Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

TL LSĐCSVN đảng cộng sản việt nam lãnh đạo công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.32 KB, 39 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (tháng 2 - 1930), tiếp nối truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, giữ vững bản chất cách mạng của giai cấp công nhân,
kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tường Hồ Chí Minh, đã lãnh đạo nhân
dân ta vượt qua mọi khó khăn thử thách, làm nên những thắng lợi quan
trọng và lập nên những kỳ tích của cách mạng Việt Nam: Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 lập nên nước Việt Nam mới, tiếp đó là thắng lợi vĩ
đại trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, thống
nhất nước nhà, và hiện nay Đảng đang tiến hành lãnh đạo và tổ chức thực
hiện công cuộc đối mới, kiên trì đưa đất nước ta phát triển theo con đường xã
hội chủ nghĩa. Công cuộc đổi mới hiện nay đang diễn ra trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội, đang thu hút sự quan tâm của toàn Đảng, toàn dân,
đang đặt ra những luận để buộc phải lý giải, giải quyết, trước hết là về mặt
nhận thức lý luận.
Ở Việt Nam, sau những năm đổi mới theo hướng chuyển sang nền kinh
tế thị trường, đời sống kinh tế - xã hội của đất nước Việt Nam đã có bước
chuyển biến cơ bản. Trong bối cảnh này, việc đẩy mạnh q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế nổi lên như một nhiệm vụ trọng
tâm của đất nước trong giai đoạn mới nhằm đảm bảo mục tiêu tăng trưởng
nhanh, bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế. Đó là
một tiến trình tất yếu khách quan mà bất cứ quốc gia đang phát triển nào
cũng phải thực hiện trên con đường phát triển của mình.
Chính vì ý nghĩa lý luận và thực tiễn này, tôi lựa chọn vấn đề “Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công cuộc đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay” làm đề tài tiểu luận của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ.

1



2.1. Mục đích:
Trình bày một cách hệ thống và khái qt q trình Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo cơng cuộc đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ:
- Trình bày một cách tương đối tồn diện, hệ thống hóa, khái quát cơ
sở lý luận về công cuộc đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế.
- Phân tích thực trạng trong q trình thực hiện cơng cuộc đổi
mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay ở
nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Đưa ra định hướng nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu q trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cơng cuộc
đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Tiểu luận nghiên cứu đề tài khoa học ở Việt Nam trong khoảng thời
gian từ năm 1986 đến năm 2021.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
4.1. Cơ sở lý luận:
Đề tài dựa trên phương pháp luận chủ chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử. Dựa trên cơ sở lý luận Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta. Kế thừa kết quả
nghiên cứu trong và ngoài nước về vấn đề nghiên cứu.
2


4.2. Phương pháp nghiên cứu:

Tiểu luận sử dụng chủ yếu các phương pháp nghiên của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là các phương pháp
phân tích và tổng hợp, phương pháp hệ thống, thống nhất giữa lịch sử và
logic, giữa trừu tượng và cụ thể…
5. Kết cấu.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
Tiểu luận gồm có 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về cơng cuộc đổi mới, đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ở Việt Nam.
Chương II: Quá trình thực hiện cơng cuộc đổi mới, đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ở nước ta dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chương III: Một số định hướng cho quá trình thực hiện cơng cuộc đổi
mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ở nước ta
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

3


B. NỘI DUNG
Chương I: Cơ sở lý luận về công cuộc đổi mới, đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ở Việt Nam.
1.1. Công cuộc đổi mới ở Việt Nam:
1.1.1. Khái niệm:
Công cuộc đổi mới là một chương trình cải cách tồn diện bao
gồm kinh tế và nhiều khía cạnh khác của đời sống xã hội do Đảng
Cộng sản Việt Nam khởi xướng vào thập niên 1980. Chính sách Đổi mới
được chính thức thực hiện từ Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần
VI, năm 1986.
1.1.2. Nội dung:

Ðảng Cộng sản Việt Nam kiên định mục tiêu đổi mới - phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Ðổi mới chính là hướng tới thực hiện ngày
càng tốt hơn, hiệu quả hơn và ở trình độ cao hơn mục tiêu bao trùm này. Tiêu
chí để chỉ đạo và đánh giá quá trình đổi mới chính là thực tiễn và kết quả
đưa đất nước thốt ra khỏi cuộc khủng hoảng, ra khỏi tình trạng kém phát
triển, gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, con người, nâng
cao đời sống mọi mặt của nhân dân.
Ðể đổi mới thành công theo mục tiêu trên, Ðảng Cộng sản Việt Nam
đã xác định đổi mới tồn diện đồng bộ, nhưng có trọng tâm, trọng điểm trong
từng giai đoạn; đặt đổi mới tư duy lên hàng đầu để mở đường và định hướng
cho quá trình đổi mới; trong đó đổi mới, phát triển kinh tế là trung tâm và đi
trước một bước; xây dựng Ðảng là then chốt; xây dựng văn hóa, con
người làm nền tảng tinh thần; tăng cường quốc phòng, an ninh là trọng
yếu, thường xuyên; lấy sự ổn định chính trị - xã hội làm tiền đề, làm điều
kiện tiên quyết cho sự nghiệp đổi mới và phát triển.

