Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Tiểu luận cao học TTHCM tư tưởng hồ chí minh về con người – giá trị lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.8 KB, 28 trang )

1

MỞ ĐẦU
1.

Lý do lựa chọn đề tài
Theo Hồ Chí Minh yếu tố hàng đầu là lực lượng cách mạng, là quần
chúng nhân dân, cơng nhân, nơng dân, trí thức... được tổ chức thành một khối
thống nhất, thành lực lượng cách mạng hùng hậu xây dựng một xã hội tốt đẹp.
Tháng 8-1961, nói chuyện với Hội nghị bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo các cấp
toàn miền Bắc nhằm quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III,
Người đã đưa ra một luận điểm quan trọng và khẳng định: “Muốn xây dựng
chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Đối
với chúng ta luận điểm này đã trở thành luận điểm kinh điển khi xây dựng chủ
nghĩa xã hội, phải có con người xã hội chủ nghĩa. Con người mới xã hội chủ
nghĩa là con người phát triển toàn diện. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một
cuộc cách mạng lâu dài, phức tạp, sâu sắc và triệt để nhất trên tất cả các lĩnh
vực kinh tế, chính trị, văn hóa... nên nó đòi hỏi con người mới xã hội chủ
nghĩa phải là những con người đủ phẩm chất, năng lực về trí tuệ, đạo đức, sức
khỏe, giác ngộ lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, quyết tâm cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới – Xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy mà tư tưởng Hồ Chí Minh
về con người là vo cùng cần thiết và được nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu nó.
Qua nghiên cứu này em sẽ phát triển thêm tư tưởng Hơ Chí Minh về con
người.

2.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích giúp người đọc hiểu được tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng, là chiều sâu nhất trong tư duy lí
luận của người, chứa đựng những giá trị vô cùng to lớn và đặc biệt trong sự


nghiệp giáo dục và đi lên chủ nghiã xã hội.
Nhiệm vụ làm rõ được tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, vận dụng
tư tưởng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và xây dựng xã


2

hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Qua đó khẳng định sự sự ra đời của tư tưởng Hồ
Chí Minh về con người là một tất yếu khách quan và giải quyết các vấn đề
lịch sử dân tộc đặt ra.
3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là hệ thống các quan điểm,quan niệm lý luận về
cách mạng Việt Nam. Được Đảng ta vận dụng, phát triển sáng tạo.
Phạm vi nghiên cứu là các quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người, những giá trị lí luận thực tiễn đó được sinh viên nhận thức ra sao.

4.

Cơ sở lý luân và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận là quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về con người.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài này là kết hợp chặt chẽ phương
pháp lô gich với phương pháp lịch sử,phân tích và tổng hợp, thế giới quan
phương pháp luận Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng chỉ đạo trong quá trình
nghiên cứu.

5.


Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Giúp người đọc hiểu thêm về giá trị con người, kiên định, bảo vệ và
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, nêu cao tinh thần độc lâp dân
tộc, tự chủ, đổi mới, sáng tạo. Nhận thấy được trách nhiệm của bản thân trong
sự nghiệp xây dựng đất nước, đặc biệt cấc thế hệ trẻ hiện nay khi còn đang
ngồi trên ghế nhà trường.

6.

Kết cấu của tiểu luận
Kết cấu tiểu luận gồm 3 chương:
Chương I. Quan điểm của Hồ Chí Minh về con người.
Chương II. Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trị con người và xây dựng
con người.


3

Chương III. Giá trị lý luận và thực tiễn.


4

NỘI DUNG

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác Lênin, được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiền giải phóng dân tộc và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí
Minh là độc lập dân tộc gắn liền với giải quyết xã hội và giải phóng con
người. Trong đó, vấn đề con người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu và là
vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ nội dung tư tưởng của Người. Tin

ở dân, dua vào dân, tổ chức và phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, bồi
dưỡng, đào tạo và phát huy mọi năng lực của dân (ở từng cá nhân riêng lẻ và
của cả cộng đồng), đó là tư tưởng được Hồ Chi Minh vận dụng và phát triển
trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cách mạng giành độc lập dân tộc cũng như
xây dựng đất nước. Tư tưởng đó cũng chính là nội dung cơ bản của toản bộ tư
tưởng về con người của Hồ Chí Minh.
CHƯƠNG I. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI
1.1.

Con người được nhìn nhận như một chỉnh thể
Tư tưởng về con người của Hố Chí Minh dựa trên thế giới quan duy vật
triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chinh vì xuất phát từ thế giới quan duy
vật triệt để ấy, nên khi nhin nhận và đánh giá vai trị của bản thân mình (với tư
cách là lãnh tụ), Người khơng bao giờ cho mình là người giải phóng nhân
dân. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, người cán bộ (kể cả lãnh tụ) chi là
"đầy tớ trung thành" có sứ mệnh phục vụ nhân dân, lãnh tụ chỉ là người góp
phần vào sự nghiệp cách mạng của quần chúng. Tư tưởng này đã vượt xa và
khác về chất so với tư tưởng "chăn dân" của những người cầm đầu nhà nước
phong kiến có tư tưởng yêu nước xưa kia. Và đây cũng chính là điều đã làm
nên chủ nghĩa nhân văn cao cả ở Hồ Chí Minh, một chủ nghĩa nhân văn cong
sản trong cot cách của một nhà hiên triết phương Đông.


5

Trong mỗi thời đại, mỗi giai cấp có sự nhìn nhận khác nhau về con
người. Khác với các quan niệm chưa đúng đắn về nhân dân lao động, về con
người, Hồ Chí Minh đề cập đến con người một cách tồn diện, lịch sử, cu thế;
khơng có con người chung chung, trừu tượng phi nguồn gốc lịch sử hay con
người kiểu tôn giáo. Những năm 20 của thể kỷ XX, Hồ Chí Minh thường

