Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

TL quá trình hình thành và phát triển tư tưởng hồ chí minh về giáo dục giai đoạn năm 1890 đến năm 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.88 KB, 27 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Nói về Hồ Chí Minh, Người được biết đến là một trong số ít nhân vật
trong lịch sử đã trở thành một huyền thoại ngay từ khi còn sống. Người là
hiện thân đầy đủ nhất, cao đẹp nhất của tấm gương đạo đức cách mạng theo ý
nghĩa và nội dung sâu rộng. Cuộc đời của Hồ Chí Minh; phong cách sống, lao
động, học tập, tâm hồn, trí tuệ và nghị lực của Người tiêu biểu chơ tinh hoa,
khí phách dân tộc Việt Nam.
Trong suốt cuộc đời hoạt động, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những
cống hiến to lớn đối với cách mạng Việt Nam. Trong những cống hiến to lớn
đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo đã tạo nền tảng cho sự
nghiệp xây dựng và kiến thiết nền giáo dục nước nhà. Người đã có những chỉ
dẫn hết sức quý báu về mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung và phương pháp giáo
dục... nhằm phát triển một nền giáo dục tồn diện. Những chỉ dẫn đó khơng
chỉ có giá trị trực tiếp chỉ đạo công tác giáo dục của đất nước thời đó, mà vẫn
cịn ngun giá trị định hướng, soi đường cho công cuộc đổi mới căn bản và
toàn diện giáo dục, đào tạo của nước ta hiện nay.
Để hình thành hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và trong đó
có tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác – Lênin, tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại, đặc biệt là kinh
nghiệm hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Đề tại này tập trung nghiên cứu
và làm rõ quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục giai đoạn năm 1890 đến năm 1945.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài: Trên cơ sở từ những quan điểm của
Hồ Chí Minh về giáo dục, q trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh nói


chung để làm rõ quá trình hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
trong giai đoạn năm 1890 đến năm 1945


3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích đã đã ra, đề tài phải giải
quyết những nhiệm vụ sau:
- Trình bày được một vài khái niệm cơ bản về giáo dục, tư tưởng Hồ
Chí Minh về giáo dục, nhận định rõ vai trị của giáo dục theo Tư tưởng Hồ
Chí Minh
- Tổng kết, làm rõ quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục trong giai đoạn năm 1890 đến năm 1945
4. Phương pháp, đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
4.1. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên việc sự dụng kết hợp các phương pháp
như nghiên cứu tài liệu; phân tích và tổng hợp lí thuyết; phương pháp quan sát
khoa học; phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm,…
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quá trình hình thành và phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh về Giáo Dục giai đoạn năm 1890 đến năm 1945.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi:
- Phạm vi nghiên cứu thời gian: Năm 1890 đến năm 1945

2


CHƯƠNG 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ
LUẬN

1.1. Khái niệm về Giáo Dục
Về cụm từ “giáo dục” hiện nay có rất nhiều khái niệm khác nhau được
làm rõ từ những phương diện khác nhau.

Giáo dục (tiếng Anh: education) theo nghĩa chung là hình thức học tập
theo đó kiến thức, kỹ năng, và thói quen của một nhóm người được trao
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua giảng dạy, đào tạo,
hay nghiên cứu. Giáo dục thường diễn ra dưới sự hướng dẫn của người khác,
nhưng cũng có thể thơng qua tự học. Bất cứ trải nghiệm nào có ảnh hưởng
đáng kể lên cách mà người ta suy nghĩ, cảm nhận, hay hành động đều có thể
được xem là có tính giáo dục. Giáo dục thường được chia thành các giai đoạn
như giáo dục tuổi ấu thơ, giáo dục tiểu học, giáo dục trung học, và giáo dục
đại học.
Tại Việt Nam, một định nghĩa khác về giáo dục được Giáo sư Hồ Ngọc
Đại đưa ra như sau: Giáo dục là một q trình mà trong đó kiến thức, kỹ
năng và kinh nghiệm của một người hay một nhóm người này được truyền tải
một cách tự nhiên mà không hề áp đặt sang một người hay một nhóm người
khác thơng qua giảng dạy, đào tạo hay nghiên cứu để từ đó tìm ra, khuyến
khích, định hướng và hỗ trợ mỗi cá nhân phát huy tối đa được ưu điểm và sở
thích của bản thân khiến họ trở thành chính mình, qua đó đóng góp được tối
đa năng lực cho xã hội trong khi vẫn thỏa mãn được quan điểm, sở thích và
thế mạnh của bản thân.
Theo Từ điển Tiếng Việt, giáo dục được hiểu như sau:
Giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến

sự

phát
3


triển tinh thần, thể chất của một đối tường nào đó, làm cho đối tượng ấy
dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Giáo Dục

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm và tư tưởng trong sự
nghiệp cách mạng của Bác được Đảng Cộng sản Việt Nam tổng kết, hệ thống
hóa. Hệ thống tư tưởng này bao gồm những quan điểm về những vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến
cách mạng xã hội chủ nghĩa; vận dụng và phát triển Chủ nghĩa Mác - Lênin
vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam bao gồm
những luận điểm sáng tạo liên quan tới nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực
giáo dục. Tư tưởng về giáo dục được Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện không
phải một cách tách rời độc lập mà gắn kết, lồng quyện với các tư tưởng lớn về
giải phóng dân tộc, phát triển con người, xây dựng chủ nghĩa xã hội… Đây là
một đặc điểm có ý nghĩa nền tảng khi phân tích về tư tưởng giáo dục của
Người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục được khái niệm như sau:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là một hệ thống các quan điểm
toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của giáo dục Việt Nam, từ
giáo dục dân chủ nhân dân tiến lên giáo dục xã hội chủ nghĩa. Đó là tư
tưởng về vai trị, ví trí, mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp giáo
dục…

