Tải bản đầy đủ (.docx) (96 trang)

Đảng lãnh đạo phong trào công nhân và công đoàn trong cuộc kháng chiến chống thực dân pháp (1945 1954)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.94 KB, 96 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH sử

NGUYỄN THỊ BÍCH PHƯỢNG

ĐẢNG LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO
CÔNG NHÂN VÀ CÔNG ĐOÀN
TRONG cuôc KHÁNG CHIÉN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
(1945 -1954)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Ngưòi hướng dẫn khoa học
PGS. TS VŨ QUANG VINH

HÀ NỘI - 2016


LỜI CẢM ƠN
Những thành công và những đóng góp có được của đề tài ngoài cố gắng và nỗ
lực của bản thân còn có sự động viên khích lệ, giúp đỡ của nhiều người.Vì vậy, em
xin tỏ lòng biết ơn đến các thầy, cô giáo, các anh chị, các bạn đồng nghiệp đã tận tình
giúp đỡ ttong việc sưu tầm tìm tài liệu và quá trình hoàn thành khóa luận.
Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Vũ Quang Vinh người đã tận tâm
chỉ bảo, giúp đỡ em từ khi hình thành đến khi hoàn thành khóa luận.
Mặc dù đã có cố gắng nhưng chắc chắn khóa luận của em còn nhiều những hạn
chế, khiếm khuyết.Em rất mong nhận được sự chỉ bảo và góp ý của các thầy cô và các
bạn.
Hà Nội, ngày 3 tháng 5 năm 2016


Sinh viên


Nguyễn Thị Bích Phượng
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng em và được sự hướng
dẫn khoa học của PGS.TS Vũ Quang Vinh .Các thông tin và số liệu được sử dụng
trong khóa luận là trung thực. Các luận điểm, dữ liệu, được trích dẫn đầy đủ.
Hà Nội, ngày 3 tháng 5 năm 2016
Sinh viên

Nguyễn Thị Bích Phượng


MỤC LỤC
Chương I: ĐẢNG LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO CÔNG NHÂN VÀ CÔNG ĐOÀN
ĐẤU TRANH, XÂY DựNG, BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG (9/194512/1946)........................................................................................................................7

1.1.

Sự ra đời giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn cách mạng Việt Nam... 7

1.2.

Đảng lãnh đạo phong ừào công nhân và công đoàn sau Cách mạng Tháng

Tám(9/1945-12/1946).................................................................................................14
Chương 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO

CÔNG NHÂN


VÀ CÔNG

ĐOÀN , ĐƯA PHONG TRÀO CÔNG NHÂN VÀ CÔNG ĐOÀN PHÁT TRIỂN
VŨNG CHẮC GÓP PHẦN QUAN TRONG TRONG CÔNG cuộc KHÁNG CHIẾN
CHỐNG THựC DÂN

PHÁP THẮNG LỢI

(12/1946 -


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:
Trải qua mấy chục năm phát triển, giai cấp công nhân Việt Nam đã lớn mạnh và
có vai trò to lớn trong tiến trình cách mạng nước ta; thông qua Đảng Cộng sản Việt
Nam, giai cấp công nhân là người lãnh đạo, đồng thời cũng là một trong những lực
lượng cơ bản, chủ yếu của cách mạng và thực sự là lực lượng đi đầu trong tiến trình
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Chính vì thế Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định “chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan
góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân ”[15,tr.22]. Trong suốt quá trình hoạt động,
Hồ Chí Minh đã rất chú trọng đến giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn.Người đặt
nền móng cho việc hình thành lí luận, nội dung hoạt động , mô hình và tổ chức cho
việc tổ chức công đoàn cách mạng theo quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin ở Việt Nam
“ Thực tiễn cách mạng Việt Nam trong gần 7 thập kỉ qua cho thấy sự phát triển vững
mạnh của phong trào công nhân và công đoàn dưới sự lạnh đạo của Đảng là một yếu
tố vô cùng quan trọng đảm bảo cho mọi thẳng lợi
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp(1945-1954), dưới sự lãnh đạo của
Đảng phong trào công nhân và công đoàn phát triển mạnh mẽ trở thành nòng cốt cho

