Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

nghiên cứu sự lây truyền hbv từ mẹ sang con qua sự biểu hiện gen core/precore ở thời điểm sơ sinh và 12 tháng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (820.35 KB, 54 trang )



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ

TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
…….***…….


HỒ MẠNH TUẤN


NGHIÊN CỨU SỰ LÂY TRUYỀN HBV TỪ MẸ SANG CON
QUA SỰ BIỂU HIỆN GEN CORE/PRECORE
Ở THỜI ĐIỂM SƠ SINH VÀ 12 THÁNG


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP BÁC SỸ Y KHOA
Khóa 2007 – 2013





Hà Nội – 2013




BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ

TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI


…….***…….


HỒ MẠNH TUẤN


NGHIÊN CỨU SỰ LÂY TRUYỀN HBV TỪ MẸ SANG CON
QUA SỰ BIỂU HIỆN GEN CORE/PRECORE
Ở THỜI ĐIỂM SƠ SINH VÀ 12 THÁNG


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP BÁC SỸ Y KHOA
Khóa 2007 – 2013



Ngƣời hƣớng dẫn: ThS. ĐÀM THỊ TÚ ANH

Hà Nội – 2013



LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc
và chân thành nhất đến cô Đàm Thị Tú Anh – giảng viên Bộ môn Miễn dịch
Sinh lý bệnh của trƣờng Đại học Y Hà Nội. Trong suốt thời gian dài qua, cô
đã luôn tận tình hƣớng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ em rất nhiều.
Em cũng xin bày bỏ lòng cảm ơn của mình đến PGS – TS. Nguyễn Thị
Vinh Hà, cô đã hỗ trợ kinh phí và hóa chất để làm đề tài này.

Em cũng xin cảm ơn cử nhân Nguyễn Minh Tiến đã tham gia giúp em
thực hiện các kỹ thuật nghiên cứu cho khóa luận này.
Em cũng xin vô cùng biết ơn Ban chủ nhiệm cùng toàn thể các thầy cô
trong bộ môn. Các thầy cô đã tạo điều kiện thuận lợi nhất, đã đóng góp ý kiến
quý báu, kinh nghiệm của mình để khóa luận này đƣợc hoàn thiện hơn.
Cho em xin cảm ơn Ban Giám Hiệu, các thầy cô, bạn bè trong trƣờng
Đại Học Y Hà Nội đã tận tình dạy dỗ, giúp đỡ em trong suốt 6 năm qua.
Cuối cùng, em vô cùng biết ơn bố mẹ, gia đình và ngƣời thân đã luôn ở
bên động viên, khích lệ tinh thần cho em trong quá trình học tập, nghiên cứu
cũng nhƣ trong cuộc sống.











DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Anti – HBc : Antibody against Hepatitis B Core Antigen
(Kháng thể kháng kháng nguyên lõi vi rút viêm gan B)
Anti – HBe : Antibody against Hepatitis B e Antigen
(Kháng thể kháng kháng nguyên e vi rút viêm gan B)
Anti – HBs : Antibody against Hepatitis B surface Antigen
(Kháng thể kháng kháng nguyên bề mặt vi rút viêm gan B)
CDC : Centers for Disease Control and Prevention

(Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa bệnh tật Hoa Kỳ)
DNA : Deoxyribonucleic acid
(Axít deoxyribonucleic)
ELISA : Enzyme-linked immuno sorbent assay
(Kỹ thuật miễn dịch hấp phụ gắn men)
HBcAg : Hepatitis B Core Antigen
(Kháng nguyên lõi vi rút viêm gan B)
HBeAg : Hepatitis B e Antigen
(Kháng nguyên e vi rút viêm gan B)
HBsAg : Hepatitis B surface Antigen
((Kháng nguyên bề mặt vi rút viêm gan B)
HBV : Hepatitis B Virus
(Vi rút viêm gan B)



HCC : Hepatocellular carcinoma
(Ung thƣ biểu mô tế bào gan)
ORF : Open Reading Frames
(Khung đọc mở)
PCR : Polymerase Chain Reaction
(Phản ứng khuếch đại chuỗi)
WHO : World Health Organization
(Tổ chức Y tế Thế giới)
(–) : Âm tính
(+) : Dƣơng tính




















MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
CHỮ VIẾT TẮT
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN 3
1.1. Dịch tễ học viêm gan B 3
1.2. Đặc điểm sinh học của vi rút viêm gan B 7
1.3 Các dấu ấn huyết thanh của HBV 11
1.3. Biểu hiện của viêm gan B 13
1.5. Phòng bệnh 16
1.6 Các kỹ thuật sử dụng trong nghiên cứu 17
CHƢƠNG 2: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 21
2.1 Đối tƣợng nghiên cứu 21
2.2 Phƣơng pháp nghiên cứu 21

2.3 Các bƣớc tiến hành nghiên cứu 21
2.4 Các kỹ thuật sử dụng trong nghiên cứu 22
2.5 Thời gian tiến hành nghiên cứu 26
2.6 Địa điểm nghiên cứu 26
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 27
3.1. Sự biểu hiện của gen Core/PreCore và các dấu ấn huyết thanh liên 27
quan ở mẹ mang HBsAg (+) 27
3.2. Đánh giá sự lây truyền vi rút qua sự biểu hiện gen Core/PreCore của
HBV từ mẹ sang con qua các thời điểm 29
CHƢƠNG 4: BÀN LUẬN 31
4.1 Sự biểu hiện của gen Core/PreCore và các dấu ấn huyết thanh liên 31
quan ở mẹ mang HBsAg (+) 31