dùng các khái niệm “người bản xứ", “người bản xứ bị áp bức", “người bản xứ
bị bắt làm nô lệ", “người mất nước", “người lao động bản xứ", “người bị bóc
lột", “người bị bóc lột thuộc mọi chủng tộc", “người da vàng", "người da
đen", “người vô sản", “người vô sản ở thuộc địa"... và đối lập với họ là những
tên “thực dân", “thực dân độc ác", “viên chức tàn bạo", "bọn ăn bám đủ các
cỡ", "kẻ điễm phúc có đặc quyền đặc lợi"... Hồ Chí Minh chỉ dùng khái niệm
“con người" trong một số trường hợp hạn hữu. Ban đầu, khi bàn đến con
người, Hồ Chí Minh chi nói đến "con Lạc cháu Hồng", "con Rồng cháu
Tiên"..... nhưng nhờ sự chứng kiến cuộc sống của nhân dân các dân tộc thuộc
địa dưới ách kim kẹp của chủ nghĩa đế quốc, Người đã có sự phân biệt rạch
rồi giữa một bên là bọn để quốc, thực dân tàn bạo, độc ác và bên kia là những
người lao động bị bóc lột, áp bức nặng nề. Người rút ra một kết luận sâu sắc:
"dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người
bóc lột và giống người bị bóc lột. Người viết: “Trên quả đất, có hàng mn
triệu người. Song số người ấy có thể chia làm hai hạng: người THIỆN và
người ÁC”. Người còn chỉ rõ: “Trừ bọn Việt gian bán nước, trừ bọn phát xít
thực dân, là những ác quỷ mà ta phải kiên quyết đánh đổ, đối với tất cả những
người khác thì ta phải u q, kính trọng, giúp đỡ. Sở dĩ, Hồ Chí Minh chia
hai hạng người như vậy để thực hiện chữ “Bác - Ái", "đại đoàn kết" và “giúp
người tiến tới". Người cho rằng, những người bị bóc lột, những người đi theo
điều “thiện" thì dù màu da, tiếng nói có khác nhau, có thể coi nhau như anh
em một nhà, có thể “đại đồn kết", "đại hòa hợp" trong một “thế giới đại
đồng". Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, con người Việt Nam trở thành người
tự do, nhân dân được làm chủ đất nước. Thực hiện đại đoàn kết để kháng


6

chiến chống thực dân Pháp, Hồ Chí Minh thường dùng các khái niệm: “đồng
bào", "nhân dân, "quốc dân" "dân".. Qua đó, đặt con người trong quan hệ gắn

bó với khối thống nhất của cộng đồng dân tộc. Trong mối quan hệ “mình đối
với người", Hồ Chí Minh đã đưa ra định nghĩa: “Chữ người, nghĩa hẹp là gia
đình, anh em, họ hàng, bầu bạn, Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là
cả loài người"". Chữ “người" theo Hồ Chí Minh là bao gồm tuyệt đại bộ phận
dân tộc và thành phần chủ yếu là nhân dân lao động. Nó gần với hai chữ
“đồng bào". Như vậy, con người khơng phải là cá thể biệt lập, mà chỉ có trong
hoạt đong thực tiễn xã hội, con người mới có lao động, ngôn ngữ, tư duy, chế
tạo công cụ lao động..., mới thực sự trở thành con người để phân biệt với mọi
lồi động vật khác. Hồ Chí Minh thường gắn khái niệm con người với các nhu
cầu, lợi ích tối thiểu hàng ngày như ăn, mặc, ở, học hành, chữa bệnh và các
nhu cầu về văn hóa tinh thần khác. Các nhu cầu ấy hoàn toàn phụ thuộc vào
bản chất các quan hệ xã hội mà trong đó con người đang sống và hoạt động.
Trong các chế độ xã hội đã tồn tại, Người cho rằng, chỉ có xã hội xã hội chủ
nghĩa mới có khả năng thỏa mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng
tăng của con người. Đó là tính nhân văn và tính cách mạng triệt để mà Hồ Chí
Minh rút ra được khi khám phá bản chất thật sự của con người.
Quan điểm đó thế hiện ở chỗ Người chưa bao giờ nhìn nhận con người
một cách chung chung, trừu tượng. Khi bàn về chính sách xã hoi, cũng như ở
mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hồn cảnh, Người ln quan tâm đến nhu cầu, lợi
ích của con người với tư cách nhu cầu chính đáng. Đem lại lợi ích cho con
người chính là tạo ra động lực vơ cùng lớn lao cho sự nghiệp chung, vì nếu
như những nhu cầu, lợi ích của mỗi cá nhân không được quan tâm thoả đáng
thì tính tích cực của họ sẽ khơng thế phát huy được. Trong khi phê phán một
cách nghiêm khắc chủ nghĩa cá nhân, Người viết: "Đấu tranh chống chủ nghĩa
cá nhân khơng phải là "giày xéo lên lợi ích cá nhân". Mỗi người đều có tính
cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình
mình". Trong quan về thực hiện một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, theo


7


Người, phải là một nen dân chủ chân chính, khơng hình thức, khơng cuc doan,
trong đó mỗi con người cụ thể phải được đảm bảo những quyền lợi và nghĩa
vu của mình theo hiến pháp và pháp luật. Con người, với tư cách là những cá
nhân, không tồn tại biệt lập mà tôn tại trong môi quan hệ biện chứng với cong
đơng dân tộc và với các lồi người trên toàn thế giới.
1.2.

Con người cụ thể lịch sử
Con người trong tư tưởng Hồ Chi Minh không tồn tại như một phạm
bản thể luận có tinh trừu tuợng hóa và khái quát hỏa, mà được để cập đến một
cách cụ thể, đó là nhân dân Việt Nam, những con ngưoi lao động nghèo khổ
bị áp bức cùng cực dưoi ách thống trị của phong kiến, đế quốc; là dân tộc Việt
Nam đang bị đo ho bởi chủ nghĩa thực dân; và mở rộng hơn nữa là những
"người nô lệ mất nước" và "người cùng khổ". Logic phát triển tư tưởng của
Người là xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước để đến với chủ nghĩa Mác - Lênin,
đến với chủ nghĩa quốc tế chân chinh. Theo logic phát triển tư tưởng ấy, khái
niệm "con người" của Hồ Chí Minh tiếp cận với khái niệm "giai cấp vô sản
cách mạng". Người để cập đến giai cấp vô sản cách mạng và sự thống nhất về
lợi ich căn bản của giai cấp đó với các tầng lớp nhân dân lao động khác (đặc
biệt là nông dân). Người nhận thức một cách sâu sắc rằng, chỉ có cuộc cách
mạng duy nhất và tắt yếu đạt tới được mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp và tồn the nhân loại khỏi mọi sự nơ dịch, áp bức. Toàn bộ các tu
tưởng, lý luận (chiếm một khối lượng lớn trong các tác phẩm của Người) bàn
về cách mạng (chiến lược giải pháp; bàn về người cách mạng và đạo đức cách
mạng, về hoạch định và thuc hiện các chinh sách xã hội; về rèn luyện và giáo
dục con ngưoi v.v...) về thực chất chi là sự cụ thể hóa bằng thực tiến.

1.3.


