MỤC LỤC
1
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tôn giáo là một nhu cầu của bộ phận văn hoá tinh thần của từng con
người, của từng cộng đồng xã hội. Trong đó Phật giáo là một trào lưu triết học
tôn giáo với cái đích là giúp con người thốt khỏi nỗi khổ.
Nội dung cơ bản của triết học Phật giáo là đề cập đến việc lý giải căn
nguyên của nỗi khổ và tìm con đường giải thốt con người khỏi nỗi khổ triền
miên đó.
Phật giáo khởi thuỷ ở Ấn Độ truyền đi khắp các xứ lân cận. Trước hết
sang các nước Trung Á rồi sang Tây Tạng, Trung Hoa, Nhật Bản và các nước
miền Nam châu Á. Việt Nam cũng thuộc trong phạm vi ảnh hưởng ấy. Phật
giáo du nhập vào nước nào đều mang tinh thần lịch sử, ảnh hưởng của nước
đó.
Phật giáo đến với người Việt từ rất lâu đời và nó nhanh chóng đã có vị
trí nhất định trong lòng mỗi người dân nước ta.
Từ khi vào Việt Nam, Phật giáo ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh
thần của người dân Việt Nam. Vì các triết lý của Phật giáo xuất phát từ tâm tư
nguyện vọng của người lao động nên số lượng người theo Phật tăng lên nhanh
chóng.
Chính vì lẽ đó, em đã chọn đề tài “ Ảnh hưởng của Phật giáo đến đời
sống văn hoá Việt Nam” làm đề tài tiểu luận cho việc kết thúc mơn học “Cơ
sở văn hố Việt Nam” của mình.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác định rõ khái niệm về văn hố, chức năng, đặc trưng của nó.
- Xác định được giáo lý, bản chất, con đường du nhập đạo Phật vào Việt Nam
và những ảnh hưởng của nó.
2
2
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao giá trị văn hoá tinh thần của đạo Phật vào
đời sống nhân dân Việt Nam.
3. Nội dung nghiên cứu
- Nêu được cái khái niệm, đặc trưng, chức năng của văn hoá.
- Tìm hiểu được giáo lý, bản chất, con đường du nhập của đạo Phật.
- Đưa ra được giải phát nhằm phát huy giá trị văn hoá tinh thần đạo Phật vào
đời sống nhân dân Việt Nam.
3
3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN - ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO
ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm văn hố
Văn hố là gì?
Theo cách hiểu của chủ tịch Hồ Chí Minh,
Khi sinh thời khái niệm văn hố của Bác được hiểu theo ba nghĩa:
nghĩa rộng, nghĩa hẹp và nghĩa rất hẹp.
Theo nghĩa rộng, văn hố là tồn bộ những giá trị vật chất và tinh thần
do loài người sáng tạo ra với phương thức sử dụng chúng, nhằm đáp ứng lẽ
sinh tồn, đồng thời đó cũng là mục đích của cuộc sống lồi người.
Người viết : “ Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi
người mới sáng tạo và phát minh ra ngơn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng
ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng chúng. Tồn bộ những sáng
tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương
thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm
thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.”
Theo nghĩa hẹp, người viết : “ Trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có
bốn vấn đề cần chú ý đến, cũng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế,
xã hội, văn hoá. Nhưng văn hoá là một kiến trúc thượng tầng.”
Theo nghĩa rất hẹp, văn hoá đơn giản là trình độ học vấn của con
người, thể hiện ở việc Hồ Chí Minh yêu cầu mọi người phải đi học “văn hố”,
xố mù chữ,…
Cịn theo cách hiểu của nhà văn hố nổi tiếng của Việt Nam thì văn hố
được hiểu theo những đặc trưng cơ bản sau đây:
4
4
Từ “văn hố” có rất nhiều nghĩa.
Trong tiếng Việt, văn hố được dùng theo nghĩa thơng dụng để chỉ học
thức (trình độ văn hố), lối sống (nếp sống văn hố).
Theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn
(văn hố Đơng Sơn)…
Trong khi theo nghĩa rộng, thì văn hố bao gồm tất cả, từ những sản
phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống, lao động,…
Trên thế giới có hang trăm hàng ngàn cách hiểu khác nhau về văn hoá
nhưng để hiểu một cách cơ bản thì ta cần tìm ra những đặc trưng cơ bản nhất
của văn hố.
Cịn khi sinh thời Bác thì khái niệm văn hố của Bác được hiểu theo ba
nghĩa: nghĩa rộng, nghĩa hẹp và nghĩa rất hẹp.
Theo nghĩa rộng, văn hố là tồn bộ những giá trị vật chất và tinh thần
do loài người sáng tạo ra với phương thức sử dụng chúng, nhằm đáp ứng lẽ
sinh tồn, đồng thời đó cũng là mục đích của cuộc sống loài người.
Người viết : “
Theo cuốn cơ sở văn hố Việt Nam của Phó giáo sư, Viện sĩ Trần Ngọc
Thêm có ghi: “ Văn hố là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh
thần do con người sáng tạo và tích luỹ quan q trình hoạt động thực tiễn,
trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội.”
1.2. Đặc trưng và chức năng của văn hoá
Các đặc trưng cơ bản của văn hố:
Thứ nhất, văn hố có tính hệ thống. Đặc trưng này để phân biệt hệ
thống với tập hợp, nó giúp phát hiện những mối liên hệ mật thiết giữa các
hiện tượng, sự kiện thuộc một nền văn hoá, phát hiện các đặc trưng, những
quy luật hình thành và phát triển của nó.
5
5
Đặc trưng thứ hai của văn hố là tính giá trị. Văn hoá theo nghĩa đen
nghĩa là “trở thành đẹp, trở thành có giá trị”. Tính giá trị cần để phân biệt giá
trị với phi giá trị. Nó là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người.
Các giá trị văn hố, theo mục đích có thể chia thành giá trị vật chất
(phục vụ cho nhu cầu vật chất) và giá trị tinh thần (phục vụ cho nhu cầu tinh
thần), theo ý nghĩa có thể chia thành giá trị sử dụng, giá trị đạo đức và giá trị
thẩm mỹ, theo thời gian có thể phân biệt các giá trị vĩnh cửu và giá trị nhất
thời. Sự phân biệt các giá trị theo thời gian cho phép ta có được cái nhìn biện
chứng và khách quan trong việc đánh giá tính giá trị của sự vật, hiện tượng,
tránh được những xu hướng cực đoan – phủ nhận sạch trơn hoặc tán dương
hết lời.
