MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài.........................................................................................3
2. Đối tượng nghiên cứu và phạm nghiên cứu..............................................3
NỘI DUNG.......................................................................................................5
CHƯƠNG 1: ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA VĂN HÓA TRANG PHỤC......5
CHƯƠNG 2: TRANG PHỤC VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG..................8
2.1.
Chất liệu, kỹ thuật để tạo ra trang phục..............................................8
2.2.
Đặc trưng của trang phục truyền thống.............................................10
2.2.1.
Trang phục của người phụ nữ...........................................................10
2.2.2. Trang phục của người đàn ông..............................................................12
2.2.2.
Các bộ phận khác trong trang phục truyền thống Việt Nam.............13
2.3.
Trang phục truyền thống của người Việt chịu ảnh hưởng của văn hóa
Trung Quốc......................................................................................................14
CHƯƠNG 3: TRANG PHỤC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI..............................16
3.1. Sự xuất hiện của trang phục hiện đại.......................................................16
3.2. Đặc điểm của trang phục hiện đại............................................................16
KẾT LUẬN....................................................................................................19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................21
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trang phục là khái niệm chỉ các loại đồ mặc như áo quần, đồ đội như
mũ khăn nón, đồ đi như giày dép guốc, những trang phục phụ như khăn quàng
thắt lưng cùng với các đồ trang sức. Chức năng chủ yếu của trang phục là
nhằm bảo vệ thân thể con người và để làm đẹp cho con người.
Văn hóa trang phục là văn hóa mặc của con người. Con người khơng
chỉ biết mặc cho ấm mà còn biết cách mặc cho đẹp, nên vấn đề mặc chính là
vấn đề của văn hố.
Vì vậy, việc nghiên cứu đặc trưng văn hóa trang phục Việt Nam là một
điều cần thiết bởi đằng sau trang phục là thị hiếu thẩm mỹ, là quan niệm sống,
là sự thể hiện trình độ nhận thức trong văn hố ứng xử. Mỗi bộ trang phục đều
thể hiện một quan niệm riêng, mỗi dân tộc đều có sự lựa chọn riêng làm nên
diện mạo của văn hóa trang phục.
Nếu khơng có các nhận thức đúng đắn về trang phục thì người ta sẽ dễ
có sự nhầm lẫn từ đó dẫn đến chủ quan trong cách mặc. Một thực tế cho thấy
rằng, nhiều người hiện nay còn chưa biết cách mặc sao cho đẹp, đúng với
chuẩn mực và hoàn cảnh.
2. Đối tượng nghiên cứu và phạm nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đặc trưng văn hóa trang phục của Việt Nam và
một số vấn đề đặt ra đối với văn hóa trang phục của Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Trang phục của người Việt có thể được xem xét
bằng cách phân định thời gian: trang phục truyền thống, trang phục hiện đại.
Cũng có thể tiếp cận vấn đề từ góc độ trang phục đời thường, trang phục lễ
hội. Hoặc chỉ ra các lớp văn hoá hội tụ trên trang phục người Việt từ phương
2
Đông và phương Tây. Trong bài tiểu luận, tác giả lựa chọn nghiên cứu văn
hóa trang phục theo phân định thời gian: trang phục truyền thống và trang
phục hiện đại.
3
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA VĂN HÓA TRANG PHỤC
Mỗi trang phục của từng dân tộc, từng quốc gia đều mang bản sắc riêng
và có sự khác nhau. Trang phục của từng dân tộc, quốc gia hình thành và phát
triển gắn bó với những đặc điểm lịch sử, đặc điểm kinh tế, địa lý, phong tục
tập quán, tín ngưỡng tơn giáo... mà dân tộc đó, quốc gia đó chịu sự chi phối.
Ví dụ như trang phục truyền thống của các quốc gia trong khu vực Đông Nam
Á: Sampot - Campuchia, Sinh - Lào, Phasin - Thái Lan, Baju Kurung
-Malaysia,…
Trang phục nhiều khi là dấu hiệu bên ngoài để nhận thấy vị trí xã hội
của con người, chỉ rõ đẳng cấp, nguồn gốc xuất thân của người mặc trang
phục như người Việt đã có câu “Y phục xứng kỳ đức”. Trong thứ bậc thời
phong kiến ở phương Đơng, thì chỉ có vua mới được mặc áo Long bào là tấm
áo trên đó được thêu hình rồng trên cả vạt áo trước và vạt áo sau. Con rồng
chính là biểu tượng của quyền lực và sức mạnh tuyệt đối của đất trời. Trên
trang phục của hồng hậu, cơng chúa lại được thêu hình phượng. Đó là biểu
tượng của tầng lớp q tộc, vương giả.
