Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

TL LSĐCSVN đảng lãnh đạo phong trào đấu tranh dân chủ 1936 1939

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.98 KB, 24 trang )

[1]

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Sau khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân
tộc, giành chính quyền với 3 cao trào cách mạng có ý nghĩa to lớn đưa đến
thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945. Đó là:
Cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh: Làm rung chuyển chế độ thống trị của đế quốc Pháp và tay sai.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng quần chúng cách mạng đã vùng dậy trừng trị bọn
cường hào, phản động, tay sai thực dân Pháp, thành lập chính quyền cách
mạng ở một số nơi theo hình thức XôViết. Cao trào cách mạng 1930 - 1931
đã khẳng định đường lối cách mạng Việt Nam do Ðảng đề ra là đúng đắn và
để lại những bài học quý báu về xây dựng liên minh công-nông, về xây dựng
Mặt trận Dân tộc Thống nhất, về phát động phong trào quần chúng đấu tranh
giành và bảo vệ chính quyền.
Cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939): Bằng sức
mạnh đoàn kết của quần chúng, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã buộc chính
quyền thực dân phải nhượng bộ một số yêu sách về dân sinh, dân chủ; quần
chúng được giác ngộ về chính trị và trở thành lực lượng chính trị hùng hậu
của cách mạng; Đảng đã tích lũy được nhiều bài học kinh nghiệm trong việc
xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, kinh nghiệm tổ chức, lãnh đạo quần
chúng đấu tranh công khai, hợp pháp...
Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939 - 1945) dưới sự lãnh đạo
sáng suốt, kiên quyết của Đảng, đứng đầu là Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cùng
với sự đoàn kết hăng hái, chiến đấu ngoan cường và hy sinh to lớn của biết
bao đảng viên cộng sản, chiến sĩ và đồng bào yêu nước đã kết thúc thắng lợi
bằng cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945.


[2]
Qua các cao trào em thấy phong trào 1936 – 1939 là để lại cho em


nhiều ấn tượng nhất vậy nên thông qua môn “Lịch sử đảng Cộng sản Việt
Nam” em xin chọn đề tài “Đảng lãnh đạo phong trào đấu tranh dân chủ
1936-1939” để làm bài tiểu luận kết thúc mơn của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
a. Mục đích:
Làm rõ và phân tích hồn cảnh lịch sử dẫn đến phong trào đấu tranh
dân chủ 1936-1939. Bài tiểu luận bước đầu tổng kết nêu lên kinh nghiệm lịch
sử trong lãnh đạo đấu tranh của Đảng, góp phần vào nghiên cứu và tổng kết
lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nêu rõ hoàn cảnh lịch sử dẫn đến phong trào đấu tranh dân chủ thời kì
1936 – 1939.
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của những chủ trương phát động
phong trào đấu tranh của Đảng ở thời kì này.
Phân tích chủ trương, đường lối của Đảng trong quá trình lãnh đạo
phong trào dân chủ.
Tổng kết nêu ra ý nghĩa lịch sử và các kinh nghiệm của Đảng trong quá
trình đấu tranh cách mạng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đảng lãnh đạo phong trào đấu tranh dân chủ
(1936-1939)
- Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu đề tài giới hạn trong khoảng
thời gian từ năm 1936 đến năm 1939 theo cách phân kỳ của lịch sử Đảng.
Những tài liệu thu thập nghiên cứu chủ yếu ở Việt Nam. Đề tài tập trung


[3]
nghiên cứu vào sự lãnh đạo của Đảng, những phong trào đấu tranh của quần
chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận
Tiểu luận sử dụng các nguồn tài liệu liên quan tới đề tài gồm: các văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, các chỉ thị, Nghị quyết của Đảng
và Nhà nước.
Tiểu luận còn kế thừa các nguồn tài liệu, các kết quả nghiên cứu khoa
học đăng trên các sách chuyên khảo, bài viết, bài nghiên cứu về Đảng lãnh
đạo phong trào dân chủ đăng trên báo và tạp chí.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Là đề tài lịch sử Đảng, đề tài đã sử dụng và kết hợp chặt chẽ phương
pháp lịch sử và phương pháp logic; đồng thời sử dụng các phương pháp
khác như: phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh để làm rõ sự sáng tạo của
Đảng
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Đề tài đã khái quát lại một cách khá hệ thống và toàn diện về sự lãnh
đạo của Đảng trong phong trào đấu tranh dân chủ 1936-1939.
Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, học
tập, giảng dạy. Đồng thời đề tài cịn đóng góp chung làm phong phú thêm kho
tàng khoa học lịch sử Đảng.
6. Kết cấu của tiểu luận
Đề tài gồm phần mở đầu, nội dung, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo. Trong đó nội dung đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Tình hình thế giới và trong nước
Chương 2: Đảng lãnh đạo phong trào đấu tranh dân chủ (1936-1939)


[4]
Chương 3: Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm

CHƯƠNG 1 : TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC
1.1. Tình hình thế giới

