Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

TL LSĐ ý nghĩa lịch sử sự ra đời của đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.14 KB, 27 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử dân tộc Việt Nam, kể từ khi có đảng là những trong sử sôi
động nhất, hào hung nhất, oanh liệt nhất. Kể từ khi có Đảng, dân tộc ta
tiếp tục giành được những thắng lợi mang ý nghĩa dân tộc sâu sắc, thể
hiện những bước nhảy vọt tring tiến trình lịch sử dân tộc. Mở đầu là
thắng lợi của cách mạng thang Tám năm 1945, lập ra nước Việt
Namdaan chủ cộng hòa; tiếp đó là thắng lợi của các cuộc chiến tranh
giải phóng dân tộc,bảo vệ tổ quốc ; và đến nay chúng ta có khẳng định
cơng cuộc đổi mới của đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã và đang
giành được những thắng lợi lớn, “ có ý nghĩa lịch sử sâu sắc “...Tất cả
những thắng lợi đó của dân tộc khơng thể phủ nhận vai trị lãnh đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam.
Ngày nay, nhân dân Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ đã và đang
được trực tiếp hưởng thụ những thành quả của cách mạng,từ sự lãnh
đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, việc giáo dục cho các thế hệ thấy được
vai trò và sự cống hiến to lớn cảu Đảng và đặc biệt là thấy được ý
nghĩa to lớn từ sự xuất hiện, sự ra lời của Đảng cộng sản Việt Nam (3 –
2 – 1930) là vô cùng quan trọng. Năm 2010 cũng là năm kỷ niệm 80 năm
ngày thành lập Đảng.
Do vậy, em lựa chọn đề tài : “Ý nghĩa lịch sử sự ra đời của Đảng
cộng sản Việt Nam” làm đề tài tiểu luận để kết thúc mơn học.
2. Mục đích, u cầu
Là công dân của một đất nước Xã Hội Chủ Nghĩa, chịu sự dìu dắt của
Đảng Cơng sản, chúng ta phải nắm vững phải quán triệt được tư tưởng
đúng đắn của Đảng, không ngừng nâng cao hiểu biết về Đảng và vai trò
của Đảng. Tư tuongr của Đảng là một tư tưởng đúng tư tưởng mang
tính khoa học biện chứng và điều đó đã được lịch sử chứng minh. Được
chứng minh ngay việc ra đời của Đảng cộng sản, sự ra đời của đảng
cộng sản hoàn toàn hợp quy luật. vai trị của Đảng cộng sản vơ cùng to
lớn, vai trị đó có ảnh hưởng quan trọng và khơng thể thiếu đối với lịch


sử và tương lai của nhân loại.


3. Phạm vi, phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu về ý nghĩa của sự kện Đảng cộng sản Việt Nam ra đời
đối vối lịch sử dân tộc Việt Nam khơng cịn là vấn đề mới, mà đây là
vấn đề có lịch sử nghiên cứu từ rất lâu và cũng được sự quan tâm của
nhiều các giả, nhóm tác giả, nhiều cơ quan tổ chức...Vá đén nay vấn đề
này cũng được công bố rộng rãi, là một trong những nội dung giảng dậy
ở không chỉ các trường cao đẳng, đại học, mà cịn ở các cấp học phổ
thơng. Như vậy, đây là vấn đề đẫmng tính phổ biến và khơng cịn là mới.
Song, tác giả lựa chọncách tiếp cận là đặt trực tiếp sự ra đời của Đảng
trong bối cảnh lịch sử dân tộc và thế giới để qua đó làm nổi bật lên ý
nghĩa sự ra đời của Đảng.


NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG 1.
TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ
XX
1.1. Tình hình thế giới và tác động của nó đối với cách mạng
Việt Nam:
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trên bình diện thế giới xuất hiện
những biến có lịch sử mang tính chất là bước ngoặt của xã hội loại
người.
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản (CNTB) đã chuyển từ giai
đoạn tự do canh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa (ĐQCN). Chính
buocs chuển này đã làm cho mâu thuẫn trong thế giới TBCN ngày càng
trở nên gay gắt; Mâu thuẫn vốn có trong CNTB là mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã phát triển đến mức phải giả

quyết. Mâu thuẫn này tạo ra tính tất yếu của cách mạng vơ sản, phạm
trù cách mang thế giới chuyển sang phạm trù cách mạng vơ sản, cách
mạng XHCN. Cùng vói mâu thuẫn nội tại trong bản thân mỗi nước tư
bản thì thời điểm này cũng xuất hiện mâu thuẫn giữa các nước tư bản
với nhau do tranh giành thuộc địa, phân chia thị trường và khu vực ảnh
hưởng. Đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới cuộc đai chiến thế giới lần
thư nhất (1914 – 1918). Đặc biệt là sự thống trị tàn bạo của CNĐQ làm
cho mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với CNĐQ thực dân ngày càng
trở nên gay gắt và trở thành một vấn đề mang tính thời đại.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế, một học thuyết cách mạng và khoa học đã khẳng định
được vị trí và được xem là vũ khí lý luận của giai cấp cơng nhân, đó à lý
luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin. Không những thế, lý luận của Chủ


nghĩa Mác – Lênin cũng chỉ ra cho các dân tộc thuộc địa con đường giải
phóng mình.
Các nhà sáng lập Chủ nghĩa Mác – Lênin đã xây dựng nên hoc
thuyết lý luận cách mạng không ngừng, với nội dung cơ bản : Giai cấp
công nhân, sau khi đã trường thành về chính độ giác ngộ, trình độ tổ
chức, có đủ khả năng và điều kện lãnh đạo cuộc cách mạng dân chủ
tư sản trên cơ sở liên minh với giai cấp nông dân đấu tranh chống lại
chế độ chuyên chế phong kiến. Dưới sự lãnh đạo của giai cấp công dân,
sự liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân trở thành lực
lượng chủ yếu đánh đổ chế độ chuyên chế phong kiến, thành lập nhà
nước chuyên chính cách mạnh của giai cấp cơng nhân và giai cấp nơng
dân (gọi tắt là chun chính cơng nơng). Một cuộc cách mạng như vậy
được gọi là cuộc cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới. Sự hoàn thành
triệt để cuộc cách mạng đó có nghĩa là tạo lập chiếc cầu trực tiếp
chuyên sang cách mạng XHCN và giữa chúng khơng có “ bức tường thành

