, bắn
bừa bãi và chặt phá rừng làm mất nơi cư trú.
2.3.3. Thực trạng cơ sở hạ tầng
2.3.3.1. Giao thông, thủy lợi
* Giao thông
Toàn huyện Võ Nhai có 638,7 km đường giao thông, trong đó đường quốc
lộ dài 28 km (QL 1B); đường tỉnh lộ có chiều dài 23,5 km kéo dài từ Đình Cả

đến Bình Long; 98,9 km đường giao thông liên huyện; 486,4 km đường giao
thông liên xã, đường nội thị Đình Cả 1,4 km.
Hiện nay, Võ Nhai đã có đường ô tô đến trung tâm tất cả các xã. Tuyến
giao thông huyết mạnh 1B nối liền thành phố Thái Nguyên với thị trấn Đình Cả
và huyện Bắc Sơn (tỉnh Lạng Sơn) làm tiền đề phát triển kinh tế huyện.
Quốc lộ 1B hiện nay đã được cải tạo nâng cấp, còn lại khoảng 10 km cần
đưa vào kế hoạch đầu tư nâng cấp trong thời gian tới, nhằm giảm bớt sự khó
khăn cho các phương tiện tham gia giao thông.
Tuyến đường từ thị trấn Đình Cả đi xã Bình Long đến nay đã trải nhựa
xong, nhưng còn một số cầu cống vẫn chưa hoàn thành, tuy nhiên đã giải
quyết rất nhiều khó khăn trong việc đi lại của nhân dân trong và ngoài huyện.
Các tuyến đường từ đường 1B vào các xã ở phía bắc như Thượng
Nung, Thần Sa, Nghinh Tường, Sảng Mộc trước đây đi lại rất khó khăn, hiện
nay đã được cải tạo nâng cấp, dải nhựa vì vậy ô tô đã đi vào được đến trung
tâm xã.
Các tuyến giao thông liên xã, liên thôn xóm cơ bản vẫn là các tuyến
đường đất, việc đi lại gặp rất nhiều khó khăn nhất là vào mùa mưa.
12
13
Tuy rằng giao thông còn nhiều khó khăn song nhờ có các cấp lãnh đạo
quan tâm nên giao thông đã dần được cải thiện và hoàn chỉnh.
* Thủy lợi
Trong huyện có hai hệ thống nhánh sông thuộc hệ thống sông Cầu và
sông Thương đó là hai sông Nghinh Tường và sông Dong, thêm vào đó là
nhiều khe suối nhỏ. Do đó nguồn nước mặt phong phú, song phân bố không
đều. Nguồn nước ngầm có chất lượng tốt đảm bảo phục phục vụ sinh hoạt và
sản xuất hàng ngày của người dân.
Được sự hỗ trợ của nhà nước và sự đóng góp của nhân dân, Võ Nhai
đã đầu tư xây dựng một số công trình thuỷ lợi vừa và nhỏ nhằm phục vụ tưới
tiêu cho sản xuất nông nghiệp, ngoài việc sử dụng nguồn nước thiên nhiên.