phong trào cách mạng nhân dân. Vì vậy , nghiên cứu về sự lãnh đạo cúa Đảng đối với
phong trào công nhân và công đoàn trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp(1945-1954) có ý nghĩa đóng góp về mặt khoa học lịch sử và thực tiễn .
Trong bối cảnh hiện nay, giai cấp công nhân trên toàn thế giói nói chung, giai
cấp công nhân Việt Nam nói riêng cần có nhận thức đúng đắn về vai trò của họ; trong
sự nghiệp đổi mới đất nước, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là vấn đề thòi sự cấp bách
và lâu dài của Đảng và Nhà nước ta đề ra. Trên cơ sở Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày
28/01/2008 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khoá X về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước và Kết luận số 79-KL/TW, ngày 25/12/2013 của Bộ Chính trị


khoá XI về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW.Nghị quyết Hội nghị lần thứ
7 Ban Chấp hành trung ương Đảng(khóa VII) đã xác định: “Giai cấp công nhân Việt
Nam thấm nhuần chủ nghĩa Mác- lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thông qua Đảng
tiên phong của mình thực hiện sứ mệnh lãnh đạo sự nghiệp cách mạng và công nghiệp
hóa,hiện đại hóa đất nước; là hạt nhân của lien minh công -nông-trí thức và khối đại
đoàn kết dân tộc của nước ta .”[46, tr.97].
Tổng bí thư Đỗ Mười đã chỉ rõ: “Phải coi vấn đề xây dựng giai cấp công
nhân và công tác công đoàn là một nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng trong thời kì
phát triển mới, bởi vì chỉ có giai cấp công nhân mới trưởng thành về chính trị , có
trình độ tổ chức,kiến thức và kĩ năng nghề nghiệp cao”[46,tr.31].Như vậy, quan điểm
nhất quán của Đảng trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa là tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng và xây dựng giai cấp công nhân và công đoàn về mọi mặt.
Với ý nghĩa cả về lí luận và thực tiễn nêu trên hy vọng sẽ làm rõ sự lãnh
đạo của Đảng đối với phong trào công nhân và công đoàn trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp từ đó rút ra một số kinh nghiệm , góp phần nhỏ bé vào việc xây
dưng giai cấp trong công nhân và tổ chức công đoàn trong thòi kì công nghiệp hóa
-hiện đại hóa đất nước hiện nay. Vì vậy tôi chọn đề tài “ Đảng lãnh đạo phong trào
công nhân và công đoàn trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp(19451954)” làm khóa luận tốt nghiệp đại học chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt

Nam..

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Khi tìm hiểu về các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài, tôi thấy trên bình
diện chung của cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược, có rất
nhiều công trình nghiên cứu ở cả trong và ngoài nước ở những mức độ khác nhau, đề
cập đến phong trào công nhân và công đoàn. Trong đó đáng chú ý là: Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam, tập I (Nxb Sự Thật, Hà Nội,1981); Sơ thảo Lịch sử Quân đội


nhân dân Việt Nam, tập 1 (Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội,1974); Giai cấp công
nhân Việt Nam thời kỳ 1945-1954, (Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội,1987); Sơ
thảo Lịch sử phong trào công nhân và công đoàn Việt Nam trong kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược (Nxb Lao động , Hà Nội, 1984).
Nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội, Công đoàn đã có
những tác phẩm tổng kết hoạt động thực tiễn có liên quan đến sự lãnh đạo, chỉ đạo
phong trào công nhân và công đoàn trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp.
Những tác phẩm này, ngoài việc cung cấp những tư liệu quý, còn có ý nghĩa gợi mở ý
tưởng cho việc nghiên cứu đề tài. Tiêu biểu là những tác phẩm: Trường Chinh: Cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam, tập n (Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1975); Võ
Nguyên Giáp: Chiến tranh giải phóng và chiến tranh giữ nước, tập 1 (Nxb Quân đội
nhân dân Hà Nội,1974); Hoàng Quốc Việt: Giai cấp công nhân và tổ chức công
đoàn Việt Nam (Nxb Lao động, Hà Nội, 1970).
Trên các tạp chí như: Học tập, Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Nghiên cứu Lịch
sử Đảng,Tạp chí Lịch sử Đảng, Tạp chỉ Công đoàn... có nhiều bài viết đề cập vói
những góc độ khác nhau vè sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào công nhân và
công đoàn trong kháng chiến chống Pháp.
Trong hệ thống công đoàn Việt Nam có nhiều công trình nghiên cứu đề cập
tói từng phạm vi nhất định đối với phong ừào công nhân và công đoàn trong kháng
chiến chống Pháp như: Công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn trong sự nghiệp giải phóng dân

