Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (789.55 KB, 116 trang )

đại học quốc gia hà nội
tr- ờng đại học khoa học xà hội và nhân văn
=== ===

Ngô thị yên

Nghệ thuật trần thuật trong
truyện ngắn đỗ bích thúy

Luận văn thạc sĩ văn học
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
MÃ sè: 60.22.34
Ng- êi h- íng dÉn khoa häc: PGS. TS hà văn đức

Hà Nội - 2011


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của
các thầy cơ giáo Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân
văn - Đại học Quốc Gia Hà Nội, các thầy cô công tác tại Viện Văn học Việt
Nam, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ
quý báu đó.
Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến
PGS. TS Hà Văn Đức - người đã hết lịng giúp đỡ, chỉ bảo tận tình để em
hồn thành tốt luận văn này.
Em xin gửi tới qúy thầy cô trong Hội đồng bảo vệ lời cảm ơn chân
thành!
Do cịn hạn chế về trình độ nên luận văn chắc chắn sẽ cịn nhiều thiếu
sót, em rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý từ phía thầy cơ, đồng nghiệp
và các bạn.


Hà Nội, tháng 06 năm 2011
Tác giả luận văn

Ngô Thị Yên


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy

MC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài .......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................. 3
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ................................................................... 6
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 6
5. Kết cấu luận văn .......................................................................................... 7
NỘI DUNG ..................................................................................................... 8
CHƢƠNG 1. NGƢỜI TRẦN THUẬT VÀ ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN ĐỖ BÍCH THÚY .............................................. 8
1.1. Lý thuyết về nghệ thuật trần thuật ............................................................ 8
1.2. Người trần thuật và điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy
........................................................................................................................ 9
1.2.1. Người trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy ................................. 9
1.2.1.1. Khái quát về người trần thuật.............................................................. 9
1.2.1.2. Người trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy ............................. 11
1.2.1.2.1. Người trần thuật hàm ẩn ................................................................. 13
1.2.1.2.2. Người trần thuật tường minh........................................................... 16
1.2.2. Điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy ......................... 18
1.2.2.1. Khái quát về điểm nhìn trần thuật ...................................................... 18
1.2.2.2. Điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy ...................... 21
1.2.2.2.1. Điểm nhìn trần thuật bên ngồi ....................................................... 21

1.2.2.2.2. Điểm nhìn trần thuật bên trong ....................................................... 26
1.2.2.2.3. Điểm nhìn trần thuật phức hợp ....................................................... 31
CHƢƠNG 2. NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC KẾT CẤU VÀ CỐT TRUYỆN
TRONG TRUYỆN NGẮN ĐỖ BÍCH THÚY ............................................ 37
2.1. Nghệ thuật tổ chức kết cấu trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy ................... 37
2.1.1. Khái niệm về kết cấu và kết cấu trần thuật ........................................... 37
2.1.1.1. Kết cấu .............................................................................................. 37
2.1.1.2. Kết cấu trần thuật............................................................................... 38
2.1.2. Hình thức kết cấu trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thỳy .............. 39
1
Luận văn thạc sĩ văn học
Ngô Thị Yên


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy

2.1.2.1. Kết cấu đơn tuyến .............................................................................. 39
2.1.2.2. Kết cấu theo mạch phát triển tâm lí.................................................... 43
2.1.2.3. Kết cấu đảo lộn trật tự trần thuật ........................................................ 48
2.2. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy .............. 53
2.2.1. Khái niệm về cốt truyện ........................................................................ 53
2.2.2. Cốt truyện trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy ......................................... 55
2.2.2.1. Cốt truyện đơn giản ........................................................................... 55
2.2.2.2. Cốt truyện với kết thúc bất ngờ, kết thúc để ngỏ ................................ 57
2.2.2.3. Cốt truyện đan xen nhiều mạch truyện ............................................... 61
CHƢƠNG 3. NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT TRONG
TRUYỆN NGẮN ĐỖ BÍCH THÚY ............................................................ 66
3.1. Ngơn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy ............................. 66
3.1.1. Khái quát về ngôn ngữ trần thuật .......................................................... 66
3.1.2.Lời văn trần thuật và lời văn miêu tả trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy

67
3.1.2.1. Lời văn trần thuật .............................................................................. 67
3.1.2.1.1. Lời trần thuật gián tiếp của người kể chuyện .................................. 68
3.1.2.1.2. Lời trần thuật nửa trực tiếp ............................................................. 70
3.1.2.2. Lời văn miêu tả .................................................................................. 75
3.1.2.2.1. Lời văn miêu tả thiên nhiên ............................................................ 76
3.1.2.2.2. Lời văn miêu tả về cuộc sống con người miền núi .......................... 83
3.2. Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy ........................... 89
3.2.1. Khái quát về giọng điệu trần thuật ........................................................ 89
3.2.2. Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy ........................ 91
3.2.2.1. Giọng điệu trữ tình, mộc mạc, chân chất ............................................ 91
3.2.2.2. Giọng điệu cảm thương, xót xa .......................................................... 97
3.2.2.3. Giọng điệu triết lý, giản dị mà sâu lắng............................................. 100
KẾT LUẬN .................................................................................................. 104
TÀI LIU THAM KHO........................................................................... 112

Luận văn thạc sĩ văn học

2

Ngô Thị Yªn


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy

M ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1. Nói đến văn học Việt Nam, chúng ta nói đến cả q trình phát sinh và
phát triển. Đặc biệt là từ sau năm 1975 với công cuộc đổi mới của Đảng cộng
sản Việt Nam, một cuộc đổi mới được thể hiện trên nhiều bình diện. Song về

cơ bản vẫn là giai đoạn văn học tiếp cận cuộc sống từ bình diện thế sự - đời
tư. Chính xu hướng đó đã kích thích sức sáng tạo không ngừng của các văn
nghệ sĩ.
Bước sang thế kỉ XXI, từ sự đổi mới về nhiều mặt và sự mở rộng biên độ
cho cho người sáng tác khiến cho văn học đương đại của Việt Nam được vận
động, phát triển liên tục. Để đáp ứng mọi nhu cầu sáng tác của người cầm bút,
nhiều nhà văn tên tuổi đã đi đầu trong phong trào đổi mới đó. Tiêu biểu như:
Nguyễn Minh Châu. Nguyễn Khải, Nguyễn Huy Thiệp...
Chính lẽ đó, trong những năm gần đây, văn học Việt Nam xuất hiện nhiều
gương mặt những nhà văn trẻ có triển vọng. Họ đi sâu vào nhiều góc cạnh của
đời sống, từ thế sự cho đến đời tư của con người. Đặc biệt, các nhà văn trẻ
quan tâm nhiều đến số phận, hoàn cảnh sống éo le và đến cả những cái rất
riêng, những điều nhạy cảm nhất trong cuộc sống đa dạng của con người. Một
trong số đó phải kể đến nhà văn trẻ Đỗ Bích Thúy, chị đã góp phần làm cho
bộ mặt của văn học Việt Nam thêm một diện mạo mới.
2. Nhà văn Đỗ Bích Thúy sinh ngày 13/04/1975 tại Hà Giang. Chị sinh ra
và lớn lên trên mảnh đất địa đầu của Tổ quốc - một địa danh gắn liền với
khung cảnh núi rừng Tây Bắc đã đi vào trang thơ, trang văn của rất nhiều nhà
thơ, nhà văn. Chị là thế hệ những nhà văn trưởng thành sau năm 1975, khi đất
nước đã khơng cịn tiếng súng. Một đất nước sống trong hịa bình, tự do
nhưng con người phải đối mặt với nhiều điều phức tạp của cuộc sống.
Có thể nói, cuộc đời Đỗ Bích Thúy khơng phải là một đường thẳng, xun
suốt mà nó đầy sự biến động. Con đường tìm đến văn chương của chị là cả
một quãng đường, tuy không dài nhưng nhiều bc chuyn mỡnh.
Luận văn thạc sĩ văn học