Bản chất xã hội con người
Để sinh tồn, con người phải lao động sản xuất. Trong quá trình lao
động, sản xuất, con người dần nhận thức được các hiện tượng, quy luật của tự
nhiên, của xã hội: hiểu về mình và hiểu biết lẫn nhau..., xác lập các mối quan


8

hệ giữa người với người. Con người là sản phẩm của xã hội. Trong quan niệm
của Hồ Chí Minh, con người là sự tổng hợp các quan hệ xã hội từ hẹp đến
rộng, chủ yếu bao gồm các quan hệ: anh, em: họ hàng: bầu bạn: đồng bào,
loài người.


9

CHƯƠNG II. QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRỊ CON NGƯỜI
VÀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI

2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trị con người
2.1.1. Con ngưịi là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công sự
nghiệp cách mạng.
Tấm lịng Hồ Chi Minh ln hướng về con nguời. Người yêu thương
con người, tin tưởng con người, tin và thương yêu nhân dân, truớc hết là
người lao động, nhân dân mình và nhân dân các nc. Với Hồ Chi Minh,
"lòng thương yêu nhân dân, thưomg yêu nhân loại" là "khơng bao giờ thay
đổi". Người có một niểm tin lớn ở sức mạnh sáng tạo của con người, Lòng tin
mãnh liệt và vơ tận của Hồ Chí Minh vào nhân dân, vào những con ngưoi
bình thường đã được hình thành rất sớm. Từ những năm tháng Người bôn ba
tim đường cứu nước, thảm nhập, län lộn, tìm hiểu thực tế cuộc sống và tâm tư

của những người dân lao động trong và ngoài nưoc. Người đã khẳng định:
"Đẳng sau sự phục tùng tiêu cuc, người Đông Dương ẩn giấu một cái gì đang
sõi sục, đang gào thét, và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến". Tin
vào quần chúng, theo quan diểm của Hồ Chi Minh, đó là mot trong những
phẩm chất cơ bán của người cong sản. Quan điểm của Hồ Chi Minh: "Trong
bầu trời khơng có gì q bằng nhân dân. Trong the giới khơng có gi mạnh
bằng lực lượng đồn kết tồn dân". Vi vậy "việc dễ mấy khơng có nhân dân
cũng chịu, việc khó mấy có dân liệu cũng xong". Ngay cả những bậc sĩ phu
tiền bối của Hồ Chí Minh, tuy là những người yêu nước một cách nhiệt thành,
nhưng họ chưa có một quan điểm đúng đẳn và đầy đủ về nhân dân, chưa có
đủ niềm tin vào sức mạnh của quần chúng nhân dân. Quan điểm tin vào dân,
vào nhân tổ con người của Người thống nhất với quan điểm của Mác,
Ảngghen, Lênin: "Quần chûng nhân dân là người sáng tạo chân chính lịch
sử".


10

Người khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, có dân thì
có tất cả, khơng dua vào dân thì khơng thế làm đuợc việc gì. Sức mạnh của
Đảng, của Nhà nước là dựa trên sức mạnh và sự ủng hộ của nhân dân. Lịng
tin của Hồ Chí Minh đối với con người không chỉ dừng lại ở việc thấy được
vai trò, sức mạnh của nhân dân trong cách mạng mà còn thấy được những khả
năng tiềm ẩn của họ nếu được phát huy và sử dụng. Vai trò con người được
thể hiện tập trung ở vai trò quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính
ra lịch sử, chứ không phải "vài ba cá nhân anh hùng". Vai trị đó được thơng
qua các hoạt động thực tiễn cơ bản nhất của con người là: Lao động sản xuất,
đấu tranh chính trị, xã hội và sáng tạo ra các giá trị vật chất và giá trị tinh
thần. Hồ Chí Minh ln có niềm tin mãnh liệt vào khả năng cách mạng của
nhân dân, tin tưởng vào sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân, tin

vào thắng lợi tất yếu của cách mạng Việt Nam như một lẽ tự nhiên, hợp quy
luật phát triển của lịch sử. Tin vào con người, vào quần chúng nhân dân
nhưng sức mạnh đó chỉ có thể có được khi có sự giác ngộ, nỗ lực, quyết tâm,
đoàn kết của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Khi đất nước giành được
độc lập, Người khẳng định: "Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của
dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là cơng việc của dân. Chính quyền từ
xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đồn thể từ Trung ương đến xã do
dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân"". Hồ
Chí Minh ln tin dân và hiểu con người rất sâu sắc: “Con người dù là xấu,
tốt, văn minh hay dã man đều có tình"!. Trong bất kỳ hồn cảnh nào Hồ Chí
Minh cũng đều có niềm tin sâu sắc vào con người, vào nhân dân. Niềm tin
của chủ nghĩa nhân đạo cộng sản đó khơng chi là cơ sở của niềm hy vong và
nguồn cổ động to lớn của cách mạng, mà còn trở thành phương pháp cách
mạng đúng đắn. Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người viết: Muốn cách
mạng thành cơng thì phải lấy cơng nơng làm gốc; Gốc có vững cầy mới
bền/Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân. Người cách mạng cần biết đem tài
dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân. Từ chỗ tin vào tài năng và trí tuệ sáng


11

tạo của nhân dân, Hồ Chí Minh xác định, trách nhiệm của Đảng, Nhà nước là
phụng sự nhân dân; cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy
tớ thật trung thành của nhân dân; nên phải kính trọng, lễ phép với nhân dân, vì
nhân dân phục vụ. Người dạy: “Phải nhớ rằng dân là chủ. Dân như nước,
mình như cá. Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết"?. Do vậy, Nhà nước
muốn điều hành, quản lý xã hội có hiệu lực, hiệu quả, nhất định phải dựa vào
dân. Việc gì có lợi cho dân thì phải làm cho kỳ được; việc gì có hại cho dân,
thì phải hết sức tránh. Hồ Chí Minh coi con người là nhân tố quyết định thắng
lợi của cách mạng. Người tin vào những phẩm chất tốt đẹp của nhân dân từ

lòng tin tưởng của nhân dân vào cách mạng, vào sự lãnh đạo của Đảng, vì vậy
nhân dân khơng sợ gian khổ, tù đày, hy sinh. Sẵn sàng nhường cơm, sẻ áo,
chở che, đùm bọc, bảo vệ, nuôi nấng bộ đội và cán bộ cách mạng. Do đó,
Người ln yêu cầu phải chăm lo tiết kiệm sức người, sức của, an dân, dưỡng
dân và sử dụng con người cho cách mạng một cách hợp lý, có hiệu quả thiết
thực. Trong đó, khoan thư sức dân, tức là giảm sự đóng góp của nhân dân,
phải bồi dưỡng lực lượng cho nhân dân hơn yêu cầu đóng góp. Về an dân,
Người khẳng định: “Nhân hòa là quan trọng hơn hết" và dưỡng dân, là phát
triển kinh tế, văn hóa khơng ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho nhân dân.
Như vậy, nhân dân, con người thực sự là một nhà thơng thái, vì tai mắt
họ nhiều, việc gì họ cũng nghe, cũng thấy nên có rất nhiều cách nghĩ hay,
cách giải quyết gọn gàng, hợp lý, công bằng, thông minh sáng suốt, đúng như
chân lý mà Người đã khẳng định: “khơng có lực lượng nhân dân, thì việc nhỏ
mấy, dễ mấy, làm cũng khơng xong", "vì chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây dựng
được với sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu người".
2.1.2. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng.
Hồ Chí Minh ln có sự nhất quán khi xem con người vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của cách mạng. Vấn để con mới trong tư tưởng của Người


