Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

TL CNXHKH lý luận về thời kỳ quá độ và tính tất yếu, đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xă hội ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.81 KB, 22 trang )

MỤC LỤC


2

I. MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài nghiên cứu
Trước đây, khi cịn Liên Xơ và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thế
giới thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dường như khơng có gì
phải bàn, nó mặc nhiên coi như đã được khẳng định. Nhưng từ sau khi mơ
hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu sụp đổ, cách mạng
thế giới lâm vào thối trào thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội lại được đặt ra và
trở thành tâm điểm thu hút mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt. Các
thế lực chống cộng thừa cơ dấn tới để xuyên tạc, chống phá. Họ cho rằng
chúng ta đã chọn đường sai, cần phải đi con đường khác. Đây là vấn đề nhức
nhối cần được quan tâm và nghiên cứu.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu để thấy được có phải Việt Nam chúng ta đã
chọn con đường đi sai khơng.Thực tế có phải như vậy khơng. Để hiểu rõ hơn
vấn đề này cần phải phân tích tính tất yếu của việc chọn con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam và những đặc
điểm cơ bản của thời kì đi lên chủ nghĩa xã hội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Lý luận về thời kì q độ và tính tất yếu, đặc
điểm của thời kì đi lên chủ nghĩa xã hội
Phạm vi nghiên cứu: ở Việt Nam trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng phương pháp luận biện chứng


duy vật với các phương pháp như: thống nhất lơgic và lịch sử, phân tích, tổng
hợp, khái quat hóa và hệ thống hóa.
5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài


3

Việc nghiên cứu và tìm hiểu có ý nghĩa vơ cùng quan trọng, giúp ta
nắm dược kiến thức cơ bản những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về
chủ nghĩa xã hội, thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam và sự vận dụng sáng
tạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Qua đó có niềm tin vào chế độ xã hội chủ
nghĩa, luôn tin và ủng hộ đường lối đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.


4

II. NỘI DUNG
Phần 1. Phần lý luận
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu
sắc toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm thực hiện sự chuyển biến
từ xã hội cũ sang xã hội mới – xã hội chủ nghĩa. Giai cấp cơng nhân và chính
đảng của nó muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội với tư cách là một
chế độ ưu việt, tốt đẹp hơn chủ nghĩa tư bản thì tất yếu phải trải qua thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
1.1. Định nghĩa thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội

Ngay trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa
ra một luận điểm có thể được coi là nguyên tắc duy vật lịch sử, đặt nền móng
xác định nội hàm cũng như ngoại diên của khái niệm thời kì quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản” khi các ông khẳng định rằng:… mỗi thế
hệ đều khai thác những vật liệu, những tư bản những lực lượng sản xuất do tất
cả các thế hệ trước để lại; do đó mỗi thế hệ một mặt tiếp tục cái hoạt động
được truyền lại, trong hoàn cảnh đã thay đổi, mặt khác, lại biến đổi những
hoàn cảnh cũ bằn một hoạt động hoàn toàn thay đổi”. Trên cơ sở luận điểm
này, trong các tác phẩm sau đó, C.Mác và Ph.Ăngghen tiếp tục luận chứng
cho những vấn đề liên quan đến quan niệm của các ông về sự phủ định luận
chứng của chủ nghĩa cộng sản đối với chủ nghĩa tư bản. Nếu như Tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản được coi là sự phát triển củng cố luận điểm duy vật lịch
sử được khởi thảo trong Hệ tư tưởng Đức , khi các ông cho rằng trong giai
ddoannj thứ hai của tiến trình cách mạng, giai cấp vơ sản phải sử dụng quyền
lực nhà nước của mình, tước đoạt lấy toàn bộ tư bản… đẻ phát triển thật mạnh
lực lượng sản xuất, điểm khởi đầu của quá trình ấy là giành chính quyền thì