tộc (Nxb Lao Động, Hà Nội, 1993); Lịch sử phong trào công nhân và tổ chức câng
đoàn Hà Nội (Liên hiệp Công đoàn Hà Nội,1988);
Lịch sử phong trào công nhân và công đoàn Vĩnh Phú ( Liên đoàn Lao động tỉnh Vĩnh
Phú, 1993); Phong trào công nhân và công đoàn Quảng Nam Đà Nang (Nxb Đà
Nang, 1987); Lịch sử phong trào công nhân và công đoàn Lai Châu ( Nxb Lao động
Hà Nội 1991); Công đoàn Việt Nam, những chặng đường lịch sử(Nxb Lao động,Hà


Nội, 1992); Thực trạng giai cấp công nhân và giải phóng công đoàn (Nxb Lao động
Hà Nội,1993); Hồ Chí Minh với công nhân và công đoàn Việt Nam (Nxb Lao động,
Hà Nội, 1995)...
Phần lớn các công trình kể ừên đều lấy phong trào công nhân làm đối tượng
nghiên cứu, sự lãnh đạo của Đảng đối với công nhân, công đoàn chỉ được đề cập 1
cách hạn hẹp, hoặc dừng lại ở mức công bố tư liệu. Tuy nhiên trong số đó cũng có 1
số công trình đề cập tới từng khía cạnh nhất định trong phạm vi từng tỉnh, từng ngành
về sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào công nhân và công đoàn ừong kháng
chiến chống Pháp.Vì vậy, đây chính là những vấn đề khóa luận sẽ tập trung nghiên
cứu giải quyết.

3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu:
Mục đích:
• Đúc kết kinh nghiệm về sự lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, tổ chức, triển khai,
phát triển phong trào công nhân, công đoàn của Đảng trong thời kì 1945-1954; gợi mở
1 số ý kiến đóng góp vào việc thực hiện đường lối công vận ưong sự nghiệp đổi mới
hiện nay.
Phạm vỉ nghiên cứu cửa đề tài:
Khóa luận tập trung nghiên cứu, trình bày về chủ đề Đảng lãnh đạo phong ừào
công nhân và công đoàn trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Thời gian là từ
23-9-1945, tức là thời điểm Nam Bộ kháng chiến, đến 7-1954, thời điểm hiệp định
Giơnevơ được kí kết.

Nội dung của đề tài tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng đối với phong
trào công nhân và công đoàn

4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu:
Nguồn tư liệu:
Ngoài việc trân ttọng và kế thừa những công trình khoa học đã được công bố, tôi


tiếp tục đi sâu nghiên cứu, sưu tầm khai thác tư liệu ở Viện Lịch sử Đảng, thư viện
trường Đại học sư phạm Hà Nội 2, thư viện quốc gia, thư viên Quân đội nhân dân
Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu, khóa luận còn quán triệt quan điểm lí luận , thực
tiễn hiện nay của Đảng về lãnh đạo phong trào công nhân, công đoàn trong sự nghiệp
đổi mới đất nước, thể hiện trong các văn kiện Đại hội lần thứ VI, VII, VIII, IX, X, XI,
XII của Đảng; trong các tác phẩm : Đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới vì chủ nghĩa xã hội
của Tổng bí thư Đỗ Mười (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,1996); Nhiệm vụ của
Công đoàn trong giai đoạn hiện nay của Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt, Nguyễn Văn Tư (Nxb
Lao động, Hà Nội, 1996)...
Từ các nguồn tài lệu trên, đề tài có điều kiện đi sâu, thể hiện 1 cách có hệ
thống và toàn diện về sự lãnh đạo của Đảng đối vói phong trào công nhân và
công đoàn trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.