Vì vậy, muốn kết luận một hiện tượng có thuộc phạm trù văn hố hay
khơng phải xem xét mối tương quan giữa các mức độ “giá trị” và “phi giá trị”
của nó.
Đặc trưng thứ ba của văn hố là tính nhân sinh. Tính nhân sinh cho
phép phân biệt văn hoá như một hiện tượng xã hội (do con người sáng tạo,
nhân tạo) với các giá trị tự nhiên (thiên tạo). Văn hoá là cái tự nhiên được
biến đổi bởi con người. Sự tác động của con người vào tự nhiên có thể mang
tính vật chất ( như việc luyện quặng, đẽo gỗ,…) hoặc tinh thần ( như việc đặt
tên, truyền thuyết cho các cảnh quan thiên nhiên…)
Văn hố có tính lịch sử. Nó cho phép phân biệt văn hố như sản phẩm
của một q trình và được tích luỹ qua nhiều thế hệ với văn minh như sản
phẩm cuối cùng, chỉ ra trình độ phát triển của từng giai đoạn. Tính lịch sử tạo
cho văn hố một bề dày, một chiều sâu, nó buộc văn hố thường xuyên tự
điều chỉnh, tiến hành phân loại và phân bố lại các giá trị. Tính lịch sử được
duy trì bằng truyền thống văn hoá. Truyền thống văn hoá là những giá trị
tương đối ổn định (những kinh nghiệm tập thể) được tích luỹ và tái tạo trong
cơng đồng người qua không gian và thời gian, được đúc kết thành những
6
6
khn mẫu xã hội và cố định hố dưới dạng ngôn ngữ, phong tục, tập quán,
nghi lễ, luật pháp, dư luận,…
Các chức năng của văn hố
Văn hố có chức năng tổ chức: xã hội loài người được tổ chức theo
những cách thức đặc biệt thành những làng xã, quốc gia, đơ thị, hội đồn, tổ
nhóm,.. mà giới động vật chưa hề biết tới đó là nhờ văn hố. Làng, xã, quốc
gia, đô thị… của mỗi dân tộc lại cũng khác nhau- cái đó cũng do sự chi phối
của văn hố. Chính tính hệ thống của văn hố là cơ sở cho chức năng này.
Văn hố có chức năng điều chỉnh: mọi sinh vật có khả năng thích nghi
với mơi trường xung quanh bằng cách tự biến đổi mình sao cho phù hợp với
tự nhiên qua cơ chế di truyền và chọn lọc tự nhiên. Con người thì hành xử
theo một cách thức hồn tồn khác hẳn: dùng văn hố để biến đổi tự nhiên
phục vụ cho mình bằng cách tạo ra đồ ăn, quần áo, nhà cửa, vũ khí, máy móc,
thuốc men,… Tính giá trị là cơ sở cho chức năng điều chỉnh của văn hố. Nhờ
có chức năng điều chỉnh, văn hoá trở thành mục tiêu và động lực của sự phát
triển trong xã hội lồi người.
Văn hố có chức năng giao tiếp: Sự khác biệt giữa con người với động
vật là giao tiếp. Văn hoá tạo ra những điều kiện và phương tiện (ngôn ngữ và
ký hiệu) cho sự giao tiếp ấy.
Văn hố là mơi trường giao tiếp của con người.Văn hoá là sản phẩm
của giao tiếp, sản phẩm văn hoá được tạo ra bằng hoạt động của các cá nhân,
văn hố chỉ có thể là sản phẩm của hoạt động xã hội.
Văn hố có chức năng giáo dục.Do có năng lực thơng tin hồn hảo văn
hố mã hố hệ thống, ký hiệu sản phẩm nằm ngồi cá nhân, con người.
Do vậy, nó được tích luỹ nhân bản và tăng lên nhanh chóng từ thế hệ
này sang thế hệ khác.
7
7
Tích luỹ và chuyển giao: ngơn ngữ, phong tục, tập quán, nghi lễ, luật
pháp, dư luận,… từ thế hệ này sang thế hệ khác tạo nên truyền thống văn hoá.
Các giá trị ổn định khác giá trị đang hình thành thành hệ thống chuẩn mực mà
con người đang hướng tới.
Văn hố quyết định hình thành nhân cách con người và đưa con người
gia nhập vào cộng đồng xã hội.
8
8
CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA - ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT
GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HỐ VIỆT NAM
2.1. Hồn cảnh ra đời của đạo Phật
Phật giáo là một trong ba tơn giáo lớn của thế giới, nó ra đời ở Ấn Độ,
do Siddharta Gautama (563-483 trước Công nguyên) sáng lập.
Thái tử Cồ đàm Tất Đạt Đa (Siddharta Gautama), sinh năm 563 tr.Cn,
con vua Tịnh Phạm (Shuddohdhana) nước Catỳlavệ (Capilavaxtu) ở chân núi
Hymalaya- miền đất bao gồm một phần miền Nam nước Nêpan và một phần
của Ấn Độ ngày nay.
Ngay từ nhỏ, Thái tử Tất Đạt Đa đã được sống trong nhung lụa, khơng
tiếp xúc với xã hội bên ngồi, không hề thấy và không hề biết rằng trong cuộc
đời lại có những đói khát, bệnh tật, già yếu và chết chóc.
Năm 17 tuổi, Thái tử cưới vợ là cơng chúa Da-du-đà-la (Yasodhara)
sinh một con trai là Laầula. Từ đó, Thái tử mới được tiếp xúc với hiện thực
cuộc sống ngồi chốn cung đình. Những cuộc gặp gỡ bất ngờ với những cảnh
già yếu, bệnh tật, chết chóc,… đã tác động mạnh đến tâm hồn nhạy cảm của
Ngài.
Năm 29 tuổi, Ngài quyết định rời bỏ ngôi cao quyền lực, rời bỏ cuộc
sống nhung lụa xa hoa để dấn thân vào con đường tu hạnh khổ hạnh, mong
tìm được sự giải thoát cho chúng sinh.
Sau 6 năm tu khổ hạnh ở núi Tuyết Sơn mà không đạt được sự yên tĩnh
trong tâm hồn và cũng khơng nhận thức được chân lí, Ngài nghiệm ra là cả
cuộc sống tràn đầy vật chất, thoả mãn dục vọng, lẫn cuộc sống khổ hạnh đều
không giúp tìm con đường giải thốt, chỉ có đường trung đạo là đúng đắn
nhất. Do đó, Ngài tự mình đào sâu suy nghĩ để nhận thức chân lí và bỏ lối tu
khổ hạnh, đi sâu vào tư duy trí tuệ.