5

đến nhiều tác phẩm sau đó, nhất là đến Phê phán Cương lĩnh Goota, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã hoàn thành cơ bản lý luận về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa cộng sản. Trong tác phẩm này, C.Mác trình bày một cách
cơ bản quan niệm của mình về nội hàm của khái niệm ấy, theo ba điểm căn
bản: thứ nhất, thắng lợi của cách mạng vô sản, giành chính quyền về tay giai
cấp cong nhân là mở đầu cho một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, có rính
chất q độ trên tất cả lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội; thứ hai, những cải
biến cách mạng sâu sắc có tính chất q độ ấy được diễn ra do tác động của
nhà nước chun chính vơ sản; thứ ba, trong thời kỳ ấy luôn tồn tại đan xen
sự chuyển biến phức tạp giữa cái cũ và cái mới, cái lạc hậu và cái tiến bộ…

Điều đó làm nên tính khó khăn, phức tạp của sự chuyển biến, sự quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản.
Trong những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử mới vào những năm cuối
thế kỷ XIX, nhất là những năm đầu thế kỷ XX của châu Âu và của nước
Nga…, V.I.Lênin đã tiếp tục bảo vệ, phát triển sáng tạo quan niệm của C.Mác
và Ph.Ăngghen về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản.
Những nội dung cơ bản mà V.I.Lênnin tiếp tục sáng tạo, bổ sung vào lý luận
ấy được thể hiện tập trung trong nhiều tác phẩm (Nhà nước và cách mạng,
Kinh tế và chính trị trong thời đại chun chính vơ sản, Những nhiệm vụ
trước mắt của chính quyền xơviết, àn về thuế lương thực…) và được thể hiện
tập trung vào các vấn đề: thứ nhất, V.I.Lênin nêu ra và luận chứng cho khái
niệm “ thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chhur nghĩa xã hội”; thứ hai,
luận chứng và phát triển của các quan niệm về bản chất, sự tồn tại, phát triển,
vai trị của nó đối với những chuyển biến có tính chất quá độ như là nội dung
chính trị chủ yếu của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội;
thứ ba, tính tất yếu khách quan và các đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ
lịch sử cần thiết để giai cấp cơng nhân sử dụng chính quyền, tác động và hoàn


6

thành về văn bản toàn bộ sự chuyển biến, quá độ từ các yếu tố, các tiền đề cịn
mang tính chất tư bản chủ nghĩa từng bước quá độ ( chuyển biến) trở thành
các yếu tố, các tiền đề xã hội chủ nghĩa, trên mọi lĩnh vực cơ bản của đời sống
xã hội. Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội được tính từ
khi giai cấp cơng nhân giành được chính quyền cho đến khi xây dựng xong cơ
chế vật chất – kỹ thuật và những quan hệ xã hội căn bản của chủ nghĩa xã hội.
1.2. các hình thức quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội

Trên cơ sở kế thừa các quan niệm cơ bản của C.Mác và Ph.Ăngghen,
phân tích tình hình cách mạng Nga và cách mạng thế giới, V.I.Leenin đã luận
chứng cho ba hình thức (kiểu) quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội, tương ứng với ba loại hình nhà nước khác nhau về trình độ phát triển:
Thứ nhất, quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội từ các quốc
gia tư bản phát triển cao;
Thứ hai, quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội từ các quốc
gia có trình độ tư bản chủ nghĩa trung bình hoặc thấp;
Thứ tư, quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội từ các quốc gia
tiền tư bản chủ nghĩa.
Đây là các kiểu (hình thức) khác nhau của một q trình chuyển biến có
quy luật: phải trải qua một cuộc cách mạng có ý thức của giai cấp công nhân
và nhất thiết không được bỏ qua các bước đi, nhiệm vụ lịch sử cần thiết cho
sự quá độ, mà chỉ có thể rút ngắn các bước đi, rút ngắn thời gian thực hiện các
nhiệm vụ đó mà thơi.
Ba hinh thức q độ trên đây được coi như những kiểu, dạng hay hình
thức khác nhau của những luận điểm cơ bản, thống nhất về đặc điểm, điều
kiện của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội được C.Mác
và Ph.Ăngghen đặt nền móng, được V.I.Lênin phát triển sáng tạo, làm đầy đủ
hơn lý luận về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, về sự phân kỳ
của hình thái kinh tê – xã hội ấy.