4


Với quan điểm "Phát triển kinh tế là trung tâm", Việt Nam đặt trọng
tâm là xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Ðây là bước đổi mới có tính lịch sử cả về lý luận và thực tiễn, thể
hiện tập trung trong việc xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó xác định rõ và giải quyết hiệu quả mối
quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội, nhằm tạo nên sức mạnh tổng
hợp cho sự phát triển.
Ðảng Cộng sản Việt Nam xác định phát triển con người, văn hóa, xã
hội là nhiệm vụ và mục tiêu định hướng quan trọng của sự nghiệp đổi mới.
Ðể thực hiện nhiệm vụ chiến lược này, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã chủ
trương tiến hành "Ðổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo", phát triển,

nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, gắn liền với đẩy mạnh phát triển và
ứng dụng khoa học và công nghệ tiên tiến. Ðồng thời, xác định phát triển
giáo dục và đào tạo cùng với khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu
trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước.
Ðảng Cộng sản Việt Nam xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của
xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực, là nguồn lực nội sinh quan trọng của
phát triển đất nước. Ðảng Cộng sản Việt Nam đặt nhiệm vụ xây dựng hệ giá
trị Việt Nam đặc trưng trong giai đoạn mới đáp ứng với yêu cầu của sự
nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Ðảng Cộng sản Việt Nam xác định mục tiêu và thành quả của công
cuộc đổi mới phải nâng cao đời sống mọi mặt của người dân thơng qua thực
hiện có hiệu quả các chính sách xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội. Nhận
thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của phát triển xã hội và quản lý phát triển
xã hội bền vững, Ðảng Cộng sản Việt Nam coi trọng lãnh đạo thực hiện đồng
bộ các chính sách, giải pháp để không ngừng nâng cao thu nhập và chất lượng
cuộc sống của nhân dân.

5


Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế là
một định hướng chiến lược quan trọng của Ðảng Cộng sản Việt Nam trong
quá trình đổi mới. Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở
các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, kiên
quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Ðảng, Nhà nước, nhân dân và chế
độ xã hội chủ nghĩa; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự
nghiệp hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Ðổi mới hệ thống chính trị tạo động lực cho q trình đổi mới. Ðảng
Cộng sản Việt Nam xác định đổi mới hệ thống chính trị đóng vai trị then

chốt trong việc tăng cường vai trị lãnh đạo của Ðảng. Trong đó, chú
trọng nghiên cứu, hồn thiện và tổ chức thực hiện mơ hình tổ chức tổng thể
của hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.
Về xây dựng và phát huy dân chủ, Ðảng và Nhà nước Việt Nam xác
định nhiệm vụ cốt lõi là tôn trọng, bảo vệ và phát huy quyền con người,
quyền công dân, gắn với trách nhiệm và nghĩa vụ cơng dân. Ðẩy mạnh phát
triển các hình thức và phương thức thực hiện dân chủ, nhất là các hình thức
dân chủ trực tiếp. Ðảng Cộng sản Việt Nam xác định dân chủ trong Ðảng
có ý nghĩa quyết định đối với phát triển dân chủ trong tổ chức và hoạt động
của cả hệ thống chính trị, gắn với dân chủ hóa tồn bộ đời sống xã hội, tạo
được đồng thuận xã hội, tạo ra sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
do Ðảng lãnh đạo: Ðảng Cộng sản Việt Nam xác định đây là nhiệm vụ
trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam vừa tiếp thu những thành tựu chung của nhân loại, vừa
thể hiện bản sắc riêng của Việt Nam; được xây dựng thể hiện quyền lực nhà

6


nước thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp kiểm soát hiệu quả giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp; đồng thời xây dựng đồng bộ thể chế, thiết chế kiểm sốt quyền lực,
khắc phục tình trạng lạm dụng quyền lực, quan liêu, tham nhũng.
1.2. Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam:
1.2.1. Khái niệm:
Ở Việt Nam, kế thừa có chọn lọc và phát triển những tri thức của văn
minh nhân loại về cơng nghiệp hố vào điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta

hiện nay, Đảng ta nêu ra quan niệm về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa như sau:
“Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là q trình chuyển đổi căn bản,
toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội, từ sử dụng sức lao động thi công là chính sang sử dụng một cách
phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến
hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công
nghệ, nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao.”
1.2.2. Nội dung
Một là, tạo lập những điều kiện để có thể thực hiện chuyển đổi từ nền
sản xuất - xã hội lạc hậu sang nền sản xuất - xã hội tiến bộ.
Muốn thực hiện chuyển đổi trình độ phát triển, địi hỏi phải dựa trên
những tiền đề trong nước, quốc tế. Do đó, nội dung quan trọng hàng đầu để
thực hiện thành cơng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là phải thực hiện tạo lập
các điều kiện cần thiết trên tất cả các mặt của đời sống sản xuất xã hội. Tuy
vậy, khơng có nghĩa là chờ chuẩn bị đầy đủ mới thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Thực tế phải thực hiện các nhiệm vụ một cách đồng thời,
Hai là, thực hiện các nhiệm vụ để chuyển đổi nền sản xuất - xã hội
lạc hậu sang nền sản xuất - xã hội hiện đại. Cụ thể là:

7


- Đẩy mạnh ứng dụng những thành tựu khoa học, công nghệ mới, hiện
đai.
- Chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hợp lý và hiệu quả.
- Từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.
1.3. Hội nhập quốc tế ở Việt Nam:
1.3.1. Khái niệm:
Hội nhập quốc tế là q trình các nhà nước có đủ tư cách quốc gia,
vùng lãnh thổ được quốc tế công nhận tiến hành các mối quan hệ với các

quốc gia, tổ chức quốc tế khác để hướng đến chia sẻ nhằm mục tiêu chung đạt
được lợi ích cho nước mình và các nước, tổ chức quốc tế khác về chính trị,
kinh tế, văn hóa, an ninh... trên cơ sở tuân thủ các khuôn khổ chế định chung.
1.3.2. Nội dung:
Trong bối cảnh hiện nay, hội nhập quốc tế ngày càng được coi trọng và
diễn ra trên nhiều mặt của đời sống chính trị, kinh tế - xã hội với nhiều
tính chất, phạm vi và hình thức sâu rộng. Những nội dung về hội nhập quốc
tế hiện nay đã trở thành xu thế chung của thế giới, là mối quan tâm của các
quốc gia, trong đó có Việt Nam. Có sự nhận định chung sự liên kết giữa các
quốc gia trên thế giới hiện nay thực sự là đòn bẩy để tiến đến thời đại mới thời đại tồn cầu hóa đang dần hình thành.
Hội nhập kinh tế quốc tế: Là việc các nước trên thế giới bắt đầu tham
gia hội nhập quốc tế từ hội nhập kinh tế quốc tế, vì lĩnh vực kinh tế và lợi ích
kinh tế là động lực cho sự phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế trong giai
đoạn hiện nay của thế giới được thể hiện bằng việc mở cửa nền kinh tế và
hướng đến việc tự do hóa cơ chế phát triển kinh tế với quốc tế bằng nhiều
hình thức như đơn phương, đa phương, khu vực, liên khu vực, tiểu khu vực,
toàn cầu... và tùy theo năng lực kinh tế, cơ chế quản lý kinh tế, tiềm lực kinh
8


tế, sự ổn định chính trị... của mình để chấp nhận tham gia theo các mơ hình
liên kết quốc tế.
Hội nhập mang tính chính trị: Đây là hình thái hội nhập quốc tế theo
quy phạm chung của các cơ quan quyền lực của các quốc gia tham gia tuân
thủ nhằm chia sẻ lợi ích cơ bản về chính trị chính thể, ý thức hệ, quyền
lực… bằng hình thái hiệp ước, liên minh, đồng minh khu vực hoặc tồn cầu,
ví dụ như ASEAN, EU, Liên hợp quốc... Quy phạm chung về hội nhập chính
trị tùy theo tính chất của liên kết (sâu rộng, chặt chẽ, lỏng lẻo, đồng thuận…).
Hội nhập an ninh - quốc phòng: Các nước tham gia trên cơ sở liên kết
theo mục tiêu vì hịa bình và an ninh với nhau có thể là song phương, đa

phương, khu vực, tiểu khu vực… hoặc thấp hơn với hình thức hội nghị, diễn
đàn…
Hội nhập về văn hóa - xã hội: Các quốc gia tham gia nhằm chia sẻ các
giá trị văn hóa, tinh thần, giáo dục, tiến bộ khoa học kỹ thuật… từ đó làm nền
tảng cho các loại hình hội nhập quốc tế khác. Thông thường, hội nhập về văn
hóa - xã hội giữa các quốc gia được thực hiện bằng các hiệp định song
phương hoặc đa phương, nhưng phần nhiều là đa phương rộng rãi như việc
tham gia vào các tổ chức quốc tế của Liên hợp quốc…
1.4. Tính tất yếu của cơng cuộc đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ở Việt Nam.
Một là, lý luận và thực tiễn cho thấy, cơng cuộc đổi mới, đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế là quy luật phổ biển của sự
phát triển lực lượng sản xuất xã hội mà mọi quốc gia đều trải qua dù ở các
quốc gia phát triển sớm hay các quốc gia đi sau.
Q trình đó như một địn bẩy quan trọng tạo sự phát triển đột biến
trong các lĩnh vực hoạt gian động của con người. Thông qua công cuộc
đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, các

9


lĩnh vực của nền kinh tế - xã hội được trang bị những tư liệu sản xuất, kỹ
thuật công nghệ ngày càng hiện đại, từ đó nâng cao năng suất lao động, tạo ra
nhiều của cải vật chất, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của con
người.
Hai là, đối với các nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ
nghĩa xã hội như nước ta, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã
hội phải thực hiện từ đầu thông qua cơng cuộc đổi mới, đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Mỗi bước tiến của q trình đó
là một bước tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, phát

triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở đó từng bước nâng dần trình độ văn minh của xã
hội.
Thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế có ý nghĩa quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Xây dựng chủ nghĩa xã hội địi hỏi phải có một
nền kinh tế phát triển cao dựa trên những tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới,
hiện đại. Để thực hiện được điều này, trước hết đồi hỏi phải xây cơ sở vật
chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, dựa trên cơ sở những thành tựu khoa
học, công nghệ mới, hiện đại tạo ra năng suất lao động cao. Quá trình cơng
cuộc đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế là
nhằm tạo ra lực lượng sản xuất phát triển với quan hệ sản xuất ngày càng
tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, không
ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân, củng cố an ninh,
quốc phòng, nâng cao khả năng hợp tác quốc tế thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Chương II: Q trình thực hiện cơng cuộc đổi mới, đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ở nước ta dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

