Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Tiểu luận cao học TTHCM tư tưởng hồ chí minh về đoàn kết quốc tế giá trị lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.3 KB, 41 trang )

MƠN:



TƯỞNG

HỒ

CHÍ

MINH

VỀ

ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC VÀ ĐỒN KẾT QUỐC TẾ

Đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế. Giá
trị lý luận và thực tiễn.


LỜI MỞ ĐẦU
1- Lý do chọn đề tài
Thực tiễn ngày càng chứng minh, cùng với chủ nghĩa Mác- Lê Nin. Tư
tưởng Hồ Chí Minh có giá trị to lớn, dẫn đường cho mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam trong hơn 77 năm qua. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII
của Đảng (6/1991) khẳng định: " Đảng lấy chủ nghĩa Mác- Lê Nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của
toàn Đảng". Các đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, IX, X của Đảng chỉ
rõ: " tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lê Nin và tạo điều kiện cụ thể của nước


ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hóa của dân tộc". trong đó tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết
tồn quốc có vị trí đặc biệt quan trọng.
Hiện nay, trong bối cảnh quốc tế biến đổi nhanh chóng và xu thế tồn
cầu hóa đang gia tăng, nhất là lĩnh vực kinh tế, khơng một quốc gia nào có thể
phát triển mà lại khơng mở rộng quan hệ, đồn kết, hợp tác với các nước
khác. Nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, để phát triển và nâng cao vị thế của mình trên trường quốc
tế, một trong những vấn đề quan trọng là phải mở rộng đoàn kết hợp tác theo
tinh thần "Việt Nam sẵn sàng làm bạn là đối tác tin cậy của các nước trong
cộng đồng quốc tế". Tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc trế có ý nghĩa
quan trọng trong cơng cuộc đổi mới của Đảng và nhà nước ta.
Chính vì vậy em lựa chọn đề tài: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết
quốc tế. Giá trị lý luận và thực tiễn” làm đề tài kết thúc học phần tư tưởng Hồ
Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế.

1


2- Mục đích nghiên cứu
Đề tài bước đầu khái quát lại những nội dung chủ yếu trong tư tưởng
Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, làm nổi bật những quan điểm chiến lược về
đoàn kết quốc tế của chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ đó hiểu được những giá trị lý
luận và cả giá trị thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế
3- Phương pháp nghiên cứu
Ở mức độ bước đầu của sinh viên nghiên cứu khoa học xã hội, em sử
dụng phương pháp tổng hợp tài liệu, nghiên cứu theo phương pháp lịch sử là
chính dựa trên nền tảng quan điểm của Đảng và nhà nước Việt Nam.
4- Kết cấu của đề tài
- Chương I: Những vấn đề cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn

kết quốc tế.
- Chương II: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế
trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam hiện nay.

2


CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ ĐỒN KẾT QUỐC TẾ

1.1. Những nhân tố hình thành tư tưởng đồn kết quốc tế của Hồ
Chí Minh.
1.1.1. Truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Ý thức quốc gia, dân tộc, làm chủ đất nước của cộng đồng người Việt
có từ ngàn xưa. Cuộc chiến đấu với thiên nhiên, với giặc ngoại xâm trong lịch
sử ngàn năm đã hun đúc nên truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam: Yêu
nước nồng nàn, độc lập tự chủ, kiên cường bất khuất, đoàn kết thống nhất,
nhân ái khoan dung.
Trước hết, là chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt qúa trình lịch sử của dân tộc Việt Nam. Những nội dung chủ yếu
của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã từng bước được đúc kết, hình thành một
hệ thống các nguyên lý với tư tưởng của các anh hùng hào kiệt như: Lý
Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang Trung… chính sức mạnh
truyền thống ấy đã thúc giục người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm
đường cứu nước. Đó cũng là động lực chi phối mọi suy nghĩ, hành động của
Người trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
viết: Lúc đầu, chính chủ nghĩa yêu nước chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã
đưa tôi theo Lênin, tin theo quốc tế thứ III. Truyền thống yêu nước của dân
tộc được Nguyễn Tất Thành tiếp thu từ những ngày ở quê hương và trên con
đường bôn ba khắp năm châu bốn bể. Người đã đến với những người lao

động trên thế giới, đến với tình hữu ái vơ sản và đến với chủ nghĩa MácLênin, đó là con đường cứu nước, giải phóng dân tộc.
Thứ hai, đó là tinh thần đồn kết, tương ái của dân tộc. Truyền thống
này hình thành cùng một lúc với sự hình thành dân tộc, từ hồn cảnh và u
3


cầu đấu tranh chống thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm. Người Việt Nam
quen gắn bó với nhau trong tình làng nghĩa xóm, tối lửa tắt đèn có nhau. Bước
sang thế kỷ XX, mặc dù xã hội Việt Nam đã có sự phân hóa về giai cấp,
truyền thống này vẫn bền vững. Vì vậy Hồ Chí Minh đã chú ý kế thừa và phát
huy sức mạnh truyền thống đoàn kết của dân tộc để hình thành tư tưởng đồn
kết quốc tế, phấn đấu vì một thế giới hịa bình, ổn định và phát triển.
Thứ ba, ngoại giao truyền thống Việt Nam cuãng là một nhân tố quan
trọng hình thành tư tưởng đồn kết quốc tế của Hồ Chí Minh. Ngoại giao
truyền thống Việt Nam xem trọng việc giữ hịa khí, đồn kết hữu nghị với các
nước, phấn đấu cho sự thái hịa, u chuộng hịa bình là bản chất của ngoại
giao Việt Nam. Trong khi lập trường nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự xâm lược của các ngoại bang, Đại Việt ln
kiên trì đường lối hịa bình trong quan hệ ngoại giao với các nước láng giềng.
Hòa hiếu là tư tưởng cốt lõi của ngoại giao Đại Việt đúng như nhà sử học
Phan Huy Chú đã đúc kết lịch sử ngoại bang của đất nước chúng ta: “Trong
việc trị nước, hòa hiếu với láng giếng là việc lớn”.
1.1.2. Chủ nghĩa Mác - Lênin và Quốc tế Cộng sản
Sau nhiều năm bôn ba ở các nước, cuối năm 1917 Nguyễn Ái Quốc trở
lại nước Pháp, tham gia phong trào công nhân Pháp và gia nhập Đảng Xã hội
Pháp, Nguyễn Ái Quốc muốn nhanh chóng tìm ra con đường cứu nước đúng
đắn và tìm lực lượng đoàn kết tin cậy. Điều quan trọng hơn hết của Nguyễn
Ái Quốc là “sự đoàn kết”, “đoàn kết với các dân tộc thuộc địa”. Hầu hết trong
các buổi mít tinh, thảo luận, Nguyễn Ái Quốc đều phát hiện và khéo lái những
vấn đề đang thảo luận sang vấn đề đoàn kết với các vấn đề thuộc địa. Nguyễn