7

2. Tính tất yếu của sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa ở Việt Nam
Sự phát triển của xã hội loài người là một q trình lịch sử tự nhiên. Đó
là sự biến đổi và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Nghiên cứu tiến trình vận động của lịch sử,

các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác khẳng định, phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa chắc chắn sẽ bị thay thế bằng phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
Đó là một quy luật khách quan của lịch sự và thời đại ngày nay chính là thời
kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản. Thấm nhuần quan điểm
của chủ nghĩa Mác, Đảng ta khẳng định: "Theo quy luật tiến hóa của lịch sử,
loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội"
Thời kỳ quá độ là thời kỳ lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi lên chủ
nghĩa xã hội cũng đều phải trải qua, ngay cả đối với những nước đã có nền
kinh tế rất phát triển. Bởi lẽ, ở các nước này, tuy lực lượng sản xuất đã phát
triển cao, nhưng vẫn còn cần phải cải tạo và xây dựng quan hệ xản xuất mới,
xây dựng nền văn hóa mới. Dĩ nhiên, đối với những nước thc loại này, thời
kỳ q độ về khách quan có nhiều thuận lợi hơn. Đối với nước ta, một nước đi
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản, thì lại càng phải trải qua một thời
kì quá độ lâu dài.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu lịch sử đối với nước ta bởi
vì:
Thực tiễn đã khẳng địnhchủ nghĩa tư bản là một chế độ xã hội đã lỗi
thời, sớm hay muộn cũng phải được thay băng hình thái kinh tế - xã hội cao
hownn mà giai doạnđầu là chủ nghĩa xã hội. Cho dù hiện nay, với những cố
gắng thích nghi với tình hình mới, chủ nghĩa tư bản vẫn đang có những thành
tựu phát triển, nhưng vẫn không ra khỏi giới hạn của nó. Chủ nghĩa tư bản
khơng cịn là tương lai của nhân loại.
Cách mạng Việt Nam phát triển theo con đường độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội. Nhờ đi con đường ấy, nhân dân ta đã làm Cách


8

mạng Tháng tám thành công, đã tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến,
hồn thành sự nghiêp giải phóng dân tộc. Ngày nay, chỉ có đi lên chủ nghĩa

xã hội mới dữ vững được độc lập, tự do cho dân tộc,mới thực hiện được mục
tiêu mội người dân được ấm no, tự do, hạnh phúc.
Thứ nhất, căn cứ vào quan điểm của Chủ nghĩa Mác –Lênin cho rằng, ở
những nước nghèo nàn lạc hậu, chậm phát triển về kinh tế vẫn có khả năng
tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội mà không phải trải qua chế độ tư bản chủ
nghĩa.
Thứ hai, căn cứ vào xu thế phát triển của thời đại ngày nay là thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới,
mở đầu bằng cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại. Đó
cũng là thời đại độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nên nhiều nước
đã đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa như Trung Quốc,
Việt Nam, Cu Ba, Triều Tiên, Lào…
Thứ ba, căn cứ vào điều kiện lịch sử của cách mạng nước ta, trong quá
trình phát triển của cách mạng Việt Nam, con đường quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản trước hết là sự lựa chọn của chính Đảng ta: Ngay từ
“Cương lĩnh chính trị năm 1930” đến “ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” được trình bày ở Đại hội VII năm 1991,
Đảng ta đều thể hiện bản lĩnh chính trị về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Cùng với sự lựa chọn của Đảng ta là sự lựa chọn của chính nhân dân
lao động nước ta khi theo Đảng làm cách mạng là muốn có cuộc đời ấm no,
hạnh phúc. Sự lựa chọn như vậy là tất yếu cho sự phát triển của dân tộc, chứ
khơng cịn con đường nào khác.
Hiện nay, mặc dù trước mắt, chủ nghĩa tư bản cịn có tiềm năng phát
triển về kinh tế, chủ nghĩa xã hội hiện thực sụp đỗ ở Liên Xô và Đông Âu,
nhưng Đảng ta vẫn khẳng định đi lên chủ nghĩa xã hội, đó là con đường duy
nhất đúng đắn. Chủ nghĩa xã hội vẫn là khuynh hướng phát triển khách quan