9
9
Sau 49 ngày thiền định dưới gốc bồ đề tại làng Uruvela, chìm đắm
trong tư duy sâu thẳm, Ngài tuyên bố đã đến được với chân lí, hiểu được bản
chất của tồn tại, nguồn gốc khổ đau và con đường cứu vớt. Ngài tự xưng là
Phật (Buddha – có nghĩa là giác ngộ). Người đời gọi là Thích Ca Mâu Ni (bậc
Thánh của dịng họ Thích ca).
Từ đó, Phật truyền bá đức tin, thành lập các đoàn truyền đạo. Đạo Phật
ra đời. Giáo lí đạo Phật sâu sắc, hấp dẫn, đề cao sự bình đẳng, hướng tới sự
giải thốt , lễ nghi đạo Phật đơn giản nên nhanh chóng thu hút được đơng đảo
tín đồ.
Năm 483 tr.Cn, lúc 80 tuổi, Phật tịch.
Trong quá trình phát triển, đạo Phật đã hình thành nhiều bộ phái khác
nhau. Có hai bộ phái lớn là Đại thừa và Tiểu thừa.
Phật giáo Đại thừa (Mahayana) cịn có tên gọi là Phật giáo bắc tơng.
Phật giáo Tiểu thừa (Nihayana) cịn có tên gọi là Phật giáo Nam tông. Hai bộ
phái này phân biệt ở những điểm chủ yếu sau:
Phật giáo Đại thừa chủ trương “không luận”, cho rằng vạn pháp tuy có
(“hữu”) nhưng thự ra là không (“vô”). Phật giáo Tiểu thừa chủ trương “hữu
luận”, cho rằng vạn pháp vơ thường nhưng vẫn có “hữu” một cách tương đối,
chứ khơng nói là khơng “vơ” được.
Phật giáo Đại thừa cho rằng ngay trong quá trình sinh tử, con người vẫn
có thể chứng ngộ được cảnh giới Niết bàn, nếu như tu luyện tốt.
Ngược lại, Phật giáo Tiểu thừa cho rằng chỉ khi nào thốt được khỏi
vịng ln hồi sinh tử, con người mới có thể đại đến được cảnh giới Niết bàn.
Phật giáo Đại thừa chủ trương “tự độ tự tha, tự giác tha”, nghĩa là vừa
tự giác ngộ, tự giải thoát, vừa giác ngộ, giải thoát cho chúng sinh. Trong khi
đó, Phật giáo Tiểu thừa cho rằng chỉ có “tự độ, tự tha”. Chính vì quan niệm
này mà có tên gọi là “Đại thừa” (con đường cứu vớt rộng, hay cỗ xe lớn, chở
10
10
được nhiều người) và “Tiểu thừa” (con đường cứu vớt hẹp, chở được ít
người).
Về sự thờ phụng và cách thức tu hành, Phật giáo Đại thừa thờ Phật và
các vị Bồ tát, người tu hành mặc áo nâu và tự lao động để sống, còn Phật giáo
Tiểu thừa chỉ thờ Phật, người tu hành mặc áo vàng và sống bằng khất thực.
2.2. Giáo lí cơ bản của đạo Phật
Giáo lí của đạo Phật được thể hiện trong Tam tạng kinh điển là Kinh
tạng, Luật tạng và Luận tạng.
Kinh tạng (Sutra Pitaka) là những sách ghi lời Phật Thích Ca giảng về
giáo lí, được đệ tử A-nan-đa kể lại trong lần kết tập đầu tiên.
Luật tạng (Vinaya Pitaka) là sách ghi những giới luật do Phật chế định
làm khuôn phép sinh hoạt cho tăng đoàn và các đệ tử tại gia, do Ưu-bà-ly kể
lại trong lần kết tập đầu tiên.
Luận tạng (Abhidharma Pitaka) là hệ thống những luận giải của các Hộ
pháp về kinh tạng là luật tạng.
Giáo lí cơ bản của đạo Phật được thể hiện qua những khái niệm như:
Vô tạo giả, Vô thường, Vô ngã, Tứ diệu đế,…
Vô tạo giả
Vơ tạo giả là khơng có kẻ sáng tạo đầu tiên.
Trong giáo lí của đạo Phật thì khơng gian là vô tận, thế giới nhiều như
cát sông Hằng. Không gian có “Tam thiên thế giới” gồm: Đại thiên thế giới,
Trung thiên thế giới, Tiểu thiên thế giới. Mỗi tiểu thiên thế giới có hàng chục
ngàn thế giới. Thời gian có “tam kiếp” gồm: đại kiếp, trung kiếp và tiểu kiếp.
Một đại kiếp bằng 4 trung kiếp, một trung kiếp bằng 20 tiểu kiếp, một tiểu
kiếp bằng hàng chục triệu năm.
11
11
Thế giới trong không gian được gọi là thế gian. Mỗi thế giới đều có
một vật ở trung tâm là Tu-di. Tu-di là tên quả núi, có đỉnh và chân, xung
quanh núi có mặt trời, mặt trăng và bốn vùng thiên hạ.
Dưới Tu-di là địa ngục, bốn xung quanh, lưng chừng núi là chỗ ở của tứ
thiên hạ là: người, atula, ngã quỷ, súc sinh,… Ở lưng chừng xung quanh núi,
cao hơn là cõi trời thứ nhất, chỗ ở của Thiên vương. Ở trên đỉnh núi có cõi
trời thứ hai, là chỗ ở của Vua Đế Thích và 32 vị thần khác. Trên đỉnh Tu-di là
cõi trời thứ ba, thứ tư, thứ năm, thứ sáu. Cõi thứ sáu là cõi cuối cùng trong
dục giới. Thế giới được phân chia thành ba cõi lớn: Dục giới, Sắc giới, và Vô
sắc giới.
Dục giới : gồm những sắc chất khơng trong sạch, có bốn cảnh khổ và
hai cảnh phúc.
Bốn cảnh khổ là: Địa ngục, Súc sinh, Ngã quỷ, A-tu-la.
Địa ngục (Ni Raya-Ni: Không, Raya: Hạnh phúc) là cảnh khổ mà
chúng sinh phải chịu vì đã tạo nghiệp ác. Ở đó cũng có cơ quan thoát ra, do
nghiệp Thiện tạo ra, được Địa Tạng Bồ Tát cứu độ.
Súc sinh: Chúng sinh bị tái sinh vào cảnh cầm thú vì tạo nghiệp xấu.