4


1.3. Vai trò của giáo dục theo Tư Tưởng Hồ Chí Minh
Giáo dục theo quan điểm của Hồ Chí Minh sẽ tạo ra tính liên tục của
cách mạng. Với việc nâng cao dân trí, nhân dân sẽ biết quyền lợi, bổn phận,
có kiến thức mới để tham gia vào cơng việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hồ
Chí Minh cho rằng thiện, ác khơng phải là tính sẵn của con người. Giáo dục
tạo ra nhân cách và từng bước hồn thiện con người.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, giáo dục là yếu tố quyết định trực

tiếp nâng cao trình độ học vấn, trình độ khoa học - cả khoa học xã hội và nhân
văn, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật - chuyên môn nghiệp vụ, ngoại
ngữ, trình độ tổ chức quản lý... Giáo dục sẽ giúp cho người học có một vốn
liếng về lịch sử, văn hóa của dân tộc Việt Nam và thế giới, mà nếu khơng có
nó thì sẽ khơng giữ vững được nền độc lập dân tộc, khơng thể tham gia một
cách tích cực và có hiệu quả vào cơng việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Giáo
dục sẽ giúp cho mỗi người dân có kiến thức mới để “biến một nước dốt nát,
cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”.
Nói về vai trị của giáo dục, điều đã được đề cập quá nhiều mà người ta
dễ sa vào những triết lý chung chung, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn có
cách đánh giá riêng với các lập luận của mình. Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, vai
trị của giáo dục thường gắn với sự phân tích khác liên quan tới hoạt động
diễn ra trong cuộc sống. Nhờ vậy, vai trị của giáo dục ln có ý nghĩa thực
tiễn cụ thể. Đó chính là nét sáng tạo trong tư tưởng của Người.
Vai trò của giáo dục được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ là nhằm phát
triển toàn diện con người Việt Nam, một nền giáo dục vì con người, cho con
người và hướng tới việc xây dựng con người mới - con người XHCN. Trong
thư gửi các học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nền giáo dục mới sẽ “đào
tạo các em nên những người cơng dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền
giáo dục làm phát triển hồn tồn những năng lực sẵn có của các em.
5


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên án rất sâu sắc nền giáo dục dưới sự đô hộ
của thực dân Pháp với chính sách ngu dân dễ trị, Người nhấn mạnh: “Phải ra
sức tẩy sạch ảnh hưởng của giáo dục nơ dịch của thực dân cịn sót lại, như:
Thái độ thờ ơ đối với xã hội, xa rời đời sống lao động và đấu tranh của nhân
dân; học để lấy bằng cấp, dạy theo lối nhồi sọ”.
Nền giáo dục mới phải thực hiện dạy và học theo hướng phục vụ Tổ

quốc và nhân dân. Vai trò này được Chủ tịch Hồ Chí Minh diễn đạt là “Học để
làm việc, để làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và
nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”. Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng
việc dạy và học phải xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn cuộc sống. Nói
chuyện tại Đại hội Giáo dục phổ thơng tồn quốc (23/3/1956), Người động
viên các thầy, cơ giáo: “Dạy và học cần phải theo nhu cầu của dân, của Nhà
nước.Thầy dạy tốt, trò học tốt, cung cấp đủ cán bộ cho nông nghiệp, công
nghiệp, cho các ngành kinh tế và văn hóa. Đó là nhiệm vụ vẻ vang của các
thầy giáo, cô giáo”. Trong thư gửi các cháu lưu học sinh Việt Nam học ở Mátxcơ-va (19/7/1955), Người căn dặn: “Các cháu học kỹ thuật và học tiếng Nga
cần nhận rõ mình học cốt để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân”. Về sau,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ rõ vai trị của giáo dục là phát triển
toàn diện con người để giúp đời, phụng sự Tổ quốc và nhân dân.

6


CHƯƠNG 2
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ GIÁO DỤC GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 1945 ĐẾN NĂM 1969

2.1. Giai đoạn 1: Thời kỳ được giáo dục trong gia đình và nhà
trường (1890 – 1911)
Một là, tiếp thu truyền thống văn hóa, giáo dục từ quê hương.
Tuổi thơ ở làng Trù quê mẹ, ở làng Sen cha, Người đã tiếp thu truyền
thống hiếu học của gia đình, cần cù lao động, yêu nước thương dân,tinh thần
hiếu học, lao động cần cù và ý chí kiên cường vượt qua mọi khó khăn thử
thách ở gia đình. Nghệ An - là một vùng đất nghèo nhưng nổi bật với nhiều
truyền thống tốt đẹp như: truyền thống yêu nước, hiếu học, cần cù trong lao
động sản xuất, anh dũng trong chiến đấu. Nghệ An xưa là vùng đất xa kinh
kỳ, nhưng là nơi “địa linh nhân kiệt” từng được người xưa nhận xét “Nghệ An

núi cao, sông sâu, phong tục trọng hậu, cảnh tượng tươi sáng, gọi là đất có
danh tiếng hơn cả ở Nam Châu. Người thì thuận hịa mà chăm học, được khí
tốt của sơng núi, nên sinh ra nhiều bậc danh hiền… Vì thế, truyền thống hiếu
học, tôn sư trọng đạo và khoa bảng của người Nghệ An luôn được nuôi dưỡng
và phát huy sớm. Trong công cuộc đổi mới ngày nay, ngành Giáo dục và Đào
tạo tỉnh Nghệ An đạt được nhiều thành quả vượt bậc, góp phần khơng nhỏ vào
sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và phát triển quê hương, đất nước.
Sự tác động của q hương góp phần hình thành nên nhân cách, tư
tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục nói
riêng.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu được những giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc như chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết, tinh thần nhân ái, tinh
thần lạc quan yêu đời,… Chính những truyền thống đó đã tác động và một
7


phần nào đó hình thành nên nhân cách Hồ Chí Minh. Và đặc biệt là Người đã
hình thành trong mình chủ nghĩa yêu nước và nó đã bám sâu vào con người
Hồ Chí Minh.
Hai là, được tiếp nhận sự giáo dục từ gia đình.
Gia đình Hồ Chí Minh là một gia đình nhà nho yêu nước, nơi ấy chứa
đựng những nét đẹp của gia đình Việt Nam truyền thống, đồng thời lại nó nét
đặc trưng của một gia đình trí thức, gia giáo.
Mỗi thành viên trong gia đình, từ cha mẹ đến anh chị đều có ảnh hưởng
sâu sắc tới nhân cách và suy nghĩ của Hồ Chí minh, đặc biệt là người cha quan Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Nguyễn Sinh Sắc – quê làng Sen, Kim Liên,
Nam Đàn, Nghệ An, xuất thân từ gia đình nơng dân, mồ côi cha mẹ từ nhỏ, là
người thông minh hiếu học, có lịng u nước thương dân sâu sắc, tinh thần
lao động cần cù, có ý chí kiên cường vượt qua mọi khó khăn, gian khổ.
Do cha mẹ mất sớm nên ngay từ nhỏ ông Sắc đã rất chăm chỉ lao động
để giúp đỡ người anh, đồng thời ơng cịn dành nhiều thời gian để miệt mài