ngăn cách “
Lý luận cảu Chủ nghĩa Mác – Lênin và đặc biệt là lý luận cách
mạng không ngừng đã chỉ ra con đường giải phóng cho dân tộc thuộc địa
như Việt Nam, đó là phải tiến hành một cuộc cách mạng theo con đường
cách mạng vô sản. Đồng thời Lênin cũng chỉ ra việc cần thiết phải xây
dựng một Đảng cộng sản kiểu mới của giai cấp công nhân.
Trong lúc phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đang phải
phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là khi được trang bị bởi một học thuyết
cách mạng và khoa học, cuộc cách mạng vô sản đầu tiên nổ ra giành
thắng lợi tại Nga năm 1917.
Thắng lợi của cách mạng thắng Mười đã cổ vu phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới, đặc


biệt là nhân dân các nước thuộc địa. Cách mạng tháng Mười thúc đẩy sự
ra đời của hàng loạt các đảng cộng sản trên thế giới : Đảng cộng sản
Đức, Đảng cộng sản Hunggary (1918), Đảng cộng sản Mỹ (1919), Đảng
cộng sản Anh, Đảng cộng sản Pháp (1920)...
Cuộc cách mạng tháng Mười Nga 1917 cổ vũ mạnh mẽ phong trào
đấu thanh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới,
dẫn tới sự ra đời của hàng loạt các đảng cộng sản. Tình hình đáo địi hỏi
phải có một tổ chức quốc tế đứng ra lãnh đạo, tập chung sức mạnh của
phong trào của tất cả các quốc gia, dân tộc (Quốc tế II đã khơng cịn vai
trò tiên phong kể từ sau khi Awngghen qua đời năm 1895).
Tháng 3 – 1919, Quốc tế cộng sản được thành lập, với kiểu hiệu “
Vô sản thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại ” đã đánh dấu một
giai đoạn mới của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. “ Lần
đầu trên trong lịch sử, quốc tế Cộng sản đã chỉ rõ sự đoàn kết tất yếu,
liên minh chiến đấu giữa giai cấp vô sản và cá dân tộc thuộc đĩa đang
rên xiết dưới ách thống trị thực dân”.Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh vai trò

của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam:
“Xem trong các tổ chức Đệ tam quốc tế,có đặt ra một bộ riêng,
chuyên nghiên cứu và giúp đỡ cho cách mệnh bên Á – Đông... Xem khẩu
hiểu Đệ tam quốc tế, chẳng những rằng “ vô sản giai cấp “ mà lại thêm
câu ”... và dân tộc bị áp bức trong thế giới liên hiệp lại “... Xem những
việc ấy thì đủ biết rằng An Nam muốn làm cách mệnh thành cơng, thì
tất phải nhờ Đệ tam quốc tế ”.
Như vậy, tình hình thế giới và những đặc điểm trên đây của thời
đại có ảnh hưởng to lớn tới cách mạng Việt Nam đặc biệt là quá trình
hình thành Đảng cộng sản Việt Nam.
1.2. Sự chuyển biến về kinh tế - xã hội ở Việt Nam.


Năm 1858, tại cửa biển Đà Nẵng, thực dân Pháp đã nổi súng xâm
lược Việt Nam mặc dù nhân dân ta đã chiến đấu anh dũng, song các
phong trào đấu tranh đều lần lượt thất bại. Đến năm 1897, thực dân
Pháp đã áp đặt xong bộ máy cai trị ở nước ta và bắt đầu tiến hành khai
thác thuộc địa với những chính sách phản đơng và hà khắc.
Về chính trị, Pháp thực hiện chính sách chuyên chế với bộ máy
đàn áp nặng nề, mọi quyền hành đều thâu tóm trong tay các viên quan
cai trị người Pháp: Toàn quyền Đông dương, thống đốc Nam kỳ, Thống
sứ Bắc kỳ, khâm sứ Trung kỳ, Công sứ các tỉnh. Biến vua quan Nam
Triều thành bù nhìn tay sai. Biến Việt Nam từ một nước phong kiến
thành nước thuộc địa nửa phong kiến.
Chúng dùng chính sách chia để trị. Chia thành nước ta thành 3 kỳ
sát nhâp. với Lào, Campuchia lập liên bang Đơng Dương, nhằm xóa tên
nước ta trên bản đổ thế giới. Mỗi kỳ có chính sách khác nhau hịng chia
rẽ và gay thù hận giữa các sứ làm cho dân tộc ta khơng đồn kết thống
nhất, khơng tạo sức mạnh tổng hớp chống lại chúng.
Về kinh tế, 1897 Pháp tiến hành khai thác thuộc địa lần một, sau

chiến tranh thế giới I (1914 – 1918), chúng khai thác lần 2 để bù vào
những tổn nhất trong chiến tranh (vốn đầu tư với tốc độ nhanh, giai
đoạn 1924 – 1928 hơn 6 lần 1847– 1918), tập trung vào hai ku vực chủ
yếu là đồn điền cao su và mỏ than.
Tăng cương ngân hàng để cho vay nặng lãi và thâu tóm để kiểm
sốt các hoạt động kinh tế ở Đơng Dương. Chúng tăng thuế lên 2 – 3 lần
so với trước, độc quyền thuốc phiện, rượu, muối.
Chúng thực hiện chế độ mộ phu cực kỳ man rơ và chiếm đoạt
ruộng đất của nông dân làm 50 % nông dân ta mất ruộng đất. Đời sống
nhân dân vô cùng cực khổ.