Toàn huyện có rất nhiều công trình thuỷ lợi bao gồm: 11 hồ nước, 36
đập tràn và 24 trạm bơm, 132 kênh mương do nhân dân đóng góp xây dựng
với tổng số 94,12 km kênh mương dẫn nước, trong đó kênh xây kiên cố là
29,841 km, kênh đất là 64,28 km.
Các công trình thuỷ lợi tập trung đa số ở các vùng trung tâm và một số
xã phía Nam của huyện. Lượng nước của 8 hồ chứa với các công trình thuỷ
lợi được xây dựng gần đây đã hỗ trợ rất lớn cho việc thâm canh tăng năng
suất cây trồng, đảm bảo tưới cho 3.526 ha.
Tuy nhiên do phần lớn các công trình thuỷ lợi của huyện đều có quy
mô nhỏ, diện tích tưới ít và phân tán. Khả năng tưới của các công trình còn
thấp là do:
+ Nguồn vốn hạn hẹp, không đủ để đầu tư đồng bộ.
+ Đa số các công trình đã xây dựng từ lâu lại không được thường
xuyên tu bổ đến nay đã hư hỏng nhiều, các đập dâng, hồ chứa nước bị rò rỉ,
các cống lấy nước bị hở gây thất thoát nước, giảm khả năng tích nước của
các đập, hồ chứa.
+ Do hệ thống kênh mương, rạch dẫn nước tưới chạy dọc theo sông
suối, theo sườn núi lại không được xây dựng kiên cố (chủ yếu là bằng đất)
nên tổn thất trên kênh rất lớn và thường hay bị hư hoặc bồi đắp khi có mưa lũ,
hiệu suất sử dụng thấp so với thiết kế ban đầu.
13
14
+ Ý thức sử dụng nước, bảo vệ các công trình thuỷ lợi của người dân
còn chưa cao.
+ Công tác quản lý thuỷ nông còn kém, việc tưới nước còn thiếu khoa
học, gây lãng phí đặc biệt là với vụ đông xuân.
+ Khi lưu lượng nước ở các sông suối giảm, khả năng tưới càng bị
giảm sút mạnh.
Như vậy để các công trình thuỷ lợi phát huy được hiệu quả, huyện cần
đầu tư vốn làm kiên cố, nâng cấp số công trình đã cũ, làm mới một số công

trình mới theo kế hoạch đã đề xuất. Phải có chính sách thu thuỷ lợi phí bắt
buộc để tái đầu tư và tăng cường công tác quản lý thuỷ nông.
2.3.3.2. Y tế, thành phần dân tộc và dân số
* Y tế
Võ Nhai là một huyện vùng cao của tỉnh Thái Nguyên nhưng đã có
100% số xã, thị trấn có bác sỹ đang công tác tại trạm y tế trong toàn huyện.
Các trạm y tế xã đã có công tác y học cổ truyền, có vườn thuốc nam và điều
trị bệnh nhân theo phương pháp y học cổ truyền. Hiện nay có 10/15 xã đạt
chuẩn Quốc gia về Y tế, cơ sở nhà trạm của các trạm y tế xã và thị trấn được
đầu tư xây mới, nâng cấp nên cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu khám chữa
bệnh cho nhân dân trong huyện. Hiện trạng cơ sở vật chất kỹ thuật trên địa
bàn huyện năm 2010 như sau:
+ Bệnh viện đa khoa huyện: 1 bệnh viện (có 80 giường bệnh), với đội
ngũ bác sỹ là 44 người.
+ Phòng khám đa khoa khu vực: Đến nay huyện đã có 2 phòng khám
đa khoa (tổng cộng có 10 giường bệnh), với đội ngũ y, bác sỹ là 10 người.
+ Trạm y tế xã: 15 trạm (có 75 giường bệnh).
Tính đến nay trên địa bàn huyện hiện có 41 bác sỹ, 36 y sỹ, 47 y tá, 17
nữ hộ sinh và 11 cán bộ ngành dược.
Các chương trình y tế quốc gia được tổ chức thực hiện tốt, phòng chống
tốt các dịch bệnh không để xảy ra những dịch bệnh lớn. Các chỉ số sức khoẻ
cộng đồng đã có nhiều tiến bộ. Chương trình tiêm chủng mở rộng đạt 99,6%,
tiêm phòng uốn ván cho phụ nữ có thai 1.036 người. Việc khám bệnh miễn
phí cho người nghèo, gia đình chính sách được quan tâm hơn, tỷ lệ người
14
15
nghèo được khám chữa bệnh miễn phí đạt 100%. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị
suy dinh dưỡng giảm từ 28,6% (2006) xuống còn 24,0% (2010). Cán bộ dân
số đã làm tốt công tác tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện công tác Dân
số - KHHGĐ nhằm ổn định dân số, giảm tỷ lệ sinh, đặc biệt là tỷ lệ sinh con