12

gắn liên với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Do đó, mục tiêu giải phóng con
người gắn liền với mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội. Theo đó,
giành được độc lập rồi nhưng phải mang lại cơm no, áo ấm cho mỗi người
dân, "phải đem hết sức đân, tài dân, của dân làm cho dân", phải “dựa vào lực
lượng của dân, tinh thần của dân để gây hạnh phúc cho dân", "chủ nghĩa xã
hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân và do nhân
dân tự xây dựng lấy".

Thứ nhất, con người là mục tiêu của cách mạng. Mục tiêu cách mạng
của Hồ Chí Minh là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con
người, thực hiện độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Khi đất nước cịn nơ lệ,
lầm than thì mục tiêu trước hết, trên hết là giải phóng dân tộc, giành độc lập
dân tộc. Sau khi chính quyền đã về tay nhân dân, thì mục tiêu ăn, mặc, ở, đi
lại, học hành, chữa bệnh lại được ưu tiên hơn. Bởi vì, Người cho rằng, nếu
nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng khơng
có nghĩa lý gì. Vì vậy, chúng ta phải thực hiện ngay: làm cho dân có ăn, làm
cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân được học hành. Trong Di
chúc, Người viết: “Đầu tiên là công việc đối với con người". Khẳng định con
người là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng thì một điều quan trọng là mọi
chủ trương, đưong lối, chính sách của Đảng, Chính phủ đều vì lợi ích chính
đáng của con người. Có thể đó là lợi ích lâu dài, lợi ích trước mắt; lợi ích cả
dân tộc và lợi ích của bộ phận, giai cấp, tầng lớp và cá nhân. Như vậy, tư
tưởng Hồ Chí Minh coi giải phóng con người là mục tiêu cao nhất của toàn bộ
sự nghiệp cách mạng nước ta. Mục tiêu đó trước hết nhằm giải phóng con
người về mặt chính trị - xã hội đồng thời với q trình phát triển toàn dien về
kinh tế, khoa học, kỹ thuật, pháp luật... theo từng mức độ, trình độ cụ thể. Đó
là một sự nghiệp lâu dài, khó khăn, gian khổ của nhiều thế hệ người Việt Nam
mà Hồ Chí Minh là người khởi xướng. Thứ hai, con người là động lực của
cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, con người khơng chi là mục tiêu của cách
mạng còn động lực quan trong thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Đứng trên


13

lập trường của chủ nghĩa duy vật lịch sử và với những kinh nghiệm đúc rút từ
thực tien của mình, Hồ Chí Minh đã có những nhận thức,đánh giá đúng đắn
về vai trò của con người, con người là lực lượng chủ yếu, trực tiếp sáng tạo ra
của cải, luôn nâng cao sức sản xuất, mà sức sản xuất phát triển tức là xã hội

phát triển và do vậy, lịch sử xã hội do người lao động sáng tạo ra. Con người
là động lực của cách mạng được nhìn nhận trên phạm vi cả nước, toàn thể
đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân. Điều này có ý
nghĩa to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Khơng phải mọi con người đều trở thành động lực, mà phải là những con
ngưoi đuợc thức tinh, giác ngộ, giáo dục, định hướng và tổ chức. Họ phải có
trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được ni dưỡng trên nền truyền thống
lịch sử và văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Con người là động
lực chỉ có thể thực hiện được khi hoạt động có tổ chức, có lãnh đạo. Vì vậy,
sự lãnh đạo của Đảng mácxít chân chính là vơ cùng quan trọng. Qua các
phong trào cách mạng của quần chúng, Đảng sẽ nhân sức mạnh của con người
lên gấp bội. Đồng thời, phải nhận thức sâu sắc, đầy đů vai trò động lực của
con người mối trong quan hệ biện chứng giữa con người mục tiêu và con người - động lực. Càng chăm lo cho con người - mục tiêu tốt bao nhiều thì sẽ
phát huy con người - động lực tốt bấy nhiêu. Ngược lại, tăng cường được sức
mạnh của con người - động lực thì sẽ nhanh chóng đạt được mục tiêu cách
mạng.
2.2. Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng con người
2.2.1. Tầm quan trọng của việc xây dựng con người
Hồ Chí Minh nhấn mạnh, để cao, nêu bật vai trò của giáo dục, đảo tạo,
xây dựng con người mới XHCN và coi đó là một chiến lược lâu dài. Với câu
nổi tiếng:
"Vi lợi ich muời năm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trống người".


14

Hồ Chí Minh ln đặt lơng tin vào khả năng của giáo dục. Người chỉ
rõ: Tiền đồ của dân tộc ta sẽ ra sao, một phần quan trọng là do sự nghiệp giáo
dục trực tiếp quyết định.

"Ngủ thi ai cũng như lương thiện
Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiển Hiền,
dữ đâu phải là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên".
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới bắt nguồn từ quan
niệm coi con người là vốn quý nhất, yếu tố quyết định đối với sự thành bại
của cách mạng, Con người là lực lượng, là động lực và là mục tiêu của cách
mạng Việt Nam. Chiến lược xây dựng con người được Hồ Chí Minh đặt ra và
quan tâm từ rất sớm. Năm 1947, trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Người
khẳng định: vô luận việc gì, đều do người làm ra và từ nhỏ đến to, từ gần đến
xa, đều thế cả. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Đảng cần phải chăm
lo giáo duc đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế
xây dụựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng", vừa “chuyên". Bồi dưỡng thế hệ
cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết". Theo
Người, con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển nhằm
phát huy cao nhất mọi tiềm năng con người (cá nhân, tập thể, cộng đồng).
Theo nghĩa rộng, chiến lược con người nằm trong nội dung của chiến lưoc
kinh tế - xã hội - chính trị - văn hố, nhằm giải quyết một loạt vấn đề như:
phát triển người, phát triển nguồn nhân lực; giáo dục và đào tạo; dân số; y tế;
đầu tư; chính sách xã hội; mơi trường... Theo nghĩa hẹp, chiến lược con người
lấy giáo dục và đào tạo là cơ bản, nhằm tạo ra những con người "vừa có đức,
vừa có tài", trong đó lấy đạo đức làm gốc. điểm Hồ Chí Minh, việc xây dựng
con người mới là yêu cầu khách quan, vừa là mục tiêu trước mắt vừa có ý
nghĩa chiến lược của sự nghiệp cách mạng. Xây dựng con người là một trọng
tâm, bộ phận hợp thành của chiến lược phát triển đất nước, nó có mối quan hệ