Chúng du nhập phương thức sản xuất TBCN làm cho quan hệ kinh
tế ở nông thôn bị phá vỡ và hình thành nên những đơ thị, khu dân cư và
trung tâm kinh tế mới.
Chúng duy trì phương thức sản xuất phong kiến, kết hợp hai
phương thức sản xuất để thu lợi nhuận siêu ngạch.
Chúng không du nhập phương thức sản xuất TBCN một cách hồn
chỉnh, chính vì thế mà Việt Nam khơng thể tiến lên TBCN bình thường
được. Vì vậy nên kinh tế Việt Nam bị kim hãm trong vòng lạc hậu. – vừa
mang tính chất tư bản thưc dân - vừa mang tính chất phong kiến.
Về văn hóa, Thưc dân Pháp tực hiện chính sách văn hóa nơ dịch,
ngu dân, gây tâm lý tự ti, vong bản để chúng dễ bề thống trị... đồng thời
chúng cịn tìm mọi cách bưng bít và ngắn chặn khơng cho ảnh hưởng
đến văn hóa tiến bộ tên thế giới và Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đó nói Rõ
về chính sách này: “Chủ nghĩa tư bản Pháp đó vào Đơng Dương từ nửa
thế kỳ nay; vì lợi ích của nó, nó đã dựng lưỡi lê để chỉnh phục đất nước
chúng tơi. Từ đó, chúng tơi khơng những bị áp bức và bóc lột một cách
nhục nhã, mà còn bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm. Tụi xin nhấn
mạnh tư “ đầu độc ”bằng thuốc phiện, bằng rượu... Chúng tơi khơng có

quyền cư trú và du lịch ra nước ngoài ; chúng tôi phải sống trong cảnh
ngu dốt tối tăm và chúng tơi khơng có quyền tự do học tập”.
Sự thống trì của thực dân Pháp đã để lại nhiều hậu quả trong nền
kinh tế xã hội Việt Nam.
Về kinh tế, nền kinh tế Việt Nam khơng thể tiến lên TBCN bình
thường được, trái lại nó phát triển chậm chạp, què quặt, mất dần tính
độc lập, ngày càng lệ thuộc vào kinh tế Pháp; nó bị kìm hãm trong vịng
lạc hậu – vừa mang tính chất TB tực dân vừa mang tính chất phong
kiến.


Về xã hội, Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập đã trở thành
một nước thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn trong xã hội cũng bị chi
phối bởi dặc điểm này; xã hội Việt Nam hình thành nhiều mâu thuẫn
đan xen lẫn nhâu, song mâu thuẫn chủ yếu nhất nổi lên lúc này là mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thưc dân Pháp và tay sai phản
động.
Về giai cấp cũng bị phân hóa triệt để do chính sách khai thác thuộc
địa của thưc dân Pháp, ngồi những giai cấp vốn có (địa chủ phong kiến
và nông dân), xã hội Việt Nam xuất hiện những giai cấp mới như tư sản,
tiểu tư sản, vô sản.
Thái độ chính trị của các giai cấp cũng có sự phân hóa sâu sặc,
theo đó trong các giai cấp địa chủ phong kiến và tư sản đều có những
bộ phận có thể lôi kéo, lợi dùng trong lực lượng cách mạng ; các giai
cấp tiều tư sản và nông dân đều có tinh thần hăng hái cách mạng, là
lực lượng quan trọng của cách mạng. Đặc biệt là công nhân, tuy chiếm
khoảng 1 % dân số nhưng là lực lượng duyu nhất có khả năng lãnh
đạo cách mạng nếu được trang bị Chủ nghĩa Mác – Lênin. trong bối
cảnh đó, các phong trào yêu nước theo hiệu khuynh hướng khác
nhau đã diễn ra: Phong trào Cần Vương (1885 – 1896), Khởi nghĩa của

nông dân Yên thế (1885 – 1913), Phong trào Đông Du (1906 – 1908),
Phong trào Duy Tân (1906 – 1908), Phong trào yêu nước dân chủ công
khai (1925 – 1926), Phong trào cách mạng quốc gia tư sản, gắn liền với
hoạt động của Việt Nam Quốc dân đảng (1927 – 1930)... Nhưng tất cả
các phong trào đều lần lượt thất bại, cách mạng Việt Nam rơi vào cuộc
khủng hoảng về đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo cách mạng.
1.3.

Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong viecj thành lập Đảng

Cộng sản Việt Nam.


Trước yêu cầu bức bách phải tìm con đường cứu nước mới, tháng
6 năm 1911, Nguyễn Ái Quốc sang phương Tây, nơi có nền khoa học –
kỹ thuật phát triển, có tư tưởng dân chủ, tự do xem họ làm thế nào rồi
về giúp đơng bào mình thốt khỏi gộng cùm nô lệ.
Tháng 7 – 1920 Nguyễn Ái Quốc được đọc bản luận cương về vấn
đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Bản luận cương đã đáp ứng nguyện
vọng tha thiết của Người là độc lập cho dân tộc, tự do cho đồng bào, Từ
đó người hồn tồn tin theo Lênin, tin theo quốc tế thứ III.
Tháng 12 – 1920 tại đại hội Đảng xã hội Pháp ở Tua đã diễn ra
cuộc tranh luận gay gắt là gia nhập quốc tế thứ III hay ở lại quốc tế II.
Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành gia nhập quốc tế III và tham gia
sáng lập Đảng cộng sản Pháp. Sự kiện đó đánh dấu bước ngoặt quyết
định trong cuộc đời hoạt động của người, từ chủ nghĩa yêu nước đến
với chủ nghĩa cộng sản. Từ chiến sĩ yêu nước trở thành chiến sĩ cộng
sản.
Sau khi đã lựa chọn chắc chắn cho mình con dường cứu nước,
Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức để thành lập

Đảng Cộng sản ở Việt Nam.
Từ 1921 đến 1923, Nguyễn Ái Quốc hoạt động tại Pháp, thành lập
“ Hội liên hiệp thuộc địa ”, viết tác phẩm “ bản án chế độ thực dân Pháp
” và được xuất bản lần đầu tiên ở Pari vào 1925.
Từ tháng 6 – 1923 đến 1924, Nguyễn Ái Quốc đi Liên Xô tham dự
nhiều Hội nghị và Đại hội quốc tế.
Từ 11 – 11 – 1924 đến 1927, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu –
Trung Quốc, thành lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức á Đông. Thang
6 năm 1925, Người sáng lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Đây là
bước chuẩn bị có ý nghĩa quyết định về mặt tổ chức cho sự ra đời Đảng