thứ ba. Nâng cao chất lượng dân số góp phần vào xoá đói giảm nghèo của địa
phương, tỷ lệ phát triển dân số qua 5 năm đã và đang có xu hướng giảm dần.
Nhìn chung công tác chăm sóc sức khoẻ cho người dân trên địa bàn huyện Võ
Nhai là tốt, tuy nhiên bên cạnh đó ngành y tế cũng còn gặp nhiều khó khăn. Hiện
nay một số nhà trạm đã xuống cấp nghiêm trọng không đáp ứng được nhu cầu
chăm sóc sức khoẻ cho người dân trong xã, đặc biệt là khi người dân có nhu cầu
nằm điều trị tại trạm.
* Thành phần dân tộc, dân số
Dân số huyện Võ Nhai đến năm 2009 là 63563 người. Trong đó 94%
dân số sống ở nông thôn (tương đương 60063 người), cơ cấu dân số là 49,9%
là nam giới còn lại 50,1% là nữ giới. Võ Nhai là địa bàn sinh sống của 8 dân
tộc như: Kinh (34,17 %); Tày (29,88 %); Nùng (14,52%); Dao (12,63 %); Các
dân tộc H’Mông, Cao Lan, Hoa chiếm 8,7%.
Người Cao Lan (Sán Chay, Sán Chí) sống chủ yếu bằng nghề làm ruộng
nước, làm nương, trồng rừng.
Số lao động có văn hóa bậc tiểu học chiếm 74,32%, trình độ bậc trung
học cơ sở và trung học phổ thông chiếm 25%. Số còn lại có trình độ trung
cấp, cao đẳng, đại học rất ít.
2.3.3.3. Văn hóa
Chất lượng, hiệu quả giáo dục tiếp tục được nâng lên. Việc xây dựng
các trường chuẩn quốc gia được triển khai tích cực. Đội ngũ giáo viên từng
bước được chuẩn hoá. Tỷ lệ học sinh khá giỏi các cấp học được tăng lên.
Duy trì phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục trung
học cơ sở. Công tác xã hội hoá giáo dục được quan tâm chú trọng, các hoạt
động khuyến học, khuyến tài diễn ra sôi nổi, nhận thức về vai trò của giáo
dục trong xã hội được nâng cao; huy động được nhiều nguồn lực để đầu tư
cho sự nghiệp phát triển giáo dục - đào tạo.
15
16
Hiện tại Võ Nhai có 1 trường THPT, 22 trường THCS, 21 trường tiểu

học, 20 trường mầm non. Cơ sơ vật chất, trang thiết bị còn thô sơ nghèo
nàn nhất là các xã vùng sâu vùng xa.
2.3.3.4. Thương mại và du lịch
Tại Võ Nhai có nhà máy xi măng La Hiên với công nghệ hiện đại và
2 khu công nghiệp đang được quy hoạch xây dựng và đưa vào hoạt động đó
là khu công nghiệp nhỏ thị trấn Đình Cả với diện tích 2,4 ha và khu công
nghiệp Trúc Mai với tổng diện tích là 15,4 ha.
Với địa hình có dãy núi đá vôi xen lẫn núi đất trùng điệp tạo nên
những thắng cảnh đẹp tự nhiên của núi rừng. Quần thể hang động Phượng
Hoàng, Suối Mỏ Gà và hang động khác như: Nà Kháo, Hang Huyền, có
nhiều nhũ đá tạo nên cảnh quan đẹp, thắng cảnh Thác Mưa Rơi Mái Đá
Ngườm ở xã Thần Sa là cái nôi ra đời sớm nhất của người Âu Lạc. Rừng
Khuôn Mánh xã Tràng Xá là nơi thành lập đội cứu quốc quân II và nhiều
hang động, di tích khác đã đi vào lịch sử của dân tộc. Khu Bảo tồn Thiên
nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng (trực thuộc Chi cục Kiểm lâm), được giao
quản lý bảo vệ 17.477,32 ha rừng đặc dụng, phân bổ tại 06 xã phía Bắc huyện
Võ Nhai (Thần Sa, Nghinh Tường, Sảng Mộc, Vũ Chấn, Thượng Nung, Phú
Thượng). Đây là địa bàn bảo tồn đa dạng sinh học, có một số loại động thực
vật đặc hữu.
2.3.3.5. Dịch vụ bưu chính - viễn thông
Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin, nhanh chóng đổi mới,
đảm bảo thông tin liên tục, thông suốt, an toàn, văn minh, tiện lợi.
Phát triển mạng bưu cục, ki ốt, điểm bưu điện một cách hợp lý; nâng
cao chất lượng dịch vụ bưu chính; phát triển các dịch vụ mới; tăng cường cơ
sở vật chất kỹ thuật. Đẩy nhanh và mở rộng mạng điện thoại, kết nối Internet
rộng rãi, toàn huyện máy điện thoại khoảng 30 máy trên 100 người dân vào
năm 2020. Duy trì và mở rộng việc cung cấp các dịch vụ công ích (thông tin
cứu hỏa, thông tin cứu nạn, cấp cứu y tế, thông tin khẩn cấp về an ninh trật tự
xã hội, ).
Đảm bảo đến năm 2015 ít nhất 85 % số xã có điểm truy nhập Internet