10


2.1. Đổi mới toàn diện, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội 1986 – 1996.
2.1.1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, thực hiện
đường lối đổi mới toàn diện.
Đại hội VI của Đảng diễn ra tại Hà Nội, từ ngày 15 đến ngày 18-121986, trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật đang phát triển
mạnh, xu thế đối thoại trên thế giới đang dần thay thế xu thế đối đầu. Đổi
mới đã trở thành xu thế của thời đại. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
đều tiến hành cải tổ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việt Nam đang bị

các nước đế quốc và thế lực thù địch bao vây, cấm vận và ở tình trạng khủng
hoảng kinh tế - xã hội. Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng đều khan
hiếm; lạm phát tăng 300% năm 1985 lên 774% năm 1986. Các hiện tượng
tiêu cực, vi phạm pháp luật, vượt biên trái phép diễn ra khá phổ biến. Đổi mới
đã trở thành đòi hỏi bức thiết của tình hình đất nước.
Đường lối đổi mới tồn diện do Đại hội VI đề ra thể hiện trên các
lĩnh vực nổi bật: Đại hội đã nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói
rõ sự thật, đánh giá thành tựu, nghiêm túc kiểm điểm, chỉ rõ những sai lầm,
khuyết điểm của Đảng trong 1975-1986.
Đại hội khẳng định, chính sách xã hội bao trùm mọi người, cần có
chính sách cơ bản, lâu dài, xác định được những nhiệm vụ, phù hợp với yêu
cầu, khả năng trong chặng đường đầu tiên. Đề cao cảnh giác, tăng cường khả
năng quốc phòng và an ninh quyết đánh thắng kiểu chiến tranh phá hoại
nhiều mặt của địch, bảo đảm chủ động trong mọi tình huống để bảo vệ Tổ
quốc. Tăng cường quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đơng Dương, tình hữu nghị
và hợp tác với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa; bình thường hố quan
hệ với Trung Quốc vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hịa bình ở Đông
Nam Á và trên thế giới.

11


Đăng cần phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, đổi mới
công tác tư tướng: đổi mới công tác cán bộ và phong cách làm việc, giữ vững
các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng; tăng cường đồn kết nhất trí
trong Đảng. Đảng cần phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao
động, thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; tăng cường hiệu
lực quản lý của Nhà nước là điều kiện tất yếu để huy động lực lượng của
quần chúng.
Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, tình hình thế giới

biến chuyển nhanh chóng. Cơng cuộc cải tổ ở Liên Xô, các nước xã hội
chủ nghĩa Đông Âu ngày càng rơi vào khủng hoảng toàn diện và sụp đổ
hoàn toàn (12-1991). Sự sụp đổ gây tác động bất lợi nhiều mặt đối với thế
giới và Việt Nam. Viện trợ và quan hệ kinh tế giữa Liên Xô và các nước
Đông Âu với nước ta bị thu hẹp nhanh. Trên diễn đàn quốc tế, Mỹ và các
nước thù địch lấy cớ quân tình nguyện Việt Nam chưa rút khỏi Campuchia,
tiếp tục bao vây, cấm vận, cô lập, tuyên truyền chống Việt Nam.
Ở trong nước, những năm 1957-1988, khủng hoảng kinh tế-xã hội
vẫn diễn ra nghiêm trọng. Lương thực, thực phẩm thiêu, nạn đói xảy ra ở
nhiều nơi, lạm phát cao, đời sống nhân dân rất khó khăn. Sự dao động về tư
tưởng chính trị, giảm sút niềm tin vào con đường xã hội chủ nghĩa ngày
càng lan rộng. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, Trung ương
Đảng đã họp nhiều lần, chỉ đạo đổi mới toàn diện, trong đó nổi bật là ở các
lĩnh vực sau:
Hội nghị Trung ương 2 (4-1987) chủ trương về một số biện pháp cấp
bách về phân phối lưu thông. Trọng tâm là thực hiện bốn giảm: Giảm bội chi
ngân sách, giảm nhịp độ tăng giá, giảm lạm phát, giảm khó khăn về đời sống
của nhân dân; mở rộng giao lưu hàng hố, giải thể các trạm kiểm sốt hàng
hóa trên các đường giao thông; thực hiện cơ chế một giá và chế độ lương
thống nhất cả nước; giảm tỷ lệ bội chi ngân sách và bội chi tiền mặt, tiết

12


tiệm chi tiêu, chống tiêu cực; chuyển hoạt động của các đơn vị kinh tế quốc
doanh sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa; đổi mới quản lý nhà
nước về kinh tế. Quyết định số 217-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (14-111987) trao quyền tự chủ cho các doanh nghiệp.
Trong nông nghiệp nổi bật là Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (4-1988)
về khốn sản phẩm cuối cùng đến nhóm hộ và hộ xã viên (gọi tắt là Khốn
10). Theo đó, người nơng dân được nhận khốn và canh tác trên diện tích ổn