Ái Quốc đã từng nói: Trong các cuộc bàn cãi, người ta rất ít nói đến sự đồn
kết với các dân tộc thuộc địa, nhưng đó lại là vấn đề mà tơi quan tâm hơn hết.
Sau khi được biết Quốc tế thứ III do Lênin sáng lập có chủ trương đồn
kết các dân tộc thuộc địa và nhất là được đọc “Bản sơ thảo lấn thứ nhất luận
4


cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin, lần dầu tiên Nguyễn Ái
Quốc biết có một tổ chức quốc tế ủng hộ sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc bị áp bức. Luận cương của Lênin đã giải quyết trọn vẹn một vấn đề rất cơ
bản mà Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm là vấn đề dân tộc và thuộc địa đặt
ra trong mối quan hệ quốc tế, chỉ ra con đường giải phóng các dân tộc thuộc
địa. Luận cương tạo ra một bước chuyển biến căn bản trong nhận thức tư
tưởng về vấn đề đồng minh về xác định kẻ thù. Luận cương là lời giải đáp
hợp lý nhất, đúng đắn nhất mà Nguyễn Ái Quốc tìm thấy được về con đường
cứu nước, con đường giải phóng dân tộc, đó là “Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc khơng cịn con đường nào khác con đường cách mạng vô sản,
gắn chủ nghĩa yêu nước Việt Nam với chủ nghĩa Mác - Lênin.
Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp họp tại Tua (tháng 12/1920)
Nguyễn Ái Quốc bỏ qua phiếu tán thành Đảng ra nhập Quốc tế III, trở thành
một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Bằng việc làm đó,
Nguyễn Ái Quốc đã nêu cao ngọn cờ đoàn kết quốc tế. Từ đoàn kết các dân
tộc thuộc địa, mở thành đoàn kết với giai cấp vơ sản chính quốc và giai cấp vô
sản thế giới. Nguyễn Ái Quốc viết những bài tham luận, phát biểu trong các
kỳ sinh hoạt đảng và các cuộc họp của các tổ chức xã hội khác, tham gia lãnh
đạo Ban Nghiên cứu về thuộc địa, ra báo Người cùng khổ…. Nguyễn Ái
Quốc đã vạch rõ tội ác của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, tranh thủ sự ủng hộ
của dư luận tiến bộ Pháp và thế giới, hình thành mặt trận đồn kết quốc tế đối
với sự nghiệp giải phóng các dân tộc bị áp bức. Những việc làm đó đã “Đánh
dấu một bước chuyển biến quyết định trong nhận thức tư tưởng và lập trường

chính trị của Nguyễn Ái Quốc, từ đây, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu sâu sắc và
sáng tạo những hẩu hiệu chiến lược của chủ nghĩa Mác - Lênin, “Vơ sản tồn
thế giới, đồn kết lại”, “Vơ sản tồn thế giới và các dân tộc bị áp bức, đoàn
kết lại”. Nguyễn Ái Quốc đã gọi Lênin là hiện thân của tình anh em bốn bể”.
Nguyễn Ái Quốc đã nhấn mạnh: “Lao động tất cả các nước đoàn kết lại” (1)
và người khẳng định, chính Lênin và Quốc tế Cộng sản đã chỉ ra cho dân tộc
5


và giai cấp vô sản thế gới sự cần thiết và con đường tập hợp đoàn kết các lực
lượng cách mạng trong phạm vi từng nước và thế giới vào cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc. Hồ Chí Minh tiếp thu và đi theo
chủ nghĩa Mác - Lênin trên tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, trên cơ sở đó
Người xây dựng và phát triển tư tưởng đồn kết quốc tế của mình.
Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin và Quốc tế Cộng sản là nhân tố quan
trọng có ý nghĩa định hình rõ rệt tư tưởng đồn kết quốc tế của Hồ Chí Minh.
Trải qua gần 10 năm tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã từ chủ nghĩa
yêu nước chân chính đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và Quốc tế Cộng sản, từ
một nhà yêu nước trở thành một chiến sĩ quốc tế chân chính.
1.2.

Một số nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn

kết quốc tế
1.2.1. Độc lập, tự do là mục tiêu, động lực và cơ sở của tư tưởng
đoàn kết quốc tế
Cả cuộc đời hoạt động cách mạng, Người theo đuổi mục tiêu làm cho
nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm
ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Không chỉ phấn đấu cho độc lập tự do của
dân ta mà Hồ Chí Minh cịn đấu tranh khơng mệt mỏi cho độc lập, tự do và

tình đồn kết, hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới.
Từ mục tiêu độc lập cho Tổ quốc, tự do cho nhân dân đến tình hữu ái
vơ sản, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa quốc tế vơ sản, Hồ Chí Minh đã
tìm ra con đường giành độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam trên cơ sở sức
mạnh mới, sức mạnh của thời đại được mở ra từ sau Cách mạng Tháng Mười
vĩ đại. Hồ Chí Minh đã trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, người
chiến sĩ quốc tế chân chính, người đặt nền móng đồn kết giữa cách mạng
Việt Nam và cách mạng thế giới.
Độc lập, tự do là quan điểm nhất quán, xuyên suốt cốt lõi, là cơ sở tạo
6


dựng chiến lược đồn kết quốc tế của Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa Mác - Lênin
coi đoàn kết quốc tế của giai cấp vô sản là vấn đề chiến lược cách mạng. Mac
và Ănghen đã chỉ rõ: "Trong cuộc đấu tranh của những người vô sản thuộc
các dân tộc khác nhau họ đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích khơng phụ
thuộc vào dân tộc và chung cho tồn thể giai cấp vơ sản" , đồng thời hai ông
cũng nêu: "Không khôi phục lại độc lập và thống nhất cho từng dân tộc thì về
phương diện quốc tế, khơng thể thực hiện được sự đồn kết của giai cấp vơ
sản và sự hợp tác hịa bình và tự giác giữa các dân tộc đó để đạt tới mục đích
chung" . Lênin cũng chỉ rõ là chỉ có một chủ nghĩa quốc tế thực sự và làm
việc quên mình là nhằm phát triển phong trào cách mạng ở trong nước mình,
ủng hộ bằng sự tuyên truyền, sự đồng tình, bằng sự giúp đỡ về vật chất, chính
cuộc đấu tranh ấy, chính đường lối ấy và chỉ đường lối ấy thôi, trong tất cả
các nước không trừ một nước nào . Như vậy cả Mác, Ănghen, Lênin trong khi
coi trọng đồn kết quốc tế đều tơn trọng nền độc lập của mỗi dân tộc để tạo
điều kiện cho sự liên minh và đoàn kết quốc tế tự nguyện.
Quán triệt quan điểm trên, Hồ Chí Minh đã làm việc qn mình cho sự
đoàn kết quốc tế rộng lớn nhằm mục tiêu giành độc lập, tự do của dân tộc Việt
Nam và các dân tộc bị áp bức. Người sớm hiểu rõ, trong giai đoạn đế quốc