15

chặt chẽ với nhiệm vụ xây dựng chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Hồ Chí

Minh t rên cơ sở khẳng định vai trị của con người, Người nói đến “lợi ích
trăm năm" với nghĩa vụ “trồng Theo quan điểm Hồ Chí Minh: “Muốn xây
dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần phải có những con người xã hội chủ
nghĩa". Chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra những con người xã hội chủ nghĩa, con
người xã hội chủ nghĩa là động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội. Không phải
chờ cho kinh tế, văn hóa phát triển cao rồi mới xây dựng con người xã hội chủ
nghĩa; cũng không phải xây dựng xong những con người xã hội chủ nghĩa rồi
mới xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc xây dựng con người xã hội chủ nghĩa
được đặt ra ngay từ đầu và phải đuoc quan tâm trong suốt tiến trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội. “Trước hết cần phải có những con người xã hội chủ nghĩa"
cần được hiểu trước hết cần có những con người với những nét tiêu biểu của
xã hội xã hội chủ nghĩa như lý tưởng, đạo đức, lối sống, tác phong xã hội chủ
nghĩa. Đó là những con người đi trước, làm gương lơi cuốn người khác theo
con đường xã hội chủ nghĩa.
2.2.2. Theo Hồ Chí Minh xây dựng con người bao gồm:
Thứ nhất, Hồ Chí Minh nhiều lần chỉ rõ: “Sức có mạnh mới gánh được
nặng và đi được xa”, người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền
tảng, nếu khơng có đạo đức làm nền tảng, làm cái căn bản thì dù tài giỏi mấy
cũng khơng lãnh đạo được nhân dân. Vai trị sức mạnh của đạo đức được Hồ
Chí Minh nhìn nhận trên các bình diện:
Có đạo đức cách mạng mới hoàn thành được sự nghiệp cách mạng vẻ
vang. Sự nghiệp cách mạng của chúng ta là giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người, làm cho người Việt Nam từ nghèo đói trở nên
đủ ăn, từ đủ ăn trở nên khá, từ khá trở nên giàu và giàu thì lại càng giàu thêm.
Sự nghiệp đó rất cao cả và nhân văn, địi hỏi phải có những phẩm chất tương
ứng.


16


Đạo đức là tiêu chí đánh giá sự văn minh, cao thượng của xã hội, con
người. Người có đạo đức là người cao thượng; một dân tộc, mặc dầu kinh tế
cịn lạc hậu, nhưng có được đạo đức cần, kiệm, liêm, chính thì vẫn xứng đáng
là một dân tộc văn minh.
Đạo đức giúp cho con người luôn giữ được nhân cách, bản lĩnh làm
người trong mọi hồn cảnh, khơng dễ bị thay đổi trước những xoay vần, biến
thiên của thời cuộc: Giàu sang khơng thể quyến rũ, nghèo khó khơng thể
chuyển lay, uy lực không thể khuất phục.
Đạo đức là gốc, là nguồn, là nền tảng, bởi lẽ, có tâm, có đức mới giữ
vững được chủ nghĩa Mác - Lênin, đưa chủ nghĩa Mác - Lênin vào cuộc sống.
Trong mối quan hệ giữa đạo đức và trí tuệ, đức và tài, Hồ Chí Minh đã nêu
một quan điểm lớn: Phải có đức để đi đến cái trí. Vì khi đã có cái trí, thì cái
đức chính là cái đảm bảo cho người cách mạng giữ vững chủ nghĩa mà mình
đã giác ngộ, đã chấp nhận, đã đi theo.
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, cấu trúc nhân cách bao gồm hai
mặt: đạo đức và tài năng, phẩm chất và năng lực, hồng và chuyên, trong đó,
Người xác định đạo đức, phẩm chất, hồng là gốc, là nền tảng, nhưng điều đó
khơng có nghĩa là tuyệt đối hóa mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Đức là gốc, nhưng
đức và tài phải kết hợp, phải đi đơi, khơng thể có mặt này, thiếu mặt kia. Hồ
Chí Minh đã nói rất rõ, có tài mà khơng có đức ví như một anh làm kinh tế tài
chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những khơng làm được gì ích
lợi cho xã hội, mà cịn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà khơng có tài ví
như ơng Bụt khơng làm hại gì, nhưng cũng khơng lợi gì cho lồi người.
Người thực sự có trí thì bao giờ cũng cố gắng học tập, nâng cao trình độ, nâng
cao năng lực, tài năng, nghiệp vụ để hồn thành tốt, có hiệu quả, trong thời
gian ngắn nhất mọi nhiệm vụ được giao. Khi đã thấy rằng khơng vươn lên
được thì đối với ai có tài hơn mình, mình sẵn sàng học tập, ủng hộ và sẵn
sàng nhường bước, để họ bước lên trước. Quan niệm đức là gốc, là nền tảng



17

của con người, của xã hội ở Hồ Chí Minh phải được hiểu trong mối quan hệ
đa chiều và biện chứng như vậy.
Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người đã nêu 23 điểm thuộc “tư
cách một người cách mệnh”, trong đó chủ yếu là các tiêu chuẩn về đạo đức,
thể hiện chủ yếu trong ba mối quan hệ: với mình, với người và với việc.
Người viết: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự
nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu
tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi
được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới
hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. Về vai trò của đạo đức, Hồ
Chí Minh khẳng định, đạo đức cách mạng giúp cho con người vững vàng
trong mọi thử thách. Người viết: “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó
khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước”; “khi gặp thuận
lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn,
“lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ
không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không
kiêu ngạo, không hủ hóa”. Đối với Đảng, tổ chức tiền phong chiến đấu của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, Hồ Chí
Minh yêu cầu phải xây dựng Đảng ta thật trong sạch, Đảng phải “là đạo đức,
là văn minh”. Người thường nhắc lại ý của V.I. Lênin: Đảng Cộng sản phải
tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại.
Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập đến một cách toàn diện.
Người nêu yêu cầu đạo đức đối với các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội,
trên mọi lĩnh vực hoạt động, trong mọi phạm vi, từ gia đình đến xã hội, trong
cả ba mối quan hệ của con người: đối với mình, đối với người, đối với việc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đặc biệt được mở rộng trong lĩnh vực đạo đức của cán
bộ, đảng viên, nhất là khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền. Trong bản Di
chúc bất hủ, Người viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và