công cộng và nâng tỷ lệ này lên 100 % vào năm 2020.
16
17
2.3.3.6. Dịch vụ vận tải, kho bãi
Với dự báo tăng trưởng kinh tế cao hơn hẳn giai đoạn hiện tại và những
bước đột phá trong phát triển một số ngành, lĩnh vực của huyện trong thời kỳ
quy hoạch, ngành dịch vụ vận tải, kho bãi có rất nhiều cơ hội để phát triển.
Chiều hướng phát triển vận tải chủ yếu trên địa bàn huyện Võ Nhai chủ
yếu là vận tải đường bộ, vì vậy cần nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải để
đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vận chuyển hàng hóa và hành khách của
huyện, vùng. Tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia cung ứng
dịch vụ vận tải.
2.3.3.7. Dịch vụ tài chính - ngân hàng, bảo hiểm
* Dịch vụ tài chính - ngân hàng
Dịch vụ tài chính, ngân hàng là dịch vụ nền tảng. Tuy nhiên, các dịch
vụ này ở Võ Nhai hiện chưa đa dạng và chưa bao trùm hết các nhu cầu thực tế
của doanh nghiệp. Hướng phát triển trong tương lai là:
- Xây dựng dịch vụ ngân hàng đa năng, hiệu quả, phù hợp với hệ thống
ngân hàng cả nước. Tạo thuận lợi để các ngân hàng trong nước thành lập các văn
phòng giao dịch tại Võ Nhai.
- Hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật, tăng cường hợp tác, nâng chất
lượng, trình độ các dịch vụ tài chính, ngân hàng đạt tới các tiêu chuẩn của
tỉnh và của cả nước.
- Thu hút các thành phần kinh tế tham gia thị trường dịch vụ tài chính, ngân
hàng. Đổi mới phong cách giao tiếp trong hệ thống tài chính ngân hàng để các dịch
vụ này được cung cấp theo một phong cách thực sự văn minh, hiện đại và lịch sự.
* Dịch vụ bảo hiểm
Phổ cập dịch vụ bảo hiểm trong mọi hoạt động kinh tế, xã hội. Dự kiến
tốc độ tăng trưởng doanh thu phí bảo hiểm bình quân khoảng 20 - 25%/năm.
Mở rộng và phát triển đa dạng các dịch vụ bảo hiểm. Khai thác có hiệu