Cùng với sự vận động và phát triển của lịch sử, trang phục đã có nhiều
sự biến đổi. Ban đầu con người dùng những đồ che thân từ những vật liệu thô
sơ, cho đến nay con người đã tự trang điểm cho mình bằng những bộ trang
phục với chất liệu q hiếm, có thể được trang trí cầu kỳ bằng nhiều loại đá
quý, bằng những đường thêu với những họa tiết hoa văn sặc sỡ. Người ta mặc
những bộ trang phục thích hợp với hồn cảnh, với tính chất nghề nghiệp, với
môi trường sinh hoạt đa dạng của từng người.
Trang phục có thể phân ra nhiều loại hình khác nhau. Có thể là các bộ
triều phục trong xã hội phong kiến trước đây, trang phục lễ hội cổ truyền,
4
trang phục dân tộc, trang phục biểu diễn nghệ thuật, trang phục tôn giáo, trang
phục lễ cưới lễ tang ...
Trang phục dân tộc là một yếu tố quan trọng thể hiện nét đặc trưng
riêng của văn hóa dân tộc. Qua tiến trình lịch sử, trang phục dân tộc về cơ bản
vẫn giữ được những cốt cách truyền thống và có thêm sự tiếp nhận để biến
đổi phù hợp hơn với xu thế.
Trang phục lễ cưới chủ yếu được sử dụng trong ngày cưới, được may
theo kiểu cách riêng, rực rỡ và màu sắc hơn, không giống trang phục ngày
thường bởi ngày cưới là ngày trọng đại của đời người. Ở một số nơi trang
phục này mang dấu ấn bản sắc dân tộc, như là trong văn hóa phương Đơng đã
có sự khác biệt: trang phục lễ cưới cho cô dâu người Trung Quốc thường là
màu đỏ, cô dâu Việt Nam lại chọn màu trắng tinh khiết hay những sắc màu
trang nhã, kín đáo hơn.
Trang phục lễ tang cũng mang sắc màu văn hóa riêng biệt, ở phương
Đơng, trang phục ấy thường mang màu trắng, văn hóa phương Tây lại chọn
màu đen cho trang phục lễ tang.
Trang phục sân khấu rất đa dạng, được may cách điệu hóa, phù hợp với
khơng gian biểu diễn của sân khấu nghệ thuật, phù hợp với tính cách và tuổi
tác của nhân vật.
Trang phục thể thao thường được may theo những tiêu chuẩn quy
định , đường nét khỏe khoắn, đảm bảo kỹ thuật và thẩm mỹ.
Trang phục phụ nữ thường mềm mại diêm dúa hơn trang phục của đàn
ông, trong khi trang phục trẻ em thường giản dị, gọn gàng và nhiều màu sắc ,
phù hợp với tính cách hiếu động của trẻ em.
Trang phục tôn giáo chịu sự quy định của giáo lý. Các nhà sư thường
mặc áo cà sa, khăn nâu, chuỗi tràng hạt, trong khi các nhà tu hành của thiên
chúa giáo thường mặc áo chùng hoặc áo chồng màu đen, tím, đỏ, trắng, áo
5
ren trắng, đội mũ quả trám, thắt lưng màu đỏ, đeo dây thánh giá. Các vị giáo
cả đạo Islam thường mặc bộ áo vải rộng, cổ đứng, khăn đội đầu, quấn xarông
dài, sắc màu được lựa chọn là màu trắng phù hợp với quy định của kinh
Côran. Mỗi tôn giáo đều có một quy định về trang phục riêng, ngồi ý nghĩa
là để bảo vệ cơ thể còn mang một thơng điệp đó là trách nhiệm và lịng tin của
các tín đồ đối với tơn giáo mà họ thờ phụng.
Văn hóa trang phục dù là cái mặc là cái bên ngồi, nhưng nó lại là hình
thức phản ánh nội dung bởi nó tạo ấn tượng sâu sắc ngay trong lần gặp mặt
đầu tiên. Đôi khi thành bại của công việc phụ thuộc vào chính ấn tượng ban
đầu này cho nên sự chỉn chu, lịch sự trong ăn mặc là thước đo nhận thức văn
hoá của con người.
6
CHƯƠNG 2: TRANG PHỤC VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG
2.1. Chất liệu, kỹ thuật để tạo ra trang phục
Ban đầu, người Việt cổ sử dụng vỏ cây, lá cây, những sợi dây rừng để
làm ra trang phục. Vỏ cây được đập dập, ngâm đầu nguồn nước sau đó dùng
xương cá làm kim, dây rừng làm chỉ để khâu lại thành tấm, để từ đó người
Việt tạo cho mình kiểu trang phục sơ khai. Dần dần, người Việt đã bắt đầu
sáng tạo ra những chất liệu mới từ nguồn thực vật cây cỏ vốn có.