Công sản Việt Nam. Từ 1925 – 1927, Người mở nhiều lớp huấn luyện
chính trị tại Quảng Châu. Đầu năm 1927, những bài giảng của Người
được tập hợp thành sách với tên gọi “ Đường cách mệnh ”, với những
nội dung cơ bản vạch ra phương hướng cơ bản về chiến lược và sách
lược của cách mạng của Việt Nam.
Năm 1928, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên chủ trương “vơ
sản hóa”. Đến 1929 phong trào cơng nhân và phong trào yêu nư ớc phát
triển rất mạnh mẽ. Các yếu tố thành lập Đảng đã xuất hiện, Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên bị phân liệt, các tổ chức cộng sản ở Viêt
Nam lần lượt ra đời. Yêu cầu của phong trào dân tộc dân chủ ở Việt
Nam đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của một Đảng Cộng sản.
Nguyễn Ái Quốc với tư cách là biệt phái viên của các quốc tế cộng
sản, triệu tập các tổ chức cộng sản và chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ
chức cộng sản thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị diễn ra từ 6
– 1 đến 7 – 2 – 1930 tại Cửu Long – Hương Cảng – Trung Quốc.
1.4. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời
Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng trong
nước thì những đồng chi hội viên tiên tiến của Việt Nam thanh niên

cách mạng đồng chí hội ở Bắc Kỳ đã tiến hành họp tại số nhà 5D Hàm
Long Hà Nội vào đàu 3 – 1329 để tiến thành thành lập chi bộ cộng sản
(CS) đầu tiên ở trong nước và chi bộ này đã nghị quyết : phải thành lập
Đảng Cộng sản. Cuối 3 – 1929 đại hội kì bộ Bắc Kỳ của Việt Nam thanh
niên cách mạng đồng chí hội cũng được tiến hành và đại hội này đã
thông qua chủ trương thành lập Đảng của chi bộ cộng sản đầu tiên
đồng thời đại hôi cũng cử đại biệu đi dự ĐẠI HỘI thanh niên toàn quốc
và giao nhiệm vụ cho các đồng chí đại biệu : phải đấu tranh để chủ


trương thành lập Đảng được chấp thuận tại đại hội thanh niên toàn
quốc.
Ngày 1 – 5 – 1929 đại hội lần thứ I của Việt Nam thanh niên CM
đồng chí hội được tiến hành tại Hương Cảng Trung Quốc. Tại đại hội
này, đoàn đại biểu Bắc Kỳ đưa ra vấn đề thành lập Đảng nhưng lại
không được đại hôi chấp thuận. Vì thế, các đồng chí đã tự động rút về
nước và thành lập ra tổ chức cộng sản đầu tiên là Đông dương Cộng
Sản Đảng (6 – 1929) do đồng chí Hồ Tùng Mậu làm bí thư.



7 – 1929 : thành lập An Nam Cộng Sản Đảng.
9 – 1929 : Thành lập Đơng Dương Cộng Sản Đảng liên đồn.

Trước sự xuất hiện 3 tổ chức cộng sản ở trong nước thì Quốc tế
CS đã viết thư kêu gọi những người CS ở Việt Nam là phải nhanh chóng
hợp nhất 3 tổ chức CS, thành lập Đảng CS đồng thời giao nhiệm vụ cho
đồng chí Nguyễn Ái Quốc là thay mặt quốc tế CS hợp nhất 3 tổ chức
cộng sản thành lập ra Đảng Cộng Sản. Sau chi thị quốc tế CS đồng chí
Nguyễn Ái quốc đã bắt tay ngay vào việc chuẩn bị các văn kiện chô hội

nghị hợp nhất và khi mọi cơng tác chuẩn bị đã hồn tất thì hội nghị hợp
nhất 3 tổ chức CS tiến hành 3 đến 7 – 2 – 1930 tại Hương Cảng Trung
quốc : Hội nghị thảo luận bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, quyết định
thành lập Đảng Cộng sản và lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông
qua chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, điều lệ tóm tắt và lời kêu
gọi của đồng chí Nguyễn Ái quốc nhân dịp thanh lập Đảng, bầu ban
chấp hành trung ương lâm thời. Hội nghị được coi như là hội nghị thành
lập Đảng và các văn kiện do Hội nghị thơng qua chính là cương lĩnh đầu
tiên của Đảng.
Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là một tất yếu lịch sử, là bước
ngoặc vĩ đại trong phong trào cách mạng Việt Nam. Nó chứng tỏ giai cấp
Cơng nhân Việt Nam đã trường thành. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời


là sự kết hợp giữa Chủ nghĩa Mác – Lênin và phong trào Công nhân. Đây
là quy luật thành lập Đảng của giai cập Công nhân Việt Nam.


CHƯƠNG 2.
Ý NGHĨA SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CÔNG SẢN VIỆT NAM

2.1. Sự ra đời của đảng cộng sản Việt Nam là một tất yếu lịch
sử: là sản phẩm của sự kết hợp Chủ nghĩa Mác – Lênin với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là kết quar tất yếu của cuộc đấu
tranh dân tộc và giai cấp, là sự khẳng định vai trị lãnh đạo của giai cấp
cơng nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác – Lênin đối với cách mạng Việt
Nam. thực tế cho thấy Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là sự lựa chọn
của chính lịch sử.
Trước ách áp bức bóc lột của thực dân Pháp, hàng loạt các phong

trào đấu tranh nổ ra của nhiều giai – tầng trong xã hội, với nhiều
khuynh hướng chính trị khác nhau : tiêu biểu cho khuynh hướng phong
kiến là phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi và thượng thư bộ binh
Tôn Thất Thuyết khởi xướng. do lực lượng của phong trào quá mỏng
nên phong trào sớm bị thất bại. Điều đó cho thấy giai cấp địa chủ
phong kiến khơng cịn đủ vai trị uy tín để kêu gọi và triệu tập lực
lượng trong quần chúng nhân dân.
Cùng thời gian với phong trào Cần Vương cịn có phong trào đấu
tranh của giai cấp nông dân lớp dưới mà tiêu biểu là cuộc đấu tranh
gần 30 năm của nghĩa quân Yên thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo.
Nhưng còn “ nặng cốt cách phong kiến “ nên phong trào cũng đi vào kết
cục là thất bại.
Phong trào cách mạng quốc gia tư sản gắn liền với hoạt động của
Việt Nam Quốc đân đảng (1927 – 1930). Lãnh tụ là Nghuyễn Thái Học,