Sự hình thành chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh thế giới
Tác động của cuộc đại khủng hoảng kinh tế (1929-1933) làm tình hình
chính trị thế giới có biến động sâu sắc về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa
xã hội, trong đó sự ra đời của chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh đe
dọa hịa bình và an ninh thế giới là nguy hiểm nhất.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, ở Italia, Đức, Áo, Ba Lan đã xuất
hiện nhiều trào lưu cực hữu phản động có ảnh hưởng ngày càng mạnh mẽ
trong một bộ phận thanh niên. Ở Đức, sự kiện Anđô Hitle – thủ lĩnh đảng
Quốc xã lên nắm quyền vào ngày 30-1-1933 mở đầu cho sự hình thành của đế
chế phát xít, lị lửa chiến tranh lớn nhất hình thành ở trung tâm Châu Âu . Xu
hướng cực hữu và phong trào phát xít có thể phát triển được một phần là do
các chính phủ tư sản ở Tây Âu muốn lợi dụng, dung dưỡng các lực lượng này,
sử dụng chúng làm công cụ đắc lực để tấn công Liên Xô, đàn áp phong trào
công nhân và làn song phát triển mạnh mẽ dưới sự lãnh đạo của Quốc tế Cộng
sản. Đây chính là một chiến lược chính trị nguy hiểm mà cuối cùng sẽ đẩy
toàn nhân loại đến thảm họa chiến tranh thế giới lần thứ hai.
Một trong những cách mà các chính phủ phương Tây đặt hy vọng thoát
khỏi khủng hoảng kinh tế là tăng cường chạy đua vũ trang, quân phiệt hóa
nền kinh tế và tồn bộ thể chế chính trị - xã hội. Với khẩu hiệu mở rộng
“không gian sinh tồn” cho dân tộc Đức siêu việt, ngay sau khi lên nắm quyền
năm 1933, A. Hít – le và chính phủ Quốc xã đã dồn sức chuẩn bị cho một
cuộc “chiến tranh tổng lực” và sử dụng vũ lực tối đa tiêu diệt bất cứ lực lượng
đối lập nào. Cũng trong thời gian đó, ở châu Á, xu thế phân phiệt đã chiếm ưu
thế áp đảo trong chính giới Nhật Bản. Khẳng định được vai trị của mình


[5]
trong thế giới các cường quốc tư bản. Nhật Bản ra sức chạy đua vũ trang
chuẩn bị cho một cuộc xâm lược đại quy mơ để xâm chiếm tồn cõi Á Đông.
Kinh tế phát triển không đều giữa các đế quốc càng thúc đẩy các nước Đức,

Italia, Nhật gây chiến tranh phân chia lại thế giới, giành giật thị trường. Để cố
kết cùng nhau trong một liên minh hiếu chiến phản động, tháng 10 và tháng
11-1936, ba nước Đức, Italia, Nhật đã ký kết hiệp ước liên minh chống Quốc
tế Cộng sản, chống Liên Xô. Song thực chất chúng muốn đánh bại cả Anh,
Pháp, Mỹ để thiết lập sự thống trị tồn thế giới. Trục phát xít đã hình thành và
trở thành nguy cơ chiến tranh đe dọa hịa bình và số nhân của toàn nhân loại.
Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo cách mạng của Quốc tế Cộng sản
Vượt qua được khủng hoảng kinh tế thế giới, sau gần 20 năm xây dựng
Chủ nghĩa xã hội, đến những năm 1933-1937 Liên Xơ đã trở thành nước có
cơng nghiệp hiện đại, tập thể hóa nơng nghiệp quy mơ lớn và quốc phịng
hung mạnh. Trước nguy cơ chiến tranh, Liên Xơ kiên trì chính sách bảo vệ
hịa bình và coi việc xây dựng CNXH, tăng cường tiềm lực kinh tế và quốc
phòng là biện pháp căn bản để bảo vệ hịa bình, ngăn ngừa chiến tranh.
Là lực lượng chính trị lãnh đạo phong trào cộng sản và cơng nhân quốc
tế, trong chính sách đối ngoại của mình, một mặt Liên Xơ quyết tâm ủng hộ
nhân dân các nước đang trở thành nạn nhân của sự xâm lược và đấu tranh giải
phóng dân tộc, mặt khác kiên trì vận động các nước Anh, Pháp, Mỹ cùng ký
kết hiệp ước an ninh tập thể chống xâm lược và giúp đỡ các nước bị xâm lược
khác, đặc biệt là chống chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh bảo vệ hịa
bình thế giới. Do bản chất dung túng phát xít của chính phủ Anh, Pháp, Mỹ
nên các cuộc đàm phán kéo dài mà không có cam kết cụ thể nào được đưa ra.
Dưới ảnh hưởng của Liên Xơ, Quốc tế Cộng sản đã có chủ trương chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng thế giới. Theo đó, Đại hội VII của quốc
tế Cộng sản đã diễn ra tại Mát – xcơ –va từ ngày 25-7 đến 28-8-1935. Đại hội
nhận định:


[6]
+ Bản chất của chủ nghĩa phát xít chính là sự tấn công tàn bạo nhất của
tư bản chống lại quần chúng nhân dân lao động, là chủ nghĩa sô-vanh đến cực

điểm và là chiến tranh xâm lược. Vì vậy, kẻ thù trước mắt của nhân dân thế
giới lúc này không phải là chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa đế quốc nói chung
mà là chủ nghĩa phát xít.
+ Mục tiêu trước mắt của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế là
đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ hịa bình thế giới, ngăn ngừa nguy
cơ chiến tranh thế giới mới.
+ Đại hội VII cũng nhận định: phần lớn ở các nước thuộc địa và nửa
thuộc địa, bước đi đầu tiên phải là cách mạng giải phóng dân tộc, chống ách
đế quốc chủ nghĩa. Do đó cần thành lập Mặt trận thống nhất chống chủ nghĩa
đế quốc, trên cơ sở liên minh giai cấp công nhân với nông dân là bộ phận
chiếm đa số trong nhân dân các nước
+ Các Đảng Cộng sản ở tất cả các nước phải thiết lập cho được một liên
minh dân chủ rộng rãi, cùng với mọi giai tầng tiến bộ trong xã hội đấu tranh
chống chủ nghĩa phát xít, vì tự do dân chủ cơm áo hịa bình.
Như vậy, sau 17 năm ra đời, đây là lần đầu tiên Quốc tế Cộng sản nhận
thức lại học thuyết đấu tranh giai cấp, vận dụng linh hoạt mềm dẻo hơn cho
phù hợp với yêu cầu khách quan của tình hình. Sự chuyển hướng chiến lược
của Quốc tế Cộng sản tại Đại hội VII vừa trực tiếp tạo ra một bước phát triển
mới trong phong trào cách mạng thế giới, vừa có ảnh hưởng lớn đối với tư
duy của nhiều đảng Cộng sản như: đảng Cộng sản Pháp, Tây Ban Nha, Trung
Quốc, Đảng Cộng sản Đơng Dương,…
Thắng lợi của Mặt trận bình dân và Chính phủ cánh tả ở Pháp
Cũng do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, những năm ba mươi của
thế kỷ XX nước Pháp đã bắt đầu xuất hiện một số xu hướng phát xít mà