Ngã quỷ (Peta Yoni-Peta: quỷ, Yoni: cảnh): Peta là người tuyệt đối
khơng có hạnh phúc, mắt người không thấy được.
Atula (Asuta – Yoni) là cảnh giới của nhiều người không bao giờ vui,
không có tiêu khiển giải trí, là nhiều chúng sinh cùng đau khổ như ngã quỷ.
Hai cảnh phúc: là Cảnh người và Cảnh trời.
Cảnh người là cảnh giới có hạnh phúc và khổ não. Đây là cảnh hiện
thực.
12
12
Cảnh trời là cõi hữu phúc, người ở cõi này cũng có hình thể, nhưng tinh
tế, khơng thấy được. Họ cũng chết, trí tuệ khơng hơn người. Đây là cảnh hư
không.
Vạn pháp (các sự vật hiện tượng) trong thế giới được tạo nên bởi những
phần tử vật chất và tinh thần gọi là Ngũ uẩn: Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn,
hành uẩn, thức uẩn.
Sắc uẩn gồm tứ đại: Địa, thuỷ, hoả, phong.
Thọ uẩn là cảm giác vui, khổ hoặc không vui, không khổ, được cảm
nhận do sự tiếp xúc của sáu cảnh tương ứng bên ngồi là: hình sắc, mùi, âm
thanh, vị, cứng mềm và những đối tượng của tư tưởng.
Tưởng uẩn là ấn tượng, tri giác được phát sinh do sự tiếp xúc giữa sáu
căn (mắt, mũi, tai, lưỡi, thân và ý) với sáu cảnh bên ngoài giúp nhận biết sự
vật là vật lí hay tâm lí.
Hành uẩn (tư duy) là những thao tác của tâm thức, gồm những hoạt
động của ý chí. Trong hành có “nghiệp”, “nghiệp” là chính ý muốn.
Khi đã có ý muốn, thì người ta thao tác bằng thân, miệng, ý (thân
nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp) dẫn đến những hoạt động tốt, xấu.
Cảm giác và tri giác không phải là những hoạt động của ý chí, chúng
khơng phát sinh nghiệp quả. Chỉ có hành (những hoạt động do ý chí) như: chú
ý (tác ý), muốn (dục), xác định (thắng giải), tin (tín), định (kiên định), tuệ (trí
tuệ), nghị lực (tinh tấn), tham (ham muốn), thù ghét (hận), ngu si (vô minh),
kiêu căng (mạn), chấp vào thân xác (thân kiến) mới sinh nghiệp quả.
Thức uẩn là phản ứng của các giác quan đối với sáu hiện tượng ngoại
giới (hình sắc, âm thanh, mùi, vị, sự vật tiếp xúc, tâm giới). Thức không nên
xem là “tinh thần” đối lập với vật thể. Nó tồn tại tuỳ thuộc vào vật thể được
cảm giác, tri giác.
Vô thường
13
13
Vô thường (Anitya): Vạn pháp trong vũ trụ không đứng n mà ln
chuyển động, biến đổi theo chu trình: thành – trụ - hoại – không hay sinh – trụ
- dị - diệt.
Sinh – diệt là hai quá trình xảy ra trong mỗi một sự vật, hiện tượng
cũng như trong toàn vũ trụ. Thế giới này là sự hoại – không của thế giới khác,
pháp khác, cứ như vậy mà tiếp diễn. Các pháp chuyển động, biến đổi đều bị
chi phối bởi luật nhân duyên.
Nhân là mầm tạo quả. Duyên là điều kiện, phương tiện. Nhân dun
hồ hợp thì sự vật sinh. Nhân duyên tan rã thì sự vật diệt, tuỳ theo nhân duyên
mà hợp thành các sự vật, hiện tượng khác nhau. Một sự vật, hiện tượng không
phải do một nguyên nhân mà do nhiều nhân duyên đã có từ trước. Trong vũ
trụ, nhân – duyên là vô tận, là tính trùng trùng dun khởi. Do đó, các sự vật,
hiện tượng quan hệ mật thiết với nhau, nương nhờ chi phối lẫn nhau. Thế giới
sự vật, hiện tượng biến đổi ở các trạng thái sắc (hữu hình) và khơng (vơ hình).
Sắc – Khơng là hai dạng tồn tại của vạn pháp.
Vơ ngã
Giáo lí đạo Phật cho con người là “một pháp” đặc biệt của thế giới, bao
gồm phần sinh lí và tâm lí, là sự kết hợp của Ngũ uẩn (sắc, thụ, tưởng, hành,
thức).
Phần sinh lí (sắc uẩn) là thần sắc, hình tướng, được tạo thành bởi Tứ
đại (địa- thuỷ- hoả- phong).
Phần tâm lí (tinh thần, ý thức) gồm thụ - tưởng – hành – thức, được
biểu hiện bằng Thất tình: ái, ố, hỉ, lạc, ai, dục.
Phần tâm lí bao giờ cũng dựa vào phần sinh lí, con người sinh – diệt là
sự giả hợp của ngũ uẩn. Khi ngũ uẩn hợp là sinh, khi ngũ uẩn tan là diệt. Do
đó, khơng có cái gọi là “bản ngã” (cái tôi). Tồn tại con người chỉ là “vô ngã”.
14
14
Con người có cái tâm thường trụ bất biến và bao hàm vũ trụ. Tâm của
con người là cái Tâm đại bình đẳng, Tâm bát nhã, Tâm chân như, Phật tính,
tâm Phật. Khơng thể phân biệt Tâm của ta hay Tâm của người.
Tâm của chúng sinh do vô minh che lấp nên chỉ là cái tâm mê loạn, vì
vơ minh nên khơng thấy được chân lí của vũ trụ là “chư hành vơ thường”,
“chư pháp vơ ngã”, vì vơ minh nên chúng sinh tưởng lầm mọi cái, kể cả xác
thân ta là có thật. Mọi sự vật, kể cả con người đều chỉ là giả tưởng, khơng có
thật. Để khắc phục vô minh, cần phải diệt trừ cái nhận thức mê lầm của Ngã
chấp (chấp có Ta).
Khi thân xác chết (gọi là “chấp đoạn”), linh hồn sẽ được đầu thai vào
kiếp khác (gọi là “chấp trường”). Cứ như vậy luân hồi sinh tử không dứt.