4.2 Đánh giá sự lây truyền vi rút qua sự biểu hiện gen Core/PreCore của
HBV từ mẹ sang con qua các thời điểm 34
KẾT LUẬN 36
KIẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC




1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm gan vi rút B là bệnh phổ biến nhất của viêm gan vi rút và đang là
vấn đề sức khỏe đƣợc cộng đồng đặc biệt quan tâm trên khắp thế giới. Theo
ƣớc tính của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO – World Health Organization), trên
toàn thế giới hiện có khoảng 2 tỷ ngƣời bị nhiễm HBV, trong đó 350 triệu

ngƣời mang vi rút mạn tính và 600 000 ngƣời chết mỗi năm do hậu quả của
các bệnh viêm gan B cấp tính hay mạn tính [1].
Ở những nƣớc có dịch lƣu hành cao đặc biệt nhƣ Trung Quốc, Đông
Nam Á (trong đó có Việt Nam), Thái Bình Dƣơng thì phƣơng thức lây truyền
dọc (lây truyền chu sinh) là một đƣờng lây chủ yếu. Trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ là
lứa tuổi mà sự đáp ứng miễn dịch chƣa hoàn chỉnh, nếu bị nhiễm vi rút ở lứa
tuổi này sẽ làm tăng khả năng nhiễm vi rút kéo dài và làm tăng tỷ lệ mang vi
rút mạn tính trong cộng đồng. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng: 90% trẻ bị
nhiễm HBV trong giai đoạn chu sinh sẽ trở thành mạn tính, 70% đến 96% con
của những bà mẹ có HBeAg (+) sẽ bị nhiễm vi rút và trên 90% sẽ trở thành
mạn tính sau này [29]. Hơn nữa, với những trẻ bị nhiễm HBV trƣớc 6 tháng
tuổi nguy cơ trở thành ngƣời mang vi rút mạn tính là 80% đến 90% và khoảng
25% số trẻ này chết vì xơ gan hoặc ung thƣ gan ở tuổi trƣởng thành. Trong
khi đó, những trẻ bị nhiễm sau 12 tháng tuổi chỉ có 5% đến 10% trở thành
ngƣời mang vi rút mạn tính [26]. Đây thật sự là một thiệt hại to lớn đối với
gia đình và xã hội.
Ở Việt Nam, tỷ lệ lƣu hành HBV cao theo xếp loại của tổ chức y tế thế
giới (WHO). Tỷ lệ ngƣời Việt Nam hiện mắc viêm gan B là 10% đến 19,5%
dân số [10,11,12,13,14,15,16,17,18]. Vì vậy số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ
mang HBV cũng theo đó tăng cao, dẫn đến tỷ lệ cao lây truyền HBV cho con
họ.



2
Để làm rõ cơ chế của sự lây truyền HBV từ mẹ sang con đồng thời
nâng cao hiệu quả công tác phòng và chống lây nhiễm HBV trong cộng đồng,
hƣớng đến mục đích góp phần đƣa ra những giải pháp hữu hiệu để phòng
ngừa và bảo vệ các trẻ trƣớc nguy cơ lây nhiễm HBV từ mẹ, chúng tôi tiến
hành đề tài: ―Nghiên cứu sự lây truyền HBV từ mẹ sang con qua biểu hiện

gen Core/PreCore ở thời điểm sơ sinh và 12 tháng‖. Và đề tài đƣợc tiến hành
với hai mục tiêu:
1. Xác định sự biểu hiện của gen Core/PreCore và các dấu ấn
huyết thanh liên quan ở mẹ mang HBsAg (+).
2. Đánh giá sự lây truyền của HBV ở các cặp mẹ con qua sự biểu
hiện của gen Core/PreCore.












3
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1. Dịch tễ học viêm gan B
1.1.1. Trên thế giới
Viêm gan B là một bệnh truyền nhiễm do vi rút viêm gan B (HBV –
Hepatitis B Virus) gây ra. Theo ƣớc tính của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO –
World Health Organization), trên toàn thế giới hiện có khoảng 2 tỷ ngƣời bị
nhiễm HBV, trong đó 350 triệu ngƣời mang vi rút mạn tính và 600 000 ngƣời
chết mỗi năm do hậu quả của các bệnh viêm gan B cấp tính hay mạn tính [1].
Tỷ lệ ngƣời mang vi rút HBV mạn tính dao động từ 0,2% đến 20%, khác nhau
giữa các châu lục [2]. Căn cứ vào tỷ lệ nhiễm HBV (có kháng nguyên bề mặt
vi rút viêm gan B – HBsAg dƣơng tính) trong cộng đồng, ngƣời ta chia thế