định trong 15 năm; bảo đảm có thu nhập từ 40% sản lượng khốn trở lên.
Lần đầu tiên Luật Đầu tư nước ngoài được Quốc hội khóa VIII thơng qua, có
hiệu lực từ ngày 1-1-1988.
Trong cơng nghiệp, xoá bỏ chế độ tập trung, bao cấp, chuyển hoạt
động của các đơn vị kinh tế quốc doanh sang kinh doanh xã hội chủ nghĩa
nhằm tạo ra động lực mạnh mẽ, giải phóng mọi năng lực sản xuất, thúc
đẩy tiến bộ khoa học-kỹ thuật, phát triển kinh tế hàng hoá theo hướng đi lên
chủ nghĩa xã hội với năng suất, chất lượng, hiệu quả ngày càng cao.
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa, Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài của
nhiều thành phần kinh tế. Nâng cao vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc
doanh, phát huy tích cực của các thành phần kinh tế khác. Các thành phần
kinh tế bình đẳng về quyền lợi, nghĩa vụ trước pháp luật.
Các chủ trương trên thể hiện tư duy đổi mới quan trọng về kinh tế của
Đảng đã có kết quả nhanh chóng. Cuối năm 1988, chế độ phân phối theo
tem phiếu xóa bỏ. Lương thực, từ chỗ thiếu triền miên, năm 1988 phải nhập
hơn 45 vạn tấn gạo, đến năm 1989 đã đáp ứng được nhu cầu, có dự trữ và
xuất khẩu. Hàng tiêu dùng đa dạng, lưu thơng tương đối thuận lợi. Nền kinh
tế hàng hố nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước bước đầu hình thành, kinh tế đối ngoại phát triển nhanh
hơn trước.

13


2.1.2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII và Cương lĩnh xây
dựng đất nước ta, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991.
Đất nước sau hơn 4 năm đổi mới cơ bản ổn định nhưng chưa ra khỏi
khủng hoảng kinh tế-xã hội. Công cuộc đổi mới còn nhiều hạn chế, còn nhiều
vấn đề kinh tế - xã hội nóng bỏng chưa được giải quyết.
Đại hội lần thứ VII của Đảng họp tại Hà Nội, từ ngày 24 đến ngày

27-6-1991. Ngồi các kiện chính của một Đại hội Đảng, điểm mới nổi bật của
Đại hội VII là thông quá hai văn kiện quan trọng: Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược, ổn định và
phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2000. Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội VII thông qua (gọi
tắt là Cương lĩnh 1991) đã tổng kết hơn 60 năm Đảng lãnh đạo cách mạng
Việt Nam; nêu ra 5 bài học lớn. Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội. Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân. Ba là, khơng ngừng củng cố, tăng cường đồn kết: đàn kết toàn
Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Bốn là, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Cương lĩnh đã trình bày xu thế phát triển của thế giới, đặc điểm của
thời kỳ quá độ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Cương lĩnh nêu rõ xã hội xã hội chủ
nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội có 6 đặc trưng cơ bản là: “Do
nhân dân lao động, làm chủ. Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và chế độ công các tư liệu sản xuất chủ yếu. Có nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Con người được giải phóng khỏi
áp bức, bóc lột, bất công, làm theo từng lực, hưởng theo lao động, có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Các
dân tộc trong nước bình đẳng, đồn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”.

14


Cương lĩnh nêu ra 7 phương hướng lớn xây dựng chủ nghĩa xã hội là:
Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Phát triển lực lượng sản xuất, cơng
nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nơng
nghiệp tồn diện là nhiệm vụ trung tâm. Thiết lập từng bước quan hệ sản

xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu;
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, Tiến
hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa làm cho
thế giới quan Mác-Lênin, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo
trong đời sống tinh thần xã hội. Thực hiện chính sách đại đồn kết dân tộc.
Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đại hội VII lần đầu tiên thông qua Chiến lược ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội đến năm 2000, trong đó xác định mục tiêu tổng quát đến năm
2000 là ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, phấn đấu
vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển. GDP năm 2000 tăng
gấp đôi so với năm 1990. Quan điểm chỉ đạo của Chiến lược là: Phát triển
kinh tế - xã hội theo con đường cùng cố độc lập dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, với nhiều
dạng sở hữu và hình thức tổ chức kinh doanh, vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước. Mục tiêu và động lực chính của sự
phát triển là vì con người, do con người, giải phóng sức sản xuất, khơi dậy
mọi tiềm năng của mỗi cá nhân, mỗi tập thể lao động và của cả cộng đồng
dân tộc, động viên và tạo điều kiện cho mọi người Việt Nam phát huy ý chí
tự lực tự cường, cần kiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ra sức làm việc cho
mình và cho đất nước. Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật,
được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp.
Tại Đại hội VII, lần đầu tiên Đảng giương cao ngọn cờ tư tưởng
Hồ Chí Minh và khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác-

15


Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
hành động, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của dân tộc và nhân loại, nắm vững quy

luật khách quan và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị,
đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với yêu cầu, nguyện vọng của nhân
dân”.
Hội nghị Trung ương 5 (6-1993) đã đưa ra các chính sách đối với nơng
dân, nơng nghiệp và nơng thôn. Trung ương xác định ba mục tiêu chủ yếu là:
Xây dựng nơng thơn mới có kinh tế phát triển, đời sống văn hóa phong phú,
lành mạnh có cơ sở hạ tầng vật chất và xã hội đáp ứng được những nhu cầu
cơ bản của nơng dân; có hệ thống chính trị vững mạnh; phát huy dân chủ, bảo
đảm cơng bằng xã hội; tăng cường đoàn kết và ổn định chính trị, giữ vững
trật tự xã hội, củng cố vững chắc quốc phòng, an ninh. Điểm mới trong chủ
trương này của Đảng là đề ra các quan điểm, nhiệm vụ xây dựng, phát triển
nơng nghiệp, nơng thơn tồn diện, khơi dậy mọi tiềm năng, nội lực của
nông dân. Trung ương đã đưa ra quan điểm, những phương hướng, nhiệm vụ
và giải pháp tiếp tục đổi mới, xây dựng và phát triển nơng nghiệp, nơng thơn
tồn diện.
Trên cơ sở phân tích tình hình cơng nghiệp, cơng nghệ và giai cấp cơng
nhân những năm qua, tình hình thuận lợi và khó khăn trước mắt, Hội
nghị Trung ương 7 (7-1994) chủ trương phát triển công nghiệp, công nghệ và
xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới.
Kết quả, sau 5 năm 1991-1995, nhiều mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5
năm hoàn thành vượt mức, GDP đạt 8,2% (kế hoạch là 5,5-6,5%). Đã bắt đầu
có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế: Lạm phát từ mức 6,1% năm 1991 giảm
xuống còn 12,7% năm 1995. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng.