Trước hết, đó là tơ tằm. Cùng với nghề trồng lúa, nghề tằm tang có từ
rất sớm. Trong những di chỉ khảo cổ thuộc hậu kì đá mới cách này khoảng
5.000 năm (như Bàu Tró), đã thấy có dấu vết của vải, có gọi xe chỉ bằng đất
nung. Cấy lúa và trồng dâu, nông và tang là hai công việc chủ yếu luôn gắn
liền nhau của người nông nghiệp Việt Nam. Người Hán từ xưa cũng đã ln
xem đó là hai đặc điểm tiêu biểu nhất của văn hóa người Việt, trong chữ
“Man” mà người Hán dùng để chỉ người phương Nam có chứa bộ trùng chi
con tằm. Tơ tằm của nhân dân ta đã dệt nên nhiều loại sản phẩm rất phong
phú: tơ, lụa, lượt, là, gấm vóc, nhiễu, the, đoạn, lĩnh, dũi…
Ngoài tơ tằm, nghề dệt truyền thống của ta còn sử dụng các chất liệu
thực vật đặc thù khác như tơ chuối, tơ đay. gai, sợi bông. Vải tơ chuối là một
mặt hàng đặc sản của Việt Nam mà đến thế kỷ VI, kỹ thuật này đã đạt đến
trình độ cao và được người Trung Quốc rất thích, họ gọi vải này là “vải Giao
Chỉ”. Sách “Nam phương dị vật chí” viết: “phụ nữ lấy tơ chuối dệt thành hai
loại vải hi và khích, đều là vải Giao Chi (Giao Chỉ cát), sách “Quang ca”
chép: “Thân chuối xé ra như tơ, đem dệt thành vải ... Vải ấy dễ rách nhưng
đẹp, màu vàng nhạt, sản xuất ở Giao Chỉ”.
Vải dệt bằng sợi tơ đay, gai cũng xuất hiện khá sớm bởi điều kiện đất
đai và khí hậu nước ta rất thích hợp cho những loại cây này phát triển. Tổ tiên
7
ta không chỉ biết khai thác nguồn nguyên liệu sản có này mà cịn thuần dưỡng
chúng thành loại cây trồng phổ biến. Người ta nhận xét vải day gai bền hơn
vài tơ chuối nhiều; đem cây day gai ngâm nước cho thịt thối rữa ra, còn lại tơ
đem xe thành sợi dệt vải thì vải cũng “mịn như lượt là”. Sử sách nước ta đã
ghi chép: “Cứ mỗi tháng vào ngày mồng Một, thường tiêu đều mặc áo tơ gai”.
Nghề dệt vải bông xuất hiện muộn hơn, từ các thế kỷ đầu Công nguyên.
Sách vở Trung Hoa gọi loại vải này là vải Cát Bối. Sách Lương thư giải thích:
“Cát Bối là tên cây, hoa nở giống như lông ngỗng, rút tay sợi dệt thành vải
trắng muốt chẳng khác gì vải đay”. Kỹ thuật trồng bông dệt vải từ phương
Nam du nhập sang Trung Hoa vào thế kỷ X đến thế kỷ XI, vải bông trở thành
một loại vải phổ biến đến nỗi người Trung Quốc đương thời kêu là “vải bơng
bọc kín cả thiên hạ”.
Bên cạnh đó, người Việt xưa đã bắt đầu tạo ra màu sắc để giúp trang
phục trở nên rực rỡ, đẹp đẽ hơn, không chỉ đơn thuần là một vât dụng che
mưa che nắng. Kỹ thuật nhuộm vải ra đời, ban đầu là “Gái trai cũng một áo
nâu nhuộm bùn”, sau đó là những màu sắc được tận dụng và chế biến từ tự
nhiên. Màu đen là từ lá tre đốt ra mà thành, màu xanh từ lá cây, nhựa cây hoặc
từ rỉ đồng, màu vàng từ gạch non hoặc từ cây dành dành... Những màu
nguyên này còn được sử dụng tới ngày nay ở làng tranh Đơng Hồ, đó là “Màu
dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”.
2.2. Đặc trưng của trang phục truyền thống
2.2.1. Trang phục của người phụ nữ
Trang phục của người phụ nữ Việt thường là mũ đội đầu, yếm che thân
và váy. Áo yếm được coi là di sản của trang phục Việt. Đó là một mảnh vải
vng che ngực phụ nữ có dải buộc sau cổ, hai góc đối nhau vắt sang hai bên
sườn, thường được chính ta người phụ nữ tự cắt may rồi nhuộm.