giới thành ba khu vực với ba mức độ có tỷ lệ hiện mắc khác nhau. Khu vực
có dịch lƣu hành thấp (dƣới 2%) đó là các vùng nhƣ Bắc Mỹ, Tây Âu, Mê-xi-
cô, Cô-lum-bia, Chilê, Úc, Nhật Bản và Niu-di-lân. Khu vực có dịch lƣu hành
trung bình (2% đến 7%) đó là các vùng nhƣ Vê-nê-zu-ê-la, Pê-ru, Ê-cu-a-đo,
Ấn Độ, Hàn Quốc, Sing-ga-po, Ma-lay-si-a, In-đô-nê-si-a, Thái Lan. Khu vực
có dịch lƣu hành cao (từ 8% trở lên) đó là các vùng nhƣ Châu Á, Đông Nam
Á, khu vực tiểu Sahara thuộc Châu Phi [3]. Khoảng 45% dân số thế giới sống
trong khu vực có dịch lƣu hành cao nhƣ Châu Phi, Châu Á – Thái Bình
Dƣơng (trừ các nƣớc nhƣ Nhật Bản, Úc, Niu-di-lân), lây truyền chủ yếu trong
giai đoạn chu sinh [4,5]. Ở những khu vực dịch lƣu hành thấp hầu hết các
trƣờng hợp lây truyền là do sinh hoạt tình dục không an toàn hoặc do tiêm
truyền khi còn trẻ tuổi.
Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa bệnh tật Hoa Kỳ (CDC – Centers
for Disease Control and Prevention) ƣớc tính năm 2012 có 800 000 đến 1,4
triệu ngƣời sống ở Mỹ mang vi rút HBV mạn tính [6]. Viêm gan vi rút B mạn



4
tính là nguyên nhân hàng đầu gây ung thƣ biểu mô tế bào gan (HCC –
Hepatocellular carcinoma) và đang gia tăng cả về tỷ lệ các trƣờng hợp mới
mắc và tỷ lệ tử vong do ung thƣ gan ở Mỹ. Năm 2006, ở Mỹ có khoảng 46000
trƣờng hợp nhiễm HBV cấp, tỷ lệ cao nhất (3,1 trƣờng hợp trên 100 000
ngƣời) từ 25 đến 44 tuổi và thấp nhất (0,02 trƣờng hợp trên 100 000 dân) dƣới
15 tuổi, tỷ lệ ở nam (2,0 trƣờng hợp trên 100 000 ngƣời) cao hơn ở nữ (1,1
trƣờng hợp trên 100 000 ngƣời) [7].
Thực tế cho thấy tuổi bị nhiễm HBV có ý nghĩa rất quan trọng liên
quan đến các diễn biến lâm sàng sau này của ngƣời bệnh [8]. Bởi vì 90% trẻ
bị nhiễm ở giai đoạn sơ sinh, đặc biệt là lúc đẻ sẽ chuyển thành nhiễm HBV
mạn tính. Nếu trẻ bị nhiễm từ 1 đến 12 tuổi chỉ 10% chuyển thành mạn tính

và chỉ còn dƣới 1% khi trên 12 tuổi. Trong đó 12% đến 20% viêm gan mạn
tính tiến triển thành xơ gan trong 5 năm, 20% xơ gan còn bù tiến triển thành
xơ gan mất bù trong 5 năm và 6,0% đến 15% xơ gan còn bù tiến triển thành
ung thƣ biểu mô tế bào gan (HCC) [9].
1.1.2. Tại Việt Nam
Việt Nam là nƣớc có tỷ lệ lƣu hành HBV cao theo xếp loại của tổ chức
y tế thế giới (WHO). Tỷ lệ ngƣời Việt Nam hiện mắc viêm gan B là 10% đến
19,5% dân số [10,11,12,13,14,15,16,17,18]. Trong một nghiên cứu khác, tỷ lệ
ngƣời Việt Nam có HBsAg (+) là 5,7% đến 10% [19]. Bên cạnh các đƣờng
lây truyền phổ biến nhƣ: lây qua tiêm truyền, lây qua đƣờng tình dục thì
phƣơng thức lây truyền từ mẹ sang con (lây truyền dọc) và những lây truyền
sớm do tiếp xúc khi trẻ còn nhỏ là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến tỷ lệ
cao HBsAg (+) cao trong cộng đồng.
Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ trẻ ở nông thôn Việt Nam có HBsAg (+) giai
đoạn chu sinh là 12,5%, tiền học đƣờng (4 – 6 tuổi) là 18,4%, trẻ bị nhiễm
chủ yếu là do tiếp xúc trong gia đình nhƣ với bố mẹ, anh chị em, ông bà [20].



5
Nghiên cứu của Nguyễn Anh Tuấn trên 1564 phụ nữ có thai cho thấy
khi đƣợc làm xét nghiệm có 10,6% ngƣời HBsAg (+) và dẫn đến 23,6% con
của các bà mẹ này có HBsAg (+) [21].
Ngoài HBsAg, Việt Nam còn là nơi có tỷ lệ ngƣời mang HBeAg thuộc
loại cao trên thế giới, đặc biệt là ở phụ nữ trong lứa tuổi sinh đẻ. Tỷ lệ phụ nữ
có thai có HBeAg (+) là 5,1%. Chu Thị Thu Hà nghiên cứu trên 1300 sản phụ
tới đẻ ở bệnh viện phụ sản Hà Nội, số sản phụ có HBsAg (+) chiếm 12,5%
còn số sản phụ có cả HBsAg (+) và HBeAg (+) là 40,5%. Máu cuống rốn con
của các mẹ có HbsAg (+) có kháng nguyên bề mặt của HBV tới 49,08% [22].
Các nghiên cứu của Việt nam cũng nhƣ thế giới đã chứng minh HbeAg