Phạm Tuấn Tài, Nghuyễn khắc Nhu và Phó Đức Chính. Đây là tổ chức
chính trị tiêu biểu nhất theo khuynh hướng tư sản ở Việt Nam, tập hợp
các thành phần tư sản, tiểu tư sản, địa chủ, cả học sĩ quan Việt Nam
trong quân đội Pháp.
Về chủ trương Đảng mo phỏng chủ nghĩa Tam Dân của Tơn
Trung Sơn. Về chính trị, Đảng chủ truonge đánh Pháp, xóa bỏ chế độ
vua quan, lập dân quyền, nhưng chưa bao giờ có đường lối chính trị rõ
ràng, cụ thể. Về tổ chức Đảng chủ trương xây dựng các cấp từ TW đến
cỏ sở nhưng chưa bao giờ có một hệ thống tổ chức thống nhất. Về
phương pháp đấu tranh,nặng ám sát cá nhân, lấy bạo động làm lối
thoát.
Cuộc khởi nghĩa nổ ra ở Yên Bái vào 9 – 2 – 1930 với phương
châm “ không thành công cũng thành nhân “ đã bị thực dân Pháp dim
phong trào biển máu. Vai trò của Việt Nam quốc dân Đảng trong phong

trào dân tộc ở Việt Nam chấm dứt cùng với sự thát bại của cuộc khởi
nghĩa Yên Bái.
Trong khi các giai cấp, tầng lớp đều lần lượt bước lên vũ đài chính
trị nhưng đều khơng được lịch sử chấp nhận thì với nỗ lực của Nguyễn
Ái Quốc và Hôi Việt Nam cách mạng thanh niên, Chủ nghĩa Mác – Lênin
được truyền bá rộng rãi vào phong trao đấu tranh của giai cấp công
nhân, phong trào yêu nước Việt Nam và đang khẳng định được sức
mạnh của mình. Nếu như những năm 1919 – 1925, phong trào cơng
nhân được đánh giá là đã có bước phát triển hơn với “ những cuộc bãi
công đã trở nên phổ biến, diễn ra trên quy mô lớn hơn và thời gian dài
hơn “ thì từ 1925, phong trao cơng nhân Việt Nam được đánh giá là có sự
chuyển hóa “ từng bước từ tự phát sang tự giác “.


Trong những năm 1926 – 1929, phong trào công nhân Việt Nam
đấu tranh dưới sự lãnh ddaojcura các tổ chức Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên,Công hội đỏ và các nhóm cộng sản ra đời từ năm 1929. Các
cuộc bãi công liên tiếp nổ ra. Tiêu biểu là cuộc bãi công của 1.000 công
nhân nhà máy sợi Nam Định, 500 công nhân đồn điền cao su Cam tiến...
Từ năm 1928 đến năm 1929, có khoảng 40 cuộc đấu tranh của cơng
nhân diễn ra trong tồn quốc. Theo số liệu thơng kê, năm 1927 có 7 cuộc
đấu tranh lớn, thì năm 1929 là 24 cuộc, năm 1930 lên tới 98 cuộc (với số
người tham gia từ 350 người lên tới 31.680 người).

Các cuộc đấu tranh của công nhân Việt Nam thời kỳ này mang tính
chất chính trị rõ rệt diễn ra tròg phạm vi các nước. Trong mỗi cuộc đấu
tranh đã có sự liên kết giữa các nhà máy, các nghành và các địa phương.
Phong trao công nhân đã đạt đến trình độ “tư giác “ được đánh giá là
thuần thục về chính trị. Bản thân phong trào cơng nhân có sức lơi cuốn
đối với phong trao u nước và có thể nói, nó quyết định phong trao dân

tộc theo khuynh hướng cách mạng vô sản.
Như vậy, trong khi các phong trào đấu tranh theo nhiều khuynh
hướng chính tri khác nhau, đồng thời cũng là sự xuất hiện của nhiều giai
- tầng trong xã hội trên vũ đài chính trị... nhưng tất cả đều không được
lịch sự chấp nhận. Với sự nỗ lực của Nghuyễn Ái Quốc và hội Việt Nam
cách mạng thanh niên, Chủ nghĩa Mác – Lênin được thân nhập vịa
phong trao cơng nhân và phong trào u nư ớc làm cho các phong trào
này có khuynh hướng phát triển từ tự phát sang tự giác.
Trong những năm 1926 – 1929, phong trào công nhân Việt Nam
đáu tranh dưới sự lãnh đạo của các tổ chức như Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên, Cộng hội đỏ và các nhóm cộng sản ra đời từ năm


1929. Các cuộc bĩa công liên tiếp nổ ra. Tiêu biểu là cuộc bãi công cua
1.000 công nhân nhà máy s ợi Nam Định, 500 công nhân đồn điền cao su
Cam Tiến... Từ năm 1928 đến năm 1929, có khoảng 40 cuộc đấu tranh
của cơng nhân diễn ra trong tồn quốc. Theo số liệu thống kê, năm 1927
có 7 cuộc đấu tranh lớn, thì năm 1929 lá 24 cuộc, năm 1930 lên 98 cuộc
(với số người tham gia từ 350 người lên tới 31.680 người).
Các cuộc đấu tranh của công nhân Việt Nam thời kỳ này manh
tính chất chính trị rõ rệt và diễn ra trong phạm vi cả nước. Trong mỗi
cuộc đấu tranh đã có sự liên kết giữa các nhà máy, các ngành và các địa
phương. Phong traomf coonh nhân đã đạt đến trình độ “ tự giác ”, được
đánh giá là thuần thục về chính trị. Bản thân phong trào cơng nhân có
sức lơi cuốn đối với phong trào yêu nước và có thể nói, nó quyết định
phong trào dân tộc theo khuynh hướng cách mạng vô sản.
Như vậy, trong khi các phong trào đấu tranh theo nhiều khuynh
hướng chính trị khác nhau, đồng thời cũng là sự xuất hiện của nhiều giai
– tầng trong xã hội trên vũ đài chính tri... nhưng tất cả đều khơng được
lịch sử chấp nhận. Với sự nỗ lực của Nguyễn ái Quốc và hội Việt Nam