Con người ở kiếp này phải chịu quả báo về những việc của họ làm từ
kiếp trước. Như vậy, con người chịu sự quy định của nhân quả, nhân quả tác
động lẫn nhau do duyên. Mọi pháp đều giới hạn, tương đối và phụ thuộc vào
nhau. Nó thể hiện trong nguyên tắc của duyên khởi: Cái này có, thì cái kia có,
cái này sinh, thì cái kia sinh, cái này khơng có, thì cái kia khơng có, thì cái kia
khơng có, cái này diệt, thì cái kia diệt.
Duyên khởi (Thập nhị nhân duyên) gồm: vô minh – hành- thức-danh
sắc- lục nhập- xúc- thụ - ái – thủ - hữu- sinh- tử.
Đây là quá trình sự sống phát sinh, tồn tại và tiếp diễn. Nếu chấp dứt sự
chết, thì q trình sẽ chấm dứt: Khơng cịn vơ minh, khơng cịn phiền não…
Vơ minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt,
danh sắc diệt thì lục nhập diệt… cho đến khi sinh diệt thì lão tử diệt. Mỗi một
duyên khởi vừa là quả, vừa là nhân, vừa bị định đoạt, vừa làm điều kiện. Vì
thế, chúng đều là tương đối, liên quan với nhau, khơng có gì là tuyệt đối hay
biệt lập. Thập nhị nhân dun, vì thế khơng phải là một chuỗi, mà là một
vòng.
15
15
Tứ diệu đế
Tứ diệu đế là bốn chân lí cao cả gồm: khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế.
Khổ đế là chân lí nói về sự khổ.
Dukkha tiếng Phạn có nghĩa là “đau khổ”, “đau đớn”, “buồn”, “sự cơ
cực” – tương phản với chữ “Sukkha” có nghĩa là hạnh phúc. Dukkha ở diệu
đế thứ nhất con bao gồm những ý nghĩa sâu sắc hơn: “bất tồn”, “vơ thường”,
“trống rỗng”, “giả tạm”. Dukkha trong nghĩa thông thường gọi là khổ - khổ
gồm: sinh, lão, bệnh, tử, oán tăng hội, thụ biệt li, sở cầu bất đắc. Phật cho
rằng: “Cuộc đời là bể khổ”, “Nước mắt của chúng sinh còn nhiều hơn nước
biển”. Dukkha phát sinh do vô thường, chuyển biến, hoại khổ. Hạnh phúc,
khoái lạc sớm muộn cũng thay đổi. Khi thay đổi nó phát sinh khổ hạnh. Khổ
vì những hoàn cảnh giới hạn của sinh tử trong ngũ uẩn (thủ uẩn ngũ). Ngũ
uẩn vô thường, mà bất cứ cái gì vơ thường đều là Dukkha.
Mặc dù cuộc sống có khổ đau nhưng khơng nên buồn sầu, ốn hận hay
thiếu kiên nhẫn vì nó. Con người cần hiểu rõ vấn đề khổ đau, nó phát sinh thế
nào, làm sao xua đuổi nó, và tuỳ theo đấy mà hành động với sự kiên nhẫn,
thông minh và nghị lực, để vui vẻ thanh thoát, hồn nhiên, sung sướng, vui
hưởng hạnh phúc.
Tập đế (Samuđaya) là chân lí nói về ngun nhân của sự khổ.
Nguyên nhân trực tiếp, rõ rệt và phổ biến gây lên sự khổ là dục vọng,
bao gồm: Ham muốn khoái lạc giác quan, ham muốn tài sản, ham muốn thế
lực, ham muốn tư tưởng, ham muốn danh vọng, và ham muốn những sự tin
tưởng. Mọi ham muốn đều có cội rễ là tam độc, gồm: Tham (lòng tham vị kỉ),
sân (sự giận dữ) và si (sự mê si).
Như vậy, mầm mống của Dukkha phát sinh ở ngay chính Dukkha chứ
khơng phải ở bên ngồi. Bất cứ cái gì thuộc về bản chất của sinh cũng đều
16
16
thuộc bản chất của diệt. Dukkha có ở trong bản chất của sự phát sinh ra nó và
cũng có ln trong bản chất của sự chấm dứt của nó.
Ý chí, dục vọng, lòng ham muốn, lòng khát khao tồn tại, tiếp tục tăng
trưởng, không mất đi, dừng lại cùng cái chết của thân xác, mà tiếp tục biểu
hiện trong một hình thức khác, phát khởi sự tái sinh gọi là ln hồi. Sự khao
khát trở thành cịn thì vịng ln hồi vẫn tiếp tục. Nó chỉ chấm dứt, nhờ trí tuệ
thấy rõ thực tại, chân lí, Niết bàn.
Diệt đế (Nirodha- sự chấm dứt Dukkha) là chân lí nói về lối thoát cho
khổ đau đứt ra khỏi sự tiếp nối của Dukkha. Đây là chân lí cao cả về chấm dứt
sự khổ, đó là Niết bàn (Nirvana).
Muốn diệt trừ Dukkha, phải diệt cội gốc chính của Dukkha đó là long
khao khát hay tham ái. Bởi thế, Niết bàn còn là diệt ái, sự diệt hẳn dục vọng.
Niết bàn là cái tuyệt đối không bị giới hạn, là sự diệt tắt của ham muốn,
vọng tưởng, hận thù, sự huỷ diệt của ý niệm sai lầm về ngã. Theo Phật giáo
Tiểu thừa, Niết bàn và luân hồi sinh tử là hai phạm trù khác biệt nhau. Còn
theo Phật giáo Đại thừa, Niết bàn có thể thực hiện được ngay trong cõi đời
này. Người chứng ngộ chân lí Niết bàn là người nhiều hạnh phúc nhất trần
gian. Người ấy thoát khỏi mặc cảm và ám ảnh, phiền não, lo âu, sức khoẻ tinh
thần thoải mái, không tiếc quá khứ, không mơ mộng về tương lai. Họ trong
sạch, từ hồ, đầy lịng thương, thơng cảm và khoan dung. Họ phục vụ người
khác trong sạch, không nghĩ về mình, khơng vụ lợi, họ đã thốt khỏi ảo tưởng
về ngã và lòng khao khát “trở thành”.
Đạo đế (Magga – con đường) là chân lí về con đường chấm dứt
Dukkha.
Đây là con đường trung đạo, vì nó tránh hai thái cực: chạy theo khoái
lạc tầm thường và khổ hạnh ép xác. Con đường thứ nhất thấp kém tầm
17
17
thường, khơng lợi ích, là con đường của những người tầm thường. Con đường
thứ hai là khổ nhọc, không đáng có và khơng lợi ích.