có vai trò rất quan trọng trong lây truyền HBV, đặc biệt trong cơ chế lây
truyền mẹ con.
Theo Đinh Thị Bình, trong 141 sản phụ có 25,5% mang cả hai kháng
nguyên HBsAg và HBeAg. Nếu mẹ có cả HBsAg (+) và HBeAg (+) thì tỷ lệ
HBsAg (+) trong máu cuống rốn của con họ là 66,7%, còn con của các mẹ chỉ
có HBsAg (+) nhƣng HbeAg (–) tỷ lệ này là 23,6% [23].
Theo Đỗ Trung Phấn, các mẹ mang cả hai kháng nguyên HBsAg và
HBeAg sẽ truyền HBsAg cho 67,1% con của họ và nếu mẹ chỉ mang HBsAg
thì chỉ truyền cho 14,6% con của họ [24].
Nhƣ vậy, nếu mẹ có cả hai kháng nguyên HBsAg và HBeAg trong
huyết thanh sẽ có nguy cơ truyền HBV cho con họ gấp 2,82 lần theo Đinh Thị
Bình và gấp 4,6 lần theo Đỗ Trung Phấn. Trong khi nghiên cứu của Đỗ Tuấn
Đạt cho thấy sản phụ mang cả hai kháng nguyên HBsAg và HBeAg thì có
nguy cơ truyền HBsAg cho con của họ tăng 16,5 lần so với sản phụ chỉ mang
HBsAg [25].



6
Các nghiên cứu trên một lần nữa cho thấy ở Việt Nam cũng nhƣ các
nƣớc có lƣu hành HBV cao khác, phƣơng thức lây truyền HBV từ mẹ sang
con (lây truyền dọc) rất cao. Đƣờng lây truyền này có vai trò quan trọng trong
diễn tiến của HBV bởi những bà mẹ nhiễm HBV có HBeAg (+) thì nguy cơ
lây cho con là 90% đến 100%, còn HBeAg (–) thì nguy cơ lây cho con chỉ là
5% đến 20%. Và có 85% đến 90% trẻ đƣợc sinh ra từ những bà mẹ có cả
HBsAg (+) và HBeAg (+) sẽ chuyển thành mang HBV mạn tính. Còn với
những trẻ bị nhiễm HBV trƣớc 6 tháng tuổi nguy cơ trở thành ngƣời mang vi
rút mạn tính là 80% đến 90% và khoảng 25% số trẻ này chết vì xơ gan hoặc
ung thƣ gan ở tuổi trƣởng thành. Trong khi đó, những trẻ bị nhiễm sau 12
tháng tuổi chỉ có 5% đến 10% trở thành ngƣời mang vi rút mạn tính [26].

1.1.3 Các phƣơng thức lây truyền của HBV
1.1.3.1 Lây truyền dọc (lây truyền từ mẹ sang con)
Ở những nƣớc có dịch lƣu hành cao đặc biệt nhƣ Trung Quốc, Đông
Nam Á trong đó có Việt Nam, Thái Bình Dƣơng thì phƣơng thức lây truyền
dọc (lây truyền chu sinh) là một đƣờng lây chủ yếu: lây truyền trong tử cung,
lây truyền trong khi chuyển dạ đẻ và lây truyền do tiếp xúc trong thời gian
ngắn sau đẻ. Theo nghiên cứu của Chen và CS. thì mổ đẻ không làm giảm tỷ
lệ lây truyền HBV dọc từ mẹ sang con [27].
Nồng độ HBV trong máu (HBV DNA) của các bà mẹ cao (≥ 10
9
copies
/mL) và có HBeAg (+) thì khả năng truyền vi rút cho con họ rất lớn mặc dù
trẻ đã đƣợc tiêm phòng trong vòng 24 giờ đầu sau sinh theo khuyến cáo [28].
Có xấp xỉ 30% đến 50% tổng số trƣờng hợp mang HBV mạn tính là mắc phải
trong giai đoạn chu sinh từ ngƣời mẹ có HBeAg (+).
Trẻ nhỏ là lứa tuổi mà sự đáp ứng miễn dịch chƣa hoàn chỉnh, nếu bị
nhiễm vi rút ở lứa tuổi này sẽ làm tăng khả năng nhiễm vi rút kéo dài và làm



7
tăng tỷ lệ mang vi rút mạn tính trong cộng đồng. Các nghiên cứu đã chỉ ra
rằng: 90% trẻ bị nhiễm HBV trong giai đoạn chu sinh sẽ trở thành mạn tính,
70% đến 96% con của những bà mẹ có HBeAg (+) sẽ bị nhiễm vi rút và trên
90% sẽ trở thành mạn tính sau này trong khi các bà mẹ có HBeAg (–) thì tỷ lệ
đó sẽ thấp hơn nhiều [29].
1.1.3.2 Lây truyền ngang (qua tiêm truyền, quan hệ tình dục (QHTD),
cấy ghép…)
Ở trẻ em từ 1 – 5 tuổi con đƣờng lây truyền là do tiếp xúc giữa trẻ với
trẻ hoặc với các thành viên trong gia đình có ngƣời bị nhiễm vi rút viêm gan

B và 30% số trẻ bị nhiễm này sẽ trở thành mang vi rút mạn tính.
Dùng chung bơm kim tiêm ở những đối tƣợng tiêm chích ma túy đƣờng
tĩnh mạch là một phƣơng thức lây truyền vi rút thƣờng gặp. Lây truyền qua
QHTD với ngƣời bạn tình mang HBV cấp tính hay mạn tính do trong nƣớc
bọt, tinh dịch, dịch tiết âm đạo có vi rút chiếm tỷ lệ cao ở các trẻ vị thành niên
và ngƣời lớn.
Truyền máu và sử dụng các chế phẩm từ máu không qua sàng lọc
HBsAg chính là nguồn lây nhiễm vi rút viêm gan B [30]. Các loại dụng cụ
không tiệt trùng: dụng cụ phẫu thuật, nha khoa, bơm kim tiêm, kim châm cứu,
dụng cụ xăm mình, xỏ lỗ tai, dao cạo râu…cũng đều là những yếu tố gây lây
truyền vi rút viêm gan B [31].
1.2. Đặc điểm sinh học của vi rút viêm gan B
1.2.1 Cấu trúc của vi rút viêm gan B
Vi rút viêm gan B đƣợc xếp trong họ Hepadnaviridae (vi rút mang
DNA có ái tính cao đối với tế bào gan), và một lƣợng nhỏ vi rút có thể tìm



8
thấy ở thận, tụy… tuy nhiên không thấy có liên quan tới sự gây bệnh ở các vị
trí ngoài gan này do vi rút [32,33,34,35].