1

Ngô Thị Yên



Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy

Tui trẻ của Đỗ Bích Thúy cũng giống như bao cơ gái mới lớn khác, chị
có rất nhiều dự định và ước mơ trong sáng, cụ thể như mơ ước trở thành cô
giáo. Song ý định ấy không trở thành hiện thực, bởi khơng biết vì ngun do
gì mà Đỗ Bích Thúy lại học Cao đẳng Tài chính - Kế tốn và trở thành một
nữ kế toán cho báo Hà Giang. Nhưng với niềm đam mê văn chương nghệ
thuật, từ một nữ kế toán chị chuyển sang lĩnh vực viết lách, làm báo. Thời
gian làm việc cho báo Hà Giang không nhiều nhưng với bốn năm lăn lộn với
nghề báo, phải trèo đèo lội suối, đi vào những thung sâu, bản xa lấy tư liệu đã
giúp Đỗ Bích Thúy hiểu sâu sắc hơn về cuộc sống con người. Sau đó, chị về
Hà Nội học tiếp lên đại học. Trong những tháng ngày là sinh viên, chị miệt
mài chăm chỉ học tập để mong có thêm nhiều kiến thức về phục vụ cho cơng
việc làm báo sau này của mình. Sống trong môi trường sinh viên thiếu thốn
đủ thứ và lại là người con sống xa nhà, xa quê, Đỗ Bích Thúy ln đau đáu
nhớ về q hương - nơi có bố mẹ, anh chị em và bạn bè. Hơn lúc nào hết,
ngịi bút lại thơi thúc chị viết, chị viết trong một khơng gian chật hẹp của kí
túc xá. Nơi đó có những chiếc giường tầng cùng với chiếc bàn gấp nhỏ bé, có
thể di chuyển mọi lúc mọi nơi. Cũng trong thời gian học tập này, chị đã gửi
những bài viết của mình đến Tạp chí văn nghệ qn đội để dự thi. Kết quả là
chị đã dành giải nhất.
Quan niệm viết văn của Đỗ Bích Thúy hết sức đơn giản, chị vẫn thường
nói viết chính là nhu cầu nội tâm. Đặc biệt viết văn đối với chị như là sự trả
ơn, nên trong cuộc đời viết văn của mình, chị đã định hình một cách viết
khơng q ồn áo, hoa mĩ, không gây ra những cú sốc mạnh như những bạn
viết cùng trang lứa. Đầu sách của chị nằm khiêm tốn trong hiệu sách và cũng
chỉ những ai thực sự say mê văn chương đích thực mới tìm đến, quan tâm đến
chị và sách của chị. Điều đó cũng đủ để Đỗ Bích Thúy lặng lẽ, điềm đạm và
cần mẫn viết.

Những tập truyện của Đỗ Bích Thúy phần lớn chỉ viết với một đề tài duy
nhất, đó là đề tài miền núi, lại chỉ với một địa danh quen thuc - ú l mnh
Luận văn thạc sĩ văn học

2

Ngô Thị Yên


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy

t Hà Giang - quê hương yêu dấu của chị. Miền núi - đúng như tên gọi của
nó: hoang sơ, lạ lẫm và bí hiểm nhưng chị đã khai thác chiều sâu phức tạp
trong cuộc sống cũng như nhân cách và phẩm chất của con người vùng núi
phía Bắc một cách chân thành và thắm đượm tình q.
Đến nay, Đỗ Bích Thúy đã là một cây bút được khẳng định và là nữ phó
tổng biên tập đầu tiên trong lịch sử hơn 50 năm của Tạp chí văn nghệ quân
đội. Với công việc này, chị không chỉ gánh trọng trách của người quản lý mà
còn phải nỗ lực hơn nữa trong việc sáng tác của bản thân mình.
3. Truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy đã có một số người lấy làm đề tài
nghiên cứu nhưng chưa ai đi sâu vào việc áp dụng lí thuyết về nghệ thuật trần
thuật để tìm hiểu về phong cách sáng tạo trong truyện ngắn của chị.Vì lí do
trên, tơi mạnh dạn chọn đề tài: “Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Đỗ
Bích Thúy”.
2. Lịch sử vấn đề
Đỗ Bích Thuý đến với văn chương từ rất sớm, chị từng sáng tác và gửi bài
cho báo Tiền Phong từ năm 19 tuổi với tác phẩm đầu tay của mình là Chuỗi
hạt cườm màu xám và đã để lại ấn tượng khơng nhỏ trong lịng bạn đọc.
Nhưng bước ngoặt để tên tuổi chị có chỗ đứng trong làng văn học hiện đại là
phải kể đến cuộc thi truyện ngắn kéo dài 2 năm 1989 - 1999 do Tạp chí văn

nghệ quân đội tổ chức. Kết quả là chị đã dành giải nhất với chùm tác phẩm:
Ngải đắng ở trên núi, Đêm cá nổi và Sau những mùa trăng. Đặc biệt là
truyện ngắn Tiếng đàn môi sau bờ rào đá của chị đã được đạo diễn Ngô
Quang Hải chuyển thể thành kịch bản phim Chuyện của Pao. Bộ phim này đã
đoạt giải Cánh diều vàng năm 2005 của hội điện ảnh Việt Nam. Từ đây, tên
tuổi của chị được báo giới biết đến và lưu tâm nhiều hơn.
Trên báo văn nghệ trẻ, số ra ngày 11/3/2001, Điệp Anh có bài Gặp hai nữ
thủ khoa truyện ngắn trẻ đã nhận xét: “ Thế mạnh của Đỗ Bích Thuý là đời
sống của người dân Tây Bắc, với những không gian vừa quen vừa lạ, những
phong tục tập quán đặc thù khiến người đọc ln cảm thấy tị mị và bị cuốn
Ln văn thạc sĩ văn học