[7]
“Nước Pháp hành động” và “Thập tự lửa” là hai phong trào phát xít lớn nhất,
ra sức cổ vũ cho xu hướng quân phiệt, vị chủng và chạy đua vũ trang.
Là một nước có truyền thống dân chủ và cách mạng, Đảng Cộng sản

Pháp thành lập năm 1920 là chính đảng lớn, có ảnh hưởng sâu rộng và uy tín
trong quần chúng nhân dân lao động. Từ cuối năm 1933, trước tình hình mới,
Đảng Cộng sản Pháp đã kịp thời chuyển hướng đấu tranh, chấm dứt cơng kích
đảng Dân chủ - Xã hội Pháp và các đảng cánh tả khác. Tháng 8-1935, trên cơ
sở thống nhất của bốn đảng phái chính trị: Đảng Cộng sản, Đảng Xã hội,
Đảng Cấp tiến và Liên hiệp xã hội cộng hòa cùng với các tổ chức chính trị
văn hóa xã hội khác, Mặt trận bình dân Pháp được thành lập với tên gọi là
Tập hợp dân chúng. Đặc biệt, trong cuộc tổng tuyển cử ngày 26-4-1936, Mặt
trận Nhân dân Pháp đã giành được thắng lợi lớn, chiếm 338 ghế trong Quốc
hội, giành đa số trước 222 ghế của phái đối lập. Ông Leon Blum, người đứng
đầu Đảng Xã hội Pháp đứng ra thành lập nội các (ngày 4-6-1936). Chính phủ
bình dân Pháp thành lập là một thắng lợi to lớn của phong trào dân chủ, chống
phát xít ở Pháp. Chính phủ mới có trách nhiệm phải thực hiện “Chương trình
của Mặt trận Nhân dân” đã được các tổ chức thông qua, bao gồm một loạt cải
cách tiến bộ, ví như: Bảo vệ quyền tự do, Bảo vệ hịa bình. Đồng thời thi hành
một số chính sách tiến bộ ở thuộc địa, tạo điều kiện thuận lợi cho bước phát
triển mới của phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, trong đó có
Việt Nam.
1.2. Tình hình trong nước
1.2.1. Về kinh tế
Nơng nghiệp: Tư bản Pháp chiếm đoạt ruộng đất, chủ yếu trồng cây cao
su, đay, bông, gai,…
Thương nghiệp: Thực dân độc quyền bán thuốc phiện, rượu, muối và
xuất nhập khẩu.


[8]
Những năm 1936-1939 là thời kỳ phục hồi và phát triển kinh tế Việt
Nam. Tuy nhiên kinh tế Việt Nam vẫn lạc hậu và lệ thuộc kinh tế Pháp.
1.2.2. Về xã hội

Công nhân: thất nghiệp, lương giảm không bằng thời kì trước khủng
hoảng.
Nơng dân: khơng đủ ruộng cày, chịu mức địa tơ cao và bóc lột của địa
chủ, cường hào,…
Tư sản dân tộc: ít vốn, chịu thuế cao, bị tư bản Pháp chèn ép.
Tiểu tư sản trí thức: thất nghiệp, lương thấp.
Các tầng lớp lao động khác: chịu thuế khóa nặng nề, sinh hoạt đắt đỏ.
Hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đã tác động sâu sắc
đến các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động nước ta. Bọn cầm quyền phản
động ở Đông Dương vẫn tiếp tục thi hành chính sách vơ vét, bóc lột, khủng
bố đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân…
Đời sống đa số nhân dân khó khăn nên hăng hái tham gia đấu tranh đòi
tự do, cơm áo dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Động Dương. Đảng ta và
lực lượng cách mạng đã hồi phục, cách mạng có thêm điều kiện để chuyển
sang thời kỳ đấu tranh mới.


[9]


[10]

CHƯƠNG 2 : SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI PHONG
TRÀO ĐẤU TRANH DÂN CHỦ (1936-1939)

2.1. Điều kiện lịch sử và chủ trương của Đảng
Để giải quyết những hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933,
giai cấp tư sản ở một số nước như Đức, Italia, Tây Ban Nha,… chủ trương
dung bạo lực đàn áp phong trào đấu tranh trong nước và chuẩn bị phát động
chiến tranh thế giới để chia lại thị trường. Chủ nghĩa phát xít xuất hiện và tạm

thời thắng thế ở một số nơi. Nguy cơ chủ nghĩa phát xít và chiến tranh thế
giới đe dọa nghiêm trọng nền hịa bình và an ninh quốc tế.
Quốc tế Cộng sản họp Đại hội VII tại Mátxcơva (Liên Xô) (7-1935),
xác định kẻ thù nguy hiểm trước mắt của nhân dân thế giới là chủ nghĩa phát
xít. Nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới
là chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh bảo vệ dân chủ và hịa bình. Để
thực hiện nhiệm vụ đó, giai cấp cơng nhân các nước trên thế giới phải thống
nhất hàng ngũ, lập mặt trận nhân dân rộng rãi. Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản
Đông Dương dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản có Lê Hồng Phong, Nguyễn
Thị Minh Khai, Hồng Văn Nọn. Tổng Bí thư Lê Hồng Phong được bầu làm
Ủy viên Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản.
Trong thời gian này, các Đảng Cộng sản ra sức phấn đấu lập mặt trận
nhân dân chống chủ nghĩa phát xít. Đặc biệt, Mặt trận nhân dân Pháp thành
lập từ tháng 5-1935 do Đảng Cộng sản Pháp làm nòng cốt, đã giành được
thắng lợi vang dội trong cuộc tổng tuyển cử năm 1936, dẫn đến sự ra đời của
Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp. Chính phủ này ban bố nhiều cuộc tự do
dân chủ, trong đó có những quyền được áp dụng ở thuộc địa, tạo khơng khí
chính trị thuận lợi cho cuộc đấu tranh đòi các quyền tự do, dân chủ, cải thiện
đời sống của nhân dân các nước trong hệ thống thuộc địa Pháp. Nhiều tù