Hình 1.1: Ba dạng hình thể của HBV dƣới kính hiển vi điện tử.
Hạt vi rút hoàn chỉnh (HBV virion) hay hạt Dane là các hạt hình cầu
đƣờng kính 40 – 42 nm có bao ngoài (envelop) chứa ba loại glycoprotein (hay
kháng nguyên bề mặt). Trong bao ngoài là vỏ trong của hạt vi rút (capsid) hay
còn gọi là lõi (core). Trong lõi là bộ gen của HBV (genome) – DNA dạng
vòng không hoàn chỉnh có 3200 đôi bazơ và men polymerase chịu trách
nhiệm cho sự tổng hợp DNA của vi rút . Phân tử DNA này gồm hai sợi: một
sợi ngắn (sợi dƣơng) và một sợi dài (sợi âm). Sợi dƣơng chiếm khoảng 50% –

80% chiều dài của sợi âm. Sợi âm là một vòng hoàn chỉnh có bốn khung đọc
mở (ORF – Open Reading Frames) chứa các gen mã hóa đan xen nhau là:
ORF S (gồm gen tiền S1 – preS1, gen tiền S2 – preS2 và gen S), ORF C (gồm
gen tiền lõi – preCore và lõi – Core), ORF X (gen X) và ORF P (gen
polymerase).
Ngoài các hạt vi rút hoàn chỉnh ra, trong máu còn lƣu hành hai loại hạt
nhỏ khác (do các tế bào bị nhiễm HBV tạo ra): hạt hình cầu và hạt hình ống



9
có đƣờng kính tƣơng tự nhau là 20 nm [36] (Hình 1.1). Các hạt này có rất
nhiều trong huyết thanh (106 – 109 hạt/mL) và với tỷ lệ số hạt Dane/HBsAg
lên đến 1/10 000 [37].
Nhờ việc giải trình tự gen, hiện nay ngƣời ta đã xác định đƣợc tám
kiểu gen (genotype) khác nhau của HBV từ A đến H trong đó các kiểu gen từ
A đến D là phổ biến nhất. Khu vực châu Á – Thái Bình Dƣơng trong đó có
Việt Nam lƣu hành chủ yếu là kiểu gen B và C (nơi mà tỷ lệ lây truyền dọc
cao). Các nghiên cứu cho thấy việc xác định kiểu gen của vi rút viêm gan B
có ý nghĩa trong việc tiên lƣợng tiến triển cũng nhƣ đáp ứng điều trị của bệnh:
kiểu gen B có bệnh tiến triển chậm hơn, ít nguy cơ gây xơ gan, ung thƣ gan
hơn kiểu gen C, kiểu gen A và B đáp ứng điều trị với interferon (INF) tốt hơn
kiểu gen D [38,39,40,41].
1.2.2 Các đoạn gen trong bộ gen của HBV và vai trò của chúng
Nhƣ đã nói ở trên, bộ gen HBV gồm có bốn khung đọc mở (Hình 1.2).
Các gen tiền S và S (gen preS – S) mã hóa cho các protein tạo nên bao ngoài
của vi rút. Protein bề mặt nhỏ do gen S mã hóa có trọng lƣợng phân tử
(TLPT) 24 kilo Dalton là protein chiếm số lƣợng nhiều nhất trong thành phần
bao ngoài và cũng chính là thành phần chính của HBsAg. Các gen tiền S2 và
S mã hóa cho protein bề mặt trung bình (TLPT 29 kilo Dalton gồm protein bề

mặt nhỏ và thêm một đoạn có 55 acid amin – sản phẩm của pre S2). Các gen
tiền S1, tiền S2 và S mã hóa cho protein bề mặt lớn (TLPT 33 kilo Dalton
gồm toàn bộ chuỗi trung bình và them một đoạn có 108 acid amin – sản phẩm
của PreS1). Protein tiền S1đóng vai trò quan trọng trong quá trình kết hợp của
HBV vào tế bào gan cũng nhƣ trong quá trình lắp ráp tạo các hạt vi rút hoàn
chỉnh và giải phóng chúng vào trong máu [42].