9


của thời đại. Nó khơng chỉ là lý tưởng mà là hiện thực sinh động trong quá
trình phát triển của cách mạng Việt Nam.
3. Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và những thành tựu về lý
luận cũng như thực tiễn có được trong quá trình lãnh đạo xây dựng CNXH ở
nước ta mấy chục năm qua, nhất là trong 25 năm đổi mới, tại Đại hội XI,
Đảng ta đã chỉ rõ đi lên CNXH ở nước ta “… là một quá trình cách mạng sâu
sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi
về chất trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua
một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức
kinh tế, xã hội đan xen”. Như thế, TKQĐ ở nước ta là một quá trình cách
mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới. Có thể hiểu
cái cũ ở đây không chỉ là những tàn dư của xã hội tiền tư bản mà xã hội ta
mới thoát ra, những di hại của cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp mà xã hội
ta đã trải qua mấy chục năm qua, mà hơn thế, cái cũ ở đây còn là những yếu
tố TBCN đang và sẽ hiện diện trong đời sống kinh tế - xã hội. Những nhân tố
này có thể là mới so với thực trạng xã hội ta (chẳng hạn như sở hữu tư nhân,
kinh tế thị trường...) nhưng lại là cũ so với những nhân tố XHCN mà chúng ta
đang xây dựng. Đặc biệt cần hiểu, sự biến đổi về chất mà Đảng ta đề cập ở
đây là sự biến đổi mang tính bản chất, căn bản, toàn diện khác với sự biến đổi
về lượng, biến đổi của từng bộ phận, mang tính cục bộ. Điều này có nghĩa là
trong TKQĐ, ở nước ta sẽ diễn ra sự biến đổi mang tính bản chất, căn bản và
tồn diện ở tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; và q trình đó phải diễn
ra lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội
đan xen. Đó là do xuất phát điểm của nước ta thấp và xã hội ta cũng chưa trải
qua giai đoạn phát triển TBCN, vì vậy, thời kỳ quá độ phải diễn ra lâu dài là
một tất yếu lịch sử.
Có thể khẳng định, khi bước vào TKQĐ, chúng ta gặp rất nhiều khó
khăn. Đó là do, đất nước ta mới trải qua hai cuộc chiến tranh nên mọi lĩnh vực



10

của đời sống xã hội đều bị tàn phá, chưa qua thời kỳ phát triển TBCN nên hầu
như chưa có những tiền đề thực tiễn cơ bản cho sự ra đời của CNXH, hệ
thống CNXH thế giới tan rã và phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
đang tạm thời thối trào. Bên cạnh đó, “các thế lực thù địch tiếp tục chống
phá, tìm cách xóa bỏ chủ nghĩa xã hội”. Trong bối cảnh đó, Đảng ta vẫn
khẳng định “Chúng ta có nhiều thuận lợi cơ bản: có sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, có
bản lĩnh chính trị vững vàng và dày dặn kinh nghiệm lãnh đạo; dân tộc ta là
một dân tộc anh hùng, nhân dân ta có lịng u nước nồng nàn, có truyền
thống đồn kết và nhân ái, cần cù lao động và sáng tạo, luôn ủng hộ và tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; chúng ta đã từng bước xây dựng được
những cơ sở vật chất - kỹ thuật rất quan trọng; cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại, sự hình thành và phát triển kinh tế tri thức cùng với q
trình tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế là một thời cơ để phát triển”.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua ché độ tư bản chủ nghĩa.
Đây là đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nó cho
thấy nước ta khơng phải từ nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa sẵn có mà từ
nền sản xuất thấp kém, quy mô nhỏ là chủ yếu đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong
thời kỳ này, nhà nước xã hội chủ nghĩa cùng với giai cấp công nhân và nhân
dân lao động tự đảm đương nhiệm vụ phát triển lực lượng sản xuất tương ứng
làm cơ sở hiện thực cho chủ nghĩa xa hội.
Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa khơng có nghĩa là “đốt cháy giai đoạn,
mà theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam là: “… bỏ qua việc xác lập
vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa,
nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế
độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh
lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”.