quả thị trường bảo hiểm đối với cả cá nhân và doanh nghiệp, tổ chức, nhất là
trong giai đoạn 2011 - 2020 khi nhu cầu đối với dịch vụ này lớn hơn do nền
kinh tế tỉnh đạt trình độ phát triển cao hơn.
Mở rộng các loại dịch vụ bảo hiểm trong mọi lĩnh vực sản xuất, đời
sống, tập trung vào các dịch vụ bảo hiểm. Có cơ chế ưu đãi để khuyến khích
sự phát triển dịch vụ bảo hiểm nông dân.
17
18
2.3.4. Thực trạng phát triển các khu dân cư
Do vị trí địa lý toàn huyện được chia thành 3 tiểu vùng
- Tiểu vùng 1
Gồm các xã dọc quốc lộ 1B la La Hiên, Lâu Thượng,Phú Thượng, thị trấn
Đình Cả là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của huyện, tập trung các
cơ quan nhà nước, và là đô thị thuộc loại 5. Tiểu vùng 1 có đường giao thông,
địa hình dọc theo tuyến quốc lộ 1B tương đối bằng phẳng, có điều kiện thuận lợi
dể xây dựng đô thị và các điểm vệ tinh phục vụ cho đô thị phát triển.
- Tiểu vùng 2
Gồm 5 xã, phía nam là Tràng Xá, Liên Minh, Phương Giao, Dân Tiến,
Bình Long. Có 2 trung tâm cụm xã là Tràng Xá và Bình Long được quy định
quản lý quy hoạch như đô thị loại 5. Tiểu vùng 2 có đường giao thông tỉnh lộ
265 từ Đình Cả - Tràng Xá - Dân Tiến - Bình Long với huyện Hữu Lũng tỉnh
Lạng Sơn được dấu nối với quốc lộ 1A; đường Tràng Xá - Liên Minh - Văn
Hán (Đồng Hỷ). Đây là khu vực nếu được đầu tư có điều kiện phát triển
tương đối thuận lợi.
- Tiểu vùng 3
Gồm 6 xã phía bắc của huyện là Nghinh Tường, Sảng Mộc, Thượng
Nung, Vũ Chấn, Thần Sa, Cúc Đường. Có 2 trung tâm cụm xã là Cúc Đường
và Nghinh Tường được quy định quản lý quy hoạch như đô thị loại 5. Các xã
thuộc tiểu vùng 3 có địa hình núi đá vôi cao, hiểm trở, trong những năm gần
đây đã được Nhà nước quan tâm đầu tư cho cơ sở hạ tầng nhưng giao thông đi

lại vẫn còn rất khó khăn.
18
19
Phần 3
ĐỐI TƯỢNG, ĐỊA ĐIỂM, NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng, phạm vi và giới hạn nghiên cứu
- Đối tượng: Trạng thái thảm thực vật trạng thái rừng IC tái sinh phục
hồi tự nhiên.
- Phạm vi và giới hạn nghiên cứu: Cây tái sinh dưới tán rừng phục hồi
trạng thái IC tại 2 xã: Liên Minh và Tràng Xá, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái
Nguyên. Nghiên cứu về một số đặc điểm cấu trúc tổ thành cây tái sinh (tần số
xuất hiện, độ phong phú loài, xác định tính đa dạng loài); quy luật phân bố số
loài, số cây theo cấp chiều cao; những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cây
tái sinh trong trạng thái thảm thực vật trạng thái rừng IC tại huyện Võ Nhai.
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Địa điểm: Xóm Mỏ Bễn xã Tràng Xá
Xóm Nác xã Liên Minh
- Thời gian: Tiến hành từ tháng 01/2012 đến tháng 05/2012.
3.3. Nội dung nghiên cứu
- Khái quát đặc điểm cấu trúc tầng cây gỗ
- Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc cây tái sinh
+ Đặc điểm cấu trúc tổ thành, mật độ cây tái sinh.
+ Chất lượng và nguồn gốc cây tái sinh và tỷ lệ cây tái sinh triển vọng.
+ Đánh giá chỉ số đa dạng sinh học (Shannon - Weaver).
+ Chất lượng và nguồn gốc cây tái sinh.
- Nghiên cứu quy luật phân bố cây tái sinh
+ Phân bố số cây theo cấp chiều cao.
+ Phân bố loài cây theo cấp chiều cao.
- Ảnh hưởng của một số nhân tố đến tái sinh tự nhiên