10

Hình 1.2: Bộ gen của vi rút viêm gan B.
Gen tiền lõi – lõi (gen PreCore – Core) mã hóa cho kháng nguyên lõi
(HBcAg) và kháng nguyên e (HBeAg) của HBV. Protein lõi TLPT 21 kilo
Dalton chính là kháng nguyên lõi HBcAg có chức năng chủ yếu trong việc tạo
nên vỏ capsid của vi rút. Protein tiền lõi có TLPT 24 kilo Dalton, khi đến lƣới
nội bào liền bị cắt rời bởi men protease và HBeAg đƣợc tạo ra (TLPT 16 kilo
Dalton) [43].
Khung đọc mở ORF P mã hóa cho men DNA polymerase đa chức năng
còn gọi là men sao chép ngƣợc – Reverse Transcriptase (RT) của vi rút có vai
trò quan trọng trong quá trình tổng hợp DNA (đặc biệt là sợi âm) từ HBV
pregenomic (pg) RNA.
Khung đọc mở ORF X mã hóa cho protein X (HBx), đƣợc cho là có vai
trò điều biến quá trình nhân lên trong tế bào cũng nhƣ lây truyền của vi rút
thông qua việc tác động lên quá trình sao mã, chết tế bào theo chƣơng trình,
sửa chữa DNA [44,45].





11
1.3 Các dấu ấn huyết thanh của HBV
1.3.1 Kháng nguyên bề mặt của HBV (HBsAg) và anti – HBs
Kháng nguyên bề mặt HBsAg là dấu ấn huyết thanh cho thấy tình trạng
nhiễm HBV cấp tính hay mạn tính của cơ thể. HBsAg xuất hiện sớm nhất
trong huyết thanh, có thể phát hiện đƣợc sau khi có phơi nhiễm với HBV 1 –
12 tuần nhƣng thƣờng trong khoảng 8 – 12 tuần. HBsAg xuất hiện trƣớc khi
có các biểu hiện về lâm sàng và tăng cao men aminotransferase 2 – 6 tuần,
tăng cao dần trong giai đoạn cấp và biến mất sau 4 – 8 tuần kể từ khi có triệu
chứng. Những ngƣời có HBsAg (+) trên 6 tháng đƣợc coi là ngƣời mang vi
rút mạn tính [46].
Anti – HBs là kháng thể kháng HBsAg, xuất hiện muộn sau khi HBsAg
biến mất. Khoảng thời gian xuất hiện anti – HBs sau khi phơi nhiễm với HBV
rất biến đổi, thƣờng khoảng vài tuần sau khi HBsAg biến mất mới xuất hiện
anti – HBs. Khoảng trống này còn đƣợc gọi là cửa sổ của giai đoạn viêm gan
vi rút B cấp. Khi anti – HBs xuất hiện là dấu hiệu bệnh đã cải thiện, có vai trò
bảo vệ cơ thể, chống tái nhiễm HBV [47].
1.3.2 Kháng nguyên lõi của HBV (HBcAg) và anti – HBc
HBcAg hiếm khi xuất hiện trong máu mà chủ yếu xuất hiện trong tế
bào gan, vì vậy chỉ phát hiện đƣợc khi sinh thiết tế bào gan mà không dùng
đƣợc các phản ứng huyết thanh đặc hiệu. Khi có HBcAg thì nồng độ DNA
polymerase cũng tăng cao. HBcAg kích thích cơ thể tạo ra kháng thể kháng
lõi của HBV (anti – HBc).
Kháng thể anti – HBc không đƣợc tạo do tiêm chủng vắc-xin viêm gan
B trong khi anti – HBs thì có.
Kháng thể anti – HBc thƣờng xuất hiện trong huyết thanh ngay sau sự
có mặt của HBsAg 1 – 2 tuần và trƣớc khi anti – HBs xuất hiện nhiều tuần




12
hoặc nhiều tháng. Anti – HBc gồm hai lớp là IgM và IgG. Kháng thể IgM anti
– HBc chủ yếu đƣợc phát hiện trong vòng 6 tháng đầu. Do đó những trƣờng
hợp đang viêm gan vi rút B cấp hoặc gần đây trong huyết thanh sẽ có chủ yếu
là IgM anti – HBc. Còn những trƣờng hợp viêm gan vi rút B trong quá khứ
hoặc viêm gan vi rút B mạn tính thì anti – HBc chủ yếu là lớp IgG và tồn tại
lâu dài.
Cửa sổ của viêm gan B cấp (khoảng thời gian từ khi biến mất HBsAg
đến khi xuất hiện anti – HBs), IgM anti – HBc có giá trị chấn đoán khi lƣợng
HBsAg dƣới ngƣỡng phát hiện đƣợc. Có khoảng 10% trƣờng hợp viêm gan B
cấp không phát hiện đƣợc nếu chỉ dùng duy nhất dấu ấn HBsAg.
1.3.3 Kháng nguyên e của HBV (HBeAg) và anti – HBe
HBeAg không cần thiết cho sự nhân lên của vi rút và là một kháng
nguyên hòa tan [48]. HBeAg xuất hiện sớm ngay từ thời kỳ ủ bệnh cùng lúc
hoặc gần nhƣ cùng lúc với HBsAg. Sự xuất hiện của HBeAg trùng với thời
điểm tải lƣợng vi rút cao trong máu (HBV DNA cao), cần chú ý những trƣờng
hợp có đột biến gen preCore nên không tổng hợp đƣợc HBeAg, và nó đƣợc
xem nhƣ là dấu ấn biểu thị sự nhân lên của vi rút. Trong viêm gan B cấp,
HBeAg biến mất sau vài tuần và trƣớc sự biến mất của HBsAg, tiếp theo đó là
sự xuất hiện của kháng thể kháng HBeAg (anti – HBe). HBeAg tồn tại lâu
hơn trong các thể mạn tính, đặc biệt là thể viêm gan mạn hoạt động.
Ngƣời có HBeAg (+) và HBsAg (+) thì có khả năng lây nhiễm rất cao.
Đặc biệt ở phụ nữ mang thai, nếu có đồng thời HBeAg (+) và HBsAg (+) thì
khả năng truyền vi rút viêm gan cho con họ trên 90%

[47].
Kháng thể anti – HBe xuất hiện là dấu hiệu của sự lui bệnh với tải
lƣợng vi rút trong máu thấp (<10
5
copies/mL hoặc 20,000 IU/ml). Những phụ




13
nữ mang thai có HBsAg (+) và anti – HBe (+) thì khả năng truyền vi rút viêm
gan cho con họ thấp (10% đến 15%) [49].