3

Ngô Thị Yên


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy

hỳt (...). Trong truyện ngắn của Đỗ Bích Th, khơng gian Tây Bắc hiện lên
đậm nét, để lại dư vị khó quên trong lòng độc giả” [02;03].
Nhà văn Chu Lai - một cây bút kì cựu trong làng văn có bài Cái duyên và
sức gợi của hai giọng văn trẻ được đăng trên Tạp chí văn nghệ quân đội
tháng 7 năm 2001. Ơng đã cảm nhận về văn của Đỗ Bích Thuý như sau: “Đọc
Thuý người ta có cảm giác như được ăn một món lạ, được sống trong một
mảnh đất lạ mà ở đó tràn ngập những cái rất riêng đậm đặc chất dân gian
của hương vị núi rừng, của con suối chảy ra từ khe đá lạnh, của mây trời đặc
sánh “như một bầy trăn trắng đang quấn quyện vào nhau”, của mùi ngải
đắng, mần tang, của những nét ăn, nét ở, phong tục tập quán còn giữ nguyên
vẻ hoang sơ, thuần phác, của ánh trăng “giữa mùa cứ rọi vào nhà cả đêm,

trăng đi một vòng cửa trước ra cửa sau”, của những trái tim con gái vật vã,
cháy bùng theo tiếng khèn gọi tình dưới thung xa, của bếp lửa nhà sàn và
tiếng mõ trâu gõ vào khuya khoắt, của những kiếp sống nhọc nhằn và con bìm
bịp say thuốc, say rượu ngủ khì khì bên chân chủ” [31;104].
Cảm hứng cảm thương trong sáng tác của Đỗ Bích Thúy và Nguyễn
Ngọc Tư là bài viết của Phạm Thùy Dương được đăng trên Tạp chí văn nghệ
quân đội (661) tháng 1 năm 2007. Phạm Thùy Dương có nhận xét : “Nổi lên
trong trang viết của Nguyễn Ngọc Tư và Đỗ Bích Thúy là cái nhìn nhân ái về
con người (...) Đằng sau cuộc sống, khí chất của con người mỗi vùng đất là
tình cảm cảm thương sâu sắc của nhà văn tới những con người bất hạnh”
[13;102].
Trung Trung Đỉnh với bài Đọc truyện ngắn Đỗ Bích Thúy in trên báo
Văn nghệ số 5, ra ngày 3/2/2007 cũng cảm nhận khá sâu về văn phong Đỗ
Bích Thúy: “Đỗ Bích Thúy có khả năng viết truyện về cảnh sinh hoạt truyền
thống của con người miền cao một cách tài tình. Không truyện nào là không
kể về cách sống, lối sinh hoạt, nết ăn ở và cả quang cảnh sinh hoạt lễ hội,
phong tục tập quán. Truyện nào cũng hay cũng mi, cng l mc dự tỏc gi
Luận văn thạc sĩ văn học

4

Ngô Thị Yên


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy

khụng hề cố ý đưa vào chi tiết lạ. Thế mà đọc đến đâu ta cũng sững sờ và bị
chinh phục bởi những chi tiết rất đặc sắc chỉ người miền cao mới có” [17;58].
Với báo mạng, cũng có nhiều bài viết đề cập tới sáng tác của Đỗ Bích
Thúy. Tác giả Hà Anh với bài viết Đỗ Bích Thúy: nếu làm độc giả thất vọng

tôi thà chịu cũ được đăng tải trên trang ra ngày
05/12/2005. Tiếp đến là bài viết của tác giả Dương Bìn h Nguyên với bài Nhà
văn Đỗ Bích Thúy: viết vì nhu cầu nội tâm được đăng tải trên trang
ra ngày 21/1/2006 và bài viết Nhà văn Đỗ Bích
Thúy - sự mềm mại quyết liệt được đăng trên trang .
Ngồi ra có nhiều bài viết về chị trên trang khác như: ;
phongdiep.net có bài viết Đỗ Bích Thúy - tơi đã khơng nghĩ rằng người phụ
nữ có thể hi sinh nhiều đến thế, ra ngày 23/1/2009. Tiếp đến, là tác giả Bình
Nguyên Trang với bài viết Con của núi được đăng trên trang:
ngày 16/03/2009. Trên trang
là bài viết Đỗ Bích Thúy và Ngải đắng ở trên núi và trang
ra ngày 23/11/2009 có bài Đường đến với văn chương
của một người viết trẻ của tác giả Lê Hương Thủy.
Bên cạnh sở trường viết truyện ngắn, nhà văn trẻ Đỗ Bích Thúy cịn thử
sức mình trong cả lĩnh vực sáng tác kịch, tiểu thuyết và đoản văn. Có lẽ ở
phương diện nào chị cũng tạo được sự chú ý của mọi người, đặc biết là giới
văn nghệ sĩ.
Với tiểu thuyết đầu tay Bóng của cây sồi có bài nhận xét của Nguyễn
Hữu Quý ở báo Văn nghệ quân đội (623) tháng 6 năm 2005 như sau: “Tính xã
hội, tính nhân văn, lịng trắc ẩn và khao khát của nhà văn đã được gửi gắm
vào từng trang viết. Nó đã được nói qua nhân vật, qua giọng kể không mới lạ
nhưng đằm lắng và nhiều cảm xúc của Đỗ Bích Thúy. Hiện tại, quá khứ,
chuyện mới, chuyện cũ đan xen, cài quấn nhau như dịng chảy của cuộc sống
mn đời nay tiếp nối, tiếp nối không dứt. Lối dẫn chuyện tự nhiên và không
LuËn văn thạc sĩ văn học

5

Ngô Thị Yên



Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy

gũ bó, cách miêu tả thiên nhiên và đời sống của miền đất cực bắc đất nước
khá sinh động là ưu điểm nổi trội của cuốn tiểu thuyết này”[45;113]
Ngoài những bài báo đánh giá, nhận xét, khám phá, tìm hiểu một số khía
cạnh nhỏ về truyện ngắn của Đỗ Bích Thuý cịn có một số cơng trình nghiên
cứu bước đầu so sánh đối chiếu với một số nhà văn trẻ khác như: Luận văn
thạc sĩ của Dương Thị Kim Thoa với đề tài Tiếp cận sáng tác của Đỗ Bích
Thuý và Nguyễn Ngọc Tư từ phương diện giá trị văn học - văn hoá (2008).
Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Minh Trường với đề tài Truyện ngắn về đề tài
về dân tộc miền núi phía bắc qua tác phẩm của Cao Duy Sơn, Đỗ Bích
Thuý, Nguyễn Huy Thiệp (2009). Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thanh Hồng
về đề tài Tìm hiểu một số cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn của một số
cây bút nữ thời kì 1986 - 2006 (Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ
Bích Thúy (2009).
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Với đề tài Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy,
người viết ln chú ý khai thác những hình thức nghệ thuật trần thuật trong
mảng truyện ngắn của chị để chỉ ra những nét riêng, đặc trưng trong lối sáng
tạo của nhà văn trẻ này.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Người viết tập trung nghiên cứu khai thác sâu nghệ thuật trần thuật trong
năm tập truyện ngắn của nhà văn Đỗ Bích Thúy:
1. Sau những mùa trăng, NXB Văn nghệ quân đội năm 2001.
2. Những buổi chiều ngang qua cuộc đời, NXB Hội nhà văn, năm 2003.
3. Kí ức đơi guốc đỏ, NXB Phụ nữ, năm 2004.
4. Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, NXB Công an nhân dân, năm 2006.
5. Người đàn bà miền núi, NXB Phụ nữ, năm 2008.

4. Phƣơng phỏp nghiờn cu
Luận văn thạc sĩ văn học

6

Ngô Thị Yên


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy

Xut phát từ đối tượng và phạm vi nghiên cứu, người viết sẽ chọn lý
thuyết có liên quan đến nghệ thuật trần thuật để áp dụng vào việc triển khai
vấn đề này. Bên cạnh đó, người viết cịn phải sử dụng đến các phương pháp
khác để bổ trợ cho việc nghiên cứu của mình. Đó là các phương pháp nghiên
cứu sau: phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp tổng
hợp, phương pháp so sánh, đối chiếu.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn của chúng tôi gồm có ba chương:
Chƣơng 1. Ngƣời trần thuật và điểm nhìn trần thuật trong truyện
ngắn Đỗ Bích Thúy.
Chƣơng 2. Nghệ thuật tổ chức kết cấu và cốt truyện trong truyện
ngắn Đỗ Bích Thúy.
Chƣơng 3. Ngơn ngữ và giọng điệu trần thut trong truyn ngn
Bớch Thỳy.