chủ nghĩa, cách mạng ở các nước thuộc địa tuy mang nội dung dân tộc, dân
chủ nhưng khơng cịn thuộc phạm trù cách mạng tư sản nữa, mà đã trở thành
một bộ phận quan trọng không thể tách rời của cách mạng vơ sản. Vì thế ngay
những năm 20 của thế kỷ XX, Người ra sức xây dựng mối liên minh đoàn kết
giữa các dân tộc thuộc địa với nhau, giữa các dân tộc thuộc địa với giai cấp vơ
sản ở chính quốc. Hồ Chí Minh chỉ rõ, vấn đề cơ bản, nhân tố quyết định
thắng lợi của cách mạng là sự kết hợp giải phóng dân tộc với giải phóng giai
cấp, gắn lợi ích cách mạng một nước với lợi ích cách mạng thế giới. Và chính
Người là hiện thân của sự kết hợp đó.
Hoạt động trong phong trào giải phóng dân tộc và phong trào công
7


nhân quốc tế, thực hiện chiến lược đoàn kết quốc tế vì độc lập, tự do của dân
tộc Việt Nam và các dân tộc thuộc địa, trước hết Hồ Chí Minh thu hút sự quan
tâm của bạn bè quốc tế đối với Việt Nam và các dân tộc thuộc địa. Các tham
luận trên các diễn đàn quốc tế, các bài viết trên các báo, tạp chí, Người lên án
mạnh mẽ tội ác của CNTD. Người muốn chỉ cho giai cấp vơ sản ở chính quốc
thấy rõ trách nhiệm phải đồn kết các dân tộc thuộc địa, ủng hộ cuộc đấu
tranh vì độc lập, tự do của họ như là điều kiện cho sự nghiệp giải phóng của
mình. Đồng thời nhắc nhở những người bị áp bức thuộc mọi chủng tộc cần
đoàn kết lại và chống áp bức, giành độc lập, tự do.
Độc lập, tự do được Hồ Chí Minh đặt thành nhiệm vụ hàng đầu nhưng
lại là nhiệm vụ khó khăn nhất. Người phải kiên trì tư tưởng này, đấu tranh với
những quan điểm tả khuynh - chỉ nhấn mạnh mọt chiều đấu tranh giai cấp
khong muốn tập hợp những lực lượng u nước và dân chủ khác, ngồi cơng
nơng coi thường, đánh giá thấp cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của các dân
tộc thuộc địa, coi cuộc đấu tranh này hoàn toàn lệ thuộc vào cách mạng ở
chính quốc. Quan điểm giải quyết các vấn đề dân tộc, đặt mục tiêu độc lập, tự
do là nhiệm vụ hàng đầu khơng những thể hiện trí tuệ sáng suốt, tầm cao, nhìn

xa trơng rộng của nhà chiến lược thiên tài, mà còn là một quyết định dũng
cảm của Hồ Chí Minh trước vận mệnh dân tộc và trước phong trào cách mạng
thế giới. Điều đó cịn thể hiện trình độ hiểu biết sâu sắc, sự vận dụng linh hoạt
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và khả năng nắm bắt thực
tiễn phong phú cuộc đấu tranh của các dân tộc giành độc lập, tự do của Hồ
Chí Minh. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh lãnh
đạo đã gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng con người
khỏi áp bức, bóc lột thực hiện các quyền tự do, dân chủ cơ bản của con người,
gắn được quyền lợi của giai cấp trong mối quan hệ mật thiết giữa cách mạng
giải phóng dân tộc vì độc lập tự do và cuộc đấu tranh giai cấp.
Với sự nhạy cảm của một nhà chiến lược, Hồ Chí Minh ln nắm vững
8


thời cơ và tạo thời cơ cách mạng. Khi chiến tranh thế giới thứ II nổ ra, Người
khẳng định thời cơ lớn chưa tới. Khi Đức tấn công Liên Xô, Người chỉ rõ:
“Liên Xô và các lực lượng dân chủ nhất định thắng lợi, đó là thời cơ cho dân
tộc Việt Nam. Nhưng điều quan trọng là phải chuẩn bị thực lực bên trong để
đón thời cơ”. Khi lực lượng Đồng Minh chiến thắng chủ nghĩa phát xít, Hồ
Chí Minh đã kịp thời phát động Tổng khởi nghĩa với tinh thần “Dù phải đốt
cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải dành cho được độc lập dân tộc”. Thắng lợi
của Cách mạng Tháng tám là thắng lợi của tư tưởng “Không có gì q hơn
độc lập tự do” của Hồ Chí Minh và cũng là thắng lợi của chủ nghĩa quốc tế
chân chính.
Độc lập, tự do là động lực, mục tiêu, lý tưởng, là cơ sở của chiến lược
đoàn kết quốc tế Hồ Chí Minh, một chiến lược tổng hịa, biện chứng mối quan
hệ dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc lập dân tộc và CNXH đầy
sang tạo và năng động cách mạng, kết thành hạt nhân sáng chói có giá trị
trường tồn đối với dân tộc ta và các dân tộc trên thế giới. Giương cao ngọn cờ
độc lập tự do là tư tưởng cách mạng, là mục tiêu lẽ sống của Hồ Chí Minh,

của dân tộc Việt Nam và của nhân dân tiến bộ yêu chuộng hịa bình trên thế
giới. Đây cũng chính là nội dung cốt lõi trong tư tưởng đoàn kết quốc tế của
Hồ Chí Minh.
1.2.2. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới
Vào đầu những năm 20 của thế kỷ XX, từ thực tiễn đấu tranh giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh đã thấy sự cần thiết phải
liên minh, đoàn kết chặt chẽ không những giữa các dân tộc thuộc địa mà còn
giữa nhân dân các nước thuộc địa với giai cấp vơ sản và nhân dân lao động ở
chính quốc hay cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vơ
sản ở chính quốc. Người ví CNĐQ như con đỉa 2 vòi, nếu chỉ cắt 1 vòi, cái
vòi kia tiếp tục hút máu và cái vòi bị cắt sẽ tiếp tục mọc ra. Cho nên, muốn
tiêu diệt CNĐQ thì nhân dân bị áp bức ở thuộc địa và giai cấp công nhân,
9