học tập. Ngày đó có nhà nho Hồng Xn Đường ở làng Hồng Trù, ơng
thường ghé thăm bà con bên ngoại ở làng Sen và mỗi lần đến làng Sen ông
thường bắt gặp 1 cậu bé ngồi trên lưng trâu rất chăm chú đọc sách. Khi hỏi ra
gia cảnh của cụ Sắc và do cảm kích trước người con mồ cơi nhưng trong lịng
hiếu học này thì nhà nho Hồng Xn đường đã bàn với anh trai Nguyễn Sinh
Trợ mang ông Sắc về nuôi và cho ăn học và không phân biệt vận động phong
kiến mà ơng cịn gả con gái cả của mình là bà Hồng Thị Loan cho ơng Sắc.
Cụ Sắc là người thầy đầu tiên của Nguyễn Sinh Cung – dạy chữ, dạy
làm người và giáo dục lịng u nước.
Trong gia đình, Nguyễn Sinh Cung là người được cha yêu thương và
đặt nhiều hy vọng nhất. Trong năm năm từ chối không ra làm quan, Nguyễn
Sinh Sắc thường đến những nơi có phong trào đấu tranh chống Pháp sôi nổi
8


và anh dũng, kết giao với những người có lịng u nước, có chí cứu nước,
đặc biệt là lớp sĩ phu yêu nước, có tư tưởng “bài” phong kiến, chống Pháp
như Phan Bội Châu, Vương Thúc Quý, Đặng Thái Thân… Và điều đặc biệt,
đi đến đâu ông cũng thường cho Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành đi
cùng. Trong những người mà ơng Sắc thường gặp gỡ có ơng Phan Bội Châu.
Giống như nhiều nhà nho yêu nước lúc bấy giờ, Phan Bội Châu cũng day dứt
trước hiện tình đất nước và số phận của dân tộc
Cụ Sắc có định hướng học tập đúng đắn cho các con. Đây là nền tảng
để tạo nên sự phát triển tư duy về sau của Hồ Chí Minh.
Quyết định cho các con đến học một thầy giáo có lịng u nước
thương dân đó là thầy Vương Thúc Quý. Đây là sĩ phu có tư tưởng cấp tiến.
Hơn nữa, “nhà thầy Quý là nơi lui tới của các sĩ phu yêu nước trong vùng.
Nhiều khi Nguyễn Tất Thành được thầy sai tiếp nước cho những vị khách đặc
biệt, nhờ đó cậu thiếu niên Nguyễn Tất Thành dần dần hiểu được thời cuộc
và sự day dứt của các bậc cha chú trước cảnh nước mất nhà tan”. Đồng thời,

Nguyễn Sinh Sắc đã tạo điều kiện cho con ông được “tham gia” vào các cuộc
tiếp xúc của mình với các văn thân sĩ phu ở khắp Trung Kỳ. Sau đó, “Tất
Thành còn được ơng cho theo ra Thái Bình trong dịp ông đi tìm gặp một sớ sĩ
phu ở đất Bắc”. Những chuyến đi đó là những cuộc trải nghiệm để Nguyễn
Tất Thành định hình riêng cho mình con đường đi.
Năm 1905, cụ Sắc cho hai người con trai của mình - là Nguyễn Sinh
Khiêm và Nguyễn Sinh Cung xuống Vinh học trường Tiểu học Pháp - bản xứ.
Đây là một quyết định được cho là khác người của cụ, bởi vào trường này là
phải học chữ Pháp, trong khi cụ theo đuổi nền giáo dục truyền thống theo lối
nho học (cụ đỗ Phó bảng năm 1901). Trong số các sĩ phu yêu nước thời đó, họ
ghét Pháp thì ghét ln cả thành tựu văn hố của nó, khơng muốn cho con cái
theo học chữ Tây, chữ Quốc ngữ. Có thể nói, quyết định trên của cụ Nguyễn
Sinh Sắc một phần từ sự chán ghét chốn quan trường, chán ghét sự giả dối,
9


đồi truỵ của những ơng quan triều đình Huế. Chính tại ngôi trường này,
Nguyễn Tất Thành được tiếp xúc với văn hoá phương Tây và lần đầu tiên biết
đến khẩu hiệu: Tự do - Bình đẳng - Bác ái. Sau này Người nhắc lại: “Khi tôi
độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, bình đẳng,
bác ái… Và từ thủa ấy, tơi rất muốn quen vơi nền văn minh Pháp, muốn tìm
xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy”. Ngoài thời gian học tập, Nguyễn
Tất Thành thường được cha đưa đến các vùng trong tỉnh như làng Đồng Thái
(quê hương của Phan Đình Phùng), thăm các di tích làng Lục niên, miếu thờ
La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp. Đây là những bài học thực tế bổ ích, quan
trọng, mắt thấy, tai nghe đã góp phần hình thành tư tưởng u nước và chí
hướng cách mạng của Nguyễn Tất Thành.
Một điều đáng chú ý là trong khi Phan Bội Châu đang hô hào Đông Du
thì Nguyễn Sinh Sắc khơng phản đối nhưng cũng khơng ủng hộ nhiệt thành.
Điều này thể hiện ở sự kiện tháng 5/1905, khi Phan Bội Châu tìm Nguyễn Tất

Thành để rủ sang Nhật nhưng không gặp được.
Đến tháng 9/1905, ông Sắc đã cho con nhập học lớp dự bị của trường
tiểu học Vinh với chương trình đào tạo nặng nề về tiếng Pháp. Rõ ràng chủ ý
của ông lúc này là muốn cho con tiếp xúc với văn minh phương Tây mà trực
tiếp là văn hoá Pháp với lý lẽ: “Muốn đánh kẻ thù phải học tiếng kẻ thù để
hiểu được kẻ thù”.
Tiếp đó, từ năm 1906 đến 1908, khi vào nhậm chức ở Huế, Nguyễn
Sinh Sắc đã cho hai con cùng đi và cho con tiếp tục học ở trường tiểu học
Pháp-Việt Đông Ba và Trường Quốc học Huế.
Sự giáo dục tư tưởng cứu nước, cứu dân và đặt niềm tin vào con mình
của cụ Nguyễn Sinh Sắc đã tạo thành ý chí, nghị lực và động lực cho Nguyễn
Tất Thành.
10


Sau này, trên đường đi vào phía Nam, “Nguyễn Tất Thành lên Bình
Khê (Bình Định) thăm cha. Thấy con trai đến Bình Khê, cụ Nguyễn Sinh Sắc
hỏi con: - Con đến đây làm gì? – Con đến đây tìm cha. Nghe vậy, cụ Sắc trìu
mến nói với con: - Nước mất khơng lo đi tìm, tìm cha phỏng có ích gì?”.
Nguyễn Tất Thành đã từ biệt thân phụ với niềm thơi thúc: “Nước mất thì đi
tìm hồn của nước”. Anh thầm nghĩ: cảm ơn cha đã sinh thành, nuôi dạy con
khôn lớn và hiểu điều con đang ao ước lúc này.
Sự giáo dục của Nguyễn Sinh Sắc không chỉ truyền cho các con trí tuệ,
học vấn, mà cịn truyền lịng nhiệt huyết, chí khí mạnh mẽ và động lực vượt
qua mọi gian nan để vươn tới sự nghiệp lớn cứu nước, cứu dân, giải phóng
dân tộc. Tính cách, ý chí của người dân xứ Nghệ, lòng yêu nước, thương dân
của cụ Nguyễn Sinh Sắc đã ảnh hưởng sâu sắc tới Nguyễn Tất Thành và theo
suốt cuộc đời Hồ Chí Minh sau này.
Hồ Chí Minh cịn được thụ hưởng sự giáo dục của mẹ là bà Hoàng Thị
Loan – một người phụ nữ Việt Nam mẫu mực, yêu chồng thương con. Hồ Chí