Phương pháp nghiên cứu:
Để giải quyết các vấn đề trên, đề tài kết hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu khác nhau như: phương pháp lịch sử và logic; các phương pháp
khác của khoa học lịch sử như phân loại tư liệu , phân kì lịch sử, cấu trúc hệ
thống, đối chiếu, so sánh , thống kê định lượng...về mặt lí luận, Đe tài dụa
trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về cách mạng dân tộc và dân chủ, về

chiến tranh nhân dân, chiến tranh giải phóng dân tộc...làm định hướng cho
việc nghiên cứu. Đê tài lấy việc nghiên cứu so sánh đối chiếu các đường lối
chủ trương về công tác công vận của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong 9
năm kháng chiến chống Pháp làm cơ sở căn bản để phân tích đánh giá sự
chuyển đổi cả về số lượng, chất lượng của phong trào công nhân và công
đoàn. Đồng thời chính từ sự nghiên cứu từng phát triển của phong trào công
nhân và công đoàn để rút ra kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng đối vói
phong trào công nhân và công đoàn và mối quan hệ giữa Đảng, giai cấp, dân
tộc trong kháng chiến.

5. BỐ cuc khóa luân:
• •

Ngoài phần mở đầu và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3 chương:
Chương lỉĐảng lãnh đạo phong trào công nhân và công đoàn trong đẩu tranh
xây dưng, bảo vệ chính quyền cách mạng (1945-1946).
Chương 2:Đảng lãnh đạo phong trào công nhân và công đoàn, đưa phong trào
công nhân và công đoàn phát triển vững chắc góp phần quan trọng trong công cuộc
kháng chiến chổng thực dân Pháp thẳng lợi(12/1946- 7/1954).
Chương 3ỉ một sổ nhận xét và một sổ kinh nghiệm.
Chương 1
ĐẢNG LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO CÔNG NHÂN VÀ CÔNG ĐOÀN ĐẤU


TRANH, XÂY DựNG, BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG
(9/1945-12/1946)

1.1 Sự ra đời giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn cách mạng Việt Nam
1.1.1


Sự ra đời giai cấp công nhân
Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp xâm lược nước ta, biến Việt

Nam, Lào, Campuchia thành thuộc địa của đế quốc Pháp. Sau khi thiết lập bộ máy cai
trị thực dân Pháp đã tiến hành các cuộc khai thác thuộc địa nhằm vơ vét tài nguyên
khoáng sản, bóc lột sức lao động rẻ mạt, biến nước ta thành thị trường đầu tư tư bản tiêu thụ hàng hóa ế thừa và nơi bành trướng thế lực của đế quốc Pháp ở vùng Viễn
Đông.
Từ 1897 đến năm 1930, thực dân Pháp đã tiến hành cuộc khai thác thuộc địa ở
Việt Nam: cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất diễn ra từ năm 1987 đến năm 1914;
cuộc khai thác thuộc địa lần thứ 2 diễn ra từ năm 1918 đến 1930. Các cuộc khai thác
thuộc địa của thực dân Phápđã tác động sâu sắc đến xã hội Việt Nam, đặc biệt là đưa
đến sự ra đời của giai cấp công nhân Việt Nam.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất
(1897-1914) và trưởng thành nhanh chóng trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ 2
(1918-1930).Chế độ thuộc địa nửa phong kiến và các hình thức bóc lột tàn bạo của chế
độ thực dân tư bản, kết hợp với sự bóc lột hà khắc như chế độ phong kiến thòi trung
cổ đã đề nặng lên giai cấp công nhân Việt Nam.Vì vậy, ngay từ đầu, giai cấp công
nhân Việt Nam đã có những cuộc đấu tranh chống thực dân, phong kiến. Trải qua 1
thời gian các cuộc đấu tranh của họ mới mang tính giai cấp và từ đó xuất hiện những
liên minh, những tổ chức quần chúng, tổ chức chính trị là 1 sự tất yếu của cuộc đấu
tranh giai cấp.
Năm 1918, Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, tuy mang danh là 1 nước
thắng trận, nhưng đế quốc Pháp bị thiệt hại rất nhiều cho nên đã tiến hành cuộc khai


thác thuộc địa làn thứ 2, nhằm vơ vét tài nguyên, nhân lực về xây dựng chính quốc.
Nhiều nghành công nghiệp như khai thác mỏ, giao thông, đồn điền, dệt, may.. .đã phát
triển, kéo theo đó là sự hình thành nhanh chóng các đô thị, các trung tâm công nghiệp.
Đến năm 1930, các đô thị Hồng Gai, Đông Triều, Hà Nội, Hải Phòng, Nam
Định,Vinh, Đà Nang, Sài Gòn- Chợ Lớn, các đồn điền miền Đông Nam Bộ... đã trở