[11]
chính trị cộng sản được trả tự do. Các đồng chí đã tham gia ngay vào cơng
việc lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng góp phần rất quan trọng thúc đẩy phong trào
cách mạng phát triển.
Ở Việt Nam, mọi tầng lớp xã hội đều mong muốn có những cải cách
dân chủ nhằm thốt khỏi tình trạng ngột ngạt do khủng hoảng kinh tế và chính
sách khủng bố trắng do thực dân Pháp gây ra. Đảng cộng sản Đông Dương đã
phục hồi hệ thống tổ chức sau một thời gian đấu tranh cực kì gian khổ và
tranh thủ cơ hội thuận lợi để xây dựng, phát triển tổ chức Đảng và các tổ chức

quần chúng rộng rãi.
Ngày 26-7-1936, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị tại
Thượng Hải (Trung Quốc) do Lê Hồng Phong chủ trì, có Hà Huy Tập, Phùng
Chí Kiên dự, nhằm “sửa chữa những sai lầm” trước đó và “định lại chính sách
mới” dựa theo những nghị quyết của đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản
Hội nghị xác định nhiệm vụ trước mắt là chống phát xít, chống chiến tranh đế
quốc, chống phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hịa
bình, “lập Mặt trận nhân dân phản đế rộng rãi chính để bao gồm các giai cấp,
các đảng phái, các đồn thể chính trị và tín ngưỡng tơn giáo khác nhau, các
dân tộc ở xứ Đông Dương để cùng nhau tranh đấu để đòi những điều dân chủ
đơn sơ”. Hội nghị chủ trương chuyển hình thức tổ chức bí mật, khơng hợp
pháp sang các hình thức tổ chức và đấu tranh công khai, nửa công khai, hợp
pháp, nửa hợp pháp, kết hợp với bí mật, bất hợp pháp. Đồng chí Hà Huy Tập
là Tổng Bí thư của Đảng từ tháng 8-1936 đến tháng 3-1938.
Các Hội nghị lần thứ ba (3-1937) và lần thứ tư (9-1937) Ban Chấp hành
Trung ương Đảng bàn sâu hơn về công tác tổ chức của Đảng, quyết định
chuyển mạnh hơn nữa về phương pháp tổ chức và hoạt động để tập hợp đông
đảo quần chúng trong mặt trận chống phản động thuộc địa, đòi tự do, dân chủ,
cơm áo, hịa bình. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 3-1938


[12]
nhấn mạnh “lập Mặt trận dân chủ thống nhất là một nhiệm vụ trung tâm của
Đảng trong giai đoạn hiện tại”.
Cùng với việc đề ra chủ trương cụ thể, trước mắt để lãnh đạo phong
trào dân chủ 1936-1939, Ban chấp hành Trung ương Đảng đặt vấn đề nhận
thức lại mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ phản đế và điền địa. Chỉ thị của Ban
Trung ương Gửi các tổ chức của Đảng (26-7-1936) chỉ rõ, “ở một xứ thuộc
địa như Đơng Dương, trong hồn cảnh hiện tại, nếu chỉ quan tâm đến sự phát
triển của cuộc đấu tranh giai cấp, có thể sẽ nảy sinh những khó khăn để mở

rộng phong trào dân tộc”.
Trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới (tháng 10-1936),
Đảng nêu quan điểm: “Cuộc dân tộc giải phóng khơng nhất thiết phải kết chặt
với cuộc cách mạng điền địa. Nghĩa là khơng thể nói rằng: muốn đánh đổ đế
quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa, muốn giải quyết vấn đề điền địa
thì cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ khơng xác đáng”. “Nói tóm
lại, nếu phát triển cuộc đấu tranh chia đất mà ngăn trở cuộc đấu tranh phản đế
thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước. Nghĩa là
chọn địch nhân chính, nguy hiểm nhất, để tập trung lực lượng của một dân tộc
mà đánh cho được toàn thắng”. Với văn kiện này, Trung ương Đảng đã nêu
cao tinh thần đấu tranh, thẳng thắn phê phán quan điểm chưa đúng và bước
đầu khắc phục hạn chế trong Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đơng
Dương tháng 10-1930. Đó cũng là nhận thức mới, phù hợp với tinh thần trong
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng tại Hội nghị thành lập Đảng (2-1930)
và lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc.
2.2. Phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hịa bình
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc vận động dân chủ diễn ra trên quy mô
rộng lớn, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia với những hình thức đấu
tranh phong phú.