Minh được giáo dục một tấm lịng nhân ái, thương người.
Chính từ gia đình là cái nơi ni dưỡng nên tư tưởng giáo dục Hồ Chí
Minh từ những giai đoạn đầu, đặc biệt là từ người cha là cụ Nguyễn Sinh Sắc
đã cho Hồ Chí Minh những bước đi sơ khai hình thành nên hệ tư tưởng lớn
của mình, trong đó có tư tưởng về giáo dục.
Ba là, Người tiếp thu truyền thống văn hóa phương Đơng và bước
đầu tiếp xúc với văn hóa phương Tây, hình thành và phát triển trí tuệ.
Đó là nền văn hóa phương Đơng với tư tưởng của Nho giáo, Lão giáo,
Đạo giáo, tư tưởng Tam dân của Tơn Trung Sơn,…; nền văn hóa phương Tây
(chủ yếu là văn hóa Pháp), Người được tiếp xúc với 3 chữ Tự do – Bình đẳng
– Bác ái, nó đã thơi thúc Người ra đi tìm hiểu xem đằng sau 3 chữ đó là
11


những gì. “Khi tơi ở đợ tuổi 13, lần đầu tiên tôi nghe 3 chữ Tự do – Bình
đẳng – Bác ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp.”
Người Pháp nói như vậy. Và từ thủa ấy, tôi rât muốn làm quen với nền
văn minh Pháp muốn tìm xem những gì ẩn sau những chữ ấy”, và Người cũng
trực tiếp tìm hiểu tư tưởng, cuộc đời của các nhà khai sáng Pháp thế kỷ XVIII
như Rustxo, Moongteckio, Voonte...
Pháp sau khi chấm dứt cuộc xâm lược Việt Nam cũng như là tồn cõi
Đơng Dương thì đã tiến hành khai thác thuộc địa. Chính sách khai thác của
thực dân pháp hết sức tàn bạo, Pháp khai thác tài nguyên thiên nhiên; bóc lột
sức lao động của nhân dân ta; ngồi ra chúng cịn đưa ra những thứ thuế vô lý
như thuế thân, thuế muối, thuế ma chay, hiếu hỷ,…chúng cướp ruộng đất của
nhân dân ta khiến nhân dân ta mất tư liệu sản xuất và trở thành những người
vơ sản.
“Điều mà chủ tịch Hồ Chí Minh sớm nhận thức được và nó dẫn Người
đi đúng hướng là: nguồn gốc những đau khổ và áp bức dân tộc là ở ngay tại
“chính q́c”, ở nước đế quốc đang thống trị dân tộc mình. (Ngũn Khánh

Tồn, “Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chủ nghĩa yêu nước chân chính đến chủ
nghĩa cộng sản khoa học”- Tìm hiểu một số vấn đề trong tư tưởng của chủ
tịch Hồ Chí Minh, Nxb Sự thật, H.1982, tr.14).
Xuất phát từ lòng yêu nước, Hồ Chí Minh với sự tị mị và tinh thần tự
học hỏi của mình để vén màn âm mưu của thực dân Pháp. Đây cũng là một
trong những giai đoạn hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục khi
Người được tiếp xúc với khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái”, tiếp xúc với
nhiều nền văn hóa, khẳng định một cách nào đó về sự quan trọng của giáo
dục.
Bốn là, Người đã tiếp thu kinh nghiệm trong phong trào đấu tranh
yêu nước.
12


Hồ Chí Minh học hỏi các kinh nghiệm từ bác bậc sĩ phu yêu nước
nhưng Phan Chu Trinh hay Phan Bội Châu với những con đường cứu nước
khác nhau. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh dừng ở việc ngưỡng mộ lịng yêu nước
sâu sắc của các bậc tiền bối và rút ra bài học kinh nghiệm cho mình và có
những định hướng cho những bước đi tiếp theo của mình.
Năm là, thầy giáo Nguyễn Tất Thành – một vai trò đặc biệt, là một
yếu tố quan trọng hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục.
Trên con đường bơn ba tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành dừng
chân ở Phan Thiết. Do hết tiền, anh phải xin vào làm trợ giáo, dạy môn thể
dục ở trường Dục Thanh, một trường tư thục do các ông Nguyễn Trọng Lội và
Nguyễn Qúy Anh (con trai cụ Nguyễn Thông, một nhân sĩ yêu nước) thành
lập năm 1907. Khi dạy học ở trường Dục Thanh (Phan Thiết), thầy dậy rất tận
tâm, hết lòng thương yêu, chăm sóc học sinh. Thầy thường phổ biến cho học
sinh những thơ ca yêu nước, chẳng hạn bài Á tế á ca, bài Ca hớt tóc,… Thầy
phụ trách thể dục buổi sáng của nhà trường, chăm lo xây dựng tủ sách, hướng
dẫn học sinh thăm phong cảnh trong vùng, như động Thiềng Đức, bãi biển

Thương Chánh.
Đối với Nguyễn Tất Thành, việc dạy học chỉ là tạm thời, nhưng Người
vẫn đem hết lịng nhiệt tình truyền thụ cho học sinh lòng yêu nước và những
suy nghĩ về vận mệnh của đất nước. Thầy giáo Nguyễn Tất Thành được học
trò quý mến vì thầy thương yêu học sinh hết mực và thầy có cách giáo dục rất
nhẹ nhàng mà thấm thía. Thầy ln ân cần căn dặn: “Chữ là mắt, người khơng
có chữ coi như bị mù vậy”, khơng có chữ con người ta bé nhỏ trước tất cả mọi
thứ dưới gầm trời này và người khơng có chữ sẽ mãi mãi là vật bị sai khiến,
vật hy sinh cho bọn thống trị, cho nên các trò được ngồi học là phải tự hỏi
mình: “Học chữ để nên người, giúp dân cứu nước, hay học để vinh thân phì
gia?”.
Sáu là, người quyết định ra đi tìm đường cứu nước.
13