Điều này nghĩa là: chỉ bỏ qua vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và
kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa; không được bỏ qua mà trái lại phải


11

trên cơ sở kế thừa để thực hiện các quy luật phát triển của lực lượng sản xuất
và các quy luật của kinh tết thị trường với tư cách là sản phẩm nền văn minh
mà nhân loại đã sáng tạo ra trong chủ nghĩa tư bản; bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa còn được hiểu là phải rút ngắn đáng kể về mặt thời gian xây dựng kinh
tế hiện đại ở nước ta.
Muốn vậy, địi hỏi phải biết tìm ra nhiều hình thức kinh tế quá độ, trung
gian; phải có nhiều lao động trí tuệ; phải lấy tốc độ thay cho thời gian làm
thước đo sự phát triển; phải có một chính phủ thơng minh và hết mực trung
thành với “ mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Trên cơ sở những luận điểm có tính ngun tắc của chủ nghĩa Mác –
Lênin về quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của xã
hội Việt Nam vào thập kỷ 30 của thế kỷ XX cho đến nay, cho phép chúng ta
khẳng định: quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự lựa chọn đúng đắn,
phù hợp với thực tế lịch sử.
Trên thực tế, chúng ta đã tạo lập được điều kiện chính trị tiên quyết thực
hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo con đường phát triển không qua chế độ
tư bản chủ nghĩa.
Hiện nay, chúng ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, trong xu thế tồn cầu hóa kinh tế, khoa học - cơng
nghệ. Bối cảnh đó tạo ra cơ hội to lớn để chúng ta có thể đi tắt, đón đầu đẩy
nhanh q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, bối cảnh thế giới ngày nay
cũng tạo ra những thách thức vô cùng to lớn đối với các nước đang phát triển,

trong đó có Việt Nam. Do đó, điều căn bản là chúng ta phải có đường lối đúng
đắn, linh hoạt để phát huy ý chí tự lực, tự cường, khai thác mọi tiềm năng về
vật chất và tinh thần của dân tộc, vượt qua thách thức để xây dựng nước ta
thành nước công ghiệp.


12

Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu,
kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực ượng sản
xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Xây dựng chủ nghĩa xã hội trên tất cả các
lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp cho nên phải trải qua một thời kỳ
quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế - xã
hội có tính chất q độ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan
xen, đấu tranh giữa cái mới và cái cũ.


13

Phần 2. Phần liên hệ thực tế và bản thân
2.1. Thành tựu Việt Nam đạt được trong thời kì quá độ lên CNXH
trong năm gần đây
Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, nắm bắt thuận lợi, thời cơ, vượt qua khó
khăn, thách thức, nhất là tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng, suy thối
kinh tế tồn cầu do đại dịch COVID-19; toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã
đoàn kết, chung sức, đồng lòng nỗ lực phấn đấu, thực hiện thắng lợi các mục
tiêu, nhiệm vụ, đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện, tạo

nhiều dấu ấn nổi bật. Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm sốt, tăng
trưởng được duy trì ở mức khá cao; tiềm lực, quy mô và sức cạnh tranh của
nền kinh tế được nâng lên. Các lĩnh vực xã hội, môi trường có nhiều tiến bộ.
Đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể. Công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng và xây dựng hệ thống chính trị được đặc biệt chú trọng, triển khai tồn
diện, đồng bộ, hiệu quả. Cơng tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật và đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực chuyển biến mạnh mẽ, có bước
đột phá gắn kết chặt chẽ giữa "xây" và "chống", có hiệu quả, ngày càng đi vào
chiều sâu. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không ngừng
được củng cố vững mạnh. Công tác lãnh đạo của Đảng với Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội được tăng cường, mối
quan hệ phối hợp ngày càng chặt chẽ, đồng bộ. Chính trị - xã hội ổn định;
quốc phịng, an ninh khơng ngừng được củng cố, kiên quyết, kiên trì giữ vững
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc;
quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và hiệu quả; vị thế,
uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Đặc biệt, trong năm
2020, đại dịch COVID-19 gây ra nhiều thiệt hại về kinh tế - xã hội, song nhờ
phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, sự ưu việt của chế độ xã
hội chủ nghĩa, sự tham gia đồng bộ, quyết liệt của cả hệ thống chính trị dưới
sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự đồng lòng ủng hộ của nhân dân, đất nước
ta đã từng bước kiểm soát có hiệu quả đại dịch COVID-19; từng bước phục