Trung đạo được gọi là Bát chính đạo, gồm: Chính ngữ, chính kiến,
chính tư duy, chính nghiệp, chính mệnh, chính định, chính tinh tấn, chính
niệm.
Bát chính đạo là Tam học của Phật giáo, gồm: Giới-Định-Tuệ. Đó là sự
tự kỉ luật trong thân xác, lời nói và ý nghĩ, là sự tự phát triển và tự thanh lọc.
Nó khơng dính líu gì đến đức tin, thờ phụng, nghi lễ. Bát chính đạo là con
đường đúng đắn dẫn đến thực chứng chân lí tối hậu, dẫn đến tự do hồn tồn,
hạnh phúc và bình an nhờ sự hồn thiện về đạo đức, tâm linh và trí tuệ.
2.3. Đạo Phật du nhập vào Việt Nam
Đạo Phật được truyền vào Việt Nam từ khoảng cuối thế kỉ I, đầu thế kỉ
II. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, thời kì này, Luy Lâu (Bắc Ninh) là một
trung tâm Phật giáo không kém hai trung tâm ở Trung Quốc lúc đó là Bành
Thành và Lạc Dương.
Nếu Nho giáo vào Việt Nam đi liền với sự thống trị, cưỡng bức của
phong kiến phương Bắc, thì Phật giáo vào Việt Nam bằng con đường hồ
bình: Đường thuỷ từ Ấn Độ, Trung Á qua việc buôn bán và đường bộ từ
Trung Quốc qua việc giao lưu văn hoá. Nghi lễ thờ cúng của đạo Phật đơn
giản. Giáo lí đề cao tư tưởng bình đẳng, bác ái, từ bi, vị tha, cứu khổ, thốt
khổ,…có phần gần gũi với tín ngưỡng dân gian, phù hợp với tâm lí, tình cảm
nên dễ được người Việt chấp nhận. Lịch sử tồn tại của Phật giáo Việt Nam
cho đến nay đã gần 2.000 năm, có thể chia làm nhiều giai đoạn, gắn với các
giai đoạn phát triển của lịch sử Việt Nam.
Từ cuối thế kỉ thứ I đến thế kỉ thứ V, sự truyền bá Phật giáo vào Việt
Nam được gắn liền với tên tuổi của một số nhà sư Ấn Độ là: Ma-ha kì vực,
18
18
Khưu đà la, Khương tăng hội, Chi lương cương và một số nhà sư Trung Quốc
là: Mâu Bác (Mâu Tử), Du Pháp Lan, Du Đạo Tối, Đàm Hoằng… Trong đó:
Ma-ha kì vực, Khưu đà la và Mâu Bác truyền giáo ở thế kỉ II. Khương
tăng hội và Chi lương cương truyền giáo ở thế kỉ III. Du Pháp Lan và Du Đạo
Toái truyền giáo ở thế kỉ IV. Đàm Hoằng truyền giáo ở thế kỉ V.
Đến thế kỉ V, ở Việt Nam đã có những nhà sư người Việt nổi tiếng như:
Huệ Thắng (440-479), Thích Đạo Thiền (457-483) được mời sang Trung
Quốc để thuyết pháp.
Đến thế kỉ thứ VI, thời hậu Lý Nam Đế, nhà sư Ấn Độ là Tỳ-ni-đa-lưuchi là học tròa Tăng Xán (tổ thứ ba của Thiền phái Trung Quốc) đến tu tại
chùa Pháp Vân và trở thành tổ thứ nhất của phái Thiền ở Việt Nam. Phái thiền
này truyền được 18 đời với 29 vị thiền sư, người đầu tiên là Pháp Hiền (626)
người cuối cùng là Y Sơn (1216).
Khoảng năm 820, nhà sư Trung Quốc là Vô Ngôn Thông đến tu ở chùa
Kiến Sơ (làng Phù Đổng, Bắc Ninh) và lập ra phái Thiền thứ hai tại Việt Nam.
Phái Thiền này truyền được 15 đời với 40 vị thiền sư. Cảm Thành (860) là
người đầu tiên và Ứng Vương (1287) là người cuối cùng. Phái Thiền Vơ
Ngơn Thơng chủ trương tìm chân lí ở ngay hiện tại, trong bản thân mỗi người.
Chân lí chỉ có thể tu chứng trực tiếp bằng niệm Phật chứ không thể nắm bắt
được qua ngơn ngữ, văn tự. Chỉ có niệm Phật mới có thể đạt tới tuệ giác.
Giai đoạn từ thế kỉ X đến thế kỉ thứ XIV.
Sang thế kỉ thứ X, nhà nước phong kiến Việt Nam được xây dựng, củng
cố và phát triển. Các triều đại phong kiến từ Đinh, Tiền Lê đến Lý, Trần đều
có những chính sách nhằm nâng đỡ, khuyến khích đạo Phật.
Thời nhà Đinh, vua Đinh Tiên Hoàng triệu tập các cao tăng để định rõ
phẩm chất cho tăng già, phong cho sư Ngô Chân Lưu (đời thứ IV của phái
19
19
Thiền Vô Ngôn Thông) chức Tăng Thống (người đứng đầu hàng giáo phẩm)
và ban hiệu là Khuông Việt đại sư (ngang hàng với “Tam công” trong triều).
Thời nhà Lê, vua Lê Đại Hành trọng dụng những nhà sư có cơng giúp
triều đình đánh giặc, mời sư Đỗ Thuận (đời thứ 10 của phái Thiền Tỳ-ni-đalưu-chi) làm cố vấn việc triều chính và bang giao, hỏi ý kiến sư Vạn Hạnh
trước khi xuất quân đánh Tống, cho phép các nhà sư Việt Nam sang Trung
Quốc thỉnh kinh về truyền bá Phật-Pháp.
Thời nhà Lý (1010-1225), Lý Công Uẩn nguyên là một sadi, là học trò
của sư Lý Khánh Văn, sau khi lên ngơi đã ban hành nhiều chính sách có lợi
cho Phật giáo như: Độ dân làm sư, cho xây dựng nhiều chùa chiền khắp nơi,
cho sư sang Trung Quốc thỉnh kinh,…
Các vua nhà Lý như Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Anh Tông, Lý
Cao Tông, Lý Huệ Tông đều tôn sùng đạo Phật. Lý Thái Tông (1028-1054)
thuộc thế hệ thứ 7 của phái Thiền Vô Ngôn Thông. Lý Thánh Tông (10541071) thuộc thế hệ thứ nhất của Thiền phái Thảo Đường. Đây là thiền phái kết
hợp giữa Thiền tông và Tịnh Độ tơng, chú ý sự giải thốt bằng tự lực kết hợp
với tha lực (sự cứu vớt của các vị Bồ Tát, đặc biệt là Quan Thế Âm Bồ Tát).