Ngày 3/6/1911, một thủy thủ của tàu Amiran Latusơ Tơrêvin (Amiral
Latouche Tréville) và được nhận vào làm phụ bếp trên tàu. Tàu cập bến Sài
Gòn 17/5/1911. Ngày 21/5, tàu rời cảng Sài Gòn đi Hải Phòng, ngày 2/6/1911
tàu trở lại Sài Gòn.
Ngày 5/6/1911, tàu rời bến cảng Sài Gòn đi Mácxây, mang theo khát
vọng cứu nước lớn lao của người thanh niên Nguyễn Tất Thành. Một bước
ngoặt mới mở ra trong cuộc đời của Anh.
Với lòng yêu nước thiết tha và những kinh nghiệm rút ra được từ thực
tiễn đau thương của đất nước, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã ra đi,
mang theo trong mình một khát vọng lớn lao – khát vọng tìm đường cứu
nước.
Như vậy, giai đoạn này Hồ Chí Minh đã hình thành nên cho mình lịng
u nước, có hồi bão cứu nước, nhân ái, thương người, nhất là những nguời
nghèo khổ. Trang bị cho Người những kiến thức cần thiết cho con đường đi
tìm đường cứu nước sau này. Nó đã trở thành hành trang cho Nguyễn Ái

Quốc ra đi tìm đường cứu nước, thể hiện rõ tư duy hướng ngoại của mình.
Đây là cũng là biểu hiện cho tinh thần tự chủ động tự học của mình, một sự
kiến quan trọng trong quá trình hình thành nên tư tưởng của Hồ Chí Minh.
2.2. Giai đoạn 2: Thời kỳ hình thành tư tưởng giáo dục theo chủ
nghĩa Mác – Lênin (1911 – 1930)
Một là, Người khảo sát các nước thuộc địa, phát triển tư tưởng mới,
tố cáo chính sách giáo dục ngu dân.
Người đi khắp các châu lục đặc biệt là các nước thuộc địa và Người
nhận ra rằng trên thế giới chỉ có hai hạng người đó là người bị bóc lột và kẻ đi
bóc lột.
Nguyễn Tất Thành đã đi qua rất nhiều nước đặc biệt là các nước thuộc
địa thuộc châu Á, Phi, Mỹ La Tinh. Đi đến đâu Người cũng nhìn thấy sự cực
14


khổ của những người dân thuộc địa, đến đâu người cũng thấy bọn thực dân,
bọn tư bản. Người đã rút ra nhận xét rằng: “Trên thế giới chỉ có hai loại
người: người đi bóc lột và kẻ đi bóc lột” và trên đời này chỉ có hai hạng
người đó là người tốt và người xấu.
Ở Pháp: Ngày 6/7/1911 Nguyễn Tất Thành sau hơn một tháng lênh
đênh trên biển thì đã đến được nước Pháp, Người đã đặt chân đến cảng Mácxây, và khi đặt chân đến đây Anh đã rất ngạc nhiên bởi nước Pháp cũng có
người nghèo như ở nước mình, cũng có gái điếm trên tàu. Anh đã thắc mắc
“Tại sao người Pháp khơng “khai hóa” đồng bào học trước khi khai hóa đi
“khai hóa” chúng ta?”. Và qua nhiều lần tiếp cúc với những người Pháp ở đây
Người đã rút ra một nhân xét: “Người Pháp ở Pháp tốt, lễ phép hơn người
Pháp ở Đông Dương”.
Ở Mỹ: Sau một thời gian ở Pháp Nguyễn Tất Thành quyết định đi đến
các nước khác vì “muốn xem các nước”. Anh đã qua rất nhiều nước trên thế
giới qua các châu lục và đến cuối năm 1912 Nguyễn Tất Thành đặt chân đến
nước Mỹ. Người rút ra kết luận: “Ánh sáng trên đầu tượng nữ thần tự do tỏa

sáng trên bầu trời xanh, còn dưới chân tượng nữ thần tự do này thì người da
đen đang bị trà đạp, số phận người phụ nữ đang bị trà đạp. Bao giờ người da
đen mới được bình đẳng giữa các dân tộc, bao giờ người phụ nữ bình đẳng
với nam giới”. Thời gian ở Mỹ không dài khoảng gần một năm nhưng
Nguyễn Tất Thành đã thấy được sự bất công trong một xã hội Mỹ, để sau này
trong tác phẩm “Đường Cách Mệnh” Người đã rút ra nhân xét: “Mỹ tuy rằng
cách mệnh thành công đã hưn 150 năm nay, những công nơng vẫn cứ cực
khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh lần thứ hai. Ấy là vì cách mệnh Mỹ là cách
mệnh tư bản, mà cách mệnh tư bản là cách mệnh chưa đến nơi”.
Ở Anh: Sau một thời gian sống tại Mỹ Nguyễn Tất Thành đã rời Mỹ đi
Anh. Tại Anh, Người đã làm rất nhiều việc như quét tuyết, đốt lò sưởi, làm
phụ bếp tại khách sạn Casloton (carlton) ngồi lý do để có tiền sống thì
15


Nguyễn Tất Thành làm nhiều việc như vậy là để hiểu rõ hơn cuộc sống của
những người dân lao động Anh. Người thấy được nhân dân lao động Anh
cũng khổ cực chẳng khác già nhân dân lao động ở Pháp và Mỹ, và Người thấy
được sự tàn ác của bọn tư bản. Ở lại pháp: Khoảng cuối 1917, Nguyễn Tất
Thành trở lại nước Pháp trở lại nước Pháp, Người đến Paris trung tâm văn hóa
và chính trị của Châu Âu. Trở lại Pháp Nguyễn Tất Thành tham gia vào nhiều
tổ chức như Đảng xã hội Pháp, câu lạc bộ Phơbua, ngồi ra Người cịn tham
gia các phong trào đấu tranh. Sau này khi được hỏi vì sao lại tham gia vào
Đảng xã hội Pháp, Người đã từng trả lời: “Chỉ vì đây là tổ chức duy nhất ở
Pháp bênh vực nước tôi, là tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của
đại cách mạng: “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”.
Đến năm 1919, nhân hội nghị các nước đế quốc họp ở Vacxay có đại
biểu chính phủ các nước thắng trận: Mỹ, Anh, Pháp, Ý, Nhật Bản, Bỉ…một
bên là những nước thua trận bàn về vấn đề sau thế chiến, chủ yếu là vấn đề
phân chia lại thuộc địa. Nguyễn Tất Thành cùng với những người Việt Nam