8
Áo yếm đã được cách tân, sáng tạo thành nhiều loại với kiểu dáng và
màu sắc phong phú: yếm cổ trịn gọi là cổ xây, tơn vinh vẻ đẹp đơn hậu; nếu
cổ nhọn gọi là yếm cổ xẻ, yếm cổ chữ V sâu xuống gọi là yếm cổ cánh nhạn;
yếm có màu nâu mặc ngày thường đi làm ở nơng thôn, yếm trắng ở thành thị,
yếm đào, yếm thắm dùng trong lễ hội. Những cách tân này khiến áo yếm của
người phụ nữ Việt Nam đi vào nghệ thuật với những lúng liếng: “Trời mưa
lấy yếm mà che - Có anh đứng gác cịn e nỗi gì”, “Ước gì sơng rộng một gang
- Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi”. Áo yếm đã được đưa vào văn
chương, trở thành biểu tượng của nữ tính: “Yếm trắng mà vã nước hồ, Vã đi
vã lại anh đồ yêu thương; trầu em têm tối hôm qua, Cất trong dải yếm mở ra
mời chàng; Ước gì sơng rộng một gang, Bắc cầu dải yếm cho chàng sang
chơi”.
Bên cạnh áo yếm, váy cũng là một trang phục mà người Việt rất tự hào:
“bằng cái trống mà thủng hai đầu, bên ta thì có, bên Tàu thì khơng”. Váy có
hai loại: váy mở với một mảnh vải quấn quanh thân, váy kín được khâu lại
thành hình ống. Trang phục này rất phù hợp với khí hậu nóng bức của nước
ta, cũng như thuận tiện cho cơng việc đồng áng.
Người phụ nữ Việt cịn trang điểm cho mình bằng “quần lĩnh, áo the
mới, tay em cầm chiếc nón quai thao, chân em đi đơi guốc cao cao...”. Trong
đó, áo cánh là loại áo ngắn có hai túi phía dưới, có thể xẻ tà hai bên hơng hoặc
bít tà, có đính cúc; ngồi Bắc gọi là áo cánh, trong Nam gọi là áo bà ba.
Áo dài từ lâu đã tở thành biểu tượng của văn hóa mặc của người dân
Việt Nam, đặc biệt hình ảnh áo dài thường gắn liền với vẻ đẹp của người phụ
nữ Việt. Từ xa xưa, người Việt đã mặc áo dài, cả nam và nữ mặc tấm áo đơn
sơ dài từ cổ đến đầu gối.
Nữ mặc áo giao lãnh, giống như áo tứ thân nhưng khi mặc thì hai tà áo
trước để giao nhau mà không buộc lại. Tuy nhiên, để phù hợp lối sống sinh
hoạt, áo giao lãnh được thu gọn lại thành áo tứ thân cho người phụ nữ chốn
9
thôn quê tảo tần lam lũ, thành áo ngũ thân dùng cho phụ nữ chốn thị thành.
Áo tứ thân may từ bốn mảnh vải, hai mảnh sau ghép liên ở giữa sống lưng,
hai tà đằng trước khi mặc bỏ buông hoặc buộc thắt vào nhau. Áo năm thân
cũng may như áo tứ thân, chỉ có điều vạt trước phía trái may ghép từ hai thân
vải, thành ra rộng gấp đôi vạt phải, để bên ngoài, gọi là vạt cả, đè lên vạt phải
để bên trong, gọi là vạt con. Với áo năm thân có vạt trái lớn hơn và nằm ngoài
vạt phải, ta lại bắt gặp một biểu hiện đầy thú vị của triết lý coi trọng bên trái
(bên đông) hơn bên phải (bên tây) theo Ngũ hành.
Dịp hội hè, phụ nữ xưa hay mặc áo lối “mớ ba, mở bảy” tức là mặc
nhiều áo cánh lồng vào nhau. Ở Nam Bộ, nơi khí hậu nóng quanh năm, “áo
mớ” được thay bằng “áo cặp”.
2.2.2. Trang phục của người đàn ông
Không chỉ người phụ nữ, người đàn ông thời xa xưa cũng rất chú tâm
đến trang phục. Nếu phụ nữ “váy vận, yếm mang” thì đàn ơng lại “cởi trần
đóng khố”. Khố là một mảnh vải dài quấn một hoặc nhiều vòng quanh bụng
và luồn từ trước ra sau. Cái khố của những con người bình dân cũng đã được
nhắc đến qua câu chuyện về đạo hiếu của Chử Đồng Tử - một trong Tứ Bất
Tử: vì nhà nghèo nên hai cha con chỉ có một cái khố, đến khi người cha đã
khuất, không nỡ an táng trần truồng, Chử Đồng Tử đã nhường khố cho cha,
cịn mình ở khơng.