nhân dân lao động ở chính quốc phải đồn kết, phối hợp hành động, cắt đứt cả
2 cái vòi của “con đỉa”. Người cịn ví cách mạng thuộc địa và cách mạng ở
chính quốc như hai cái cánh của một con chim phải phối hợp nhịp nhàng. Do
đó theo Người phải: “Làm cho các dân tộc thuộc địa từ trước đến nay, vẫn
cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một liên
minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái
cánh của cách mạng vô sản”. Sau khi nắm được đặc điểm của thời đại mới,
Hồ Chí Minh đã làm tất cả để gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế
giới. Người đã viết: “Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận của cách mạng
thế giới, ai làm cách mạng trong thế giới đều là đồng chí của An Nam cả”.
Người cịn vạch rõ: “Chúng ta làm cách mạng thì cũng phải liên lạc với tất cả
các Đảng cách mạng trên thế giới để chống lại Tư bản và Đế quốc chủ nghĩa”.
Trong khi đặt cách mạng thuộc địa trong mối quan hệ mật thiết với cách mạng
chính quốc, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh tính chủ động và khả năng
thắng lợi trước của cách mạng thuộc địa, trở thành sự cổ vũ, ủng hộ to lớn đối

với cách mạng chính quốc.
Với tầm nhìn chiến lược, Người cho rằng thuộc địa là khâu yếu nhất
của chủ nghĩa đế quốc, nơi tập trung những mâu thuẫn của thời đại. Vì thế,
cách mạng vơ sản khơng phải bắt đầu ở chính quốc mà phải bắt đầu từ các
nước thuộc địa. Người phân tích “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới tùy
thuộc phần lớn vào các nước thuộc địa”, “Tất cả các sinh lực của chủ nghĩa đế
quốc đếu lấy ở các xứ thuộc địa”. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”,
Người chỉ rõ “Việt Nam dân tộc cách mệnh thành cơng thì tư bản Pháp yếu,
tư bản Pháp yếu thì cơng nơng Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ”.
Từ nhận thức tính chất thời đại của mối quan hệ giữa cách mạng thuộc
địa và cách mạng chính quốc, Hồ Chí Minh khẳng định tính tất yếu của cách
mạng thuộc địa và vai trò của nó đối với cách mạng ở chính quốc. Đây là luận
điểm đầy sáng tạo của Hồ Chí Minh, bởi lúc này Quốc tế Cộng sản và các
10


đảng cộng sản ở châu Âu cho rằng, thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ
thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách mạng vơ sản ở chính quốc. Thực tiễn
lịch sử Việt Nam và các nước thuộc địa giành độc lập trong thế kỷ XX đã
chứng minh luận điểm của Người được nêu ra từ năm 1921 là rất đúng đắn và
sáng tạo.
Xác định cách mạng thuộc địa là một bộ phận của cách mạng thế giới,
Hồ Chí Minh nêu rõ “cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách
mạng XHCN thì mới thắng lợi hồn tồn”, vì chỉ có CNXH mới đảm bảo cho
các dân tộc được độc lập, tự do thực sự. Vận dụng những dự báo khoa học
của các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học vào những điều kiện riêng,
đặc thù của các dân tộc phương Đơng, Hồ Chí Minh khẳng định rằng: CNXH
không phải chỉ phù hợp với những nước châu Âu đã trải qua chế độ tư bản
chủ nghĩa (TBCN) mà là học thuyết đáp ứng những yêu cầu của sự phát triển
xã hội lồi người nói chung. Bằng lý luận và thực tiễn, Hồ Chí Minh đã làm

cho các dân tộc thuộc địa nhận thức rõ CNXH là phương hướng, là mục tiêu
của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, là con đường tiến lên của các dân
tộc thuộc địa sau khi giành độc lập. Hồ Chí Minh rút ra kết luận: “Chỉ có
CNXH, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và
những người lao động trên thế giới thoát khỏi ách nơ lệ”. Tiên đốn về thắng
lợi sớm của cách mạng thuộc địa so với cách mạng chính quốc được tiến trình
lịch sử của thời đại khẳng định. Nhiều dân tộc thuộc địa đánh đổ chủ nghĩa
thực dân giành độc lập và tiến lên con đường XHCN, trong khi ở các nước tư
bản giai cấp vơ sản đang phải tìm con đường phù hợp để tiến đến con đường
mục tiêu đặt ra.
Cách mạng Việt Nam, trong toàn bộ lịch sử của mình, ln được đặt
trong trào lưu tiến bộ của thời đại và gắn kết cuộc đấu tranh của nhân loại. Đó
là một trong những bài học thành cơng quan trọng nhất, mang tính thời đại
sâu sắc. Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên phá thế đơn độc của cuộc
11


đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam, đặt nền móng vững chắc cho đường
lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Đó là dựa trên thực lực của dân tộc
mình để tranh thủ hợp tác quốc tế và đồn kết quốc tế. Kết hợp hài hịa giữa
cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại để tạo thành sức mạnh tổng hợp, đóng góp vào sự nghiệp
chung của cách mạng nhân loại.
Như vậy, quan điểm của Hồ Chí Minh không xem cách mạng thuộc địa
phụ thuộc vào cách mạng chính quốc, mà đặt 2 cuộc cách mạng này trong mối
lien hệ bổ sung, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, đều có vị trí quyết định trong
q trình cách mạng của thời đại. Thậm chí Người cho rằng cách mạng thuộc
địa có khả năng và điều kiện nổ ra thắng lợi trước cách mạng vơ sản ở chính
quốc và giúp cho cách mạng vơ sản ở chính quốc giành thắng lợi. Quan điểm
đó kết hợp nhuần nhuyễn và sang tạo các nhân tố dân tộc và quốc tế, độc lập