yêu nước ở Pháp soạn thảo “Bản yêu sách” gồm 8 điểm gọi là “Bản yêu sách
của nhân dân An Nam” và kí tên là Nguyễn Ái Quốc gửi đến hội nghị (từ đây
Người lấy tên là Nguyễn Ái Quốc để hoạt động), nhưng Bản yêu sách bị từ
chối. Bản yêu sách bị từ chối có rất nhiều ý kiến cho rằng đó là một thất bạt
của Nguyễn Ái Quốc, nhưng thực tế lại không phải như vậy, bản yêu sách
không được chấp nhận đã giúp cho Nguyễn Ái Quốc nhận thức rõ hơn chủ
nghĩa đế quốc, nhận thấy sự “bịp bợm” của bọn tư bản đế quốc, Người đã
từng nói: “Chủ nghĩa Uynxơn chỉ là một trò bịp bợm” và Người nhận ra rằng:
“Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trơng cậy vào lực lượng của
bản thân mình”. Đối với nhân dân Pháp, Bản yêu sách cũng có tiếng vang trên
toàn nước Pháp, nhờ vậy mà nhân dân Pháp biết đến Việt Nam và biết thêm
về Việt Nam. Đối với những người Việt Nam trong và ngoài nước thì nó lại
tác động mạnh mẽ đến họ, nó giúp họ được thức tỉnh. Từ đây những người
Việt Nam yêu nước trên khắp nơi tìm đến Nguyễn Ái Quốc để được Anh chỉ
16


bảo, giúp đỡ. Và đối với bọn thực dân Pháp thì lại trở nên no sợ và căm tức,
những nhà cầm quyền ở Paris phải chú ý đến Nguyễn Ái Quốc theo sát những
bước chân của Anh. Pôn Ácnu (Paul Arnoux) tên mật thám Pháp được giao
nhiệm vụ theo dõi Nguyễn Ái Quốc đã từng nhận xét: “Con người thanh niên
mảnh khảnh và đầy sức sống này có thể là người đặt cây chữ thập cáo chung
lên nền thống trị của chúng ta ở Đơng Dương”. Có thể nói “Bản yêu sách của
nhân dân An Nam” được xem như một quả bom nổ chậm được đặt ngay giữa
thành phố Paris tráng lệ.
Sau đó, Người đã tích cực hoạt động để hồn thiện mình và tiếp tục
việc tìm con đường cứu nước phù hợp cho dân tộc Việt Nam. Với yêu cầu của
thực tiễn đấu tranh, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy rằng cần phải học viết báo để
tố cáo tội ác của Pháp. Chính vì vậy Người đã tham gia hoạt động báo chí.
Người tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế giới và thâm nhập vào phong

trào công nhân.
Hai là, Người tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin, tìm được con đường
cứu nước cho dân tộc. Trở thành một người cộng sản, người nhận thực
được vị trí, vai trị của giáo dục.
Từ năm 1919, xu hướng cộng sản xuất hiện ở Pháp, trong nội bộ Đảng
xã hội Pháp xuất hiện những ý kiến khác nhau về việc tiếp tục Quốc tế thứ hai
hay đi theo Quốc tế thứ ba. Báo L’Humanite – cơ quan Trung ương Đảng xã
hội Pháp, trong 2 số ngày 16 và 17/7/1920 đã đăng Sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc thuộc địa (để trình bày tại Đại hội II
Quốc tế Cộng sản) của Lênin với đầu đề lớn chạy suốt cả trang báo. Tên đầu
bài có liên quan đến vấn đề thuộc địa lập tức thu hút sự chú ý của Nguyễn Ái
Quốc – vấn đề mà anh đã trăn trở bao lâu để đi tìm lời giải đáp. Lúc này phần
đơng đảng viên Đảng xã hội lại ít quan tâm đến vấn đề thuộc địa, vấn đề nóng
bỏng của họ lúc này là vấn đề chun chính vơ sản.

17


Trong luận cương, Lênin nhấn mạnh chính sách của Quốc tế Cộng Sản
về vấn đề dân tộc và thuộc địa là phải làm cho vô sản và quần chúng lao động
của tất cả các dân tộc và các nước gần gũi nhau để tiến hành cuộc đấu tranh
cách mạng chung nhằm lật đổ bọn địa chủ và giai cấp tư sản, các phong trào
giải phóng dân tộc ở các thuộc địa phải gắn chặt với cuộc đấu tranh và chiến
thắng của chính quyền Xơ Viết đối với chủ nghĩa đế quốc thế giới, các đảng
cọng sản phải trực tiếp ủng hộ phong trào cách mạng củ các dân tộc thuộc
địa… “Luận cương về những vấn đề dân tộc và thuộc địa đến với Người như
một ánh sáng kỳ diệu nâng cao về chất tất cả những hiểu biết và tình cảm
cách mạng mà Người hằng lung nấu”.
Với việc bỏ phiếu tán thành Đệ tam quốc tế (QTIII), tham gia thành lập
Đảng cộng sản Pháp (12/1920), trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên,

đã đánh dấu bước chuyển biến về chất trong tư tưởng Nguyễn Ái Quốc, từ
chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến
giác ngộ giai cấp, từ một người yêu nước tiến bộ thành chiến sĩ cộng sản chân
chính.
“Hồ Chí Minh đã gắn bó phong trào cách mạng Việt Nam với phong
trào cách mạng quốc tế, đưa nhân dân ta đi theo con đường mà chính Người
đã trải qua, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là con
đường giải phóng duy nhất mà cách mạng Tháng Mười Nga mở ra cho nhân
dân lao động và tất cả các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới” (Lê Duẩn:
“Dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến
lên giành những thắng lợi mới”, Nxb Sự Thật, H.1970, tr10).
Ba là, hoạt động của Hồ Chí Minh về tập hợp, huấn luyện cán bộ để
chuẩn bị thành lập Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam.
Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về đến Quảng Châu (Trung Quốc)
với nhiều tên gọi như Vương, Lý Thụy. Việc đầu tiên của Người là tìm cách
bắt mối liên lạc với các tổ chức cách mạng như: Tâm Tâm Xã, Việt Nam
18