14

hồi sản xuất, kinh doanh và các hoạt động kinh tế - xã hội; ổn định đời sống
nhân dân; góp phần củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng,
Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; khẳng định bản lĩnh, ý chí, truyền
thống tốt đẹp của nhân dân ta, dân tộc ta.
Những thành tựu đạt được 5 năm qua là kết tinh sức sáng tạo của q

trình phấn đấu liên tục, bền bỉ của tồn Đảng, toàn dân và toàn quân ta qua
nhiều nhiệm kỳ đại hội, góp phần tạo nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử của nước ta qua 35 năm đổi mới. Đạt được những thành tựu nêu trên
có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân bao trùm và quan trọng nhất là sự
đoàn kết, thống nhất, sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, kịp thời, có hiệu quả của
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp uỷ đảng
trong việc triển khai thực hiện toàn diện, đồng bộ Nghị quyết Đại hội lần thứ
XII, giải quyết kịp thời, có hiệu quả nhiều vấn đề mới nảy sinh trong thực
tiễn; sự quản lý, điều hành quyết liệt của Chính phủ và chính quyền các cấp;
sự nỗ lực đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Quốc hội và Hội
đồng nhân dân các cấp; sự tham gia tích cực và có hiệu quả của Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; sự phối hợp đồng bộ của cả hệ thống
chính trị; sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên; tinh thần lao động tích cực,
cần cù, sáng tạo, trách nhiệm của cộng đồng doanh nghiệp và các tầng lớp
nhân dân; sự ủng hộ của bạn bè quốc tế.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc hoàn thiện thể chế, đổi mới
mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, cơng nghiệp hố, hiện đại hố
cịn chậm, chưa tạo được chuyển biến căn bản; năng suất, chất lượng, hiệu
quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao. Giáo dục và đào tạo, khoa
học và công nghệ chưa trở thành động lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội. Lĩnh vực văn hoá, xã hội chưa có nhiều đột phá, hiệu quả chưa
cao; đời sống của một bộ phận nhân dân cịn khó khăn. Quản lý tài nguyên,
bảo vệ môi trường và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu cịn bất cập.
Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn chế. Sức


15

mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa có lúc, có nơi
chưa được quan tâm phát huy đầy đủ. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa Việt Nam có mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội và quản lý đất nước trong tình hình mới. Cơng tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng còn một số hạn chế.
Mười năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) và thực
hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020 đã tạo những
tiến bộ quan trọng cả về nhận thức lý luận và tổ chức thực hiện, khẳng định
những giá trị to lớn của Cương lĩnh, tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới
của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo. Kinh tế, văn hố, xã hội tiếp tục phát triển,
quốc phịng, an ninh, đối ngoại được tăng cường, đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, kinh tế - xã hội phát triển
chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của đất nước và cịn nhiều khó khăn,
thách thức. Một số chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020 và việc tạo nền tảng để đưa nước ta
cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa đạt được mục
tiêu đề ra. Công cuộc đổi mới và tình hình quốc tế tiếp tục đặt ra nhiều vấn đề
về lý luận và thực tiễn cần phải tập trung giải quyết để đưa đất nước phát triển
nhanh và bền vững hơn theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là việc nhận
thức, giải quyết đúng, hiệu quả các mối quan hệ lớn.