[13]
Nắm cơ hội Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp quyết định trả tự do
một số tù chính trị, thi hành một số cải cách xã hội cho lao động ở các thuộc
địa Pháp và cử một ủy ban điều tra thuộc địa đến Đông Dương, Đảng phát
động một phong trào đấu tranh công khai của quần chúng, mở đầu bằng cuộc
vận động lập “Ủy ban trù bị Đông Dương đại hội” nhằm thu nhập nguyện
vọng quần chúng, tiến tới triệu tập Đại hội đại biểu nhân dân Đông Dương.
Hưởng ứng chủ trương của Đảng, quần chúng sôi nổi tổ chức các cuộc mít
tinh, hội họp để tập hợp “dân nguyện”. Trong một thời gian ngắn, ở khắp các

nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, từ thành thị đến nông thôn đã lập ra các “Ủy ban
hành động” để tập hợp quần chúng. Riêng ở Nam Kỳ có 600 ủy ban hành
động.
Đầu năm 1937, nhân dịp phái viên của chính phủ Pháp là Gôđa
(Godard) đi kinh lý Đông Dương và Brêviê (Brévié) sang nhận chức tồn
quyền Đơng Dương, Đảng vận động hai cuộc biểu dương lực lượng quần
chúng dưới danh nghĩa “đơn rước”, mít tinh, biểu tình, đưa đơn “dân
nguyện”.
Ngày 5-5-1937, Tổng Bí thư Hà Huy Tập với bút danh Thanh Hương
xuất bản cuốn Trôtxkit và phản cách mạng phê phán những luận điệu “tả”
khuynh của các phần tử Tờrốtkít ở Việt Nam như Tạ Thu Thâu, Hồ Hữu
Tường,…góp phần xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị và tổ chức.
Các báo chí tiếng Việt và tiếng Pháp của Đảng, Mặt trận Dân chủ Đơng
Dương ra đời. Nhiều chính sách chính trị phổ thông được xuất bản để giới
thiệu chủ nghĩa Mác-Lênin và chính sách mới của Đảng. Cuốn Vấn đề dân
cày (1938) của Qua Ninh (Trường Chinh) và Vân Đình (Võ Nguyên Giáp) tố
cáo tội ác của đế quốc và phong kiến đối với nông dân và làm rõ vai trị quan
trọng của nơng dân trong cách mạng. Cuốn Chủ nghĩa Các Mác của Hải Triều
được in và phát hành năm 1938. Ngồi ra cịn một số cuốn sách giới thiệu về


[14]
Liên Xô, cách mạng Trung Quốc, Mặt trận nhân dân Pháp và Mặt trận nhân
dân Tây Ban Nha.
Theo sáng kiến của Đảng, Hội truyền bá quốc ngữ ra đời. Từ cuối năm
1937 phong trào truyền bá quốc ngữ phát triển mạnh.
Hội nghị Trung ương Đảng (29-30/3/1938) quyết định lập Mặt trận Dân
chủ Đông Dương để tập hợp rộng rãi lực lượng, phát triển phong trào. Hội
nghị bầu đồng chí Nguyễn Văn Cừ làm Tổng Bí thu của Đảng.
Các hình thức tổ chức quần chúng phát triển rộng rãi, bao gồm các hội

tương tế, hội ái hữu. Trong những năm 1937-1938, Mặt trận Dân chủ còn tổ
chức các cuộc vận động tranh cử vào các Viện dân biểu Bắc Kỳ, Trung Kỳ,
Hội đồng quân hạt Nam Kỳ, Hội đồng kinh tế lý tài Đơng Dương.
Năm 1939, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ xuất bản cuốn sách Tự chỉ
trích thẳng thắn chỉ rõ những sai lầm, khuyết điểm, nêu rõ những bài học cần
thiết trong lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng. Đó là tác phẩm có ý nghĩa lý luận,
thực tiễn về xây dựng Đảng, tự phê bình và phê bình để nâng cao năng lực
lãnh đạo và bản chất cách mạng của Đảng.
Khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (9-1939), thực dân Pháp đàn
áp cách mạng. Đảng rút vào hoạt động bí mật. Cuộc vận động dân chủ kết
thúc.
2.2.1. Đảng lãnh đạo phong trào Đông Dương đại hội
Được tin Quốc hội Pháp sẽ cử phái đồn điều tra Đơng Dương, Đảng
phát động các tầng lớp nhân dân hội họp thảo ra bản nguyện vọng gửi tới phái
đoàn.
Các ủy ban thành lập hành động ở Nam kỳ, Bắc kỳ, Trung kỳ (ở Nam
kì có hơn 600 Ủy ban hành động thành lập, phát truyền đơn, ra báo, mít tinh,
thảo luận dân chủ, dân sinh,…)


[15]
Tháng 09/1936 Pháp giải tán Ủy ban hành động , cấm hội họp, tịch thu
các báo.
Qua phong trào, đông đảo quần chúng được giác ngộ, đồn kết đấu
tranh địi quyền sống. Đảng thu được một số kinh nghiệm về phát động và
lãnh đạo đấu tranh công khai, hợp pháp.
2.2.2. Đảng lãnh đạo đấu tranh nghị trường
Một trong những thắng lợi khá rõ nét của phong trào là cuộc đấu tranh
nghị trường những năm 1936 – 1939.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, thực dân Pháp cho cải tổ và lập ra

một số cơ quan “dân cử” ở cả ba kỳ nhằm lừa bịp, mị dân. Trên thực tế, các
Viện dân biểu ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Hội đồng quản hạt ở Nam Kỳ lúc đó
vốn chỉ là những cơ quan tư vấn, khơng có quyền quyết định những vấn đề
chính trị, xã hội ở nước ta. Về bản chất, nó là một loại hình “đặc biệt”, khơng
giống như Nghị viện ở bất kỳ một nước dân chủ nào, mặc dù báo giới đương
thời vẫn gọi là “Nghị trường”, “ Nghị viện”. Không ảo tưởng vào kẻ thù, song
Đảng chủ trương tận dụng tối đa các khả năng có thể để hoạt động của Đảng
có kết quả cao. Theo Đảng, vơ luận là cuộc tuyển cử gì ,nếu có thể tham gia
được là nên tham gia. Các Đảng bộ tương đương phải dự bị những người ra
ứng cử trong các Viện dân biểu, các Hội đồng thành phố để bênh vực quyền
lợi cho quần chúng lao động và các lớp dân chúng bị áp bức.
Được sự hỗ trợ đắc lực của tổ chức hoạt động công khai, đặc biệt mặt
trận báo chí, những chủ trương sáng tạo của Đảng đã thu được nhiều thắng lợi
trên thực tế. Trong những cuộc tổng tuyển cử tại các Viện dân biểu năm 1937
– 1938 danh sách ứng cử của Mặt trận dân chủ đã giành thắng lợi ở Trung,
Bắc Kỳ và cả đại biểu trong Hội đồng kinh tế lý tài Đông Dương.
Ở Trung Kỳ, toàn bộ 18 ứng cử viên do Mặt trận dân chủ ủng hộ, trong
đó có ba đảng viên cộng sản đều đắc cử trở thành Nghị viên của Viện dân