Luận văn thạc sĩ văn học

7


Ngô Thị Yên


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy

NI DUNG
CHƢƠNG 1. NGƢỜI TRẦN THUẬT VÀ ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN ĐỖ BÍCH THÚY
1.1. Lí thuyết nghệ thuật trần thuật
Nói đến phương diện trần thuật thì đây lại là một phần không thể thiếu
trong phương thức tự sự. Bởi trong tác phẩm tự sự, nghệ thuật trần thuật có
vai trị quan trọng góp phần khẳng định tài năng, phong cách nhà văn. Có
nhiều hình thức trần thuật, mỗi một thể loại cụ thể sẽ có cách trần thuật khác
nhau. Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Trần thuật là phương diện cơ bản
của phương thức tự sự, là việc giới thiệu, khái quát, thuyết minh, miêu tả đối
với nhân vật, sự kiện, hồn cảnh, sự vật theo cách nhìn của một người trần
thuật” [21;307].
Giáo trình Lí luận văn học cũng đưa ra khái niệm về trần thuật như sau:
“Trần thuật là biện pháp nghệ thuật cơ bản nhất để tạo thành văn bản văn học.
Về bản chất, trần thuật là hành vi ngôn ngữ nhằm kể, thuật, miêu tả, cung cấp
thông tin về sự kiện, nhân vật, theo một thứ tự nhất định trong không gian,
thời gian và về ý nghĩa. Trần thuật có nhiệm vụ cho người đọc biết ai, xuất
hiện ở đâu, khi nào, làm việc gì, trong tình huống nào...” [53;100].
Trần thuật khơng chỉ là lời thuật, lời kể. Nó bao hàm cả việc “miêu tả đối
tượng, phân tích hồn cảnh, thuật lại tiểu sử nhân vật, lời bình luận, lời trữ
tình ngoại đề, lời ghi chú của tác giả” [21;307]. Trần thuật khơng chỉ có trong
truyện mà cịn có cả trong thơ trữ tình nhưng trần thuật thể hiện sự đa dạng và
phong phú nhất phải là tác phẩm tự sự. Như vậy, trần thuật ln có hai yếu tố
quy định, đó là người kể và chuỗi ngôn từ. Yếu tố người kể chuyện, ta sẽ có
ngơi trần thuật, lời trần thuật, điểm nhìn trần thuật. Yếu tố chuỗi ngơn từ ta lại

có nhiều yếu tố khác như: dựng cảnh, dự báo; phân tích bình luận, giọng
điệu...
Từ điển thuật ngữ văn học khẳng định: “Trần thuật là phương diện cấu
trúc của tác phẩm tự sự thể hiện mối quan hệ chủ thể - khách thể trong loi
Luận văn thạc sĩ văn học

8

Ngô Thị Yên


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy

hỡnh nghệ thuật này. Nó đánh dấu sự đổi thay điểm chú ý của ý thức văn học
từ hệ thống sự kiện “thắt nút”, “mở nút”, sang chủ thể thẩm mĩ của tác phẩm
tự sự” [21;308].
Từ khái niệm trần thuật là một phương thức nghệ thuật đặc trưng của tác
phẩm tự sự, truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy đã sử dụng nghệ thuật trần thuật
vào việc khai thác những mảnh đời tư của con người trong quá trình hình
thành và phát triển. Để đạt được điều đó, bút pháp trần thuật của tác giả phải
được định hình trong một khơng gian và thời gian nhất định. Có như vậy, thể
loại truyện ngắn mới phát huy hết mặt mạnh của nó.
1.2. Ngƣời trần thuật và điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích
Thúy
1.2.1. Ngƣời trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy
1.2.1.1. Khái quát về ngƣời trần thuật
Trong nghệ thuật trần thuật, người ta thường nhắc đến các khái niệm:
người trần thuật, điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật, ngơn ngữ trần
thuật.
Người trần thuật (còn gọi là người kể chuyện, người thuật chuyện). Đây

là khái niệm trung tâm của trần thuật học, của thi pháp học hiện đại. Khái
niệm này dùng để chỉ người thay thế cho chủ thể sáng tạo tường thuật lại câu
chuyện trong tác phẩm. Song cho đến nay, khái niệm này còn gây nhiều tranh
cãi. Các nhà nghiên cứu Pháp như G. Genette thì hiểu người trần thuật có
chức năng của tác giả mà ơng giải thích là vai trị trội của người kể chuyện.
Đó là, người trần thuật vừa có chức năng kể chuyện đồng thời phải vừa chỉ
huy cách kể, vừa truyền đạt thông tin, vừa thuyết phục người đọc... Còn các
nhà nghiên cứu Anh, Mĩ thì lại thiên về hiểu người trần thuật như là một vai
trò thụ động do tác giả điều khiển. Tác giả cần nó vì cần một giọng điệu, cn
mt im nhỡn, cỏch nhỡn.

Luận văn thạc sĩ văn học

9

Ngô Thị Yên


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy

T điển thuật ngữ văn học có nêu: “Người trần thuật là hình thái của
hình tượng tác giả trong văn học nghệ thuật, là người mang tiếng nói, quan
điểm tác giả trong tác phẩm văn xi” [21;191]
Giáo trình lí luận văn học đưa ra ý kiến: “Người kể chuyện (người trần
thuật) là yếu tố thuộc thế giới miêu tả. Đó là một người do nhà văn tạo ra để
thay thế mình thực hiện hành vi trần thuật... Người kể chuyện trong văn bản
ẩn mình trong dịng chữ. Người kể chuyện ấy có thể được kể bằng ngơi thứ
ba, ngơi thứ nhất và ngơi thứ hai. Và chỉ có thể kể được khi nào họ cảm thấy
như người trong cuộc, người chứng kiến hay người biết trước sự việc xảy ra
bằng tất cả giác quan, sự hiểu biết của mình. Do đó về căn bản, mọi người kể

chuyện đều kể theo ngôi thứ nhất. Cái gọi là kể theo ngôi thứ ba thực chất là
hình thức kể khi người kể chưa được ý thức hoặc là đã được ý thức nhưng cố
ý giấu mình” [53;102]. Cịn ngơi kể thứ hai là “cái tơi trữ tình”, là “chủ thể
kép” thường dùng khi “hỗ trợ” để nhân vật của mình được bộc lộ “chân dung
nội tâm” nhưng ngơi kể thứ hai này thường ít được sử dụng.
Theo Thi pháp học hiện đại thì “người trần thuật cũng đồng thời là người
kể chuyện và người kể chuyện là yếu tố tích cực trong việc kiến tạo thế giới
tưởng tượng... Khơng thể có trần thuật thiếu người kể chuyện” [52;116].
Dù các nhà nghiên cứu có những cách hiểu khác nhau về người trần thuật
thế nào đi chăng nữa thì vai trị của người trần thuật là rất quan trọng. Bởi trần
thuật bao giờ cũng được tiến hành từ phía một người nào đó. Ở phương diện
nào, dù trực tiếp hay gián tiếp cũng đều có sự đồng hành của người trần thuật.
Người trần thuật không những tổ chức về mặt ngơn ngữ mà cịn đóng vai trò
quan trọng về mặt kết cấu và chi phối đến ngơn ngữ của nhân vật. Có khi tác
giả chính là người trần thuật, cũng có khi tác giả là người trần thuật được giao
cho hóa thân vào một nhân vật nào đó. Người trần thuật miêu tả, bình luận,
khêu gợi và làm sáng tỏ mọi mối quan hệ của nhân vật từ hoàn cảnh, sự kiện
cho đến các nhân vật khác trong tác phẩm. Đó là những nhân tố tích cực trong
việc tổ chức, dẫn dắt, định hướng và khơi gi kh nng i thoi tranh lun
Luận văn thạc sĩ văn học