dân tộc và CNXH trong tư tưởng đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh. Đây là
một trong những nội dung cơ bản của tư tưởng đoàn kết quốc tế Hồ Chí Minh.
1.2.3. Độc lập, tự chủ, tự cường gắn với đồn kết quốc tế
Trong khi hoạt động khơng mệt mỏi cho sự đoàn kết quốc tế và khẳng
định sự cần thiết của đồn kết quốc tế, Hồ Chí Minh đã xác định vai trò quyết
định nhất vẫn là sự nỗ lực chủ quan của cách mạng mỗi nước, phải nêu cao ý
chí độc lập, tự chủ, tự cường của cách mạng nước mình. Quan điểm này của
Người xuất hiện rất sớm,thể hiện trong chiến lược: cách mạng thuộc địa phải
giành thắng lợi trước, không chờ thắng lợi của cách mạng vô sản ở các nước
tư bản. Sau khi gửi bản u sách 8 điểm đến Hội nghị “hịa bình” ở Vécxây
năm 1919 đòi tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam nhưng không được trả
lời, Người rút ra kết luận: “Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể
trơng cậy vào mình, trơng cậy vào lực lượng của bản thân mình”. Người nhấn
mạnh: “một dân tộc khơng tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp
đỡ thì khơng xứng đáng được độc lập”, mà phải: “Đem sức ta mà tự giải
12


phóng cho ta” là phương thức, là động lực chủ yếu để phát triển cách mạng
nước ta. Người coi tự lực tự cường là “Cái gốc”, là “Cái điểm mấu chốt” của
mọi chính sách và sách lược. Trong tun ngơn của Hội lien hiệp thuộc địa,
Người viết: Anh em phải làm thế nào để giải phóng? Vận dụng cơng thức của
Các Mác chúng tơi xin nói với anh em rằng: Cơng cuộc giải phóng anh em chỉ
có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của chính bản thân anh em .
Độc lập, tự chủ nhằm đảm bào lợi ích dân tộc, thực hiện các quyền dân
tộc cơ bản. Nhưng độc lập, tự chủ và tự lực tự cường hoàn toàn xa lạ với sự
biệt lập và chủ nghĩa biệt phái. Để chiến thắng những kẻ thù mạnh hơn mình
gấp nhiều lần, Hồ Chí Minh ln chủ trương tăng cường đoàn kết và tranh thủ
sự hợp tác quốc tế, Người coi đây là vấn đề có tầm chiến lược hàng đầu trong
đường lối cách mạng Việt Nam. Mục tiêu của đoàn kết và hợp tác quốc tế là

tập hợp lực lượng bên ngồi, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ quốc
tế, tăng thêm khả năng tự lực tự cường, tạo điều kiện chuyển biến tương quan
lực lượng có lợi cho cách mạng. Vì vậy, độc lập tự chủ, tự lực, tự cường phải
gắn với đoàn kết và hợp tác quốc tế, đồng thời kết hợp với đấu tranh kiên
quyết và khôn khéo để thực hiện mục tiêu cách mạng và bảo vệ quyền lợi
quốc gia. Mặt khác đồn kết quốc tế khơng phải là lệ thuộc vào con đường
một chiều. Trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, cách mạng Việt Nam
khơng những cần thiết mà cịn có thể tranh thủ hợp tác quốc tế, tăng cường
nội lực và sức mạnh tổng hợp để thực hiện các nhiệm vụ chiến lược của mình.
Đồng thời nhân dân Việt Nam phải có nghĩa vụ đóng góp trong quan hệ quốc
tế đã được Hồ Chí Minh đề cập ngay từ năm 1946 trong Đề cương Văn hóa:
“Mình đã hưởng cái hay của người thì phải có cái hay cho người ta hưởng.
Mình đừng chịu vay mà khơng trả”.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh sự hợp tác toàn diện trong phe CNXH và tăng
cường sức mạnh vật chất của các nước XHCN là yếu tố quyết định để ngăn
chặn nguy cơ chiến tranh, thúc đẩy sự tiến bộ và củng cố độc lập dân tộc ở
13


các nước vừa thốt khỏi CNTD. Đồng thời Hồ Chí Minh cũng chủ trương mở
rộng hợp tác với các nước có chế độ chính trị khác nhau. Người khẳng định,
Việt Nam sẵn sàng thúc đẩy quan hệ kinh tế, buôn bán, văn hóa với các nước
như: Pháp, Nhật Bản… Trong khi coi “cách mạng Việt Nam là một bộ phận
của cách mạng thế giới”, Người căn dặn đội ngũ cán bộ làm công tác đối
ngoại: “Phải làm cho đúng đường lối và chính sách Đối ngoại của Đảng và
Nhà nước ta… Tăng cường đoàn kết hữu nghị với các nước XHCN, với các
dân tộc bị áp bức, với nhân dân thế giới… Vì lợi ích của hịa bình, độc lập dân
tộc và tiến bộ xã hội”.
Vào thời điểm đương đầu với đế quốc Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
đưa ra quyết định: “Dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ

và giúp đỡ tích cực của các nước XHCN anh em và nhân dân yêu chuộng hịa
bình và cơng lý trên tồn thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ. Người chủ
trương thúc đẩy sự thức tỉnh lương tri của nhân dân các nước chống đế quốc
Mỹ. Trên cơ sở tự lực, tự cường của dân tộc, Hồ Chí Minh có biệt tài trong
việc khởi động và tranh thủ tập hợp các tầng lớp xã hội, đạo giáo, các nhà
khoa học, các tầng lớp lao động, các nhân sĩ u chuộng hịa bình, cơng lý
trên thế giới đứng về phía Việt Nam trong cuộc chiến tranh chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ. Quan điểm độc lập, tự chủ, tự cường luôn đi đôi với mở
rộng quan hệ quốc tế và đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh được Đảng và
Nhà nước ta vận dụng thành cơng khơng những góp phần tích cực chuyển hóa
cục diện quốc tế và tương quan lực lượng ngày càng có lợi hơn cho cuộc đấu
tranh vì độc lập, tự do của nhân dân ta mà đưa đến hệ quả hiếm có, đó là:
chưa bao giờ cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của một dân tộc nhỏ, yếu chống
lại các nước đế quốc lại nhận được sự quan tâm theo dõi, ủng hộ mạnh mẽ và
bền bỉ của loài người tiến bộ như thế. Đặc biệt trong 2 thời kỳ đấu tranh quyết
liệt của mình, nhân dân ta lại nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của các tầng lớp
nhân dân ở chính hai nước đã đưa quân đến xâm lược Việt Nam.
14