Khố mặc mát, phù hợp với khí hậu nóng bức, và giúp người ta dễ thao
tác trong lao động. Vì vậy, nó khơng chỉ là đồ mặc điển bình thời Hùng
Vương mà cịn được duy trì ở một bộ phận dân chúng khá lâu về sau này; thời
Nguyễn, các sắc lính tuy phân biệt với nhau bằng màu của thắt lưng (lễ phục)
hoặc xà cạp (thường phục), nhưng vẫn được gọi là “khố”: lính khố xanh (địa
phương), lính khố đỏ (quân thường trực), lính khố vàng (phục vụ vua).
10
Tuy nhiên, người đàn ơng cũng khơng bằng lịng với chiếc khố che
thân, mà đã biết tạo cho mình bộ áo quần riêng. Trong đời thường đó là áo
cánh, có hai túi dưới xẻ tà. Đi cùng với áo cánh có khi đơn giản chỉ là đóng
khố, có khi là quần lá tọa rộng rãi tiện lợi cho khi đi làm, trong sinh hoạt đời
thường. Quần lá tọa là một thứ quần có ống rộng và thẳng, đũng sâu, cạp quần
to bản. Khi mặc, người ta buộc dây thắt lưng ra ngồi rồi thả phần cạp thừa
phía trên rủ xuống ra ngồi thắt lưng (vì thế nên có tên gọi là “lá tọa”).
Dần dần, trang phục của đàn ông cũng phát triển hơn nhằm mục đích
làm đẹp, thể hiện được tính thẩm mỹ cao. Xuất hiện một loại quần ống hẹp,
đũng cao, gọn gàng hơn và thường hay bằng vải màu trắng, đó là quần ống sớ.
Lễ phục của người đàn ông về sau là áo dài thường được gọi là “áo the đen”
khăn xếp bổ thêm. Bộ trang phục này được lưu giữ cho đến tận hôm nay.
2.2.2. Các bộ phận khác trong trang phục truyền thống Việt Nam
Bên cạnh hai bộ phận chính là quần và áo, trang phục Việt Nam cịn có
những bộ phận khác khơng kém quan trọng như thắt lưng, đồ đội đầu, đồ
trang sức.
Thắt lưng ban đầu có mục đích giữ cho đồ mặc dưới khỏi tuột (có thể là
một sợi dây, gọi là dải rút), rồi phát sinh thêm mục đích giữ áo dài cho gọn, và
tôn tạo cái đẹp cơ thể của phụ nữ. Các bà, các chị còn dùng thắt lưng bao (cịn
gọi là ruột tượng) để kiểm nhiệm mục đích thứ tư là làm túi đựng đồ vặt (tiền,
trầu cau, ...).
Trên đầu thường đội khăn. Phụ nữ trước đây để tóc dài và vấn tóc bằng
một mảnh vải dài cuộn lại để trên đầu (gọi là cải vận tóc), đi tóc để chừa ra
một ít gọi là đi gà: “Một thương tóc để đi gà, Hai thương ăn nói mặn mà
có dun”. Có thể phủ ra ngồi cái vấn tóc là cái khăn vng, chít hình mỏ
quạ vào mùa lạnh (có mỏ nhọn phía trước, hai đầu buộc dưới cằm) hoặc hình
đồng tiền vào mùa nóng (hai đầu buộc ra sau).
11
Đàn ơng trước đây để tóc dài búi trịn lại trên đầu gọi là búi tó, búi củ
hành. Khi làm lụng vấn khăn đầu rìu, lúc sang trọng thì đội khăn xếp, Người
Nam Bộ thường đội khăn rằn. Trên khăn, hoặc thay cho khăn là nón để che
mưa nắng. Nón chóp nhọn đầu, nón thúng rộng vành; nón ba tầm như nón
thúng những mảnh dẻ hơn.
Do đặc điểm khí hậu nước ta là nắng lắm mưa nhiều cho nên, để ứng
phó với khí hậu ấy, nét đặc thù chung của nón là rộng vành (để chống nóng)
và có mái dốc (để thốt nước nhanh, che mưa). Các loại nón này đều phải có
quai để giữ; quai thao (làm bằng vải thao) là loại phổ biến hơn cả.