16


Sau Đại hội VII, tình hình thế giới diễn biến phức tạp; đất nước đứng

trước những thuận lợi mới và những thách thức mới. Hội nghị Trung ương 3
(6-1992). thảo luận và đưa ra ba quyết sách quan trọng, đúng đắn và củng
cố quốc phòng an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, đổi mới và chỉnh đốn
Đảng.
Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ chung
của tồn Đảng, tồn dân và tồn qn, trong đó các lực lượng vũ trang
gồm quân đội nhân dân và cơng an nhân dân là lực lượng nịng cốt. Trong
tình hình mới phải phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước, truyền thống cách
mạng, đề cao cảnh giác, kiên quyết chống những âm mưu, thủ đoạn “diễn
biến hồ bình” của các thế lực thù địch, xây dựng vững chắc thế trận quốc
phịng tồn dân, thế trận an ninh nhân dân, xây dựng các lực lượng vũ trang
trong sạch vững mạnh, giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ độc lập chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước,
Đảng, Nhà nước chủ trương mở rộng, đa dạng hoá và đa phương hố
quan hệ đối ngoại cả về chính trị, kinh tế, văn hoá và khoa học kỹ thuật, cả
về Đảng, Nhà nút và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức phi chính phủ,
trên ngun tắc tơn trọng độc lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ, khơng can
thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, bảo vệ và
phát triển nền kinh tế, gìn giữ và phát huy những truyền thống và bản sắc tốt
đẹp của nền văn hóa dân tộc.
Những chủ trương trên đã góp phần giữ vững ổn định chính trị, độc lập
chủ quyền và mơi trường hịa bình của đất nước, củng cố quốc phòng an
ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây cấm vận tạo điều kiện
thuận lợi cơ bản cho công cuộc đổi mới. Từ tháng 11-1991, Việt Nam và
Trung Quốc bình thường hóa quan hệ và từng bước khôi phục, mở rộng quan
hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt; tăng cường quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc
biệt với Lào; xây dựng quan hệ tốt với Campuchia; phát triển quan hệ với các

17



nước trong khu vực, trở thành thành viên đầy đủ của tổ chức ASEAN và bình
thường hóa quan hệ Việt Nam và Hoa Kỳ (7-1995). Đến cuối năm 1995, Việt
Nam có quan hệ ngoại giao với 160 nước, quan hệ buôn bán với trên 100
nước. Các công ty của hơn 50 nước và vùng lãnh thổ đã đầu tư trực tiếp vào
Việt Nam. Nhiều chính phủ và tổ chức quốc tế dành cho Việt Nam viện trợ
khơng hồn lại mặc cho vay để phát triển.
2.1.3. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng.
Trước sự biến đổi nhanh chóng của tình hình thế giới và trong nước.
Đảng tổ chức Hội nghị giữa nhiệm kỳ (1-1994). Hội nghị khẳng định đổi
mới là sự nghiệp khó khăn, chưa có tiền lệ, song Đảng đã mạnh dạn tìm tịi
và giành thắng lợi quan trọng. Điều cơ bản có tính chất quyết định nhất là
Đảng ta đã giữ vững vai trò lãnh đạo duy nhất, nêu cao tinh thần độc lập tự
chủ và sáng tạo, có đương lối, chính sách phù hợp với quy luật và thực tiễn
Việt Nam, phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, mở rộng
hợp tác quốc tế.
Lần đầu tiên trong Văn kiện Hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng khẳng
định xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Hội nghị Trung ương 8 (1-1995) đã cụ thể hóa một bước chủ
trương đó và chủ trương tiếp tục xây dựng và hoàn thiện, Nhà nước Cộng
hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cải cách một bước nền hành chính nhà
nước. Đối ngoại được mở rộng, tháng 11-1991, Việt Nam – Trung Quốc
bình thường hóa quan hệ. Ngày 3-2-1994, Mỹ bỏ cấm vận Việt Nam. Ngày
11-7-1995, Việt Nam – Mỹ thiết lập quan hệ ngoại giao. Ngày 28-7-1995,
Việt Nam gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
2.2. Tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hố,
hiện đại hố và hội nhập quốc tế 1996-2021.