10

Ngô Thị Yên


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy

ca người đọc, là điểm tựa để tác giả có thể bộc lộ quan điểm cá nhân về cuộc
sống cũng như mặt nghệ thuật của mình. Người trần thuật cịn được nhận diện

trong tác phẩm của mình là nhờ vào sự định hình của ngơi kể. Vì vậy, việc
nghiên cứu khám phá ra hình tượng người trần thuật cũng chính là phương
diện khám phá ra nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Từ những khái niệm, những đặc tính trọng yếu đó về người trần thuật nên
mỗi nhà văn khi bắt tay vào sáng tác tác phẩm tự sự ln có ý thức lựa chọn
cho mình một người kể chuyện thích hợp.
1.2.1.2 Ngƣời trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy
Khi khảo sát năm tập truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy, chúng tôi nhận thấy
những câu chuyện kể của chị thường có sự đan xen, nhập nhịa giữa chủ thể
sáng tạo là tác giả với người trần thuật. Đó là cội nguồn của sự nhận thức,
phán đoán, kiến giải chủ quan mà nhà văn hiện hình nó trên văn bản của
mình. Người trần thuật trong truyện ngắn của chị luôn truyền tải được đầy đủ
và sắc nét những yêu thương, tâm tình, những khát khao cháy bỏng của con
người vùng cao. Đồng thời là tâm sự của chính nhà văn, người con của quê
hương khi xa quê nhớ quê hương đến cháy bỏng da diết. Để thực thi vai trò
của người kể chuyện điều đầu tiên nhà văn phải là người thiếp lập được hình
thức trần thuật hợp lí, phù hợp với ý đồ và mục đích sáng tạo của bản thân.
Qua 36 truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy rải rác trong năm tập, đặc biệt là
dựa vào sự tồn tại của người kể chuyện được báo hiệu thông qua văn bản,
chúng tơi nhận thấy hình tượng người trần thuật mà Đỗ Bích Thúy thiết lập
biểu hiện chủ yếu trên hai phương diện: người trần thuật hàm ẩn (giấu mặt),
người trần thuật tường minh (lộ diện) hay người trần thuật đáng tin cậy và
khơng đáng tin cậy. Từ đó, chúng tơi nhận thấy người đóng vai trị trần thuật
trong những tập truyện ngắn của chị chủ yếu thuộc ngôi thứ nhất và ngôi thứ
ba. Tất nhiên xen kẽ trong cách kể thuộc ngơi thứ nhất và ngơi thứ ba, truyện
Đỗ Bích Thúy cũng có sử dụng ngơi thứ hai nhưng khơng nhiều. Ngơi thứ hai
mà chị dùng chỉ nhằm mục đích giỏn cỏch vi cỏch xng hụ: anh, ch, b...
Luận văn thạc sĩ văn học

11


Ngô Thị Yên


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy

tng là ngơi thứ ba số ít nhưng thực chất nó là cái tôi khác, cái tôi được kể
ra, chứ không phải là tự kể như ngôi thứ nhất. Để tiện cho việc theo dõi và tìm
hiểu tất cả những mơ thức trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy, chúng
tơi lập bảng thống kê, phân loại như sau:

Tên truyện ngắn

STT

Trần thuật từ

Trần thuật từ

ngôi thứ ba

ngôi thứ nhất

01 Tiếng đàn mơi sau bờ rào đá

x

02 Gió khơng ngừng thổi

x


03 Cái ngưỡng cửa cao

x

04 Cạnh bếp có cái mi gỗ

x

05 Con dê bốn mắt

x

06 Cột đá treo người

x

07 Đá cuội đỏ

x

08 Đêm cá nổi

x

09 Giống như cái cối nước

x

10 Hẻm núi


x

11 Mần tang trong thung lũng

x

12 Mặt trời lên, quả còn rơi xuống

x

13 Ngải đắng ở trên núi

x

14 Ngựa ngã núi

x

15 Những buổi chiều ngang qua cuộc

x

đời
16 Sải cánh trên cao

x

17 Sau những mùa trăng


x

18 Vết chân ngựa trên đường mòn

x

19 Th trn

x

20 i qua ngy sang ờm
Luận văn thạc sĩ văn học

x
12

Ngô Thị Yên


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy

21 Ngồi cửa trời chưa sáng

x

22 Sơng cịn chảy mãi

x

23 Nơi sinh ra huyền thoại


x

24 Người đàn bà ném con chó xuống

x

biển
25 Phía sau kí ức

x

26 Bến đợi

x

27 Bến sơng

x

28 Và tình u đi qua

x

29 Đưa em về với mẹ

x

30 Kí ức đôi guốc đỏ


x

31 Trong thung lũng

x

32 Sông đêm

x

33 Mùa chuối chín

x

34 Lặng n dưới vực sâu

x

35 Trơi trên phù sa

x

36 Gió lùa qua cửa

x

Theo thống kê phân loại ở trên, chúng ta thấy truyện ngắn của Đỗ Bích
Thuý trần thuật từ ngôi thứ ba (người trần thuật hàm ẩn) là 20/36 truyện ngắn
(chiếm 55%), trần thuật từ ngôi thứ nhất (người trần thuật tường minh) là
16/36 truyện ngắn (chiếm 45%).

1.2.1.2.1 Ngƣời trần thuật hàm ẩn
Đây là hình thức trần thuật truyền thống đã phổ biến trong văn học cổ và
văn học trung đại. Người trần thuật hàm ẩn thường được xác lập trên cơ sở
hình thức trần thuật khách quan (hình thức ẩn khuất của người kể), với mục
đích làm tăng tính chân thực cho câu chuyện nên được tác giả thiết lập ở ngơi
thứ ba số ít, khơng lộ diện, khơng nhân vật hóa. Với ngơi thứ ba luụn cho
Luận văn thạc sĩ văn học