Xưa kia, người ta thường khơng đi dép bởi khơng có điều kiện để sắm
sửa. Tuy nhiên, vẫn có sự xuất hiện một vài loại dép, guốc. Như dép quai
ngang chỉ một miếng da trâu với một quai ngang vòng trên bàn chân. Phụ nữ
quý phái hoặc giàu có phong lưu đi dép cong bằng da sơn đen, quai bọc
nhung, đầu dép uốn cong lên chừng bảy tám phần làm vướng víu chân đi,
chẳng tiện chút nào trong mọi cơng việc, vì vậy dép cong chỉ được dùng khi
dạo chơi, dự lễ cưới xin, hội hè. Đàn ông lao động cũng dùng dép quai ngang,
khá giả đơi chút thì dép đủ cả quai dọc quai ngang. Chỉ những người phong
lưu mới đi giầy, phần nhiều là mũi một lần da cứng gọi là mũi sén khá hơn thì
hai lần da mềm gọi là giầy mũi lộn, đế làm bằng da dày cứng đóng chân đanh
tre; giầy đắt tiền bạc nhất thì mũi da láng đen bóng, đế da thuộc.
2.3.
Trang phục truyền thống của người Việt chịu ảnh hưởng của văn
hóa Trung Quốc.
Cũng như một số nét văn hóa khác, văn hóa mặc của người Việt đã ít
nhiều chịu sự ảnh hưởng và thay đổi khi tiếp xúc với văn hóa Trung Quốc bởi
các chính sách đồng hóa của các triều đại phong kiến phương Bắc. Tuy nhiên,
người Việt xưa đã biết tiếp nhận các yếu tố văn hóa đó một cách đúng đắn, có
chọn lọc để làm giàu cho văn hóa mặc truyền thống của nhân dân ta.
12
Thời nhà Minh đô hộ nước ta, người phụ nữ bị cấm mặc váy. Đến thời
nhà Lê vào năm 1665, vua Lê Huyền Tơng cấm đàn bà mặc áo có thắt lưng,
mặc quần có ống. Đến năm 1823, vua Minh Mạng lại ban hành lệnh cấm đàn
bà mặc váy. Đó là khi “Chiếu đâu có chiếu ban ra - Cấm quần khơng đáy
người ta hãi hùng - Khơng đi thì chợ khơng đơng, đi thì bóc lột quần chồng
sao đang”. Khơng thể chỉ vì sự cấm đốn này mà ngưng trệ đời sống, người
Việt đã tiếp nhận lối ăn mặc của người Trung Quốc
Ta có thể nhìn thấy cổ Tầu trên tà áo Việt hay những hoa văn, những
hoạ tiết, những sắc màu vốn không quen thuộc trong thị hiếu của người Việt
Nam. Trong kho tàng trang phục của người Việt có áo ngắn, áo dài, áo khách
(áo cánh phụ nữ theo kiểu người Hoa, xẻ giữa, cổ cao, có khuy tết), áo năm
thân, áo tứ thân, áo bà ba ... Tấm áo manh quần không chỉ là cái mặc che thân
mà cịn là văn hố lối sống: “nhường cơm sẻ áo”, “vạch áo cho người xem
lưng”, “yêu nhau cởi áo cho nhau - về nhà dối mę qua cầu gió bay”.
13
CHƯƠNG 3: TRANG PHỤC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
3.1. Sự xuất hiện của trang phục hiện đại.
Đây là văn hoá trang phục của người Việt kể từ khi tiếp xúc với văn
hoá phương Tây. Khi tiếp xúc với văn hoá Trung Quốc, văn hoá mặc của
người Việt chỉ thay đổi một vài yếu tố, nhưng khi tiếp xúc với văn hoá
phương Tây thì cái truyền thống của người Việt đã chịu tác động của cái hiện
đại và thay đổi rất nhiều. Ngoài ra, do đặc điểm của đời sống sản xuất và sinh
hoạt ngày nay đã có sự khác biệt lớn, người Việt cần những bộ trang phục gọn
gàng, thuận tiện hơn trong để hoạt động.
Khái niệm trang phục hiện đại ở Việt Nam chỉ được đặt ra khoảng
những năm đầu của thế kỷ 20. Khi đó, xã hội Việt Nam đang ở trong giai
đoạn nửa thuộc địa, nửa phong kiến với nhiều biến chuyển sâu sắc về kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội. Trong giai đoạn này, nhiều bộ âu phục được du
nhập cho phù hợp với lối sống ở đơ thị, cùng với đó là một số bộ trang phục
truyền thống cũng được cách tân. Tiêu biểu nhất cho xu hướng này là bộ quần
áo dài tân thời trong những giai đoạn thập niên 30, 40 của thế kỷ XX. Đó là
hình thức trang phục nữ được cải tiến từ áo truyền thống như áo tứ thân, ngũ
thân với sự thay đổi hai vạt trước, sau, mặc với quần sa tanh và đi giày cao
gót. Cùng với đó là áo cổ tròn, quần âu cũng đã bắt đầu xuất hiện.