18

cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm
chính, chí cơng vơ tư”.
Hồ Chí Minh hiểu rất rõ ở mỗi người đều có mặt tốt, mặt chưa tốt;
trong tập thể có người tốt, có người xấu. Do đó, hình thức giáo dục đạo đức
của Người là kết hợp khen với chê, xây đi đơi với chống, trong đó lấy xây làm
chính. Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt
đẹp nhất thiết phải chống những biểu hiện sai trái, xấu xa, trái với những yêu
cầu của đạo đức mới, đó là chủ nghĩa cá nhân. Theo Hồ Chí Minh chủ nghĩa
cá nhân là một thứ vi trùng rất độc, là bệnh chính, bệnh mẹ sinh ra trăm thứ
bệnh khác như quan liêu, tham lam, lười biếng, kiểu ngạo, hiểu danh, xu nịnh,
a dua. .. Giáo dục đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần “qt sạch
chủ nghĩa cá nhân", nâng cao đạo đức cách mạng.
Thứ hai, Để phát triển mặt trí tuệ của con người tồn diện Việt Nam,
Hồ Chí Minh chủ trương trước hết phải chú trọng giáo dục lý tưởng cách
mạng. Bời lẽ, theo Người, trong thời đại ngày nay, nếu con người không có
định hướng chính trị đúng đắn, khơng được trang bị một lý tưởng cách mạng
tiên tiến thì "như người nhắm mắt mà đi""; như đi ban đêm khơng có đèn,
khơng có gậy, dễ vấp té; “như người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ
nam" và nhất định khơng thể hăng hái đấu tranh cho nhân dân, cho cách
mạng. Hồ Chí Minh cho rằng, lý tưởng chính trị của mỗi người Việt Nam
trong thời đại ngày nay là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội “phấn đấu cho
Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất
nước ta và trên tồn thế giới, trong đó giáo dục, bồi dưỡng tinh thần yêu nước
là vấn đề vô cùng quan trọng để củng cố và phát triển lý tưởng độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội. Cùng với việc tăng cường bồi dưỡng và nâng cao
giác ngộ chính trị và lý tưong cách mạng, vấn để giáo dục kiến thức văn hóa,

khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và nhân văn, kỹ năng nghề nghiệp... để
phát triển trí lực của con người tồn diện Việt Nam cũng được Hồ Chí Minh


19

hết sức coi trọng. Người viết: "Trên nền tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo tư
tưởng tốt, phải phấn đấu nâng cao chất lượng văn hóa và chun mơn" và
"Cách mạng xã hội chủ nghĩa gắn liền với sự phát triển khoa học và kỹ thuật,
với sự phát triển văn hóa của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, con người cần
phải có một trình độ học vấn, kiến thức văn hóa nhất định mới có thể tiếp thu
được khoa học, cơng nghệ, mới sử dụng có hiệu quả máy móc, kỹ thuật ngày
càng hiện đại. Người chỉ rõ: "Nếu khơng học tập văn hóa, khơng có trình độ
văn hóa thì khơng học tập được kỹ thuật, khơng học tập được kỹ thuật thì
khơng theo kịp đưoc nhu cầu kinh tế nước nhà".
Thứ ba, Người quan niệm sức khỏe là gồm có sự thoải mái cả về thể
xác lẫn tâm hồn. Ðiều đáng chú ý, Người phát biểu quan niệm này từ năm
1946 và tới năm 1978, Tổ chức Y tế thế giới mới đưa ra định nghĩa về sức
khỏe. Người định nghĩa: “Khí huyết lưu thơng, tinh thần thoải mái, thế là sức
khỏe”. Sinh ra tại một vùng “địa linh nhân kiệt” như Nghệ An, nơi cách
không xa quê ngoại của Ðại danh y Hải Thượng Lãn Ông (Hương Sơn, Hà
Tĩnh), lại lớn lên trong một gia đình nhà Nho có cha đã từng là thầy thuốc
đơng y làm nghề cắt thuốc trị bệnh cứu người, Chủ tịch Hồ Chí Minh am hiểu
sâu sắc về y lý, y thuật và y đạo của Y học phương Ðơng. Vì vậy, khi diễn giải
về sức khỏe, Người dùng những khái niệm của y học phương Ðông. Theo Y
học phương Ðông, huyết là cái xe vận chuyển khí, khí động thì sinh ra tinh,
tinh động thì sinh ra thần. Nếu khí khơng động thì tinh thần tan rã, và như vậy
là sinh ra bệnh tật, ốm đau, chết chóc.
Trên cơ sở hiểu một cách đúng đắn về sức khỏe, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định vai trị của sức khỏe và vị trí của cơng tác chăm sóc sức khỏe

trong kháng chiến và kiến quốc: Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả nước
yếu ớt, mỗi một người dân mạnh khỏe tức là cả nước mạnh khỏe”. “Dân
cường thì quốc thịnh”. “Sức khỏe của cán bộ và nhân dân được bảo đảm thì
tinh thần càng hăng hái. Tinh thần và sức khỏe đầy đủ thì kháng chiến càng


20

nhiều thắng lợi, kiến quốc càng mau thành công”. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh,
con người là vị trí trung tâm của mọi hoạt động và quyền được sống là quyền
cao nhất của con người. Khi được sống thì sức khỏe là yếu tố quan trọng nhất,
nếu khơng có sức khỏe thì chẳng làm được gì. Chính vì vậy mà Người dạy
chúng ta: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì
cũng cần có sức khỏe mới làm thành cơng”. Ðó chính là tư tưởng nhân văn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trị của sức khỏe và vị trí của cơng tác chăm
sóc sức khỏe. Có một điều mà chúng ta cần nhận thức sâu sắc, đó là ngay khi
cách mạng cịn nhiều khó khăn, gian khổ, đời sống của nhân dân cịn gian
nan, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất coi trọng vị trí của cơng tác chăm
sóc và bảo vệ sức khỏe. Người cho rằng: “Sạch sẽ thì ít ốm đau. Sức khỏe thì
làm được việc, làm được việc thì có ăn”. Như vậy, khơng phải chỉ khi nào “có
ăn” mới lo giữ sức khỏe. Người cịn dạy: “Mình dù nghèo, ai cấm mình ăn ở
sạch sẽ”. Ngày nay, khi liên hệ với nhận thức của một số cán bộ lãnh đạo các
cấp, đặc biệt ở địa phương, chúng ta có thể thấy tình trạng coi nhẹ cơng tác
chăm sóc sức khỏe của nhân dân trong địa bàn mình quản lý. Họ thường viện
lý cần phải phát triển kinh tế trước, lo cái ăn trước và chăm lo văn hóa xã hội
sau. Ðành rằng kinh tế có phát triển thì mới có tiền để mua trang thiết bị dùng
để nâng cao chất lượng phịng bệnh và chữa bệnh. Nhưng khơng vì thế mà
lãng quên hoặc coi nhẹ mọi hoạt động của cơng việc chăm sóc sức khỏe ngay
khi bắt đầu xây dựng kinh tế. Hơn thế, câu nói trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh
cịn cho thấy: Chăm sóc sức khỏe cũng góp phần tạo ra của cải xã hội chứ