Nhìn lại 35 năm thực

hiện cơng cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991), lý luận về
đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hoá. Đất nước
đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ,
toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mơ, trình độ nền kinh tế được
nâng lên. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt cả về vật chất và tinh thần.
Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như
ngày nay. Những thành tựu của 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm



16

thực hiện Cương lĩnh năm 1991, đặc biệt, trong 10 năm thực hiện Cương lĩnh
(bổ sung, phát triển năm 2011) đã tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát
triển của thời đại; sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết
định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong bối cảnh tình hình thế giới có
nhiều biến động nhanh, phức tạp, Cương lĩnh của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư
tưởng, ngọn cờ chiến đấu, ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
phấn đấu vì một nước Việt Nam "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng,
văn minh".
Trong những năm tới, tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi,
thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu
mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; địi
hỏi tồn Đảng, tồn dân, tồn qn ta phải đồn kết một lòng; tiếp tục đổi mới
mạnh mẽ tư duy; có quyết tâm chính trị cao; dự báo chính xác, kịp thời diễn
biến của tình hình; chủ động ứng phó kịp thời với mọi tình huống; nỗ lực hơn
nữa để tiếp tục đẩy mạnh tồn diện, đồng bộ cơng cuộc đổi mới; không ngừng
gia tăng tiềm lực mọi mặt của quốc gia, bảo vệ vững chắc Tổ quốc và những
thành quả phát triển đã đạt được; đưa đất nước vững bước tiến lên, phát triển
nhanh và bền vững; quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu và nhiệm vụ trọng
tâm sau:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định mục tiêu
tổng quát là nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến
đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh
toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà
nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết

hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ cơng cuộc đổi mới,
cơng nghiệp hố, hiện đại hố; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ


17

vững mơi trường hồ bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta
trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XII:
1) Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị tồn diện, trong sạch, vững
mạnh. Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Xây dựng tổ
chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí,
tiêu cực, "lợi ích nhóm", những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá"
trong nội bộ. Xây dựng đội ngũ đảng viên và cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến
lược, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
Củng cố lịng tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội
chủ nghĩa.
(2) Tập trung kiểm soát đại dịch COVID-19, tiêm chủng đại trà vắc-xin
COVID-19 cho cộng đồng; phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới mạnh
mẽ mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ
thể chế phát triển phù hợp với nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội
nhập; phát triển đồng bộ và tạo ra sự liên kết giữa các khu vực, các vùng, các
thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất kinh doanh; có chính sách hỗ trợ
hiệu quả doanh nghiệp trong nông nghiệp; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển
giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là
những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thực hiện
chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, nâng cao năng suất, chất lượng,
hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu

quả các nguồn lực, tạo động lực để phát triển kinh tế nhanh và bền vững; hoàn
thiện hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật về bảo hộ sở hữu trí tuệ và giải
quyết các tranh chấp dân sự, khắc phục những điểm nghẽn cản trở sự phát
triển của đất nước.


18

(3) Giữ vững độc lập, tự chủ, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an
ninh, xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, tạo
tiền đề vững chắc phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Cơng an
nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; kiên quyết, kiên trì bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo,
vùng trời; giữ vững mơi trường hồ bình, ổn định để phát triển đất nước.
(4) Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát
huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế; có chính sách cụ thể phát triển văn hố
đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an ninh xã
hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã
hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và
chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam.
(5) Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm
phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân;
đồng thời xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong
sạch, vững mạnh; cải cách tư pháp, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương
xã hội, trước hết là sự gương mẫu tuân theo pháp luật, thực hành dân chủ xã
hội chủ nghĩa của cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và tổ chức chính trị - xã hội các cấp, của cán bộ, đảng viên; tăng cường

đại đoàn kết toàn dân tộc.
(6) Quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài nguyên; bảo
vệ, cải thiện mơi trường; chủ động, tích cực triển khai các giải pháp thích ứng
với biến đổi khí hậu, thiên tai khắc nghiệt.
Việt Nam được đánh giá là 1 trong 10 quốc gia có nhịp độ phát triển
kinh tế cao nhất trên thế giới trong năm 2020, duy trì mức tăng trưởng GDP