13

Ngô Thị Yên


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy

phộp người kể có thể biết tất cả con người cũng như sự vật, sự việc. Đồng thời
giữ vai trò thống soái trong việc miêu tả, kể chuyện, dẫn chuyện, kể cả những
bí mật trong tâm hồn của những người khác. Có thể coi người trần thuật từ
ngơi thứ ba là ngơi kể tự do nhất, có khả năng bao qt và có trường nhìn
rộng rãi nhất. Từ đó tạo cơ hội thuận lợi cho người thuật chuyện đi sâu vào
ngõ ngách của chuyện kể cũng như lĩnh vực đời sống, nội tâm của các nhân
vật. Người trần thuật ở ngôi kể này có khả năng chứng kiến câu chuyện và có
khả năng thuật lại tồn bộ câu chuyện theo cách riêng của mình. Đây thực
chất là ý đồ trong sáng tạo nghệ thuật của nhà văn.
Trong truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy, tác giả sử dụng ngơi trần thuật này
khá nhiều 20/36 truyện ngắn (chiếm 55%). Trước tiên, chúng ta cần khẳng
định ngay, người trần thuật ẩn mình trong truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy có
hai dạng. Đó là người trần thuật hàm ẩn không xác định và người trần thuật
xác định.
Người trần thuật hàm ẩn không xác định là người kể chuyện khơng có tên

gọi cụ thể, khơng rõ giới tính, lứa tuổi nghề nghiệp, thậm chí đến một lời giới
thiệu về nhân vật này cũng khơng có. Chứng tỏ, người trần thuật kiểu này
hoàn toàn khách quan đứng ngoài quan sát, miêu tả và kể lại những cử chỉ,
hành động, lời nói của nhân vật một cách gián tiếp. Hay người trần thuật ở
đây có sự biến hóa khơn lường, tạm qn đi giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp để
vừa là người dẫn chuyện, vừa là người ẩn tàng cùng một lúc đóng rất nhiều
vai trong truyện. Đó là những truyện ngắn: Tiếng đàn môi sau bờ rào đá (với
ba nhân vật: ông Chúng, May, mẹ già), Cái ngưỡng cửa cao (với hai nhân
vật: Sương và Sính) , Con dê bốn mắt (với ba nhân vật: Dúng, Dí, Chay). Tất
cả câu chuyện trên, người đọc nhận thấy có sự hòa nhập của nhiều chủ thể
tham gia trần thuật. Gần như xun suốt tồn bộ tác phẩm, Đỗ Bích Thúy đã
để cho người trần thuật nhập vào các nhân vật của mình và xóa đi khoảng
cách giữa người trần thuật và nhân vật. Nhưng khi đọc kĩ tác phẩm của chị,
chúng ta vẫn cảm nhận được đằng sau các nhõn vt, cỏc s kin c k luụn
Luận văn thạc sĩ văn học

14

Ngô Thị Yên


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy

cú bóng dáng của một người nào đó đang âm thầm theo dõi, quan sát. Mặc dù
khơng thật sự nhìn thấy, nghe thấy người kể chuyện nhưng câu chuyện vẫn
được định hình. Đây có thể coi là điểm mới khiến cho truyện của Đỗ Bích
Thúy, nhìn bề ngồi là tương đối khách quan, có giữ khoảng cách với nhân
vật, thậm chí tách mình ra khỏi sự đồng cảm nhất định với nhân vật. Có nghĩa
là Đỗ Bích Thúy chỉ mượn hình thức kể chuyện cũ, truyền thống nhưng cách
khai thác tiếp cận lại vô cùng mới.

Người trần thuật hàm ẩn được xác định trong truyện ngắn của Đỗ Bích
Thúy chính là một chủ thể biết rõ giới tính, lứa tuổi, thậm chí đóng ln vai
trị của nhân vật. Cụ thể như: người phụ nữ đau khổ tên Kía trong truyện Gió
khơng ngừng thổi, như chàng trai Dân trong truyện Mặt trời lên, quả cịn rơi
xuống, như nỗi oan nghiệt của cơ Chía trong truyện Cột đá treo người khiến
người đọc lúc này quên đi sự xuất hiện của người trần thuật mà xem đó là
nhân vật thấu suốt cảnh ngộ của mình. Điều đó nhờ vào những câu văn trần
thuật khá nhịp nhàng, những lời thuật giàu tính biểu cảm và hàng loạt những
hình ảnh so sánh ước lệ.
Từ những dẫn giải nêu trên, chứng tỏ người trần thuật hàm ẩn xác định
hay khơng xác định trong q trình trần thuật thì người trần thuật ln cố
gắng nắm bắt thực trạng vấn đề một cách sâu sắc và khách quan. Cuối cùng,
người trần thuật sẽ trình bày, đánh giá về hiện thực đời sống và phong tục
sinh hoạt đặc sắc của con người miền núi.
Với cách kể chuyện như trên, người trần thuật hồn tồn tỉnh táo để lơi
cuốn hấp dẫn người đọc tiếp cận hết những mối quan hệ của con người với
con người vùng cao. Một vùng văn hóa còn rất nhiều hủ tục lạc hậu khiến cho
mọi người ln phải suy nghĩ, trăn trở. Từ đó, nhà văn trẻ Đỗ Bích Thúy có
điều kiện để đưa ra những chính kiến, quan điểm của bản thân về những giá
trị riêng của mỗi người, mỗi cộng đồng dân tộc. Đây cũng là cách chủ thể
giấu mình ẩn tàng sau bước đi và suy nghĩ của nhân vật mà kín đáo bộc lộ
quan điểm chủ quan cá nhân một cách sâu sc, khụng l liu. in hỡnh nh
Luận văn thạc sĩ văn học

15

Ngô Thị Yên


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy


ngi trần thuật hàm ẩn mượn lời nói của nhân vật để nhận xét và đưa ra
những câu hỏi day dứt người đọc về sự cam chịu đau đớn của những người
phụ nữ vùng cao. Đó là nỗi niềm đau đáu của người mẹ sau bao nhiêu năm
làm dâu mà không thể sinh được con cho nhà chồng nên họ chỉ coi mình là
cục đá kê chân cột nhà chồng trong truyện Tiếng đàn môi sau bờ rào đá. Hay
hành động của Vi trong truyện Giống như cái cối nước, mỗi đêm cơ lại ra cối
nước bng cần cho nó giã không xuống cối một cách vô vọng, vô vọng như
trong chính tình dun của mình. Tất cả những cảnh đời ngang trái và đau
khổ của những người trong cuộc đã được người trần thuật hàm ẩn giấu mặt
diễn tả. Cái hay là ở chỗ, tuy người trần thuật giấu mặt ở một góc khuất nào
đó mà người đọc khơng bao giờ nhận biết được (và có lẽ khơng cần quan tâm
cũng chẳng sao). Nhưng đó chỉ là hình thức bề ngoài mà người trần thuật
đánh lừa cảm giác của độc giả. Sâu thẳm bên trong, người trần thuật hàm ẩn
vẫn lặng lẽ quan sát, vẫn gián tiếp bày tỏ sự đồng tình ủng hộ và cảm thơng.
Có nghĩa là, người trần thuật khơng lộ diện nhưng vẫn có thể cắt nghĩa được
nguyên nhân mang đến nỗi khổ, sự bế tắc trong sự lựa chọn khát vọng cứ
chực bùng phát rồi lại lịm tắt của những chàng trai, cô gái vùng cao.
Qua lời kể của người trần thuật từ những câu chuyện thế sự đó, người đọc
có thể rút ra bài học về xử thế thấm thía cho từng cảnh đời và thậm chí cả
những cảnh đời có thực ngay chính trong lịng độc giả. Điều đó càng có sức
khái qt lên những triết lý vĩnh hằng về nhân sinh, xã hội, vũ trụ nói chung
mà thế giới lồi người ln mong mỏi.
1.2.1.2.2. Ngƣời trần thuật tƣờng minh
Người trần thuật tường minh là kiểu người kể chuyện xuất hiện trực tiếp
trong tác phẩm. Đọc tác phẩm, người đọc có thể phân định được đặc điểm
tính cách, phong thái trần thuật, quan điểm lập trường, trạng thái tâm lí,
phương hướng lí giải của một nhân tố, một đối tượng trần thuật cụ thể. Kiểu
trần thuật này mới xuất hiện trong văn học Vit Nam u th k. Lỳc ny, ch
Luận văn thạc sĩ văn học