18



2.2.1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII và bước đầu thực
hiện công cuộc đấy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước 19962001.
Đại hội VIII họp tại Hà Nội, từ ngày 28-6 đến ngày 1-7-1996, trong bối
cảnh cách mạng khoa học và công nghệ phát triển với trình độ cao hơn. Chủ
nghĩa xã hội hiện thực lâm vào thoái trào. Sau 10 năm đổi mới, nhân dân
Việt Nam đã giành được những thắng lợi bước đầu về kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh, phá được thể bị bao vây, cô lập nhưng vẫn
là nước nghèo, kém phát triển, xã hội còn nhiều tiêu cực và nhiều vấn đề phải
giải quyết.
Tổng kết 10 năm đổi mới (1986-1996) đất nước thu được những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tếxã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc, Con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ngày càng được xác định rõ hơn. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường
đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hố đã cơ bản
hồn thành, cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh cơng nghiệp hố,
hiện đại hố đất nước.
Sau Đại hội VIII là thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất
nước, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp. Phát triển quan điểm của Đại hội VIII, Hội nghị lần thứ hai Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã quyết định những vấn đề về phát
triển giáo dục và đào tạo, phát triển khoa học và công nghệ, nhấn mạnh
nhiệm vụ đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, tăng cường vai trị của đội
ngũ trí thức đối với sự phát triển của đất nước. Trung ương nhấn mạnh phát
triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu.
Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (tháng 61997) chủ trương phát huy hơn nữa quyền làm chủ của Nhân dân, xây dựng
19


Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh,

đồng thời có Nghị quyết về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
Từ tháng 7-1997, cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ xảy ra ở các
nước trong khu vực Đông Nam Á và châu Á và có ảnh hưởng đến nền kinh tế
nước ta. Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đề ra những chủ trương, chính sách
cụ thể để khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng trong khu
vực, ngăn chặn sự suy giảm của nền kinh tế. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa VIII (tháng 12-1997) nêu cao tinh thần tự lực tự
cường, nhấn mạnh việc phát huy nội lực để vượt qua khó khăn, thách thức
mới. Cùng với tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực, nền
kinh tế nước ta cũng bộc lộ những yếu kém vốn có và thiên tai lớn diễn ra
liên tiếp trên địa bàn cả nước. Các Hội nghị Trung ương đã tập trung trí tuệ,
quyết định nhiều vấn đề lớn của đất nước, quyết tâm thực hiện những mục
tiêu mà Đại hội VIII đã đề ra.
Thời kỳ 1996 - 2000, sự nghiệp đổi mới, nhiệm vụ cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa mặc dù gặp nhiều khó khăn và thách thức mới, nhưng vẫn đạt
được những thành tựu quan trọng. Kinh tế vẫn tăng trưởng khá, GDP tăng
bình quân hằng năm là 6,94%. Năm 2000 đã chặn được đà giảm sút về mức
tăng trưởng kinh tế, các chỉ tiêu chủ yếu đều đạt và vượt mức kế hoạch đề ra,
nhất là sản xuất nông nghiệp và cơng nghiệp. Văn hóa, xã hội có những
tiến bộ, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Nước ta đã đạt chuẩn
quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Đã chú trong xây dựng
và phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc theo nội dung và
định hướng của Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa VIII. Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định, quốc phòng,
an ninh được tăng cường. Các lực lượng vũ trang nhân dân có nhiều cố.
gắng bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh quốc gia

20



và trật tự an toàn xã hội. Quan hệ đối ngoại và việc chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế được mở rộng và thu nhiều kết quả tốt.
2.2.2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam
họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 19 đến ngày 22-4-2001. Đại hội kiểm điểm 5
năm thực hiện Nghị quyết của Đại hội VIII, 10 năm thực hiện Chiến lược ổn
định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 do Đại hội VII đề ra và tổng
kết 15 năm đổi mới kể từ Đại hội VI (năm 1986).
Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX họp từ
ngày 13 đến ngày 22-8-2001 đã có Nghị quyết về tiếp tục sắp xếp, đổi mới,
phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Nhấn mạnh kinh tế
nhà nước có vai trị chủ đạo và quyết định việc giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp từ
ngày 05 đến ngày 13-11-2001 cho ý kiến về một số điểm cần sửa đổi của
Hiến pháp năm 1992, đánh giá và đề ra giải pháp tiếp tục thực hiện Nghị
quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
2.2.3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam
họp từ ngày 18 đến ngày 25-4-2006 tại Thủ đô Hà Nội. Đây là Đại hội tổng
kết 20 năm đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đại hội đã
thơng qua Báo cáo chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 và Báo cáo về công tác xây dựng Đảng
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX trình Đại hội X.
Về tổng kết 20 năm đổi mới (1986 - 2006), Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X đã nhấn mạnh: 20 năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn
Đảng, toàn dân, tồn qn, cơng cuộc đổi mới ở nước ta đạt những thành tựu
to lớn và có ý nghĩa lịch sử:

21



Thành tựu về tăng trưởng, phát triển kinh tế: Đất nước đã ra khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và tồn diện. Kinh tế tăng
trưởng khá nhanh. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của 10 năm
(1990-2000) đạt 7,5%/năm; trong 5 năm (2001 - 2005), GDP bình qn tăng
gần 7,5%/năm; thực hiện có kết quả chính sách phát triển kinh tế nhiều thành
phần, nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Đảng đã quan tâm
lãnh đạo, đổi mới cơ chế, chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước;
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần được hình
thành; cơ cấu kinh tế ngành, vùng có sự chuyển dịch tích cực theo hướng
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Phát triển văn hóa, giáo dục, cải thiện đời sống nhân dân: Văn hóa
và xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt: đổi mới trong nhận thức về mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội và về văn hóa và con
người, đã xác định văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển
kinh tế - xã hội, là nguồn lực nội sinh quan trọng của phát triển, là nền tảng
tinh thần của xã hội. Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù
chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, đến giữa năm 2004, đã có 20 tỉnh, thành
phố đã đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Trình độ dân trí được nâng lên,
khẳng định con người là vốn quý nhất, phát triển con người với tư cách vừa
là động lực, vừa là mục tiêu của cách mạng, của sự nghiệp đổi mới đất nước.
Công tác xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả tốt: đến cuối năm 2005, tỷ lệ hộ
nghèo (theo chuẩn quốc gia) đã giảm từ 30% năm 1992 xuống dưới 7% năm
2005. Theo chuẩn quốc tế (tính theo chuẩn 1 đơla/ngày/ người), thì tỷ lệ
nghèo chung đã giảm từ 58% năm 1993 xuống cịn 28,9% năm 2002; nếu
tính theo chuẩn mới (2 đơla/ngày/người) thì hộ nghèo ở Việt Nam năm
2004 là 27,5%.