Trong xã hội, các tầng lớp quan lại và bình dân đều mộ Phật. Ở nông
thôn, chùa Phật trở thành một trung tâm sinh hoạt văn hoá tinh thần, cùng tồn
tại song song bên cạnh ngơi đình của Nho giáo. Các lễ hội chùa Phật trở thành
một đặc điểm văn hoá của thời Lý.
2.3.1.Ảnh hưởng của Phật giáo dưới thời Lý (1010-1225)
Ý hướng xây dựng một nền văn hoá Việt Nam độc lập của các thiền sư
rất rõ rệt.
Về phương diện địa lý họ đã muốn dời kinh đô tới một nơi có thể dựng
nên sự nghiệp độc lập lâu dài.
20
20
Về phương diện học thuật, họ có cơng đào tạo một lớp trí thức khơng
cố chấp, biết dung hợp các ý thức hệ dị biệt thự như Nho, Lão, Phật.
Về phương diện văn hoá, họ dựng nên được cả một triều đại thuần từ,
lấy đức từ bi làm căn bản cho chính trị.
Về văn học, họ là những người đóng góp vào vấn đề sáng tác nhiều
nhất trong nước, dù phần lớn những vấn đề sáng tác này nằm trong những chủ
đề Phật Giáo.
Về mỹ thuật, những cơng trình kiến trúc và điêu khắc của Phật giáo
cũng là những đóng góp mỹ thuật quan trọng nhất trong thời đại.
Về học thuật, các thiền sư đã mở trường dạy học, không những cho
tăng sĩ mà còn cho cư sĩ.
Về phương diện sáng tác, các vị thiền sư thường để lại mỗi người ít
nhất cũng là một bài thơ. Những bài thờ còn được giữ lại là nhờ sách Thiền
Uyển Tập Anh. Trong những bài thơ có nhiều bài rất đẹp, nhưng vì ít biết về
từ ngữ Phật giáo và khơng quen thuộc với Thiền học nên nhiều người cho đó
là những bài thơ khơ khan.
Về thi ca thời Lý có Ngộ Đạo Ca Thi Tập của Khánh Hỷ, Viên Thông
Tập của Viên Thơng.
Ngồi ra cịn có những bài văn như bài chiếu của vua Lý Thái Tổ trước
khi dời đô về Thăng Long, bài chiếu khuyến nông, bài chiếu miễn thuế cho
dân của vua Lý Thái Tông, bài chiếu di mệnh của vua Lý Nhân Tông,…
Trong sách Vũ Trung Tuỳ Bút, Phạm Đình Hổ nói về văn Lý và Trần như sau:
“Ta thường xét về văn hiến nước ta, văn đời Lý thì cổ áo xương kích, phảng
phất như văn đời Hán, đến đời Trần tuy hơi kém hơn đời Lý nhưng cũng cịn
điển nhã hoa thiệm, nghị luận phơ bày đều có sở trường cả.”
2.3.2. Ảnh hưởng của Phật giáo dưới thời Trần
21
21
Về phương diện văn hoá, Phật Giáo đời Trần đã có đóng góp lớn lao.
Ưu điểm lớn nhất của Phật giáo là tinh thần khoan dung và tự do.
Phật Giáo khơng bao giờ chống đối và chỉ trích Nho Giáo cùng Lão
Giáo. Phật Giáo đã để cho Nho giáo và Lão Giáo tự do phát triển.
Chính những Phật tử thuần thành nhất như Thái Tông và Thánh Tông
đã mở rộng Nho giáo. Năm 1253, Thái Tông lập Quốc Học Viện ở kinh sư và
tạc tượng Chu Công, Khổng Tử, Mạnh Tử, cùng vẽ tranh 72 vị tiền hiền để
thờ cúng. Thánh Tơng đã cho hồng đệ là Trần Ích Tắc mở trường dạy Nho
học.
Năm 1267, Thánh Tông chọn các nho sinh có học thức vững vàng để
bổ nhiệm. Thái Tơng mở các khoa thi năm 1232, 1247. Các khoa khác tiếp tục
được tổ chức để kén chọn nhân tài.
Nền giáo dục thời đó cịn mang tính chất tổng hợp tam giáo và khơng
có tính cách từ chương. Kiến thức thực tế về đạo lý căn bản. Văn chương và
cú pháp là thứ yếu.
Trong khơng khí học tập tự do và cởi mở ấy, triều đình đã đãi ngộ nhân
tài và sĩ phu rất kính cẩn, cho nên người giỏi xuất hiện rất nhiều và sự học
phát triển rất rộng. Lê Quý Đôn đã viết trong Kiến Văn Tiểu Lục: “các vị ấy
phẩm hạnh và thanh giới cao khiết, có tư cách người trí thức qn tử như đời
Tây Hán, khơng phải kẻ tầm thường sánh được. Bởi vì nhà Trần đãi kẻ sĩ một
cách khoan dung, khơng hẹp hịi, hồ vị mà có lễ phép, cho nên nhân sĩ thời
ấy ai cũng biết tự lập, anh hào tuấn vĩ vượt ra ngoài lưu tục, làm cho quang
vinh cả sử sách, không thẹn với Trời Đất, há phải đời sau kịp được đâu.”
Chính vì đặc tính khoan dung và mềm dẻo của văn hoá đời Trần mà
vua quan cùng dân chúng đã đồng tâm cộng tác trong việc chống ngoại xâm
và xây dựng đất nước.
22
22
Văn học đời Trần rực rỡ và phản chiếu tinh thần từ ái, hồ đồng và
thanh thốt của đạo Phật. Tinh thần ấy không đi đôi với sự khiếp nhược, yếm
thế, trái lại đã đi đôi với tinh thần tự lực, tự cường và tiến thủ.
Văn học chữ Nôm ra đời. Trúc Lâm Điều Ngự và Huyền Quang đều có
sáng tác bằng chữ Nơm của hai người cịn truyền lại.
Nền văn hoá đời Trần mà đạo Phật là cốt tuỷ là một nền văn hoá độc
lập. Vào hạ bán thế kỉ thứ mười bốn có một số nho gia muốn thay đổi để bắt
chước theo thể chế sinh hoạt văn hoá của Trung Hoa.