không phải là một công việc chỉ tiêu tốn của cải xã hội. Hồ Chí Minh xem xét
con người vừa là một thực thể tự nhiên, vừa là một thực thể xã hội, trong sự
thống nhất giữa yếu tố tự nhiên và xã hội. Vì vậy, thế lực, sức khỏe là mặt rất
quan trọng trong đời sống mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Phát triển con người
toàn diện cần phải quan tâm nhiều đến thể lực, sức khỏe. Trong chủ trương
xây dựng con người mới phát triển toàn diện, ngay từ đầu, Hồ Chí Minh đã
hết sức quan tâm đến vấn đề thể lực, sức khỏe, bởi theo Người, “Giữ gìn dân


21

chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới
thành cơng". Người quan niệm sức khỏe là sự lành mạnh cả về thể xác lẫn
tinh thần. Năm 1946, Hồ Chí Minh viết: “khí huyết lưu thông, tinh thần đầy
đủ, như vậy là sức khỏe". Người chỉ rõ mối quan hệ khăng khít giữa sức khỏe
của mỗi người dân với sức khỏe của cả dân tộc, do đó, nâng cao sức khỏe của
cá nhân là góp phần tăng thêm sức khỏe của tồn xã hội. Hồ Chí Minh viết:
“Mỗi một người dân yếu ớt tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân khỏe
mạnh là cả dân tộc khỏe mạnh. Vậy nên luyện tập thể dục, bồi bổ sức khỏe là
bổn phận của mỗi người dân yêu nước".
Thứ tư, Phát triển, nâng cao năng lực thẩm mỹ Theo Hồ Chí Minh, là
con người ai cũng có ước vọng vươn tới "chân, thiện, mỹ". Đó là bản chất
nhân văn ln tiềm ấn trong con người. Hồ Chí Minh cho rằng, phát triển
năng lực, nâng cao trình độ thẩm mỹ của con người Việt Nam là để họ hiểu
biết ngày càng sâu hơn mối quan hệ thẩm mỹ giữa con người với hiện thực, từ
đó không ngừng phấn đấu vươn tới cái hay, cái đẹp, cái cao cả nhằm từng
bước hoàn thiện bản thân, làm xã hội ngày càng phát triển. Để phát triển và
nâng cao trình độ, năng lực thẩm mỹ đúng đắn cho con người tồn diện, Chủ
tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Mỹ dục: là để phân biệt cái gì là đẹp, cái gì là
khơng đẹp”. Giáo dục thẩm mỹ hình thành ở con người một quan hệ thẩm mỹ

nhất định đối với hiện thực, đáp ứng nhu cầu hướng thiện, nhu cầu khám phá
và thưởng thức cái đẹp của nghệ thuật và cuộc sống. Cùng với các nội dung
giáo dục khác, làm tốt công tác giáo dục thẩm mỹ sẽ thúc đẩy việc mạnh mẽ
hình thành nhân cách – đạo đức, hướng con người vào cái thiện, cái đẹp để
phấn đấu, rèn luyện hoạt động và cống hiến.
2.2.3. Phương pháp xây dựng con người
Theo Hồ Chí Minh, để xây dựng con người mới tồn diện như trên có
rất nhiều phương pháp khác nhau, trong đó cần chú ý ba phương pháp cơ bản
sau:


22

Thứ nhất, Xây dựng đời sống mới Một trong những phương pháp xây
dựng con người mới phải gắn với xây dựng đời sống mới, đó là những biểu
hiện trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người, dễ hiểu, dễ thấy. Theo Người,
xây dựng đời sống mới phải bắt đầu từ từmg người, từng gia đình, vì mỗi
người là một cá thể để tạo nên gia đình, mỗi gia đình là một tế bào để tạo nên
xã hội. Mỗi người, mỗi gia đìinh đều thực hiện đời sống mới thì mới có thể
xây dựng được đời sống mới ở các tập thể, các đơn vị, làng xã, phố phường
cho đến cả nước, "Ai cũng làm như thế, thì tự nhiên nước Việt Nam ta trở nên
một nước mới, một nước văn minh".
Thứ hai, Phát động phong trào thi đua yêu nước. Trong sự nghiệp xây
dựng con người mới, Hồ Chí Minh luôn coi trọng và nhấn mạnh việc phát
động phong trào thi đua yêu nước để rèn luyện, xây dựng con người mới.
Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Người đạo thực hiện phong trào thi đua
yêu nước, nhằm phát huy những phẩm chất tốt đẹp và khắc phục những hạn
chế .Theo Hồ Chí Minh: Mỗi người tốt, mỗi việc tốt là những bông hoa đẹp.
Cả dân tộc ta là một rừng hoa đẹp. Người cho rằng, qua những phong trào thi
đua và trải qua rèn luyện, thử thách trong thi đua từ đó hình thành nên người

những việc tốt, phẩm chất tốt để hình thành một lớp người tốt, lớp người mới
để “dân tộc ta là một rừng hoa đẹp". Điều này cũng đồng nghĩa với việc mỗi
chúng ta muốn trở thành người tốt, trở thành người Việt Nam mới thì chỉ có
gắn mình vào phong trào thi đua u nước sơi nổi và chính qua phong trào đó
bản thân tự đánh giá, tự điều chỉnh để có nhiều việc tốt mà trở thành người
tốt. Theo Người, phong trào thi đua là trường học thực tiễn rộng lớn để cải tạo
con người cũ, xây dựng con người mới, xã hội mới. Trên thực tế, thi đua là
một hoạt động có mặt trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nó là động lực,
là sức kích thích con người nỗ lực phấn đấu để đạt được kết quả cao nhất
trong công việc, trong học tập và trong rèn luyện. Hồ Chí Minh cho rằng:
"Lấy tốt gương trong quần chúng nhân dân và cán bộ đảng viên để giáo dục
lẫn nhau còn phương pháp lấy quần chúng giáo dục qu ần chúng rất sinh động