16

Ngô Thị Yên


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy

th được “nhân vật hóa” làm người kể chuyện của chính mình với ý thức
hướng nội, tự vấn hoặc chiêm nghiệm.
Người trần thuật tường minh chủ yếu ở ngôi thứ nhất với cách xưng hô
“tôi”. Người trần thuật tường minh ở đây thực chất là tác giả. Có nghĩa là nhà
văn lúc này vừa là nhân vật vừa là người trần thuật. Họ viết tất cả những gì
trong cuộc đời họ đã trải qua, đã chứng kiến và nếm trải, chiêm nghiệm. Tác
giả lúc này đã nhường lời và cho phép người trần thuật thay mặt mình kể lại
câu chuyện theo ý đồ kiến tạo độc lập. Có thể khẳng định, người trần thuật
tường minh có nhiệm vụ là thay mặt tác giả kể lại câu chuyện nên người trần
thuật không còn phải giữ một khoảng cách xa lạ với nhân vật. Đây là lối trần
thuật chủ quan khi người kể chuyện ngôi thứ nhất xưng tôi “là một nhân vật”
trong truyện, chứng kiến các sự kiện và đứng ra kể. Từ đó kéo theo nội dung
kể là tất cả những gì thuộc trình độ và sự hiểu biết của một người kết hợp với
quan điểm đánh giá rất chủ quan của nhân vật ấy.
Tóm lại, truyện ngắn là thể loại thích hợp để sử dụng ngơi thứ nhất. Vì
truyện ngắn ít nhân vật, thường có một cốt truyện. Cịn về mặt ngun tắc thì
chỉ với nhân vật “tơi”, người trần thuật hồn tồn có khả năng nắm bắt mọi
vấn đề. Đặc điểm trần thuật này rất thuận lợi và phù hợp với những nhân vật
có đời sống nội tâm phong phú, có khả năng tự phân tích, mổ xẻ những diễn
biến tinh tế nhất, trung thực nhất trong sâu thẳm con tim mình. Bằng phương
thức trần thuật này, nhà văn xem ra dễ dàng tiếp cận, đối thoại với người đọc
và người đọc phần nào cảm nhận được cá tính cũng như văn phong của nhà

văn.
Trong năm tập truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy gồm có 16/36 truyện ngắn
dưới dạng hình thức người trần thuật tường minh với ngơi kể thứ nhất xưng
“tôi” (chiếm 45%). Hầu hết những truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy theo
phương thức này là “khúc xạ qua ý thức của một nhân vật” (trần thuật từ ngôi
thứ nhất) nhưng lại làm hai nhiệm vụ vừa là người kể chuyện làm chứng vừa
là nhân vật tham gia trực tiếp vào cốt truyện. Từ đó người thuật chuyện tng
Luận văn thạc sĩ văn học

17

Ngô Thị Yên


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy

minh khơng chỉ đảm nhiệm chức năng trần thuật nói chung mà cịn có khả
năng tự bộc lộ những suy nghĩ, cảm xúc, chiêm nghiệm của cá nhân. Đây có
thể được coi là nhân tố làm nên tính nhân văn cho truyện ngắn Đỗ Bích Thúy.
Thường kiểu người trần thuật này trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy là
thuật lại câu chuyện của chính mình trong q khứ hay trong sự trở về của
nhân vật “tôi”. Người kể chuyện ở đây được coi là chiếc cầu nối duy nhất nối
liền quá khứ - hiện tại, làm sống lại câu chuyện của nhân vật “tôi” một thời
với giọng kể hồi cố và nhiều băn khoăn, trăn trở. Trong mỗi câu chuyện của
Đỗ Bích Thúy ở dạng thức này, người trần thuật tường minh hiện diện với
một cách thức riêng và tạo được những hiệu ứng thẩm mĩ khơng giống nhau.
Đó có thể là nhân vật “tôi” đúng nghĩa gần gũi với tác giả với những cảm giác
chênh chao của một người con học tập ở nơi xa, nay trở về quê nhà trong
truyện Đêm cá nổi, Ngải đắng ở trên núi. Đó có thể là nhân vật “tơi” đóng
vai trị là nhân vật nam khác với giới tình của nhà văn như chàng trai trong

truyện Sau những mùa trăng, nhân vật “tôi” là thầy giáo về Tả Khâu dạy học
trong Hẻm núi. Đó có thể là nhân vật “tơi” là một người phụ nữ có tuổi đời
và hồn cảnh khác xa với nhà văn trong Những buổi chiều ngang qua cuộc
đời . Nhưng qua sự khéo léo diễn tả của người trần thuật thì tác giả cùng với
nhân vật “tơi” có điểm chung. Đó là sự đồng điệu về tình cảm, tư tưởng và
quan điểm để tạo nên một dòng ý thức tâm lí đang hịa cùng một nhịp. Chứng
tỏ, người trần thuật lúc này không đơn thuần chỉ là người dẫn dắt mà còn là
nhân vật truyền tải những suy tư và quan niệm sống.
1.2.2. Điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy
1.2.2.1. Khái qt về điểm nhìn trần thuật
Chúng ta biết, mỗi văn bản tự sự đều có một người đóng vai trị là người
kể chuyện, để kể lại sự kiện xảy ra ở đâu, vào lúc nào và nhân vật tham gia
vào câu chuyện cụ thể ra sao. Người kể chuyện đó kể về cái gì và kể lại ra
sao, ảnh hưởng đến truyện được kể có thành cơng hay khơng. Điều đó liên
quan đến vị trí và xuất phát điểm mà từ đó sự kiện được quan sỏt, c cm
Luận văn thạc sĩ văn học

18

Ngô Thị Yên


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy

nhn và được kể lại là rất quan trọng. Đó là cách hiểu đơn giản nhất về điểm
nhìn.
Điểm nhìn trong văn bản bao giờ cũng là tâm điểm được nhiều nhà nghiên
cứu trên thế giới quan tâm và bàn luận. Điểm nhìn là vấn đề then chốt của kết
cấu văn bản trần thuật, là “vấn đề quan hệ giữa người sáng tạo và cái được
sáng tạo” (Iu. Lốtman). Vào đầu thế kỉ XIX, nhà văn Anna Barbauld là người