3.2. Đặc điểm của trang phục hiện đại
Trang phục của nữ giới có sự thay đổi rõ nhất. Người phụ nữ ngày nay
được lựa chọn giữa vô vàn những kiểu dáng, màu sắc khác nhau. Hàng loạt
các kiểu áo khác nhau: áo sơ mi, áo phơng, áo khốc... Quần cũng có rất nhiều
từ quần bị, quần âu… Mỗi kiểu áo, kiểu quần đó lại có thêm vơ số những
dáng vẻ, sắc màu khác nhau. Giới thời trang đã tập trung rất nhiều để phát
14
triển cho sự phát triển của trang phục phụ nữ, rất nhiều kiểu dáng phá cách ra
đời, thể hiện thị hiếu có nhiều sự thay đổi.
Cùng với sự thay đổi trang phục nữ, trang phục của nam giới cũng
khơng cịn mang dáng dấp như xưa. Họ cũng có sơ mi, comple, cavat, quần
âu, áo khoác lắm màu nhiều kiểu. Sự xâm nhập của văn hoá phương Tây đem
đến cho nam giới âu phục với vô vàn kiểu dáng, giúp người đàn ơng thể hiện
rõ cá tính mạnh mẽ và thị hiếu thẩm mỹ của chính mình.
Trang phục truyền thống xưa chỉ còn xuất hiện trong lễ hội hoặc trong
những sinh hoạt văn hoá đặc thù như giao lưu âm nhạc (Đơi guốc mộc, nón
Quai Thao của quan họ Bắc Ninh, các chiếu chèo ...).
Đặc biệt, chúng ta phải kể đến sự thay đổi của áo dài cổ truyền được cải
tiến dần thành chiếc áo dài tân thời. Nó kết hợp được một cách xuất sắc
truyền thống dân tộc với ảnh hưởng của phương tây. Chiếc áo dài hiện nay kế
thừa áo tứ thân ngũ thân ấy mà cách tân. Nó được sử dụng rộng rãi vào thời
nhà Nguyễn, đến sau cách mạng tháng Tám, áo dài ít được sử dụng không
phù hợp với môi trường xã hội.
Bên cạnh những cải tiến đáng kể theo hướng tăng cường phô trương cái
đẹp cơ thể một cách trực tiếp kiểu phương Tây như đa dạng hóa về màu sắc;
áo được thu gọn cho ôm sát thân, làm nổi ngực, bó co hơn; bỏ áo cánh, yếm
và xẻ tà áo hai bên sườn cao hơn cho hở lườn ... thì áo dài tân thời lại cũng
đồng thời kế tục và phát triển cao độ phong cách tế nhị, kín đáo cổ truyền:
Trong khi áo tứ thân cổ truyền buông hai vạt trước bay phấp phới thì áo dài
tân thời ghép chúng thành một vật dài kín đáo hơn, trong khi áo tứ thân cổ
truyền để hở ngực yếm, hở cổ thì áo dài tân thời có cổ cao ... Nhờ vậy, áo dài
tân thời khiến cho người phụ nữ mặc nó nhìn chung và nhìn từ phía trước hết
sức kín đáo đoan trang mà vẫn khơng kém phần cuốn hút, cịn nếu nhìn
nghiêng từ bên hơng thì càng thấy sức cuốn hút tăng lên gấp bội phần.
15
Áo dài Việt Nam đã trở thành biểu tượng của sự kết hợp thông minh và
tài hoa trong sáng tạo của người Việt, vừa đáp ứng được yêu cầu của thời đại,
lại vừa duy trì được bản sắc dân tộc, làm say mê bao người dân, du khách
quốc tế. Áo dài Việt Nam hiện nay đã trở thành một biểu tượng của văn hóa
trang phục trong tiềm thức của người Việt:
Áo trắng đơn sơ, mộng trắng trong,
Hôm xưa em đến, mắt như lịng.
Nở bừng ánh sáng. Em đi đến,
Gót ngọc dồn hương, bước toả hồng.
(Áo trắng - Huy Cận)
16
KẾT LUẬN
Văn hóa phương Tây xâm nhập đã một phần hiện đại hóa văn hóa mặc
nước nhà, tuy nhiên mặt khác lại làm mất đi nét đẹp truyền thống của văn hóa
mặc. Cái mặc của người Việt xưa nay nghiêng về sự kín đáo, tinh tế thì nay
nhiều bộ trang phục khiến nhiều người phải suy ngẫm về quan điểm thẩm mỹ.
Chúng ta có thể thấy trên các phương tiện truyền thơng đại chúng hiện nay
khơng ít những bộ trang phục lố lăng, biến chất so với “thuần phong mỹ tục”
của nền văn hóa Việt.