[16]
biểu Trung Kỳ. Sau bầu cử, Xứ ủy Trung Kỳ tiếp tục chỉ đạo cần phải đấu
tranh trong chính Viện dân biểu, cần liên kết với các đại biểu tiến bộ khác
hình thành đa số để thơng qua các quyết sách có lợi cho nhân dân.
Ở Bắc Kỳ cuộc đấu tranh nghị trường bắt đầu thực sự vào khoảng đầu
tháng 2 – 1938 dưới sự chỉ đạo trực tiếp của xứ ủy Bắc Kỳ. Sau những tháng
vận động, đấu tranh sôi nổi, cuộc bầu cử đã được tổ chức vào giữa tháng 7 –
1938. Trong số 30 ứng cử viên do Mặt trận dân chủ giới thiệu, 14 người đã
trúng cử trong đó có một số đảng viên cộng sản.
Các cuộc vận động tranh cử và “đấu tranh nghị trường” là một bộ phận

đặc biệt trong cuộc đấu tranh vì các quyền dân chủ, dân sinh ở Việt Nam thời
kỳ 1936 – 1939. Mặc dù diễn ra với nhiều hình thức khác nhau và kết quả của
cuộc đấu tranh cũng khác nhau giữa các kỳ, các tỉnh nhưng nhìn chung Đảng
Cộng sản Đông Dương đã thực hiện thành công chủ trương lợi dụng các điều
kiện công khai, hợp pháp biến các cuộc vận động tranh cử vốn trước đây chỉ
là trị hề chính trị của thực dân Pháp và tay sai thành phong trào đấu tranh
mạnh mẽ của quần chúng. Thông qua mặt trận này, hàng triệu quần chúng
được thức tỉnh về ý thức chính trị, đường lối, chủ trương của Đảng đã thực sự
được truyền bá sâu rộng trong quảng đại quần chúng. Ảnh hưởng và uy tín
của Đảng do đó mà được tăng cường thêm một bước, nhân dân lao động đã
nhận ra ai mới là người đại diện xứng đáng cho mình.
2.2.3. Đảng lãnh đạo đấu tranh trên lĩnh vực báo chí
Nhận thức sâu sắc vai trị quan trọng của báo chí trong đấu tranh cách
mạng Đảng đã chiếm lĩnh mặt trận báo chí.
Các tờ báo tiêu biểu : Lao động, Tiến lên, Tiếng nói của chúng ta, Hồn
trẻ, Thời mới, Tin tức, Đời nay ở miền Bắc. Miền Trung có các tờ : Nhành
lúa, Kinh tế tân văn, Sơng Hương tục bản. Miền Nam có Tiền phong, Nhân
dân, Dân chúng, Lao động mới. Không chỉ tuyên truyền cho hoạt động của
Đảng sách báo cách mạng còn kịp thời tố cáo, vạch trần luận điệu sai trái của


[17]
bọn phản động. Tiêu biểu phải kể đến những cuốn như : “ Tờrốtkít và phản
cách mạng” của Thanh Hương (tức Hà Huy Tập – xuất bản tháng 3 – 1937),
“Chiến thuật Mặt trận bình dân xứ Đơng Dương” (Hiệu sách Đồng Xuân,
xuất bản 1938), “Chiến tuyến bình dân” (Nhà xuất bản Việt Dân) và một số
bài báo của Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, đặc biệt của đồng chí Trường
Chinh.
Cùng với hoạt động báo chí cơng khai, nhiều tập sách giới thiệu chủ
nghĩa Mác – Lênin và giải thích chính sách của Đảng cũng được xuất bản.

Cuốn Vấn đề dân cày của Qua Ninh và Vân Đình đã tố cáo tội ác của đế quốc
và phong kiến, phản ánh trung thực đời sống của người nơng dân Việt Nam,
nói lên vai trị quan trọng của nơng dân trong cách mạng. Cuốn Chủ nghĩa
Mác của Hải Triều được xuất bản vào giữa năm 1938 đã mang lại những hiểu
biết đúng đắn hơn về chủ nghĩa Mác, tránh sự xuyên tạc của thực dân. Nhiều
nhà văn tiến bộ viết nhiều tác phẩm có giá trị có tính hiện thực phê phán, vạch
trần chế độ phong kiến thối nát, phản động. Rõ rệt như Tắt đèn và Việc làng
của Ngô Tất Tố, Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan…
Những cuộc đấu tranh của giới báo chí đã góp phần tích cực vào việc
hình thành mặt trận, tổ chức giáo dục nhà báo về ý thức chính trị và đấu tranh
chính trị. Nó đã góp phần vào thắng lợi căn bản trong chính sách Mặt trận của
Đảng trên lĩnh vực báo chí cũng như thức tỉnh và tập hợp được nhiều nhà báo
19 tiến bộ, kể cả nhà báo của Pháp trong cuộc đấu tranh của nhân dân ta thời
kỳ 1936 – 1939.