Cách mạng Tháng Tám và thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ đã chứng minh thắng lợi của quan điểm độc lập, tự
chủ, tự lực, tự cường tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi mà đem sức ta giải
phóng cho ta của Hồ Chí Minh, đồng thời đóng góp vào sự lớn mạnh của
phong trào cách mạng thế giới. Đây là nội dung lớn trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về đồn kết quốc tế.
1.2.4. Đoàn kết quốc tế theo tinh thần: "Việt Nam muốn làm bạn với
tất cả các nước".
Tháng 9 năm 1947, chủ tịch Hồ Chí Minh trong dịp trả lời phỏng vấn
báo chí nước ngồi đã khái qt nhiệm vụ và phương hướng đối ngoại chủ

yếu của Việt Nam là: "làm bạn với tất cả các nước dân chủ không gây thù oán
với một ai"(5). Điều này thể hiện mục tiêu chính nghĩa hợp thời đại của cuộc
chiến đấu của dân tộc Việt Nam và thiện chí của Việt Nam muốn mở rộng
quan hệ quốc tế với các lực lượng tiến bộ xã hội khác bên ngoài,đặc biệt là
nước Pháp và nhân đân Pháp lúc đó.Mặt khác, quan điểm của Hồ Chí Minh
cũng phù hợp với bối cảnh cuộc kháng chiến đang ở trong vòng vây hãm của
thế lực thù địch, khơng có mối liện hệ nào giữa cuộc kháng chiến với các lực
lượng cách mạng thời đại. Đồng thời đây cũng là mục tiêu của chính sách đối
ngoại thể hiện mong muốn hịa hiếu thêm bạn bớt thù, xóa bỏ mọi hiềm khích
dân tộc, tranh thủ những lực lượng cịn mơ hồ với những diễn biến chính trị
phức tạp ở Đơng Dương và Việt Nam, tìm mẫu số chung với mọi lực lượng
hịa bình, cơng lý, u chuộng tự do, dân chủ trong quan hệ quốc tế. Năm
1949, trả lời phỏng vấn một nhà báo người Mỹ hỏi: Sau khi đã độc lập, Việt
Nam có hoan nghênh tư bản ngoại quốc khơng? Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả
lời: Bất kỳ nước nào thật thà muốn đưa tư bản đến kinh doanh ở Việt Nam,
với mục đích làm lợi cho cả hai bên thì Việt Nam sẽ rất hoan nghênh, còn nếu
mong đưa tư bản đến để ràng buộc, áp chế Việt Nam thì Việt Nam sẽ cương
quyết cự tuyệt. Ngay đối với nước Pháp, nước đang tiến hành cuộc chiến
15


tranh xâm lược Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Việt Nam sẵn
sang hợp tác thân thiện với nhân dân Pháp. Những người Pháp tư bản hay
công nhân, thương gia hay trí thức, nếu họ muốn thật thà cộng tác với Việt
Nam thì sẽ được nhân dân Việt Nam hoan nghênh họ như anh em bầu bạn”.
Sau năm 1945 nhiều lần Người đã tuyên bố: “Chính sách ngoại giao của
chính phủ thì chỉ có một điều tức là than thiện với tất cả các nước dân chủ
trên thế giới để giữ gìn hịa bình”. “Thái độ của Việt Nam đối với những nước
Á châu là một thái độ anh em, đối với ngũ cường là một thái độ bạn bè”. Có
thể xem những tuyên bố trên đây là tư tưởng đặt nền móng cho phương châm

đa dạng hóa, đã phương hóa, cơng tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta
hiện nay.
Trong quan điểm Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước, Hồ Chí
Minh đã ưu tiên cho mối quan hệ giữa các nước láng giềng trong khu vực,
nhất là các nước có chung đường biên giới với Việt Nam nhằm hình thành
liên minh chiến đấu chống kè thù chung. Trong cuộc chiến tranh Đông Dương
lần thứ nhất, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xác định “Đơng Dương là một chiến
trường”, Hồ Chí Minh nêu rõ “Chúng ta kháng chiến, dân tộc bạn Miên, Lào
cũng kháng chiến. Vì vậy chúng ta phải ra sức giúp đỡ anh em Miên, Lào,
giúp kháng chiến Miên, Lào và tiến đến thành lập mặt trận thống nhất các dân
tộc Việt - Miên - Lào”. Đối với Trung Quốc - một nước có quan hệ lịch sử,
văn hóa lâu đời với Việt Nam, phát huy truyền thống hòa hiếu của cha ơng Hồ
Chí Minh đã bằng những hoạt động liên tục, không mệt mỏi suốt nửa thế kỷ
xây đắp nên mối quan hệ “Vừa là đồng chí, vừa là anh em”.
1.2.5. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại
Xuất phát từ nhận thức cách mạng Việt Nam và thế giới có mối quan hệ
thống nhất biện chứng, Hồ Chí Minh cho rằng việc kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại là một tất yếu, một cơ sở tạo ra sức mạnh lớn nhất cho
cách mạng Việt Nam giành thắng lợi và cũng tạo cho Việt Nam góp phần
16


xứng đáng vào tiến trình phát triển của nhân loại. Sinh thời, trong mọi hồn
cảnh, Người đều tìm ra phương thức, biện pháp để gắn cách mạng Việt Nam
và phong trào tiến bộ trên thế giới.
Sức mạnh dân tộc là sự tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần,
truyền thống và hiện đại, là sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng, là sức mạnh của ý chí “Khơng có gì q hơn độc lập, tự do”,
quyết tâm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, làm cho Việt Nam sánh vai
với các nước trên thế giới. Yếu tố quyết định để phát huy sức mạnh dân tộc là

giữ vững tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường.
Sức mạnh của thời đại là sức mạnh đoàn kết quốc tế của giai cấp công
nhân, là sức mạnh của sự kết hợp hữu cơ giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ
nghĩa quốc tế, là tình đồn kết chiến đấu giữa các đảng cộng sản, các phong
trào và các lực lượng cách mạng trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc vì hịa bình độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội. Sức mạnh thời đại còn là sự thực hiện quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn
nhau, áp dụng những thành tựu mới về khoa học kỹ thuật và công nghệ, học
tập, vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm quản lý của các nước trên thế giới.
Sức mạnh của thời đại luôn mang nội dung mới, phản ánh sự phát triển của
lịch sử và q trình vận động của chính trị thế giới.
Thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, Hồ Chí
Minh ln đặt cách mạng Việt Nam cũng như cách mạng mỗi nước trong tình
hình nhiệm vụ chung của cách mạng thế giới và tác động qua lại giữa chúng.
Mặt khác, Người xác định rõ vị trí, nhiệm vụ của cách mạng dân tộc với cách
mạng thế giới: cách mạng dân tộc không chỉ để giành thắng lợi cho riêng
mình mà cịn góp phần vào thắng lợi chung của nhân dân thế giới. Trong quá
trình kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Hồ Chí Minh đặc biệt
nhấn mạnh đến vấn đề phải biết dựa vào sức mình là chính. Chỉ như vậy mới
giữ được độc lập, tự chủ, mới chủ động, sáng suốt trong hoạt động quốc tế để
17


phân định rõ Bạn - Thù, cảnh giác với những âm mưu phá hoại núp dưới danh
nghĩa “giúp đỡ”, “nhân đạo”, “hữu nghị”.
Theo Hồ Chí Minh muốn kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, các đảng cộng sản phải kiên trì đấu tranh chống mọi khuynh hướng sai
lầm chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa vị kỷ dân tộc, chủ nghĩa sô vanh… Những
khuynh hướng làm suy yếu sức mạnh đoàn kết, thống nhất của các lượng cách
mạng thế giới.