cách mạng thanh niên, chủ nghĩa Mác - Lênin được thâm nhập vào
phong trào công nhân và phong trào yêu nư ớc làm cho các phong trào
này có khuynh hướng phát triển từ tự phát sang tự giác. Chính xu hướng
đó làm cho nhu cầu tất yếu của lịch sử đòi hỏi phải thành lập Đảng
công sản Việt Nam, làm cho Hội Việt Namcacsh mạng thanh niên sau
khi hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình đã bị phân liệt dẫn đến sự ra
đời của 3 tổ chức cộng sản và cuối cùng là sự tất yếu phải hợp nhất để
thành lập một đảng cộng sản duy nhất. Điều đó khẳng định sự ra đời
của đảng Cộng sản Việt Nam là sự lựa chọn của chính lịch sử, là sản
phẩm của sự kết hợp 3 yếu tố Chủ nghĩa Mác – Lênin, phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.


2.2. Sự ra đời của Đảng công sản Việt Nam đã chấm dứt tình
trạng khủng hoảng về lãnh đạo cách mạng những năm đầu thế kỷ
XX.
Trước ách áp bức của thực dân Pháp xâm lược, các phong trào đấu
tranh cảu nhân dân Việt Nam diễn ra mạnh mẽ theo nhiêu khuynh
hướng chính trị khác nhau, qua đó cũng chứng kiến nhiều giai cấp, tàng
lớp khác nhau lần lượt bước lên vũ đài chính trị với nhiều đường lối,
phương pháp tiến hành đấu tranh khác nhau nhưng cuối cùng đều rơi
vào cùng một kết cục là thất bại.
Phong trào Cần Vương với sự lãnh đạo của giai cấp địa chủ lớp
trên, giai cấp đã khơng cịn đủ năng lực và uy tín lơi kéo, vận đơng lực
lượng nhân dân. Khời nghĩa Yên thế “ nặng cốt cách phong kiến ” vì
hoạt động đấu tranh của nghĩa quân chỉ dựa vào tài thao lược của một
lãnh tụ mất, phong trào cũng vì thế mà tan rã. Đơng Du có phương pháp
đấu tranh đúng đắn là dùng bạo động nhưng lại không biết xác định
bạn thù,đồng thời lại khơng có biến pháp cụ thể phù hợp để thực hiện
bạo động. Duy Tân thì phương pháp đấu tranh cải lương, không

tường. Việt Nam quốc dân Đảng biểu thị tính bồng bột, hăng hái nhất
thời cú tầng lớp tiêu tư sản... nhìn chung tất cả các phong trào thất bại
vì khơng có đường lối đấu tranh phù hợp với xu thế của thời đại; khơng
có giai cấp lãnh đạo giữ vị trí là giai cấp trung tâm của thời đại.
Với những biến cố lịch sử đã xuất hiện trên thế giới cho thấy
phạm trù cảu cách mạng thế giới đã chuyển sang phạm trù cách mạng
vô sản, tất cả các cuộc cách mạng trên thế giới, kể cả cách mạng giải
phóng dân tộc muốn giành thắng lợi phỉa đi theo đường lối của cách
mạng vô sản và theo đó, giai cấp cách mạng nhất, giữ vai trị tiên phong,
có sứ mệnh lịch sử là giai cấp trung tâm của thời đại lúc này tất yếu
phải là giai cấp vơ sản. Vì vậy, khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời với


Cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn khẳng định phương hướng
chiến lược của cách mạng Việt Nam là : chủn trương làm “ tư sản dân
quyền cách mạng v à thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản ”,
khẳng định rõ ràng giai cấp lãnh đạo cảu giai cấp công nhân thông qua
Đảng Cộng sản : “ Đảng là đội tiền phong của vô sản giai cấp phải thu
phuc cho được đại bộ phân. giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình
lãnh đạo được dân chúng ”... Với những quan điểm này, Cương lĩnh đã
đặt cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo của các cách mạng vô sản.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định sự trưởng
thành vượt bậc cảu giai cấp công nhân Việt Nam. Trong khi các phong
trào của các giai cấp, các tầng lớp khác nhau trong xã hội Việt Nam đều
lần lượt thất bại thì phong trao đấu tranh của giai cấp công nhân lại
từng bước khẳng định sự lớn mạnh của mình khơng chỉ về số lượng mà
cịn về chất lượng ; khơng chỉ về quy mơ ngày càng lớn mà cả về tính tự
giác, tính chính trị của các phong trao ngày càng được thể hiện rõ nét
hớn... Đúng như Hồ Chí Minh nhận xét : “ Việc thành lập Đảng là một
bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta.

Nó chứng tỏ rằng giai cấp vơ sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo
cách mạng ” Và kể từ đây, ngọn cờ dân tộc được lịch sử trao cho giai cấp
công nhân Việt Nam, giai cấp công nhân Việt Nam đã tự mình trở thành
dân tộc, trở thành giai cấp dân tộc, nắm vững và giương cao ngọn cờ
dân tộc.
2.3. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam cho thấy cách
mạng Việt Nam đã trở thành một bộ phận khăng khít của cách
mạng thế giới.
Do CNTB đã phát triển đến giai đoạn cao, giai đoạn ĐQCN, mâu
thuẫn nội tại của CNTB và đang tạo ra tính tất yếu của các cuộc cách
mạng vô sản và tren bình diện thế giới, cuộc cách mạng vơ sản đầu tiến