[18]

CHƯƠNG 3
Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
3.1. Ý nghĩa lịch sử
Cao trào cách mạng 1936-1939 được coi như một cuộc tổng diễn tập
cách mạng thứ 2 và bước chuẩn bị thứ 3 cho thành công của Cách mạng tháng
Tám năm 1945.Theo đó, nó có ý nghĩa rất to lớn.
3.1.1. Đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc về mọi mặt của Đảng
Với tư cách là lãnh tụ chính trị của tồn bộ cuộc vận động rộng lớn vì
các quyền dân sinh, dân chủ trong thời kì 1936 – 1939 ở Việt Nam, Đảng đã
thể hiện rõ bản lĩnh và vai trị của mình trong lãnh đạo phong trào cách mạng
phát triển. Đồng thời cũng qua quá trình lãnh đạo này mà Đảng trưởng thành
vượt bậc về mọi mặt.

Sự trưởng thành về mặt nhận thức chính trị
Với sách lược khéo léo trong tình hình mới, Đảng đã minh chứng cho
khả năng bám sát tình hình thực tiễn của mình từ đó rút ra được những bài
học bổ ích cho các giai đoạn cách mạng tiếp theo. Việc Đảng thực hiện một
sách lược mới không hề đơn giản. Trên thực tế để thực hiện sách lược mới,
Đảng đã phải trải qua quá trình nghiên cứu kỹ càng, thận trọng với nhiều cuộc
tranh luận khá quyết liệt trong nội bộ Đảng.
Việc thơng qua sách lược mới cũng chính là làm cho Đảng từng bước
nhận thức đầy đủ hơn, cụ thể hơn về hai nhiệm vụ chiến lược, về mối quan hệ
giữa nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, giữa nhiệm vụ lâu dài và trước mắt của
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam.
Trưởng thành trong thực tiễn lãnh đạo chiến tranh
Trên thực tế cho thấy chỉ có Đảng là tổ chức chính trị duy nhất nhận
thức đúng những biến chuyển của tình hình thế giới và trong nước, biết cách


[19]
chớp lấy thời cơ thuận lợi, tổ chức và lãnh đạo được nhiều phong trào đấu
tranh rộng lớn. Trong khi đó các tổ chức và lực lượng khác đã khơng chứng tỏ
được vai trị gì mặc dù có những lợi thế nhất định. Vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với phong trào càng rõ nét khi chính quyền thực dân và các thế lực bảo
thủ vẫn ra sức chống phá, đàn áp phong trào bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo
quyệt.
Sự lớn mạnh của tổ chức Đảng và phát triển lực lượng thành viên
Thông qua phong trào đấu tranh 1936 – 1939, Đảng đã phục hồi và
củng cố được hệ thống tổ chức trong cả nước. Đến cuối năm 1937 có trên
1.500 tù chính trị mà phần lớn là những chiến sĩ cộng sản ra khỏi nhà tù của
thực dân Pháp, trong đó có các đồng chí như : Trường Chinh, Lê Duẩn,
Nguyễn Văn Linh…Những cán bộ, đảng viên của Đảng được tơi luyện và
nâng cao trình độ lý luận chính trị, văn hóa nay trở về với nhân dân đã nhanh

chóng trở thành lực lượng cán bộ nịng cốt của phong trào cách mạng. Qua
thời kỳ 1936 – 1939, với gần bốn năm gắn bó, lăn lộn với phong trào đấu
tranh, các đảng viên tiếp tục đƣợc rèn luyện trên nhiều mặt trận nên trưởng
thành và tích lũy nhiều kinh nghiệm quan trọng cho đấu tranh giai đoạn sau
này. Ở thời kỳ này, đường lối chủ trương của Đảng qua các phương tiện
truyền thông, cổ động cũng đến được với đơng đảo quần chúng nhân dân.
Điều đó góp phần làm cho quần chúng hiểu hơn về Đảng và đi theo Đảng,
đồng thời cũng đập tan những thủ đoạn xuyên tạc sai trái của kẻ thù.
3.1.2. Xây dựng một lực lượng cách mạng rộng lớn
Bước ngoặt phát triển về lực lượng cách mạng
Khẩu hiệu đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hịa bình do Đảng đưa ra trong
một chừng mực nhất định phù hợp với yêu cầu của các tầng lớp trí thức, tiểu
tư sản, trung, tiểu địa chủ và một bộ phận tư sản dân tộc. Thành quả lớn của
phong trào đã thức tỉnh ý thức chính trị của hàng triệu quần chúng nhân dân,
làm cho họ thấy được sức mạnh và khả năng thực hiện cách mạng của chính


[20]
mình. Khơng những thế, chủ trương tập hợp lực lượng của đông đảo nhân dân
dưới ngọn cờ của Mặt trận dân chủ đã đập tan âm mưu chia rẽ khối đại đồn
kết tồn dân của thực dân Pháp.
Thành cơng về xây dựng Mặt trận đồn kết rộng rãi
Đảng đã tìm ra được phương cách để đoàn kết toàn dân, đưa quần
chúng vốn trước đây rụt rè xông pha đấu tranh. Điểm nổi bật trong thời kỳ
này là các phong trào đấu tranh chủ yếu diễn ra dưới hình thức cơng khai, bán
công khai và hợp pháp, nửa hợp pháp nên Đảng rất cần một tổ chức chính trị
như mặt trận để chuyển tải chủ trương, đường lối đấu tranh.
Thành công khi sáng tạo nhiều hình thức tổ chức và phương thức đấu
tranh
Trong những năm 1936 – 1939, hình thức và phương pháp đấu tranh

cũng là một nét đặc sắc và mới lạ. Các phương pháp và hình thức đấu tranh
như : mít tinh, biểu tình, hội họp, diễn thuyết, đưa kiến nghị thư, ra sách báo
cơng khai…vốn chỉ có vai trò tương đối hạn chế trong các giai đoạn trước đã
phát huy tác dụng tối đa trong thời kỳ này. Ngồi ra cịn có các phương pháp
đấu tranh và hình thức tổ chức mới rất sáng tạo xuất hiện và rất hiệu quả như :
đấu tranh nghị trường, thu thập dân nguyện, tranh luận tư tưởng,… Bên cạnh
các phương pháp tổ chức mới và chung cho lực lượng cách mạng, mỗi giai
cấp và tầng lớp lại sử dụng những hình thức tiêu biểu của riêng mình. Nó
cũng là kết quả sáng tạo của quần chúng và cán bộ cơ sở trong thực tiễn đấu
tranh. Hình thức tổ chức và phương pháp đấu tranh dân chủ có sức lơi cuốn
mạnh mẽ, phát huy được cao độ năng lực và sức mạnh của quần chúng nhân
dân.
3.2. Bài học kinh nghiệm
Qua phong trào đấu tranh, Đảng đã thu được nhiều bài học có ý nghĩa
to lớn với sự lãnh đạo của mình cho những giai đoạn sau.