22



Trong 5 năm 2001 - 2005, đã tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động. Thu
nhập bình quân đầu người tăng từ 5,7 triệu đồng năm 2000 lên hơn 10 triệu
đồng năm 2005. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện.
Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ, góp
phần hạ thấp đáng kể tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở
trẻ em dưới 5 tuổi, cơ bản thanh toán được một số dịch bệnh trước đây. Tuổi
thọ trung bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 71,3 tuổi năm
2005. Chỉ số phát triển con người (HDI) từ mức dưới trung bình (0,498
năm 1991) tăng lên mức trung bình (0,688 năm 2002). Năm 2004, với chỉ số
0,691, nước ta được xếp thứ 112 trên tổng số 177 nước được điều tra. Năm
2005, Việt Nam được lên 4 bậc, xếp thứ 108 trong tổng số 177 nước được
điều tra.
Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố,
tăng cường: Nhận thức của Đảng trên vấn đề này có những đổi mới căn bản,
từ Hội nghị Trung ương 6 khóa VI, Đảng ta sử dụng khái niệm hệ thống
chính trị thay cho hệ thống chun chính vơ sản. Hệ thống đó bao gồm:
Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội. Xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì
Nhân dân có sự tiến bộ. Quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân
cơng rành mạch và phối hợp chặt chẽ giữa ba cơ quan lập pháp, hành pháp và
tư pháp.
Quốc phòng, an ninh được giữ vững: đổi mới trong nhận thức về mối
quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Trong thực tiễn độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh chính trị được
giữ vững, trật tự, an tồn xã hội được bảo đảm. Giữ vững sự lãnh đạo của
Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Nêu cao tinh thần sẵn sàng chiến đấu, các
hoạt động bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ xã
hội chủ nghĩa, chủ động ngăn chặn, đẩy lùi các hoạt động phá hoại của kẻ


23


thù, giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an tồn xã hội, phịng chống tội phạm,
tai nạn, tệ nạn xã hội.
Thành tựu về quan hệ đối ngoại: hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà
nước và Nhân dân phát triển mạnh, góp phần giữ vững mơi trường hịa
bình, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao uy tín của Việt Nam trong khu vực
và trên thế giới. Về đường lối đối ngoại, Đảng ta coi mục tiêu đối ngoại là
góp phần củng cố mơi trường quốc tế để phát triển kinh tế. Trong tư tưởng
chỉ đạo chính sách đối ngoại, Đảng nhấn mạnh phóng khỏi áp bức, bất
cơng, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển tồn diện; các dân tộc
trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tương trợ giúp nhau cùng
tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị
và hợp tác với các nước trên thế giới.
Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X của Đảng đã thơng qua Mục tiêu,
phương hướng phát triển đất nước 5 năm 2006 - 2010. Nghị quyết Đại hội
nhấn mạnh: 5 năm 2006 - 2010 có ý nghĩa quyết định đối với việc hoàn thành
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm đầu thế kỷ XXI.
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X họp từ
ngày 15 đến ngày 24-01-2007 đã ra Nghị quyết về một số chủ trương, chính
sách lớn để nền kinh tế nước ta phát triển nhanh, bền vững khi Việt Nam là
thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Nghị quyết về chiến lược
biển Việt Nam đến năm 2020; về phương hướng bầu cử và chuẩn bị nhân sự
Quốc hội khóa XII.
Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X họp từ
ngày 14 đến ngày 22-01-2008. Hội nghị đã thực hiện các đề án và thông qua
các Nghị quyết: về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ

đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; về nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng
24


viên; về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Việt Nam chính thức là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO) từ ngày 07-11-2006, có cơ hội mới đẩy mạnh hội nhập kinh tế
quốc tế. Hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước không ngừng mở rộng,
Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm của cộng
đồng thế giới, Việt Nam đã hoàn thành với trách nhiệm cao vai trị Ủy viên
khơng thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009,
Chủ tịch Hội đồng bảo an (tháng 7-2008 và tháng 10-2009); Chủ tịch Hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 2010.
2.2.4. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng họp từ ngày 12 đến
ngày 19-01-2011 tại Thủ đô Hà Nội. Chủ đề của Đại hội là: Tiếp tục nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn
dân tộc, đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm
2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Nhiệm vụ của Đại hội là đánh giá 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội
X (2006 - 2011), tổng kết 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội (2001 - 2010), 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (gọi tắt là Cương lĩnh năm 1991) và
25 năm đổi mới. Đại hội XI đề ra phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 2011 2015, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020; bổ sung và
phát triển Cương lĩnh năm 1991 thành Cương lĩnh 2011; kiểm điểm sự lãnh
đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X, bổ sung và sửa đổi Điều
lệ Đảng và bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI nhiệm kỳ 2011 2015.


25


×