đề xuất đầu tiên, đó là “khi nhận thấy mọi sự đều thay đổi, nếu người ta kể
theo ngôi thứ nhất”. Đến cuối thế kỉ XIX, vấn đề này được Henry James và F.
Schlegel trình bày cụ thể hơn. Họ đã xác nhận được điểm nhìn chính là việc
“mơ tả cách thức tồn tại của tác phẩm như một hành vi mang tính bản thể
hoặc một cấu trúc hoàn chỉnh, tự trị đối với cá nhân nhà văn” và “Điểm nhìn
là sự lựa chọn cự li trần thuật nào đó loại trừ sự can thiệp của tác giả vào sự
kiện được miêu tả và cho phép văn xuôi trở nên tự nhiên hơn, phù hợp với
cuộc sống hơn. Sang đầu thế kỉ XX, K. Friedeman (1910) rồi Percy Lubbock
(1921) và E. M. Foster (1927) lại tiếp tục đề cập tới điểm nhìn trong tiểu
thuyết. Từ những năm bốn mươi trở đi, vấn đề được nghiên cứu sâu với M.
Scholer, Tz. Tôđôrốp, G. Genette. Từ những năm hai mươi trở đi, điểm nhìn
trở thành một trong những tiêu điểm của nghiên cứu văn học. Các tác giả như:
B. Tômasépxki, M. Bakhtin, V. Vinôgrađốp... trong quá trình nghiên cứu
cũng bàn về điểm nhìn văn bản nói chung.
Về vấn đề điểm nhìn trần thuật, giới nghiên cứu văn học ở trong và ngoài
nước đã đề cập tới khá nhiều. Nhưng cho tới nay, xung quanh thuật ngữ này
vẫn còn nhiều tranh cãi. Riêng về tên gọi cũng có nhiều cách hiểu khác nhau.
Có người cho rằng, khái niệm điểm nhìn ở đây quá rộng, quá chung chung
nên đề xuất với khái niệm hẹp hơn là “nhãn quan” (vision), có người đề xuất
khái niệm “điểm quan sát” (pots of observation), có người đề nghị dùng tiêu
cự trần thuật (focus of narrative). Cuối cùng các nhà nghiên cứu nhận thấy,
khái niệm “điểm nhìn” là dễ hiểu hơn và ni dung ca nú phong phỳ hn c.
Luận văn thạc sĩ văn học

19

Ngô Thị Yên


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy


Cho nên, trong cuốn luận văn này, chúng tôi vẫn sử dụng thuật ngữ “điểm
nhìn” (point of view) quen thuộc để trình bày.
Nhà nghiên cứu Pospelop trong Dẫn luận nghiên cứu văn học coi điểm
nhìn là vấn đề quan trọng trong tác phẩm tự sự khi “điểm nhìn của người trần
thuật đối với những gì mà anh ta miêu tả” [34;90]. Các nhà lí luận văn học
cũng khẳng định: “Người nghệ sĩ không thể miêu tả, trần thuật các sự kiện về
đời sống được, nếu khơng xác định cho mình một điểm nhìn đối với các sự
vật, hiện tượng: nhìn từ góc độ nào, xa hay gần, cao hay thấp, từ bên trong ra
hay từ bên ngồi vào... Điểm nhìn trần thuật là một trong những yếu tố hàng
đầu của sáng tạo nghệ thuật” [35;310]. Còn nhà nghiên cứu Nguyễn Thái Hòa
trong Những vấn đề thi pháp của truyện cũng đã chú trọng đến vấn đề điểm
nhìn, đó là “điểm nhìn khơng phải chỉ là lập trường chính trị xã hội mà tọa độ
thời gian được lựa chọn cho hoạt động kể chuyện, phát triển nội dung, sắp xếp
bố cục, hư cấu thành truyện” [22;122].
Xuất phát từ nhiều quan điểm, cách hiểu trên suy cho cùng mọi người đều
mong muốn tìm ra một cách hiểu tối ưu nhất để giúp những người thực hiện
những cơng trình nghiên cứu của những tác phẩm tự sự có liên quan trực tiếp
đến vấn đề này sẽ không phải băn khoăn lựa chọn cách gọi. Cuối cùng nhà
nghiên cứu Trần Đình Sử trong Dẫn luận thi pháp học đã đưa ra một định
nghĩa có thể coi là tồn diện về điểm nhìn trần thuật: “Nó khơng chỉ là điểm
nhìn thuần túy quang học mà cịn mang nội dung quan điểm, lập trường, tư
tưởng, tâm lí của con người” [53;182]. Có nghĩa là trần thuật được đặt ở vị trí
nào thì đối với tác phẩm nghệ thuật cũng khơng thể thiếu vắng điểm nhìn ở vị
trí ấy.
Như vậy về cơ bản các ý kiến nói trên của các nhà nghiên cứu đều chỉ ra
đặc điểm, tính chất chức năng chung của điểm nhìn trong việc nó biểu hiện vị
trí, quan điểm và cả thái độ của chủ thể trần thuật đối với việc trần thuật. Nói
một cách cụ thể hơn thì điểm nhìn chính là phương thức miêu tả, trình bày, là
cách nhìn, cách cảm thụ của người trần thuật về câu chuyện được kể. Khái

LuËn văn thạc sĩ văn học

20

Ngô Thị Yên


Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy

nim này sẽ được nghiên cứu toàn diện và chuyên sâu hơn khi nó ứng với
ngơi trần thuật (hay ngơi kể) của người trần thuật (hay người kể chuyện).
Có rất nhiều điểm nhìn trần thuật: Điểm nhìn bên ngồi, điểm nhìn bên
trong, điểm nhìn khơng gian, điểm nhìn di động, điểm nhìn thời gian, điểm
nhìn tâm lí, điểm nhìn của nhân vật được kể. Theo M. Bakhtin, điểm nhìn cịn
mang nội dung tư tưởng, ý thức hệ nên có “điểm nhìn tư tưởng và ý thức hệ”
để tuyên bố một chiều mà khơng cần phải giải thích. Thơng thường, điểm
nhìn trần thuật gắn bó mật thiết với ngơi kể, do ngơi kể quy định. Căn cứ vào
ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba của người trần thuật, các nhà nghiên cứu đã chia
điểm nhìn trần thuật thành hai loại: Điểm nhìn trần thuật bên ngồi, điểm nhìn
trần thuật bên trong. Tuy nhiên, trong thực tế sáng tác của các nhà văn thì
khơng thể áp đặt sự quan sát với điểm nhìn một chiều như thế được, đặc biệt
các nhà sáng tác hậu hiện đại. Cho nên, thay vì điểm nhìn cố định một chiều
từ đầu đến cuối tác phẩm thì các nhà văn đã linh hoạt tiến tới sử dụng nhiều
điểm nhìn. Điều đó tạo nên tính chất đa thanh, phức điệu cho tác phẩm. Với
loại điểm nhìn này, nhà văn nhất thiết phải vận dụng đến nhiều ngôi kể.
Trong truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy, chúng tơi nhận thấy phần lớn
truyện ngắn của chị viết theo ngôi kể thứ nhất và ngôi kể thứ ba như đã thống
kê ở trên nên chúng tôi chỉ chuyên sâu đi vào khảo sát kĩ ba điểm nhìn trần
thuật : điểm nhìn trần thuật bên ngồi, điểm nhìn trần thuật bên trong và điểm
nhìn trần thuật phức hợp. Nhưng trong ba loại điểm nhìn trên thì điểm nhìn

trần thuật bên trong và điểm nhìn trần thuật phức hợp được chị sử dụng nhiều
hơn cả. Điều đó cho thấy truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy đã đạt đến trình độ
cao trong nghệ thuật trần thuật.
1.2.2.2. Điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Đỗ Bích Thúy
1.2.2.2.1. Điểm nhìn trần thuật bên ngồi
Điểm nhìn trần thuật bên ngồi (hay cịn gọi là điểm nhìn trần thuật theo
ngơi thứ ba - tác giả). Đây là điểm nhìn phổ biến trong văn học truyền thống
với cái nhìn thuần túy khách quan, khơng thuộc về ai. Với điểm nhìn này,
Ln văn thạc sĩ văn học

21

Ngô Thị Yên


×