thành những nơi tập trung hàng vạn công nhân. Cho đến những năm 1924-1925, giai
cấp công nhân Việt Nam đã phát triển lên 24-16 vạn ngưòi, chiếm trên 1% dân số. Đến
thời điểm này, chúng ta có thể khẳng định giai cấp công nhân Việt Nam đã hình thành,
trở thành một giai cấp thực sự, có vai trò ngày càng quan trọng trong lịch sử.
Cùng với đặc điểm của giai cấp công nhân quốc tế, giai cấp công nhân Việt
Nam còn mang những đặc điểm riêng như: hình thành trước giai cấp tư sản dân tộc;
tuy ít về số lượng (chiếm trên 1% dân số lúc đó) nhưng tính tập trung cao; có liên hệ
chặt chẽ vói giai cấp nông dân và các tầng lớp khác; chịu 2 tầng áp bức là tư bản thực
dân và phong kiến, cùng chịu cảnh nước mất nhà tan; đại diện cho 1 phương thức sản
xuất mới... Những đặc điểm đó giúp cho giai cấp công nhân Việt Nam sớm trở thành
lực lượng lãnh đạo cách mạng nước ta.
Ngay từ khi mới ra đời, giai cấp công nhân đã có các cuộc đấu tranh chống thực
dân phong kiến.Đó là cuộc đấu tranh tuy mạnh, nhưng còn tản mạn và tự phát. Phần
lớn các cuộc đấu ừanh đó thiếu sự tổ chức lãnh đạo và chỉ tập trung vào đòi quyền lợi
kinh tế, quyền sống trước mắt và tiến hành bằng các hình thức đấu tranh là bỏ việc về
quê, lãn công với mục tiêu đòi tăng lương, chống đánh đập. Tiêu biểu là cuộc đấu
tranh của công nhân trên các tuyến đường sắt Hà Nội- Lạng Sơn, dệt sợi Nam Định,
kẽm Cao Bằng.. .Song cũng có 1 số cuộc đấu tranh hòa mình vào phong trào dân tộc
như: để ủng hộ nghĩa quân Yên Thế của Đe Thám, công nhân đã tham gia bắt cóc các
tên thực dân cấp cao ở Bắc Kỳ, giúp nghĩa quân có điều kiện “thương lượng” với kẻ
thù; trong cao trào yêu nước và dân chủ những năm 1925-1926, công nhân đã tham gia


các cuộc đấu tranh ở Sài Gòn...
Tình hình đã đổi khác kể từ khi Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập (tháng 31919), đặc biệt khi tổ chức quốc tế Công hội Đỏ ra đời thu hút phần lớn phong trào
công nhân quốc tế chống tư bản, chống công đoàn vàng trong tay các đảng xã hội dân
chủ cải lương và cơ hội, thực sự khẳng định tính chất xã hội chủ nghĩa của phong
ừào...
Cũng từ năm 1919, nhiều cuộc bãi công của công nhân đã có tính chất quốc tế,
tính giai cấp nâng cao. Đó là cuộc bãi công của công nhân thủy thủ trên tàu Sacnô ở

Hải Phòng (cuối năm 1919), của công nhân thủy thủ trên 8 tàu thuộc hãng Hàng hải
Pháp(tháng 3-1920)...
Khi Chính phủ cách mạng của Tôn Trung Sơn ở Quảng Châu(Trung Quốc) thực
hiện chính sách “Liên Nga, liên cộng, phù trợ công nông” thì chuyển biến của phong
trào công nhân nước ta càng mạnh.
Số lượng các cuộc bãi công ngày một tăng và quan trọng hơn là bãi công đã có
tính chất chính trị, có tổ chức lãnh đạo. Nếu như năm 1927 có 7 cuộc bãi công thì tới
năm 1929 có đến 24 cuộc, năm 1930 là 30 cuộc vói số lượt ngưòi tham gia lên đến
hơn 32.000 ngưòi.
Như vậy, đến năm 1925, giai cấp công nhân Việt Nam đã hình thành và phát
triển, từ những cuộc đấu tranh đầu tiênđã hình thành những cơ sở công hội sơ khai của
giai cấp công nhân Việt Nam có từ 2 nguồn: nguồn thứ nhất là từ phong trào công
nhân quốc tế, nhất là ảnh hưởng của phong trào công nhân , Công đoàn Pháp, công
nhân - công hội Trung Quốc; nguồn thứ 2 là từ phong trào công nhân trong nước mà
điển hình là Công hội Ba Son, cùng có tổ chức tương tế, ái hữu. Đó là những điều kiện
thực tiễn, những cơ sở vật chất đầu tiên cho việc thành lập tổ chức Công hội Đỏ Việt
Nam sau này.