đã giành thắng ijhoanf tồn. Vì vậy, thời đại mới đã mở, đáo là thời đại
của cách mạng vô sản, phạm trù cách mạng thết giới đã chuyển sang
phạm trù cách mạng vô sản, cho nên tất cả các cuộc cách mạng tên thế
giới, kể cả cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành thắn lợi phải đi
theo đường lối của cách mạng vô sản.
Song, ở Việt Nam trong những thập niên đầu tiên cua r thê s kỷ
XX, các phong trao đấu tranh lại chủ yếu diến ra theo hai khuynh hướng
chính trị cơ bản là phong kiến và tư sản. Đây đều là nhứng khuynh
hướng cách mạng không cịn phù hợp với tời đại mới nếu như khơng
muốn khẳng định là “ quay ngược bánh xe lịch sử ”. Từ chỗ khơng có
đường lối cách mạng phù hợp với xu thế vận động và phát triển của lịch
sử nhân loại ; khơng có giai cấp lãnh đạo cách mạng là giai cấp đứng ở vị
trí trung tâm của thời đại, cho nên các phong trào đấu tranh theo các
khuynh hướng phong kiến và tư sản đã khơng tìm thấy cho mình khơng
chỉ lực lượng trong nước mà quan tronhj hơn là sự đoàn kết liên minh
cặt chẽ với lực lượng cách mạng thế giới để chống lại một kẻ thù đã tở
thành hệ thống thế giới. Do vậy, đây cũng được coi là một trong những

nguyên nhân quan trọng dẫn đến kết cục thất bại của các phong trào.
Với sự nỗ lực của Nguyễn Ái Quốc và Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên, Chủ nghĩa Mác - Lênin được chuyển bá rộng rãi vào phong
trao công nhân phong trào yêu nước Việt Nam, làm cho các phong trào
này, đặc biệt là phong trao công nhân phát triển mạnh mẽ, tư tự phát
sang tự giác và thành quả là sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với
đường lối cách mạng đi theo cách mạng vô sản đã đặt cách mạng Việt
Namvaof quỹ đạo của cách mạng thời đại, là cơ sở tiên quyết để cách
mạng Việt Nam trở thành một bộ phận của cách mạng thế giới.
Từ đây giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam tham
gia một cách tự giác vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân


thế giới ; từ đây sự phat triển của phong trao cách mạng Việt Nam cũng
góp phaanfcurng cố sức mạnh của phong trào đấu tranh cách mạng thế
giới và sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới cũng củng cố
sức mạnh cho cách mạng Việt Nam.
Đây chính là một trong những nguyên nhân làm nên những thắng
lợi to lớn của cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng. Trong thắng lợi của
cách mạng Tháng Tám năm 1945, ta giành chính quyền từ tay Nhật,
ngồi sức mạnh “ đem sức ta tự giải phóng cho ta ”, chúng ta khơng thể
phủ nhân vai trị của lực lượng dân chủ - đưng đâu là Liên Xô và lực
lượng đồng minh trong việc chống phat Xít ; trong các cuộc chiến tranh,
chống ngoiaj xâm, bảo vệ Tổ quốc, ngoài sức manh của dân toàn thể
dân tộc với tinh thần “ dựa vào sức mình là chính ” chúng ta cũng thấy
rõ sức mạnh đồn kết của khơng chỉ 3 nước Đơng Dương, mà cịn là sự
đồn kết, ủng hộ của nhân dân tiến bộ, u chuộng hịa bình trên thế
giới, thậm chí cả nhân dân Pháp, Mỹ ; và ngày nay những thắng lợi bước
đầu của cơng cuộc đổi mới, ngồi việc phat huy tối đa các nguồn lực
trong nước, chúng ta ln tíc cực, chủ động, đa phương hóa, đa dạng hóa

các quan hệ đối ngoại.
2.4. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự chuẩn bị tất
yếu đầu tiên có tính chất quyết định cho những bước phát triển
nhảy vọt trong tiến trình tiến hóa của dân tộc Việt Nam.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối cách mạng
đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại và điều kiện, hồn
cảnh cụ thể của dân tộc Việt Nam. Do đó giai cấp công nhân Việt Nam,
thông qua đội tiên phong cảu mình là Đảng Cộng sản Việt Nam khơng
chỉ tập hợp được giai cấp mình mà cịn vận động, lơi keeos được động
đảo các giai - tầng khác trong xã hội trên một “ mẫu số chung “ đó là tinh
thần yêu nước. Không những thế, việc giai cấp công nhân nắm bá quyền


lãnh đạo cách mạng Việt Nam là điều kiện tiên quyết để cách mạng Việt
Nam không chỉ phát huy được sức mạnh tồn dân tộc mà cịn kết hợp
được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, thoonh qua đao tạo nên
sức mạnh tổng hợp để cách mạng Việt Nam giành được những thắng lội
to lớn.
Trong suốt quá trình lãnh đạocách mạng, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã không ngừng củng cố, xây dựng mình vững mạnh về tư tưởng,
chính trị và tổ chức để ngang tầm với nhiệm vụ lịch sử được giao phó.
Vì vây, sự lãn đạo của Đảng luôn là nhân tố hàng đầu quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam Tháng Tám năm 1945 bắt từ
sự chuyển hướng đúng đắn, kịp thời của Đảng trrong HNTW6 (11 –
1939) và HNTW8 (5 – 1941) trước tình hình mới; bắt nguồn từ sự sáng
suốt của Đảng trong việc dự đoán thời cơ và chớp thời cơ thể hiện tập
trung trong chỉ thị “ Nhật – Pháp bẳn nhau và hành động của chúng ta ”
(12 – 3 – 1945); từ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng qua các cao trào 1930
– 1931, 1936 – 1939... để lịch sử dân tộc Việt Nam ghi vào dịng chảy

của mình một cuộc “ cách mạng thần thánh ” giành chính quyền, lập
nên Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; dưa nhân dân từ thân phận là
người nô lệ trở thành người làm chủ vận mạnh dân tộc; đưa Đảng ta từ
một Đảng bí mật, bắt hợp pháp trở thành một Đảng cầm quyền...
Trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc,
Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối lãnh đạo cách mạng đúng đắn,
sáng tạo cũng thể hiện rõ vai trò và năng lực lãnh đạo cách mạng, là
nhân tố quyết định tạo nên sức mạnh để Việt Nam lần lượt đánh bại
các tên đế quốc hùng mạnh, sừng sỏ và hiệu chiến bậc nhất thế giới.