+ Ảnh hưởng của yếu tố đất đến tái sinh rừng.
+ Ảnh hưởng của yếu tố địa hình đến tái sinh rừng.
+ Ảnh hưởng của yếu tố con người đến tái sinh rừng.
- Đề xuất một số giải pháp kỹ thuật lâm sinh cho trạng thái trạng thái
rừng IC tại khu vực nghiên cứu.
19
20
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Phương pháp luận
Vận dụng quan điểm sinh thái phát sinh quần thể trong thảm thực vật
rừng nhiệt đới của Thái Văn Trừng (1978): Thảm thực vật rừng là tấm gương
phản chiếu một cách trung thành nhất mà lại tổng hợp được các điều kiện của
hoàn cảnh tự nhiên đã thông qua sinh vật để hình thành những quần thể thực
vật. Thảm thực vật tái sinh tự nhiên phản ánh ảnh hưởng tổng hợp của các
nhân tố sinh thái đến quá trình phục hồi rừng thứ sinh.
Đề tài đã sử dụng phương pháp điều tra ô tiêu chuẩn đại diện ở trạng
thái thảm thực vật rừng đã chọn, số liệu đảm bảo tính đại diện, khách quan và
chính xác. Đề tài sử dụng các phương pháp phân tích số liệu truyền thống, các
mô hình đã được kiểm nghiệm, đảm bảo tính khoa học.
3.4.2. Phương pháp thu thập số liệu
3.4.2.1. Tính kế thừa
- Những tư liệu về điều kiện tự nhiên, khí hậu, thuỷ văn, đất đai, địa
hình, tài nguyên rừng.
- Tư liệu về điều kiện dân sinh, kinh tế, xã hội.
- Những kết quả nghiên cứu có liên quan đến đề tài như: Kết quả điều
tra hệ thực vật và thảm thực vật rừng tại khu vực nghiên cứu.
3.4.2.2. Thu thập số liệu
Để mô tả một quần xã thực vật, số liệu cần phải được thu thập trên
một số ô gọi là ô tiêu chuẩn (OTC) có tổng diện tích đủ lớn. Việc áp dụng
phương pháp điều tra theo OTC đang được áp dụng rộng rãi trên thế giới

cũng như trong nước áp dụng rộng rãi khi nghiên cứu về rừng nhiệt đới
như: H. Lamprecht (1969), Lâm Phúc Cố (1994, 1996), Lê Đồng Tấn
(2003) tiến hành điều tra thành phần loài cây trên diện tích OTC 400 m
2
;
Trần Xuân Thiệp (1995), Phạm Ngọc Thường (2001) sử dụng OTC có diện
tích từ 500 m
2
trở lên.
* Đối với ô tiêu chuẩn tạm thời: Diện tích OTC: 2500 m
2
(50 m x 50
m), hình dạng OTC phụ thuộc vào địa hình.
- Phân bố: OTC đặt ngẫu nhiên, đại diện cho địa hình, độ dốc, điều kiện
thổ nhưỡng khác nhau. Các OTC được đánh dấu ngoài hiện trường thông qua
hệ thống cột mốc gồm 4 cột đặt ở 4 góc của ô. Phần trên mặt đất 0,5m ghi rõ
số hiệu OTC và hướng xác định các góc còn lại.
20
21
- Thu thập số liệu: Trong trạng thái lập 3 OTC theo phương pháp điển
hình. Trong mỗi ô, thống kê các chỉ tiêu tầng cây gỗ như sau:
+ Đo đường kính với những cây gỗ có D
1.3
≥ 6 cm bằng thước kẹp kính
hoặc thước đo chu vi sau đó quy đổi ra đường kính.
+ Đo chiều cao H
vn
và H
dc
bằng thước sào đo cao chia vạch đến 0,1 m.

+ Đo đường kính tán D
t
theo hướng ĐT - NB sau đó lấy giá trị trung bình.
* Đối với ô thứ cấp:
Trong OTC, lập 5 ô thứ cấp 25 m
2
(5 m x 5 m) trong đó 4 ô ở 4 góc và
1 ở giữa. Điều tra thống kê toàn bộ những cây tái sinh có D
1.3
< 6 cm vào
phiếu điều tra theo các chỉ tiêu:
- Tên loài cây tái sinh, loài nào chưa rõ thì thu thập tiêu bản để giám định.
- Đo chiều cao cây tái sinh bằng thước sào.
- Chất lượng cây tái sinh:
+ Cây tốt: Là cây có thân thẳng, không cụt ngọn, sinh trưởng phát triển
tốt, không sâu bệnh.
+ Cây xấu là những cây cong queo, cụt ngọn, sinh trưởng phát triển
kém, sâu bệnh, còn lại là những cây có chất lượng trung bình.
- Xác định nguồn gốc cây tái sinh (tái sinh chồi, hạt).
- Điều tra khoảng cách giữa các cây tái sinh: Trên OTC thứ cấp, chọn
cây tái sinh bất kỳ, đo khoảng cách từ cây tái sinh đã chọn đến cây tái sinh
gần nhất bằng thước dây với độ chính xác đến cm. Mỗi trạng thái phục hồi đo
30 khoảng cách, kết quả ghi vào phiếu điều tra khoảng cách cây tái sinh.