23

và có sức thuyết phục rất lớn"".Theo Hồ Chí Minh, ở trong mỗi con người
đều có mặt mới mặt cũ, có cái tốt cái xấu. Vấn đề chỉ là ở chỗ mặt nào nhiều
hơn và mỗi người phải phấn đấu sao cho những mặt tốt ngày càng nhiều hơn,
những cái xấu ngày càng ít. Q trình phấn đấu để trở thành người tốt, con
ngưoi mới chính là q trình đấu tranh để xóa bỏ cái cũ, cái xấu, xây dựng cái
tốt, cái mới từ ít đến nhiều, từ thấp đến cao, từ chua hồn thiện đến hồn
thiện. Đó cũng chính là q trình tham gia thi đua, khơng ngừng vươn lên của
mỗi người. Đó cũng là q trình làm cho cái mới ngày càng này nở như hoa
mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi trong đời sống xã hội chúng ta. Thứ ba,
Phát triển giáo dục - đào tạo lịch sử nhân loại đã chứng minh, trong tất cả các
yếu tố tạo nên sự thành công của các quốc gia cũng như sự thành đạt của mỗi
cá nhân, giáo dục có một vài trị đặt biệt. Với Hồ Chí Minh, con người với
những tố chất như hiểu biết, năng lực, đạo đức là yếu tố then chốt, có tính
chất quyết định đối với thành cơng của cách mạng, tiến bộ của xã hội, tiền đồ

của dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Con người là vốn quý nhất, thắng lợi
của sự nghiệp cách mạng, sự hưng thịnh, tồn vong của một quốc gia suy cho
cùng phụ thuộc vào con người, vào sự nghiệp "trồng người", trong đó giáo
dục đào tạo đóng vai trị to lớn, góp phần tạo ra đội ngũ bác học, chuyên gia
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hơn nữa, giáo dục - đào tạo còn
trực tiếp quyết định đến trình độ học vấn, trình độ dân trí của mỗi người. Giáo
dục không chi là động lực hàng đầu để phát triển mà cịn tạo ra nhân cách con
người, góp phần cài tạo con người cũ, xây dựng con người mới. Theo Người,
“Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn, Phần nhiều do giáo dục mà nên"!. Giáo dục đào tạo nhằm phát triển con người toàn diện, vừa "hồng", vừa “chuyên", đủ
đức, đủ tài. Con người toàn diện, theo Hồ Chí Minh, phải là con người "có
học thức". Nền giáo dục mà Chủ tịch Hồ Chí Minh dày cơng vun đắp và xây
dựng là nhằm đào tạo nên những con người vừa hồng, vừa chuyên để phụng
sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, phục vụ Tổ quốc và nhân loại. Nền giáo
dục mới ấy xóa bỏ những quan niệm coi khinh lao động chân tay. Xuyên suốt


24

triết lý giáo dục con người ở Hồ Chí Minh là gắn liền giáo dục với thực tiễn
cách mạng Việt Nam. Đó là nền giáo dục mới cho con người, vì con người, vì
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của con người. Theo Người, học để sửa
chữa tư tưởng, học để tu dưỡng đạo đức cách mạng, học để tin tưởng, học để
hành, để quyết tâm hy sinh, bền bỉ chiến đấu đến cùng cho lý tưởng cách
mạng. Giáo dục - đào tạo cịn góp phần hình thành nhân cách con người. Với
ý nghĩa đó, giáo dục quyết định sự biến đổi tư tưởng, tâm lý và nâng cao trình
độ nhận thức của con người. Giáo dục trở thành điều kiện, tiền đề cho việc
hìinh thành và phát triển bản chất con người. Là vũ khí sắc bén để cải tạo con
người cũ, xây dựng con người mới. Giáo dục là phương tiện định hướng con
người theo một chủ đích nhất định, hướng con người đến với chân, thiện, mỹ.



25

CHƯƠNG III. GIÁ TRỊ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Ở nước ta trong cách mạng xã hội chủ nghĩa hiện nay, chiến lược con
người được đặt ra như 1 đòi hỏi tất yếu và cấp bách của sự phát triển đất nước
và là nguồn lực quyết định để đẩy mạnh công cuc i mi. T tng v
chin lc ỗon ngi ca Đảng ta đặt trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin trong đó tư tưởng C.Mác ln ln là nền tảng. Ở Việt Nam, tư tưởng
Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chi nam cho hành động của Đảng. Do
vậy, sự nghiệp cách mạng và tiến trình lịch sử xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta in đậm dấu ấn tư tưởng Hồ Chí Minh trong đó có tư tưởng về con
người. Thực tiễn của quá trình cách mạng Việt Nam cũng chứng tỏ rằng trong
những thời điểm lịch sử hiểm nghèo, trong những tình thế hết sức khó khăn,
con người Việt Nam đều rất sáng tạo và năng động ln tìm ra những lối
thốt, những đường hướng đi lên làm kinh ngạc bạn bè quốc tế. Thực tiễn lịch
sử đã chứng minh: thời kì nào, cách mạng nào nếu biết phát huy mạnh mẽ yếu
tố con người, tạo điều kiện cho hoạt động sáng tạo của con người thi con
người Việt Nam luôn biết “chuyển bại thành thắng", chuyển từ tình thế khó
khăn thành lợi thế phát triển mới trong đó con người là động lực trung tâm.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, tiềm năng sáng tạo của con người Việt
Nam đã và đang được phát huy mạnh mẽ. Tuy nhiên có thể nhận thấy tiềm
năng trí tuệ của con người Việt Nam mà chúng ta chưa khai thác hết vẫn còn
rất lớn. Thực tiễn đổi mới cho thấy, chỉ với một cơ chế khốn 10 mà giai cấp
nơng dân Việt Nam đã phát huy tính năng động sáng tạo ghê gớm đủ sức làm
thay đổi căn bản bộ mặt nền nông nghiệp nước nhà. Với đội ngũ cán bộ khoa
học kĩ thuật có trình độ, đội ngũ trí thức khá đơng đảo và giàu tiềm năng như
hiện nay rất cần 1 cơ chế “khốn 10" làm bật dậy và bừng sáng trí tuệ Việt
Nam trong thời đại kinh tế tri thức. Như vậy, vấn đề mấu chốt là cơ chế,
chính sách. Chi cần xây dựng hệ thống cơ chế chính sách thích hợp là sẽ khơi



×