Hình 1.3: Dấu ấn huyết thanh của viêm gan vi rút B (A: Viêm gan B cấp
tính, B: viêm gan B mạn tính)
1.3. Biểu hiện của viêm gan B
Biểu hiện của viêm gan B phụ thuộc vào tuổi bị nhiễm: ở giai đoạn sơ
sinh có trên 90% nguy cơ chuyển thành nhiễm HBV mạn tính, trẻ em và
thanh thiếu niên là 25% đến 50%, còn ngƣời trƣởng thành chỉ là 5% [50].
Phần lớn các trẻ sơ sinh bị nhiễm HBV duy trì ở trong giai đoạn dung nạp
miễn dịch từ 10 – 20 năm. Giai đoạn này đƣợc đặc trƣng bởi HBsAg (+),
HBeAg (+), tải lƣợng vi rút trong máu (HBV DNA) cao, men Alanine
transaminase (ALT) bình thƣờng hoặc tăng rất ít, trên lâm sàng không có biểu
hiện triệu chứng. Xấp xỉ 6% trẻ nhỏ có mẹ có anti – HBe (+) sẽ xuất hiện
viêm gan B cấp lúc 2 tháng tuổi [51]. Trẻ có các biểu hiện nhƣ mệt mỏi, chán
ăn, nƣớc tiểu sẫm màu, vàng da, vàng mắt, đau tức vùng hạ sƣờn phải, gan to,
men ALT tăng cao…, và khoảng một phần ba trẻ lớn hơn và thanh thiếu niên
viêm gan B cấp sẽ có các triệu chứng điển hình này [52]. Nói chung viêm gan
B cấp với các biểu hiện lâm sàng không điển hình muốn xác định chắc chắn



14
cần dựa vào các xét nghiệm huyết thanh (phổ biến nhất là xác định HBsAg có
trong máu) và chẩn đoán vi rút học.
Sự chuyển từ viêm gan B cấp tính sang viêm gan B mạn tính cho thấy

hệ miễn dịch của cơ thể không có khả năng loại bỏ hoàn toàn vi rút.
Viêm gan B mạn tính đƣợc chẩn đoán khi HBsAg (+) trên 6 tháng và
thƣờng đƣợc chia thành bốn giai đoạn: dung nạp miễn dịch (Immune
tolerant), thanh thải miễn dịch (Immune clearance), mang vi rút không hoạt
động (Immune control/Inactive carrier), và tái hoạt động (Immune
escape/Reactivation). Phần lớn các trẻ nhiễm HBV mạn tính vẫn ở trong giai
đoạn dung nạp miễn dịch không triệu chứng. Giai đoạn thanh thải miễn dịch
đặc trƣng bởi men ALT tăng cao và HBV DNA giảm dần, trên lâm sàng có
biểu hiện các triệu chứng. Tỷ lệ thanh thải là 0,6% mỗi năm ở trẻ nhỏ so với
1,8% mỗi năm ở ngƣời trƣởng thành [53]. Giai đoạn mang vi rút không hoạt
động đặc trƣng bởi sự chuyển đổi huyết thanh từ HBeAg thành anti – HBe,
men ALT bình thƣờng, HBV DNA không còn khả năng phát hiện đƣợc. Giai
đoạn tái hoạt động đặc trƣng bởi HBeAg (–) (thƣờng do đột biến gen vùng
preCore), anti – HBe (+), men ALT tăng cao, HBV DNA có khả năng phát
hiện đƣợc.
Diễn tiến lâm sàng của viêm gan B mạn tính phụ thuộc vào rất nhiều
yếu tố: phụ thuộc ngƣời mang vi rút (tuổi, giới, tiền sử gia đình có ngƣời
HCC, có biểu hiện của xơ gan, béo phì, đái tháo đƣờng…), phụ thuộc tải
lƣợng và kiểu gen vi rút, vi rút có đột biến hay không (HBV DNA ≥ 2000 –
20 000 IU/mL hay ≥ 10
4-5
copies/mL, kiểu gen C > B; D > A, HBV có đột
biến gen…), phụ thuộc các yếu tố khác (nghiện rƣợu, đồng nhiễm HCV,
HDV, HIV…) [54,55,56]. Hậu quả cuối cùng của viêm gan B có thể là xơ gan
mất bù, ung thƣ gan và dẫn đến tử vong.