Người Việt vẫn có câu: “Ăn cho mình, mặc cho người” nghĩa là mặc đẹp
khi bộ áo quần phù hợp với ngoại cảnh, với lứa tuổi, với vị thế, với điều kiện
khách quan... Thực tế là nhiều người đã chủ quan hoá cái mặc, mặc theo ý thích
tự do mà lệch với chuẩn mực xã hội. Quần bị, áo phơng phù hợp với văn hố du
lịch nhưng lại không phù hợp với những hoạt động văn hố mang tính truyền
thống, nơi rất cần áo the, khăn xếp để tạo dựng khơng gian tâm linh. Có những
bộ trang phục mà cảm quan người mặc cho rằng mình mặc đẹp nhưng trang
phục chỉ đẹp thực sự khi được đặt trong đúng hồn cảnh. Vấn nạn này đã địi hỏi
mỗi chúng ta ta phải giữ gìn nét đẹp trong văn hố mặc của dân tộc mình, nhưng
đồng thời cũng biết tơn trọng cái khác biệt trong văn hố mặc của dân tộc khác.
Có khơng ít những phản ánh cho rằng, trên các sân khấu, điện ảnh gần
đây xuất hiện các nhân vật lịch sử từ hàng nghìn năm trước nhưng trang phục
lại rất hiện đại. Hoặc có những điệu múa dân gian khi trình diễn lại khốc trên
mình những bộ trang phục xa lạ, khơng giống với văn hóa trang phục truyền
thống của người xưa. Điều đó đã làm giảm đi tính nghệ thuật trong biểu diễn.
Và cũng cho thấy một thực tế rằng việc phổ biến kiến thức về trang phục
truyền thống còn hạn chế.
17
Bên cạnh đó, với sự xâm nhập của văn hóa phương Tây, khơng ít một
bộ phận người có hiện tượng “lai căng”. Những bộ trang phục ấy được gọi là
“nửa vời” bởi những trang phục ấy mượn cái cớ hiện đại để thể hiện cái gọi là
cá tính, nhưng thực ra là kệch cỡm.
Việt Nam có 54 dân tộc thì có 54 bộ trang phục dân tộc khác nhau, mỗi
bộ trang phục ấy giống như là một điểm nhận diện riêng của từng dân tộc
giúp chúng ta phân biệt văn hóa của dân tộc này với văn hóa của dân tộc
khác. Ví dụ như phụ nữ Thái thường mặc váy màu đen với áo cóong bó sát cơ
thể được cài bằng hàng khung có hình con bướm trắng mạ bạc (hoặc bằng bạc
thật). Dân tộc Thái được chia ra thành hai loại: Thái Trắng và Thái Đen. Các
nhà dân tộc học đã dựa vào trang phục của phụ nữ Thái để phân biệt thành 2
nhóm nêu trên. Nhóm người Thái Trắng được nhận biết thông qua trang phục
áo trắng của người phụ nữ Thái. Người Thái trắng thì phụ nữ bao giờ cũng
mặc áo màu trắng, còn người Thái Đen thường mặc áo có màu tối (xanh, tím,
lam, chàm).
Chúng ta thường nói áo dài là Quốc phục của Việt Nam. Tuy nhiên, đó
là trang phục truyền thống của nữ giới, cịn nam giới thì khơng. Sự đánh giá
Quốc phục ở đây cần phải theo những tiêu chí nào?
Tất cả những vấn đề trên đã đặt ra cần sớm có câu trả lời bằng quy định
của nhà nước và việc nâng cao ý thức của mọi người trong việc mặc hàng
ngày.
Có như vậy vấn đề trang phục mới trở thành văn hố để vừa tơn vinh vẻ
đẹp hình thể vừa đưa lại cho người mặc một cảm giác thoải mái tự tin, vừa
đảm bảo tính khách về phương diện mỹ học. Bên cạnh đó, cần phải biết gìn
giữ và phát huy những giá trị văn hóa trang phục truyền thống khi tiếp nhận
tinh hoa văn hóa nước ngồi.
18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Nguyễn Thị Hồng, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Học viện báo chí và
tuyên truyền, 2016.
2. PGS, TS. Phạm Ngọc Trung, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Hà Nội,
2013.
3. PGS, TS. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục,
1999.
4. Nhất Thanh, “Đất lề quê thói – Phong tục Việt Nam”, Nxb. Văn học.
5. PGS, TS. Phạm Ngọc Trung, Bản sắc văn hóa Việt Nam – một số vấn
đề về lý luận và thực tiễn, Nxb. Lý luận chính trị, 2018.
6. GS. Trần Quốc Vượng (chủ biên), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb.
Giáo dục, 1998.
19
20