Có thể nói, Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên phá thế đơn độc
của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, đặt nền móng
vững chắc cho đường lối quốc tế đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Đó là:
Dựa trên thực lực dân tộc mình để tranh thủ sự hợp tác quốc tế và kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp của quốc
gia.

18


CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT
QUỐC TẾ TRONG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM HIỆN
NAY

2.1. Ý nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế
2.1.1. Về mặt lý luận
Cơng lao và đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng
Việt Nam và cách mạng thế giới, đó là sự vận dụng sáng tạo và phát triển
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng giải phóng
dân tộc trong thời đại mới, làm giàu kho tang lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin trên con đường khai phá đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, đưa
các dân tộc đi vào quỹ đạo chung của cách mạng thế giới. Cụ thể là sự phát
triển sáng tạo chiến lược đoàn kết quốc tế của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Nếu tuyên ngôn Đảng Cộng Sản(1948) do Các Mác và Ph.Ăngghen
soạn thảo đã đề ra khẩu hiệu “Vơ sản tất cả các nước đồn kết lại”, sau này
Quốc tế cộng sản đã mở rộng thành khẩu hiệu “Vô sản tất cả các nước và các
dân tộc bị áp bức, đồn kết lại” thì Hồ Chí Minh nhấn mạnh “Lao động tất cả
các nước đoàn kết lại”.
Vào những thập niên đầu của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã thấu hiểu nỗi
khổ, khát vọng của các dân tộc bị áp bức, hiểu biết sâu sắc chủ nghĩa thực dân,
trực tiếp tham gia đấu tranh giành độc lập, tự do của các dân tộc trên thế giới.

Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh tiếp thu, liên hệ, so sánh một
cách toàn diện các con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Người cho rằng,
muốn cứu nước và giải phóng dân tộc phải đi theo con đường cách mạng
Tháng Mười, đó là cách mạng vơ sản, vì nó đem lại cho các dân tộc sức mạnh
đồn kết quốc tế, đủ sức đương đầu chiến thắng đế quốc, thực dân. Từ việc
vạch ra hướng đi đúng đắn và biến nó thành hiện thực trong phong trào giải
19


phóng dân tộc thế giới, Hồ Chí Minh đã dần dần hình thành chiến lược về đồn
kết quốc tế.
Với tư duy nhạy bén, Người đã rút ra những kết luận khái quát: chủ
nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân ở đâu cũng bóc lột và tàn bạo, thuộc địa là
hiện thân của chế độ dã man, tàn bạo của bọn đế quốc, thực dân đối với hàng
trăm người bản xứ, các dân tộc thuộc địa có một lực lượng rất lớn, nhưng sở
dĩ họ chưa giành thắng lợi được là vì họ chưa hiểu được ý nghĩa của việc
“đồn kết dân tộc với đoàn kết quốc tế”. Theo Người “dân tộc cách mệnh” và
“thế giới cách mệnh” do “giai cấp vơ sản lãnh đạo” có quan hệ chặt chẽ với
nhau, biết khơi dậy lòng căm thù dân tộc, giai cấp ở trăm triệu con người bị
áp bức thì đây là sức mạnh vô cùng lớn lao của thời đại. Sức mạnh của mỗi
dân tộc sẽ được nhân lên nếu có sự đồn kết chặt chẽ của cách mạng giải
phóng dân tộc thuộc địa với nhau và với cách mạng vô sản ở chính quốc.
Chính vì thế, Hồ Chí Minh đem hết sức lực vào việc giáo dục, tổ chức và
đoàn kết các dân tộc thuộc địa thành một dân tộc khổng lồ để cùng với giai
cấp vơ sản ở chính quốc tạo thành hai dòng thác cách mạng lớn nhấn chìm để
quốc, thực dân.
Đồn kết các dân tộc thuộc địa, mở rộng thành đồn kết với giai cấp vơ
sản ở chính quốc và tồn thế giới là tư tưởng cách mạng của Hồ Chí Minh. Nó
chứng minh khơng chủ vận dụng mà cịn có đóng góp lớn lao vào kho tang lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Khẳng định giá trị những đóng góp của Hồ

Chí Minh vào kho tàng lý luận cách mạng của thời đại, nguyên Thủ tướng
Phạm Văn Đồng đã viết “Cho đến đầu thế kỷ XX, học thuyết Mác - Lênin chỉ
mới soi sáng cách mạng vơ sản ở phương Tây. Hồ Chí Minh thấy cần góp
phần mang chân lý thời đại này để soi sáng phần của thế giới mà học thuyết
Mác - Lênin vừa mới bắt đầu chiếu tới. Từ đó, Hồ Chí Minh suy nghĩ, tìm tịi,
nghiên cứu, bổ sung những điều mà các bậc thầy học thuyết Mác - Lênin, vì
sự hạn chế của lịch sử chưa nói được đầy đủ. Đó là lý luận về cách mạng
20


thuộc địa”. (Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh - Một con người, một thời đại,
một sự nghiệp, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1990).