Hình 3.01. Hình dạng, kích thước OTC và sơ đồ bố trí ô thứ cấp
21
22
Ô dạng bản được bố trí trong OTC
* Đối với ô dạng bản: Trong một ô thứ cấp, lập 1 ô dạng bản 1 m
2

(1 m x
1m) ở chính giữa để điều tra đất và vật rơi rụng và điều tra cây bụi, dây leo và
thảm tươi. Thành phần loài lớp cây bụi, dây leo và thảm tươi được xác định tên.
* Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tái sinh tự nhiên
- Ảnh hưởng của địa hình đến tái sinh tự nhiên: Các yếu tố địa hình
(chân, sườn, đỉnh) được xác định thông qua việc lập ô sơ cấp.
+ Xác định hướng phơi (Đ, T, N, B) bằng địa bàn cầm tay.
+ Đo cấp độ dốc (3 cấp độ dốc Cấp I: 10 - 15
0
; Cấp II: 15 - 20
0
; Cấp III
> 20
0
) trong các ô tiêu chuẩn sơ cấp bằng địa bàn cầm tay.
- Ảnh hưởng của con người đến tái sinh: Thể hiện thông qua tập quán
phát nương làm rẫy, canh tác nông nghiệp và chăn thả gia súc ở trạng thái
rừng IC. Đây là áp lực lớn đối với việc khôi phục và phát triển rừng ở các
vùng núi cao.
Qua đó thấy được sự ảnh hưởng của nó đến mật độ, số loài, tỷ lệ cây
triển vọng, chất lượng cây tái sinh ở mỗi địa phương.
* Nghiên cứu phẫu diện đất và thảm mục
- Số lượng: 1 phẫu diện cho 1 OTC (Cứ một OTC được lập ta tiến hành
đào 1 phẫu diện)
- Chọn địa điểm đào phẫu diện: Đại diện cho OTC, nằm trong ô thứ cấp,
đánh dấu lên bản đồ địa hình.
- Quy định đào phẫu diện: Quy cách: Dài 120-150 cm, rộng 70-90 cm,
sâu 120-150 cm. (Nếu tầng đất mỏng, gặp tầng cứng rắn độ sâu cần đạt 80-
100 cm). Khi đào phẫu diện cần lưu ý:
+ Mặt phẫu diện để mô tả cần hướng về nơi ánh sáng mặt trời

+ Phía mặt mô tả sau khi đào đúng quy cách cần được làm phẳng, xén
cho thẳng góc.
+ Khi đào phẫu diện lớp đất mặt để riêng sang hai bên, không dẫm đạp
mặt phía trên làm mất trạng thái tự nhiên của đất.
- Mô tả phẫu diện:
+ Chụp ảnh cảnh quan và chụp hình thái phẫu diện
+ Địa điểm đào phẫu diện: huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên
22
23
+ Mô tả theo bản tả phẫu diện.
- Xác định độ ẩm đất và chất lượng đất thông qua đào phẫu diện đất.
3.4.2.3. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
a. Tổ thành tầng cây gỗ
Tổ thành là chỉ tiêu biểu thị tỉ lệ mỗi loài hay nhóm loài tham gia tạo
thành rừng, tùy thuộc vào số lượng loài có mặt trong lâm phần mà phân chia
lâm phần thành rừng thuần loài hay hỗn loài, các lâm phần rừng có tổ thành
loài khác nhau thì chức năng phòng hộ, bảo vệ môi trường sinh thái và tính đa
dạng sinh học cũng khác nhau.
Để đánh giá đặc điểm cấu trúc tổ thành sinh thái của quần hợp cây gỗ,
chúng tôi sử dụng chỉ số mức độ quan trọng (Importance Value Index = IVI),
tính theo công thức:
(%)
2
Ai Di
IVIi
+
=
(3.1)
Trong đó:
IVI

i
là chỉ số mức độ quan trọng (tỷ lệ tổ thành) của loài thứ i.
A
i
là độ phong phú tương đối của loài thứ i:

1
(%) 100
s
i
Ni
Ai x
Ni
=
=

(3-2)
Trong đó: N
i
là số cá thể của loài thứ i; s là số loài trong quần hợp
D
i
là độ ưu thế tương đối của loài thứ i:

1
(%) 100
s
i
Gi
Di x

Gi
=
=

(3-3)
Trong đó: G
i
là tiết diện thân của loài thứ i; s là số loài trong quần hợp


2
2
1
( )
2
s
i
i
i
D
G cm x
π
=
 
=
 ÷
 

(3-4)
Với: D

i
là đường kính 1.3 m (D
1.3)
của cây thứ i; s là số loài trong quần hợp
23
24
Theo đó, những loài cây có chỉ số IVI ≥ 5% mới thực sự có ý nghĩa về
mặt sinh thái trong lâm phần. Theo Thái Văn Trừng (1978) trong một lâm
phần nhóm loài cây nào chiếm trên 50% tổng số cá thể của tầng cây cao thì
nhóm loài đó được coi là nhóm loài ưu thế.
b. Tổ thành cây tái sinh
Xác định số cây trung bình theo loài dựa vào công thức:
m
i 1
ni
n
m
=
=

(3-5)
Trong đó:
- n là số cây trung bình theo loài.
- m là tổng số loài điều tra được.
- n
i
là số lượng cá thể loài i.
Xác định tỷ lệ tổ thành và hệ số tổ thành của từng loài được tính theo
công thức:


j
m
i
i 1
n
.100
n%j
n
=
=

(3-6)
Trong đó:
- j =1,
- m là số thứ tự loài.
Nếu:
- n
%j
≥ 5% thì loài j được tham gia vào công thức tổ thành.
- n
%i
< 5% thì loài j không được tham gia vào công thức tổ thành.
Hệ số tổ thành:
i
i
n
K 10
N
= ×
(3-7)

Trong đó:
- K
i
: Hệ số tổ thành loài thứ i.
- n
i
: Số lượng cá thể loài i.
- N: Tổng số cá thể điều tra.
24
25
c. Đánh giá chỉ số đa dạng sinh học cây tái sinh
Từ trước đến nay khi nghiên cứu các quần xã sinh vật, các tác giả đã đề
xuất ra rất nhiều chỉ số đa dạng: Chỉ số Shannon (Magurran, 1988), chỉ số
Berger-Parker (Magurran, 1988), chỉ số Brillouin (Brillouin, 1962), chỉ số
Simpson (Simpson, 1949), chỉ số Alpha (Magurran, 1988), chỉ số McIntosh
(McIntosh, 1967), chỉ số Margalef (Margalef, 1958), chỉ số Menhinick
(Magurran, 1988). Trong đề tài, chúng tôi chọn chỉ số Shannon để đánh giá
tính đa dạng của các quần hợp cây tái sinh đã nghiên cứu vì chỉ số này đánh
giá tổng hợp cả độ đa dạng loài (số loài) và độ đa dạng trong loài (số cá thể
của từng loài):
1
' ln
s
i i
i
n n
H
N N
=
= −


(3-8)
Trong đó:
- s là số loài trong quần hợp.
- n
i
là số cá thể loài thứ i trong quần hợp.
- N là tổng số cá thể trong quần hợp.
d. Mật độ cây tái sinh
Là chỉ tiêu biểu thị số lượng cây tái sinh trên một đơn vị diện tích, được
xác định theo công thức sau:
10.000 n
N/ha
S
×
=
(3-9)
Trong đó:
- S là tổng diện tích các ô dạng bản điều tra tái sinh (m
2
).
- n là số lượng cây tái sinh điều tra được.
e. Chất lượng cây tái sinh
Tính tỷ lệ % cây tái sinh tốt, trung bình, hoặc xấu theo công thức:

1
(%) 100
j
s
i

i
x
n
n
N
=
=

(3-10)
Trong đó:
- n%: Tỷ lệ phần trăm cây tốt, trung bình, hoặc xấu.
25

×