Quốc Dân Đảng... sau đó Người chọn số thanh niên yêu nước trong các tổ
chức cách mạng nói trên và một số thanh niên khác ở trong nước, mở trường
huấn luyện chính trị nhằm đào tạo họ trở thành những cán bộ cách mạng để
đưa họ về nước hoạt động trong phong trào cơng nhân (trường chính trị này
mở được 10 khố gồm 200 học viên), trong đó có những học viên tiêu biểu
như: Trần Phú, Lê Hồng Phong, Ngô Gia Tự... Bên cạnh đó Người cịn lựa
chọn một số cán bộ gửi sang Mátxcơva học tập lý luận ở trường Đại học
Phương Đông và số khác vào học trường qn sự Hồng Phố (Trung Quốc).
Việc Chủ tịch Hồ Chí Minh về Quảng Châu mở trường huấn luyện chính trị
có ý nghĩa rất to lớn. Người đã đào tạo cho cách mạng Việt Nam những lớp
cán bộ đầu tiên đi theo đường lối chủ nghĩa Mác Lê Nin và góp phần quan

trọng vào việc thành lập Đảng ta. Bởi theo Người “Khơng có lý luận cách
mạng thì khơng có phong trào cách mạng, chỉ có Đảng nào có lý luận tiên
phong hướng dẫn mới có thể làm trịn vai trị chiến sĩ tiên phong”.
Từ cuối năm 1924 đến đầu năm 1930, Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa đào
tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam, xúc tiến việc chuẩn bị thành lập Đảng
cộng sản Việt Nam, vừa góp phần rất quan trọng vào việc đào tạo cán bộ và
xây dựng phong trào cách mạng ở một số nước Châu Á.
Như vậy, trong giai đoạn này Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò của
giáo dục bằng những hành động cụ thể, đó chính là mở lớp đào tạo cho cán
bộ, Đảng viên tương lai. Ở đây, tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện rõ là:
Một là, giáo dục gắn liền với nhiệm vụ chính trị và đời sống xã hội; Hai là,
giáo dục phải đấu tranh chống chính sách ngu dân của giai cấp thống trị và
tiếp thu nền giáo dục tiên tiến, cách mạng; Ba là, giáo dục phải và quyền lợi
và nghĩa vụ của mọi người.2.

19


2.3. Giai đoạn 3: Thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục tiếp
tục phát triển (1930 – 1945)
Một là, Hồ Chí Minh hình thành và phát triển tinh thần, ý thức và
phương pháp học tập của mình.
Giai đoạn từ năm 1931 – 1933: Bị bắt và giam ở Hồng Công
Đây là thời kỳ Nguyễn Ái Quốc bị thử thách ghê gớm, về mạng sống
đó là lần bị bắt ở Hồng Kơng, về tư tưởng đó là việc Người bị Quốc tế cộng
sản và những người học trò của mình phê phán. Tuy nhiên, vượt lên trên tất cả
là sự kiên định, ý chí quyết tâm sắt đá, giữ vững lập trường, tư tưởng.
Quốc tế cộng sản do không nắm được tình hình thực tế của các nước
thuộc địa, khuynh hướng tả khuynh lại đang chiếm ưu thế trong Quốc tế cộng
sản nên đường lối của Nguyễn Ái Quốc vạch ra trong hội Đảng bị phê phán,

theo chỉ đạo của Quốc tế cộng sản Hội nghị tháng 10 năm 1930 đã thủ tiêu
Luân cương thành lập Đảng. Hội nghị thông qua Luận cương cách mạng tư
sản dân quyền của Trần Phú “chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, điều lệ
tóm tắt”, đổi tên đảng là Đảng cộng sản Đơng Dương.
Ngày 6/6/1938 Người viết thư cho 1 đồng chí trong Ban chấp hành
Quốc tế cộng sản bày tỏ tâm trạng của mình và mong muốn được trở về nước,
tham gia phong trào cách mạng.
Sự lớn mạnh của phong trào cách mạng Việt Nam từ sau khi có Đảng
lãnh đạo và phong trào cách mạng Đông Dương khiến bọn đế quốc vơ cùng lo
sợ tìm cách bắt bớ các cán bộ về Văn phịng Ban phương Đơng, u cầu
chuyển người về công tác ở Thượng Hải, Người chưa thể rời Hồng Kơng khi
chưa có ý kiến của Quốc tế Cộng sản.
Cuối năm 1936, Nguyễn Ái Quốc trúng tuyển vào lớp nghiên cứu sinh
chuyên cứu sinh chuyên ngành lịch sử do Viện nghiên cứu các vấn dân tộc và
thuộc địa tổ chức, nhằm đào tạo giảng viên có trình độ cao cho Viện.
20


Đại hội bàn đến những vấn đề quan trọng chống chủ nghĩa phát xít,
thành lập mặt trận thống nhất chống chủ nghĩa đế quốc trên cơ sở liên minh
giai cấp công nhân với nông dân. Hè 1936, Mặt trận nhân dân Pháp giành
thắng lợi lớn trong tổng tuyển cử và Chính phủ của mặt trận được thành lập.
Nguyễn Ái Quốc nóng lịng trở về Tổ quốc lãnh đạo phong trào cách mạng
nhưng chưa được quốc tế cộng sản chấp nhận.
Tình hình thế giới diễn biến phức tạp, chiến tranh thế giới II sắp nổ ra
khiến Người không thể yên tâm ngồi hoàn thành nốt bản luận án nghiên cứu
sinh.
Cuối 1939, Người tìm đường đi Cơn Minh và đã bắt liên lạc được với
Ban hải ngoại của Đảng ta. Sau nhiều lần lên kế hoạch tìm đường về nước,
28/1/1941 Người cùng các đồng chí lên đường về nước theo hướng Cao

Bằng, kết thúc 30 năm trời lưu lạc nơi xứ người.
Vượt qua mn vàn khó khăn thử thách, khi bị tổ chức nghi ngờ, khi thì
bị địch bắt, lúc cận kề với cái chết Nguyễn Ái Quốc vẫn kiên định con đường
cách mạng đã chọn và luôn luôn theo đuổi khát vọng giành được độc lập cho
dân tộc.
Hai là, từ năm 1941 đến năm 1945 Giai đoạn Hồ Chí Minh trực tiếp
cùng Đảng lãnh đạo tổ chức đấu tranh giành chính quyền, khai sinh ra
nước Việt Nam dân chủ cộng hịa.
Tình hình thế giới và Đơng Dương: chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ
ra ngày 01/01/1939, lôi kéo nhiều nước tham gia trong đó có Pháp. Ở Đơng
Dương Nhật nhảy vào xâm lược (1940), Pháp và Nhật cấu kết thống trị nhân
dân ta, nhân dân ta phải chịu cảnh một cổ hai tròng.
Đầu năm 1941 Nguyễn Ái Quốc về nước, trực tiếp lãnh đạo phong trào
cách mạng Việt Nam. Chiến tranh thế giới II có nhiều diễn biến mới, ngày
càng gay go, quyết liệt. Lấy danh nghĩa đại diện Quốc tế Cộng sản, Nguyễn
21


Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ 8 của TW Đảng cộng sản
Đông Dương. Hội nghị làm việc từ ngày 10 – 19/5/1941 tại Khuổi Nậm, Pác
Bó, Cao Bằng.
Mới về nước, Người chọn căn cứ ở Cao Bằng. Đầu tháng 5/1945, HCM
cho chuyển “đại bản doanh” từ Pác Bó (Cao Bằng) về Tân Trào (Tuyên
Quang), (nơi có phong trào quần chúng mạnh mẽ, đã thiết lập được chính
quyền Cách mạng, thuận tiện liên lạc với miền xi và nước ngồi)
Ngày 4/6/1945, theo chỉ thị của Người, Tổng bộ Việt Minh đã triệu tập
hội nghị các bộ tun bố chính thức thành lập khu giải phóng, gồm các tỉnh:
Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và 1 số
vùng lân cận của các tỉnh Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên. Khu giải
phóng là hình ảnh thu nhỏ nước Việt Nam mới, nơi nhân dân làm chủ vận

mệnh của mình.
Hồ Chí Minh đã ra chị thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải
phóng quân. 22/12/1944, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được
thành lập tại khu rừng Sam Cao thuộc châu Nguyên Bình, Cao Bằng, gồm 34
đội viên do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy => Là tiền thân của quan đội
nhân dân Việt Nam sau này. Sau ngày thành lập đã giành 2 thắng lợi lớn là hạ
đồn Phai Khắt 25/12/1944 và đồn Nà Ngần 26/12/1944, mở đầu truyền thống
trăm trận tăm thắng của dân tộc ta.
Ngày 13 – 15/8/1945, Người chỉ đạo triệu tập Hội nghị toàn quốc của
Đảng tại Tân Trào. Hội nghị quyết định phải kịp thời phát động và lãnh đạo
toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền trước khi quân Đồng minh vào
nước ta, quyết định thành lập Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc gồm 5 người. 23h,
13/8/1945, Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc ban bố Quân lệnh số, hạ lệnh khởi
nghĩa.
16 – 17/8/1945, Quốc dân đại hội họp, tán thành chủ trương tổng khởi
nghĩa của Đảng cộng sản và tổng bộ Việt Minh cử ra Uỷ ban dân tộc giải
22


phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi
Tổng khởi nghĩa đến đồng bào cả nước. Cách mạng hoàn toàn thắng lợi. Sáng
lập nhà nước, xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng non trẻ.
2/9/1945 tại Quảng Trường Ba Đình, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc
tun ngơn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa – nhà nước
dân chủ nhân dân đàu tiên ở Đông Nam Á. Tuyên ngôn cũng khẳng định với
thế giới cơ sở pháp lý về quyền được hưởng tự do độc lập của dân tộc Việt
Nam.
“Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hóa ban cho
họ những quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong các quyền ấy có
quyền được sông, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

(Hồ Chí Minh tồn tập NXBCTQG – Sự Thật – T4 – Tr1)
Ba là, quan điểm giáo dục Hồ Chí Minh từ tác phẩm “Nhật kí trong
tù”.
Sau ba mươi năm hoạt động ở nước ngoài, cuối tháng 1- 1941, Nguyễn
Ái Quốc về nước hoạt động, tiến hành Hội nghị Trung ương lần thứ VIII và
thành lập Mặt trận Việt minh, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đưa
phong trào cách mạng nước ta tiến vào một thời kỳ mới. Tháng 8 năm 1942,
Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Hồ Chí Minh lên đường trở lại Trung Quốc với
danh nghĩa là đại biểu của Việt Nam độc lập đồng minh và Phân bộ quốc tế
phản xâm lược của Việt Nam để tranh thủ sự viện trợ của nước ngoài. Trên
đường đi đến Túc Vinh, Quảng Tây (ngày 29 - 8 - 1942), Người bị chính
quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam và bị chúng đầy ải qua gần 30 nhà giam
của 13 huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, trong khoảng thời gian 13 tháng, đến
ngày 10 tháng 9 năm 1943.
Trong “Nhật ký trong tù” có nhiều bài thơ liên quan đến việc giáo dục
con người, nhưng có ba bài: “Tự khuyên mình” (Tự Miễn); “Nghe tiếng giã
gạo” (Vãn thung mễ thanh) và “Nửa đêm” (Dạ bán) là rõ hơn cả.
23


Ở bài “Nửa đêm”:
Bác trình bày quan điểm của mình một cách trực tiếp, đó là một sự đúc
kết, chiêm nghiệm.Ở đây, chúng ta lại bắt gặp sự đối lập, hòa hợp, giữa thức
và ngủ, giữa thiện và ác. Khi người ta ngủ đều có chung một hoạt động (nhịp
đập của trái tim) do đó khó phân biệt được người hiền và kẻ ác, tất cả đều như
nhau. Nhưng lúc tỉnh dậy (đúng hơn là sau khi tỉnh dậy), kẻ ác và người lành
mới phân biệt được bởi việc làm của họ khác nhau:
“Ngủ thì ai cũng như lương thiện,
Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền.
Hiền dữ phải đâu là tính sẵn,

Phần nhiều do giáo dục mà nên.”
Như vậy, qua bài thơ, ta thấy Bác khẳng định phẩm chất của con người,
đạo đức của con người, nhân cách của con người phần nhiều do giáo dục mà
nên. Điều đó chính là Bác muốn nhấn mạnh ý nghĩa của hoàn cảnh giáo dục
đối với việc hình thành tính cách con người. Bác triết luận rằng trong giáo dục
phải chú ý đặc biệt đến hoàn cảnh sống tốt hơn để phát triển cái thiện, đẩy lùi
cái ác. Hồn cảnh, mơi trường, giáo dục có văn hóa, đầy sự yêu thương chắc
chắn sẽ đẩy lùi cái ác, hướng tới cái thiện.
Qua bài thơ trên, như vừa phân tích, mọi người có thể rút ra những kết
luận bổ ích về vấn đề giáo dục, về sự nghiệp giáo dục. Ba bài thơ trên thể hiện
rõ quan điểm giáo dục, tư tưởng giáo dục của Bác. Đó là tư tưởng tự rèn
luyện, tự giáo dục tùy theo hoàn cảnh sống của con người. Đúng là nội dung
tư tưởng của ba bài thơ trên và “Nhật ký trong tù” nói chung vượt ra ngồi
hình thức thơ Đường luật chật hẹp mà nó chứa đựng. Ba bài thơ trên của Bác
có một ý nghĩa giáo dục sâu xa cho mọi thời đại, mọi xã hội đối với việc hình
thành và phát triển, hồn thiện nhân cách con người.

24


Như vậy, trong giai đoạn này Hồ Chí Minh đã hình thành những quan
điểm về giáo dục khơng những qua nhận thức và hành động mà còn qua
những tác phẩm của mình, trong đó tư tưởng về giáo dục được thể hiện rõ
như: Một là, chống giáo dục thực dân nơ dịch địi quyền được học tập của mọi
tầng lớp nhân dân; Hai là, chỉ ra đường lối, chính sách để thực hiện giáo dục
toàn dân; Ba là, xác định những nguyên tắc “dân tộc, đại chúng, khoa học”
cho văn hóa giáo dục.

25



×