21


2.1.2. Về mặt thực tiễn
Thứ nhất, tư tưởng đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh đã thực hiện hóa
khẩu hiệu chiến lược của chủ nghĩa Mác - Lênin “Vô sản tất cả các nước và
các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại”.
Cùng với các chiến sĩ chống CNTD, Hồ Chí Minh đã lập ra Hội liên
hiệp thuộc địa, cho xuất bản tờ báo Le Paria để đoàn kết các dân tộc. Nếu như
trước đó Lênin kêu gọi đồn kết giai cấp vô sản phương Tây với các dân tộc
thuộc địa phương Đông họp tại Bacu (tháng 9/1920). Nhưng Lênin chưa có
điều kiện tổ chức thực hiện nó trong thực tiễn, thì Hội liên hiệp thuộc địa do
Hồ Chí Minh sáng lập ra chính là sự thể hiện sinh động đồn kết đó trong
thực tiễn cách mạng. Khi đến Trung Quốc, Người lại cùng các nhà cách mạng
các nước thuộc địa phương Đông thành lập hội liên hiệp các dân tộc bị áp
bức, tạo thành “một trong những cái cánh của cách mạng vô sản” thế giới.
Trong thực tiễn Người hoạt động không mệt mỏi cho sự liên hiệp, đoàn kết

các dân tộc thuộc địa. Người đã tham gia cơng đồn hải ngoại ở Anh; vào
Đảng Cộng sản Pháp và là thành viên của Ban Thuộc địa của Đảng Cộng sản
Pháp và tham dự vào Đại hội V, VII và các Hội nghị của Quốc tế Cộng sản;
xây dựng lực lượng cách mạng ở các nước phương Đông, tổ chức một số
Đảng Cộng sản ở khu vực Đông Nam Á… Đó là những việc làm thiết thực để
biến khẩu hiệu chiến lược của chủ nghĩa MÁc - Lênin vào thực tế sinh động,
chống chủ nghĩa đế quốc thực dân, giành độc lập, tự do và tiến bộ cho mỗi
dân tộc. Như vậy, Hồ Chí Minh là người đầu tiên đưa ra khẩu hiệu chiến lược
của chủ nghĩa Mác - Lênin vào cuộc sống, biến nó thành hiện thực sinh động.
Đây là đóng góp lớn của Người cho cách mạng thế giới.
Thứ hai, tư tưởng đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh góp phần mở ra
kỷ ngun độc lập, dân tộc và đảm bảo tính pháp lý quốc tế của dân tộc Việt
Nam.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, nước ta ở trong tình trạng “đen tối
22


như khơng có đường ra”, cuộc đấu tranh của dân tộc vẫn tiếp tục nhưng vì
khơng có đường lối đúng đắn nên vẫn “giống như một con tàu lướt nhanh trên
những ngọn sóng xa lạ mà khơng có kim chỉ nam”, Nguyễn Ái Quốc đã quyết
tâm ra đi tìm cho được con đường cứu nước, cứu dân. Vượt qua lối mòn của
những người đi trước, Người đã thực hiện một cuộc khảo sát có một khơng
hai trong lịch sử các dân tộc bị áp bức, như Người đã nhận định: đây là
nguyên nhân gây ra sự suy yếu của cách mạng Việt Nam. Người đã đặt chân
lên các cường quốc đế quốc, dân tộc ở các nước thuộc địa ở các châu lục để
quan sát, tìm hiểu, so sánh, lựa chọn và tổng kết để tìm ra con đường đi cho
dân tộc phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Từ chủ nghĩa yêu nước,
Người tham gia phong trào cơng nhân, phong trào giải phóng dân tộc trên thế
giới trong gần mười năm qua, để cuối cùng đến với chủ nghĩa Mác - Lênin.
Tìm thấy con đường cứu nước khi đọc được “Bản sơ thảo lần thứ nhất

Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin, trở thành người chiến
sĩ cộng sản bằng việc tán thành Quốc tế III và tham gia sáng lập Đảng Cộng
sản Pháp, Người đã dành toàn bộ sức lực vào việc nghiên cứu vấn đề cách
mạng Việt Nam và đóng góp vào sự nghiệp giải phóng các dân tộc bị áp bức
trên thế giới.
Ngày 3/2/1930, với việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và soạn
thảo Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, Người đã mở ra một bước ngoặt mới có ý
nghĩa quyết định đối với sự nghiệp độc lập, tự do của dân tộc ta, chấm dứt
thời kỳ khủng hoảng về đường lối của Việt Nam. Đó cịn thể hiện sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa sự vững vàng về quan điểm, tính kiên định về nguyên tắc
với sự mềm dẻo, uyển chuyển về sách lược và phương pháp cách mạng đạt
đến một trình độ nghệ thuật để giành thắng lợi từng bước, từ đó đi đến thắng
lợi cuối cùng. Điều này thể hiện rõ nhất trong câu nói “Dĩ bất biến, ứng vạn
biến” của Người.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, vấn đề cơ bản cũng là nhân tố quyết định thắng
23


lợi của cách mạng Việt Nam, đó cũng là sự kết hợp giải phóng dân tộc với
giải phóng giai cấp, gắn lợi ích của cách mạng Việt Nam với lợi ích của cách
mạng thế giới, phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự
đồng tình ủng hộ giúp đỡ của Đồng minh và các lực lượng tiến bộ trên thế
giới. Với tài năng nhạy cảm đặc biệt của nhà chiến lược thiên tài, Hồ Chí
Minh đã thể hiện nghệ thuật tạo thời cơ cách mạng, nhờ đó mà cách mạng
Việt Nam đã đi đúng hướng và giành thắng lợi. Ngày 2/9/1945, Hồ Chí Minh
đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, mở đầu cho kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc Việt
Nam. Trong Tun ngơn độc lập Hồ Chí Minh khơng chỉ khẳng định trong
thực tiễn đấu tranh cách mạng kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam
với các quyền dân tộc thiêng liêng đó. Tun ngơn độc lập là hòn đá tảng đầu

tiên khẳng định cả trên nguyên tắc và thực tế, cả quyết tâm sắt đá của nhân
dân Việt Nam. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam do Người lãnh
đạo đã gắn liền với cuộc đấu tranh giai cấp, giải phóng con người khỏi áp bức
bóc lột, thực hiện các quyền dân chủ cơ bản của con người.
Cống hiến to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là từ quan điểm gắn độc
lập dân tộc với tự do của con người, gắn quyền dân tộc thiêng liêng với quyền
cơ bản của con người. Đây là một quan điểm “gốc” quốc tế đầy tính nhân văn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tun ngơn độc lập của Người được coi là bản
Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của các dân tộc đấu tranh cho độc lập,
tự chủ, tự do, hạnh phúc và văn minh. Những đóng góp của Người đã làm nên
những thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được
nhân dân toàn thế giới coi là người mở kỷ nguyên độc lập và tính pháp lý
quốc tế của nước Việt Nam, suy tơn là anh hùng giải phóng dân tộc, danh
nhân văn hóa thế giới.
Thứ ba, tư tưởng đồn kết quốc tế của Hồ Chí Minh đã bắc nhịp cầu
đồn kết, hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới.
24


×