19

trong 5 năm qua ở mức 5,8%. Lĩnh vực văn hóa- xã hội, y tế, giáo dục, khoa
học, cơng nghệ tiếp tục phát triển và có tiến bộ trong nhiều mặt, như xóa
nghèo cho người dân, số lượng hộ nghèo giảm từ 10% trong năm 2015 xuống
còn 3% trong năm 2020. Quan hệ ngoại giao và hội nhập quốc tế đạt được
thành cơng quan trọng, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế và khu vực.
Như vậy, mơ hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày
càng được xác định rõ ràng hơn và ngày càng được hiện thực hóa trong cuộc
sống.
2.2. Liên hệ bản thân
Trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
Đảng và Nhà nước ta ln đánh giá rất cao vai trị của thanh niên trong cơng
cuộc góp phần xây dựng, phát huy truyền thống anh hùng của dân tộc, đồng
thời vận động thế hệ thanh niên tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Song để thực hiện hiệu quả thì trong mỗi chúng ta cần phải nhận
thức được rõ trách nhiệm của bản thân. Là sinh viên cần phải chăm chỉ, sáng
tạo, học tập, lao động; có mục đích, động cơ học tập đúng đắn. Tích cực học
tập, rèn luyện thân thể, bảo vệ sức khỏe, rèn luyện đạo đức, tác phong; lối
sống trong sáng, tránh xa các tệ nạn nạn xã hội; biết đấu tranh chống các biểu
hiện của lối sống lai căng, thực dụng, xa rời các giá trị văn hóa – đạo đức

truền thống dân tộc. Tích cực tham gia góp phần xây dựng q hương bằng
nghững việc làm thiết thực, phù hợp với khả năng của bản thân như: tham gia
bảo vệ mơi trường, phịng chống tệ nạn xã hội, xóa đói giảm nghèo, chống
tiêu cực, tham nhũng, tham gia những hoạt động mang tính xã hội như hiến
máu tình nguyện, làm tình nguyện viên.
Trung thành với Tổ quốc, với chế độ xã hội chủ nghĩa, cảnh giác tước
âm mưu chia rẽ, xuyên tạc của các thế lực thù địch; phê phán đấu tranh với


20

những thái độ, việc làm gây tổn hại đến an ninh quốc gia, xâm phạm chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Bản thân mỗi người ln có lịng tự hào về con người, quê hương, đất
nước, anh hùng hào kiệt, danh nhân văn hóa, về non sơng gấm vóc, những sản
vật phong phú
Cần cù và sáng tạo trong lao động để xây dựng và phát triển nền văn
hóa dân tộc và xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp. Vận động bạn bè,
người thân thực hiện tốt nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc.

III. KẾT LUẬN
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, từ quan
điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đến thực tiễn thế giới hiện
nay, đã, đang và sẽ tiếp tục là vấn đề thu hút sự quan tâm của các chính đảng,
các nhà nghiên cứu thuộc những xu hướng chính trị khác nhau. Với Việt Nam,
khẳng định tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa
quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở nước ta
hiện nay.
Tóm lại, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ lịch sử tất
yếu trên con đường phát triển của hình thái kinh tế - xã hội.

Tính đặc thù thể hiện ở nghững bước đi, hình thức, nhịp độ, ở con
đường phát triển… giữa các nước khơng hồn tồn giống nhau. Do đó hơn bất
kỳ thời kỳ nào, trong thời kỳ quá độ các dảng cộng sản phải vận dụng một
cách linh hoạt, sáng tạo các quy luật chung, nguyên lý chung vào hồn cảnh
cụ thể của nước mình, dân tộc mình.


21

Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là
thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa , hiện đại hóa, giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo kém, phát triển;
thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và
khắc phục những tư tưởng, hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại
mọi âm mưu và hành động chống phá của thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân
tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân
hạnh phúc.


22

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam hệ, hệ thống tư liệu – văn kiện Đảng
2. Báo điện tử chính phủ
3. Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, nhà xuất bản chính trị - hành chính Hà

Nội – 2012
4. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam,
Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2001, tr.84
5. An Như Hải. Hỏi – đáp mơn kinh tế chính trị Mác – Lênin. Đại học quốc gia

Hà Nội. 2007
6. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI,
Nxb.Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2011
7. Nguyễn Linh Khiếu. Qúa độ lên chủ nghĩa xã hội theo tinh thần Đại hội XI
của Đảng. Tạp chí cộng sản, 2011
8. C.Mác và Ăngghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1995,t.3, tr.65.



×