Với đường lối kháng chiến “ toàn dân, toàn diện, đâu dài, dựa vào
sứ mình là chính “, Đảng đã phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc
với tinh thần “ thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ “, tất cả các lực lượng, không phân biết
già trẻ, gái trai,,khơng phân chia đảng phái, tơn giao... đều đóng góp sức
mình cho cuộc kháng chiến, làm nên một trận địa chống thực dân Pháp
xâm lược ; với đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ‘
cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
ở miền Nam, Đảng tiếp tục tạo dược thế trận “ toàn dân đánh giặc, cả
nước đánh giặc “ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Cùng với
việc phát huy sức mạnh của toàn dân, Đảng cũng đưa ra đường lối
ngoại đúng đắn, sáng suốt tạo nên sức mạnh tổng hợp của không chỉ 3
nước Đông Dương, sức mạnh của hệ thống XHCN, mà còn tập hợp được
sức mạnh của cả lực lực lượng tiến bộ, u chuộng hịa bình trên thế
giới, kể cả nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ... tạo thành một sức mạnh
tổng hợp để làm nên những thắng lợi oanh liệt của dân tộc, quét sạch
ách độ hộ của chủ nghĩa thực dân cả cũ và mới ; dân tộc Việt Nam vào
hàng ngũ những dân tộc tiên phong đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiens bộ trên thế giới.

Sau khi đất nước giành được độc lập, thống nhất, Đảng tiếp tục
phát huy tinh thần độc lập tự chủ và sáng tạo, đặc biệt trong công cuộc
đổi mới. Đảng đã đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới trong
khi công cuộc Cải cách,Cải tổ của các nước trong hệ thống XHCN lail đi
vào bế tắc, thậm chí và thất bại. Với bản chất cách mạng và khoa học,
Đảng đã không ngừng bổ sung và hoàn thiện đường lối cho phù hợp
với điều kiện hoàn cảnh cụ thể, mang lại “những thành tựu to lớn và có
ya nghĩa lịch sử ” sau 20 năm đổi mới không ngừng nâng cao vị thế của
Việt Nam tên trường quốc tế.


2.5. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên
tuổi của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, người sáng lập, rèn luyện
và lãnh đạo Đảng ta.
Sống trong bối cảnh nước mất, nhà tan, người thanh niên Nguyễn
tất thành đã sớm ni trí đánh đuổi ngoại xâm, giải phong cho dân tộc.
Khi ra đi tìm được cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã không tán thành
đường lối cứu nước theo hệ tư tượng phong kiến và tư sản, nhưng
ngay từ đầu Nguyễn Ái Quốc chưa có một quan niệm cần có một tổ
chức chính trị đãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc. Nguyễn Ái Quốc
gặp và tiếp thu Chủ nghĩa Mác – Lênin, tìm thấy ở đấy con đường giải
phóng cho dân tộc, đưa đất nước đi lên độc lập – tự do – hạnh phúc, đó
là đường lối cách mạng vơ sản.
Với quan điểm “ cách mạng trước hết phải có đảng cách mệnh, để
trong thì vận động và tổ dân chứng, ngoại thì liên lạc với dân tộc bị áp
bức và vô sản giai cấp mọi nơi ” Nguyễn Ái Quốc đã tiến hành một qua
trình chuẩn bị về chính trị tư tượng và tổ chức cho sự ra đời của. Với sự
nỗ lực của người, Đảng Cộng sản Việt Nam đã được ra đời vào ngày 3 –
2 – 1930 là sự vận dụng sáng tạo học thyết của Chủ nghĩa Mác – Lênin
về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân ở một nước thuộc địa.

Những đóng góp của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đối với cách
mạng Việt Nam khơng chỉ có sự nỗ lực của người trong viejc thành lập
Đảng Công sản Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX, mà cịn ở hệ thống
quan điểm tồn diện vá sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng
Việt Nam, trong đó nổi bật là những quan điểm tư tưởng của người về
Đảng Công sản Việt Nam. Những quan điểm tư tưởng đó ln co tác
dụng định hướng, soi đường chỉ lối cho Đảng Cộng sản Việt Nam giữ
vững và phat huy được vai trò là một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân
dân Việt Nam hoàn thành xuất sắc hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và


bảo vệ Tổ quốc, đưa dân tộc Việt Nam vững bước tiến lên vì mục tiêu
độc lập và CNXH, xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh xã hội
công bằng, dân chủ văn minh.


KẾT LUẬN

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, lịch sử phát triên của nhân dân
loại đang có những chuyển biến vô cùng quan trọng, thời đại qua độ từ
CNTB lên CNXH đã mở, tình hình đó địi hỏi những chiến sĩ cách mạng
trên thế giới phải nhình nhận được xu thế phát triển của thời đại mà
để ra được đường lối và tìm ra được giai cấp lãnh đạo cách mạng phù
hợp.
Việt Nam chịu ách thống trị của thực dân Pháp, trước ách áp bức
bóc lột nặng nề, mâu thuẫn dân tộc đang diến ra hết sức gay gắt, nhiều
phong trào đấu tranh của nhiều lực lượng và theo nhiều khuynh hướng
chính trị khác nhau đều lần lượt thất bại. Phong trào cách mạng Việt
Nam làm vào cuộc khủng hoảng về đường lối và giai cấp lãnh đạo.
Trong bối cảnh đó, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, bằng trí tuệ

thiên tài của mình đã sớm nắm bắt được xu thế của thời đại và nhu cầu
của cách mạng Việt Nam, đã tìm thấy ở Chủ Nghĩa Mác – Lênin con
đường cách mạng giải phóng dân tộc, mang lại tự do, hạnh phúc cho
nhân dân, đó là đường lối cách mạng theo con đường cách mạng vô sản.
Với quan điểm “ cách mệnh trước hết cần có đảng cashc mẹnh”, Người
đã nỗ lực chuẩn bị mọi điều kiện cho sự ra đời củ Đảng. Và swj ra đời
của Đảng cộng sản Việt Nam ngày 3 – 2 – 1930, đã mang những ý nghĩa
hết sức to lớn đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Tìm hiệu sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trong bối cảnh
trong nước và quốc tế như trên mới thấy hết được những ý nghĩa to lớn
của sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời cũng thấy được
sự vĩ đại của Nhuyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong việc thành lập Đảng.
Sự vĩ đại ấy ở chỗ người đã sớm đặt cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo


×