[21]
Đó là bài học về : Kiên trì mục tiêu dân tộc, dân chủ, kịp thời, sáng tạo
chuyển hướng lãnh đạo cách mạng phù hợp với hoàn cảnh mới ; Xác định
đúng kẻ thù, sử dụng khẩu hiệu linh hoạt, huy động cao nhất sức mạnh đoàn
kết các lực lượng cách mạng trong Mặt trận dân tộc thống nhất ; sử dụng khéo
léo các hình thức và phương pháp đấu tranh cách mạng để đạt được mục tiêu
dân tộc, dân chủ một cách cao nhất ; xây dựng mặt trận đoàn kết rộng rãi ;
xây dựng và phát triển Đảng ngang tầm lãnh đạo cách mạng.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, bài học về sự lãnh đạo của
Đảng trong thời kỳ 1936 – 1939 mang ý nghĩa rất quan trong. Những vấn đề
cấp thiết hiện nay nhƣ : nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng trong hồn cảnh mới, bài học về tìm tịi hình thức, phƣơng pháp, bƣớc
đi để hồn thiện đƣờng lối đổi mới, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc

có thể học hỏi phần nào từ tinh thần sáng tạo thời kỳ trƣớc. Kế thừa những
bài học giá trị từ quá khứ, chủ động sáng tạo trong tƣơng lại Đảng Cộng sản
Việt Nam hồn tồn có thể đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nƣớc tới thắng lợi


[22]

KẾT LUẬN
Phong trào cách mạng thời kỳ 1936 – 1939 thật sự là một cuộc đấu
tranh cách mạng sôi nổi, có tính chất quần chúng rộng rãi nhằm thực hiện
mục tiêu trước mắt là chống phản động thuộc địa và tay sai địi tự do dân chủ,
cơm áo, hịa bình. Về cơ bản, các khẩu hiệu cách mạng của Đảng trong thời
kỳ này có bao hàm cả vấn đề dân tộc và dân chủ nhưng trọng tâm là mục tiêu
dân chủ. Cao trào đã diễn ra trên tất cả các mặt trận : chính trị, kinh tế, văn
hóa, tư tưởng với các hình thức đấu tranh rất phong phú và linh hoạt : bãi
cơng, bãi khóa, bãi chợ, mít tinh, biểu tình, báo chí và cả đấu tranh nghị
trường. Các hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp, công khai và bán cơng
khai, bí mật…đều được Đảng sử dụng phối hợp chặt chẽ với nhau, hỗ trợ với
nhau. Đảng luôn ln có ý thức lấy các tổ chức bí mật làm nòng cốt, giữ vững
sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức công khai và chuẩn bị sẵn sàng để
đối phó với mọi thủ đoạn đánh phá của kẻ thù, nhanh chóng chuyển bộ phận
cơng khai và hoạt động bí mật khi điều kiện hoạt động cơng khai khơng cịn
nữa.
Tổ chức Đảng ngày càng được củng cố và phát triển, số lượng đảng
viên ngày càng thêm đông. Đội ngũ đảng viên có cơ hội để rèn luyện bản lĩnh
và trau dồi kinh nghiệm đấu tranh, trưởng thành về tư tưởng chính trị và tổ
chức. Sự thành cơng của phong trào còn phải kể đến việc chúng ta đã xây
dựng được một hình thái mặt trận rộng rãi, nơi có sự tham gia của đơng đảo
thành phần của mọi giai cấp và tầng lớp Việt Nam, điều mà trong thời kỳ

trước chưa làm được và trở lại đúng tinh thần Cương lĩnh chính trị đầu tiên.
Với thành phần lực lượng cách mạng đông đảo như vậy, sức mạnh của dân tộc
đã được huy động tới mức tối đa vì mục tiêu chung của đất nước mà không lo
ngại sự chia rẽ hay mất đoàn kết. Hơn nữa qua phong trào này, quần chúng đã
hiểu về Đảng hơn, về chủ trương đường lối đúng đắn của Đảng hơn từ đó


[23]
đứng về hàng ngũ cách mạng đấu tranh, qua đó họ cũng thêm trưởng thành về
nhận thức chính trị và vai trị sức mạnh của chính mình.
Tuy phong trào đấu tranh dân chủ, dân sinh 1936 – 1939 không phải là
khơng có những hạn chế nhất định nhưng nhìn tổng quát đây là thời kỳ cách
mạng Việt Nam gặt hái được những thành công lớn về nhiều mặt. Từ những
thành cơng của phong trào chúng ta có thể vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng
hiện nay, khi mà Đảng đang dần hoàn thiện đường lối đổi mới, đưa đất nước
hội nhập kinh tế quốc tế trong sự biến đổi khơng ngừng của tình hình thế giới.


[24]

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng tồn tập, Tập 2, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.
3. Đinh Xuân Lâm (chủ biên) (2005), Đại cương Lịch sử Việt Nam, Tập
2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4. Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
5. Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.

6. Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
7. Phạm Hồng Tung (2008), Lịch sử cuộc vận động vì các quyền dân
sinh, dân chủ ở Việt Nam (1936 – 1939), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Và một số nguồn thơng tin chính thống khác trên internet.



×