15

Huyết thanh học giúp chẩn đoán viêm gan B cấp tính và mạn tính:
Trƣờng
hợp
HBsAg
Anti

HBs
Anti

HBc
IgM
anti –
HBc
HBeAg
Anti

HBe
HBV
DNA
IU/mL
ALT
Điều trị
VGB
cấp
+

+
+

+

Biến
thiên
Tăng
Không
VGB
mạn
HBeAg
(+)
+

+

+

>20000
Tăng

VGB
mạn
HBeAg
(–)
+

+


+
>2000
Tăng


Dung
nạp
miễn
dịch
+

+

+

>20000
Bình
thƣờng
Không
Ngƣời
mang
vi rút
không
hoạt
động
+

+


+
<2000
Bình
thƣờng
Không






VGB
quá
khứ

+
+



Không
xác
định
đƣợc
Bình
thƣờng
Không
Tiêm

+




Không
Bình

Không



16
phòng
vắc-xin
HBV
xác
định
đƣợc
thƣờng
Ngƣời
mang
vi rút
mức độ
thấp


+


+
Có/
hoặc
không
xác
định
đƣợc
Bình

thƣờng

(suy
giảm
miễn
dịch)
Chƣa
phơi
nhiễm
HBV







Bình
thƣờng
Tiêm
phòng
vắc-
xin

1.5. Phòng bệnh
Hiện nay chƣa có thuốc điều trị đặc hiệu đối với HBV nên phòng bệnh
vẫn là biện pháp hiệu quả nhất. Theo khuyến cáo của WHO, vắc-xin viêm gan
B phải đƣợc đƣa vào chƣơng trình tiêm chủng quốc gia và tất cả các trẻ sơ
sinh nên đƣợc tiêm phòng mũi đầu tiên càng sớm càng tốt, ngay sau khi sinh
(trong vòng 24 giờ đầu) để phòng lây truyền mẹ con. Vắc-xin viêm gan B rất

an toàn, đã đƣợc sử dụng ở nhiều nƣớc trên thế giới. Ở nƣớc ta, vắc-xin viêm
gan B đƣợc triển khai tiêm cho trẻ em trong chƣơng trình tiêm chủng mở rộng
từ năm 1997. Để phòng bệnh viêm gan B trẻ cần đƣợc tiêm chủng đầy đủ theo
lịch tiêm sau:





17
Tuổi của trẻ
Lịch tiêm chủng vắc-xin viêm gan B trong Tiêm chủng
mở rộng
Trẻ sơ sinh
Tiêm trong vòng 24 giờ đầu sau khi sinh
Trẻ 2 tháng
tuổi
Tiêm vắc-xin DPT – VGB – Hib1 và uống OPV1
Trẻ 3 tháng
tuổi
Tiêm vắc-xin DPT – VGB – Hib2 và uống OPV2
Trẻ 4 tháng
tuổi
Tiêm vắc-xin DPT – VGB – Hib3 và uống OPV3

Tiêm phòng bằng vắc-xin viêm gan B có thể ngăn ngừa 85% đến 95%
viêm gan B mạn tính, phụ thuộc vào tuổi đƣợc tiêm phòng. Vắc-xin tạo ra
kháng thể có tác dụng bảo vệ cơ thể lâu dài: anti – HBs tồn tại trên 15 năm và
nó vẫn còn tác dụng bảo vệ ngay cả khi không còn khả năng phát hiện nữa.
Nhƣng việc tiêm phòng vắc-xin viêm gan B và tiêm huyết thanh miễn

dịch viêm gan B (HBIG – Hepatitis B Immunoglobulin) cho trẻ sơ sinh có mẹ
HBsAg (+) chƣa phổ biến ở nhiều nƣớc đang phát triển. Một nghiên cứu ở
Trung Quốc thấy có 7,4% trẻ sinh ra từ mẹ có HBsAg bị nhiễm HBV trong
năm đầu tiên mặc dù đã đƣợc tiêm phòng ngay sau khi sinh

[57]. HBsAg có
thể đƣợc phát hiện trong sữa của những bà mẹ bị nhiễm HBV, một vài nghiên
cứu chỉ ra rằng không có nguy cơ cộng thêm lây truyền HBV cho các trẻ bú
sữa mẹ nếu chúng đƣợc tiêm phòng một cách đầy đủ [58].
1.6 Các kỹ thuật sử dụng trong nghiên cứu
1.6.1 Kỹ thuật ELISA (Enzyme-linked immuno sorbent assay)
Kỹ thuật ELISA hay phản ứng miễn dịch liên kết với enzyme có nhiều
dạng khác nhau, đƣợc thực hiện trên pha rắn để phát hiện kháng nguyên hay



18
kháng thể. Kỹ thuật này lợi dụng tính hấp phụ tự nhiên của protein trên một
số chất để gắn kháng nguyên hay kháng thể biết trƣớc lên đó. Tiếp theo cho
kháng thể hay kháng nguyên cần xác định, xuất hiện phản ứng kết hợp kháng
nguyên – kháng thể đặc hiệu. Phức hợp kháng nguyên – kháng thể này đƣợc
phát hiện bằng phản ứng hoạt hóa enzyme. Khi cho thêm cơ chất thích hợp
vào phản ứng, enzyme hoạt hóa sẽ biến cơ chất không màu thành có màu.
Phản ứng lên màu này đƣợc xác định bằng mắt thƣờng và đƣợc đọc chính xác
bằng quang kế (đo mật độ quang – OD).
Kỹ thuật ELISA đƣợc sử dụng để phát hiện HBsAg trong huyết thanh,
phát hiện anti – HBs trong huyết thanh, phát hiện HBeAg trong huyết thanh,
phát hiện anti – HBe trong huyết thanh, phát hiện anti – HBc trong huyết
thanh…Kĩ thuật này khá nhạy và đơn giản, cho phép ta xác định kháng
nguyên hoặc kháng thể ở một nồng độ rất thấp (khoảng 0,1 ng/mL).

Nguyên lý kỹ thuật ELISA đƣợc tóm tắt nhƣ sau (hình 1.4):

Hình 1.4: Nguyên lý kỹ thuật ELISA



×