Khi các nho thần Lê Bá Quát và Phạm Sư Mạnh yêu cầu vua Minh
Tông thay đổi thể chế sinh hoạt văn hoá, vua trả lời “Nước ta đã có phép tắc
nhất định, vả lại Nam Bắc phong tục khác nhau. Nếu theo lời của các ngươi,
chỉ cốt cho thành tựu mưu chước thì chỉ sinh loạn ra thơi.”
Phật Giáo thời đó duy trì tính cách độc lập văn hố, cịn nho gia bắt đầu
muốn Tống hố nền văn hoá quốc gia Đại Việt. Thời này, nho gia đã bắt đầu
cơng kích Phật Giáo rồi.
Văn học đời Trần thấm nhuần tính cách dung hợp và khai phóng của
đạo Phật. Nền học vấn đời Trần không bị ràng buộc bởi khoa cử, chính sách
tơn giáo của nhà Trần là một chính sách tự do và bình đẳng, giới sĩ phu dù
xuất thân từ truyền thống tôn giáo nào cũng được triều đình đãi ngộ rất hậu.
Đó là những nguyên nhân khiến cho văn học đời Trần giàu có, sáng rỡ và đầy
ý thức tự tin. Thi ca đời Trần chịu ảnh hưởng Thiền học sâu đậm, các thi sĩ
nhiều người nhìn sự vât bằng cái nhìn của người biết tĩnh tâm thiền quán.
Tựu trung lại thờ kỳ mà phát triển đỉnh cao của triều Lý là Phật giáo vì
vua Lý Thái Tổ xuất thân ở cửa phật nên khi lên ngơi thì ngài rất trọng Phật
giáo. Song đến thời Trần Nho càng thịnh hành hơn trước song Phật giáo cũng
không dần mất đi. Ở đời Lý Trần nước ta tơn trọng cả ba giáo Nho, Phật, Lão.
Ta có thể gọi thời ấy là thời đại Tam giáo đồng tôn.
23
23
2.3.3. Ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống văn hoá Việt Nam hiện
nay
Từ khi đất nước giành được độc lập (1945) cho đến thời kỳ đổi mới,
Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật về
tín ngưỡng, tơn giáo, tạo điều kiện để các tôn giáo luôn đồng hành cùng dân
tộc, hành đạo theo pháp luật, tích cực tham gia phát triển kinh tế-xã hội, xố
đói giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hố,… góp phần củng cố khối đại
đồn kết tồn dân tộc, cùng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nhưng, trong suốt chiều dài lịch sử tín ngưỡng, tơn giáo, ln là một
vấn đề nhạy cảm. Trong tình hình hiện nay, đây là lĩnh vực thường xuyên bị
kẻ xấu và các thế lực thù địch, cơ hội lợi dụng để thực hiện âm mưu “diễn
biến hồ bình” trên mặt trận tư tưởng-văn hoá, chống phá, xuyên tạc đường
lối chủ trương của Đảng về tự do tín ngưỡng, tơn giáo, phá hoại khối đại đoàn
kết dân tộc, cổ suý những hoạt động núp bóng tín ngưỡng, tơn giáo trái pháp
luật…
Để đấu tranh có hiệu quả với mọi hoạt động núp bóng và lợi dụng tín
ngưỡng, tơn giáo trái với pháp luật, bên cạnh việc nâng cao chất lượng công
tác tuyên truyền liên quan đến chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về
tín ngưỡng, tơn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng, rất cần tiếp tục nghiên
cứu làm rõ những giá trị văn hố, đạo đức tốt đẹp cũng như vai trị, đóng góp
của các tơn giáo chính thống-nhân bản, trong đó có Phật giáo vào q trình
phát triển của đất nước.
Với lịch sử hơn 2000 năm, Phật giáo đã hội nhập và đồng hành như
một thành tố không thể chia cắt trong đời sống văn hoá- xã hội của người dân
Việt Nam. Thể hiện trên một số khía cạnh nổi bật mang đậm bản sắc văn hoá
Việt Nam như sau:
Phật giáo đề cao giá trị con người, hướng thiện, xây dựng xã hội an
bình.
24
24
Thực tế nói rằng Phật giáo Việt Nam đều khẳng định vị trí tối cao của
con người. Thiền sư Vạn Hạnh từng nói: “Nhậm vận thịnh suy vơ bố .
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô” (Khéo léo vận dụng quy luật thịnh suy thì
khơng cịn sợ hãi, thịnh suy mong manh như hạt sương trên đầu ngọn cỏ).
Trước khi nhập Niết bàn, Phật đã từng khuyên học trò phải dựa vào bản thân
mình, lấy mình làm ngọn đèn, tự thắp đuốc lên mà đi. Nhìn lại, lịch sử Phật
giáo Việt Nam, Trần Thái Tông- nhà Phật học lỗi lạc đã khẳng định bản chất
con người là thánh thiện, mỗi người nếu biết dụng tâm tu tập đều có thể làm
cho Phật tánh hiển lộ nghĩa là thành Phật không xem nhẹ trí tuệ học hỏi và trí
tuệ tư duy, mà sách Phật thường gọi là văn tuệ (học hỏi mà biết) và tư tuệ (tư
duy mà biết).
Việc Phật giáo luôn đề cao tư duy khả năng độc lập của con người,
chính là nhằm hướng mỗi người biết tự chọn cho mình phương châm hành
động đúng lẽ phải, phân biệt chính/tà, thiện/ác, biết cần phải làm gì trong
cuộc sống vốn đầy biến động, xây dựng một xã hội an bình.
Trí tuệ của Phật giáo là khuyến khích chính sách, biết tự khai thác năng
lực nội sinh của mình để nỗ lực vươn lên, xây dựng hướng đi cho bản thân
trong hoạt động thực tiễn. Bởi, nếu khơng có lý trí, khơng có khả năng tư duy
“tuỳ biến”, con người sẽ bất lực và dễ dàng gục ngã trước những tác động
phức tạp, biến động của cuộc sống, nhất là trong thời kỳ hội nhập. Phật giáo
biện tâm và hướng nội giúp con người có được nội tâm n bình, trong sáng
để duy trì cuộc sống bình ổn, hồ đồng và có trách nhiệm trong xã hội hiện
đại.
Hướng nội là để cân bằng với hướng ngoại. Vì vậy, tâm lý học Phật
giáo góp phần điều chỉnh tình trạng mất cân bằng của con người hiện đại.
Những xu thế hướng nội của Phật giáo Việt Nam cịn có một cội rễ sau xa:
đúng/sai và chân lý không phải do khách quan đưa lại, mà là xuất phát từ bên
trong mỗi người.
25
25