1.1.2

Sự ra đời của tổ chức công đoàn cách mạng Việt Nam(28-7-1929)
Qúa trình hình thành và ra đời của tổ chức Công đoàn cách mạng Việt Nam gắn

liền với những hoạt động của lãnh tụ Nguyễn Aí Quốc trong những năm đầu thế kỉ
XX. Chính người đã đặt nền móng về tư tưởng , lí luận và tổ chức cho sự ra đời tổ
chức quàn chúng của giai cấp công nhân Việt Nam.
Năm 1917, Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở Luân Đôn và đã tham gia Công đoàn
hải ngoại ở Anh. Cuối năm 1918, Ngưòi trở về Pháp,tham gia Đảng xã hội Pháp rồi trở
thành đoàn viên của tổ chức công đoàn kim khí thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Pháp

(CGT). Năm 1920, sau khi tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc
đã có nhiều bài viết trên báo Nhân đạo, Người cùng khổ nói về sự càn thiết phải thành
lập tổ chức công hội ở Việt Nam. Năm 1922, người đã bồi dưỡng và giúp cho Nguyễn
Tạo và Bùi Lâm thành lập công đoàn của thủy thủ Việt Nam tại Mácxây, Lơ Havơrơ.
Tiếp đó, ngưòi từ Pháp qua Đức, sang Nga và về Trung Quốc, Người đã tìm hiểu,
nghiên cứu về tổ chức công đoàn và khẳng định: việc cần thiết hiện nay là phát động
một cuộc tuyên truyền để thành lập các tổ chức công đoàn hiện có dưới hình thức phôi
thai. Ngoài việc nghiên cứu công đoàn các nước châu Âu, Nguyễn Ái Quốc còn
nghiên cứu công đoàn các nước Châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ... từ đó
rút ra những bài học kinh nghiệm cụ thể giúp cho việc thành lập tổ chức công đoàn
cách mạng ở Việt Nam.
Qua hoạt động thực tiễn, Nguyễn Ái Quốc đã đề ra những cơ sở lí luận cho tổ
chức công hội. Trong tác phẩm “Đường Kách Mệnh” bao gồm những bài giảng của
người cho các lớp học đào tạo cán bộ cách mạng ở Quảng Châu; được bộ tuyên truyền
Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông xuất bản năm 1927, Người đãnói đến tính
chất, nhiêm vụ của tổ chức công hội và nhấn mạnh: “công hội trước là để cho công
nhân đi lại với nhau cho có cảm tình, hai là để nghiên cứu với nhau, ba là để sửa sang
cách sinh hoạt của công nhân cho khá hơn bây giờ, bốn là giữ gìn quyền lợi cho công


nhân, năm là để giúp quốc dân, giúp cho thế giới”. Đồng thời Người khẳng định “công
hội là cơ quan của công nhân để chống lại tư bản và đế quốc chủ nghĩa”. Thông qua
nhiều thư và những báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản cũng như Quốc tế công hội Đỏ,
Người đã nó rất nhiều đến sự cần thiết của việc xây dựng tổ chức công đoàn cách
mạng. Cũng trong năm 1927, Người đã giúp đỡ cho đồng chíLương Bẳng thành lập
“Hải viễn công hội” hoạt động trên tuyến đường hàng hải Hồng Kông- Hải Phòng.
Như vậy, trong quá trình chuẩn bị về mặt tư tưởng, tổ chức cho sự thành lập một
chính đảng vô sản cũng là quá trình lãnh tụ Nguyễn Aí Quốc đặt nền móng tư tưởng, lí
luận và tổ chức cho sự ra đời của công đoàn cách mạng Việt Nam.
Từ năm 1925, sau khi Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên được thành lập,

dưói sự lãnh đạo của lãnh tụ Nguyễn Aí Quốc, nhiều cán bộ Cách mạng đã trở về nước
và hoạt động trong phong trào công nhân. Đó là cách tốt nhất, là con đường chủ yếu
để truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin vào phong trào công nhân, thúc đẩy phong trào
công nhân và tổ chức Công hội phát triển.
Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên chủ trương những nơi có cơ sơ của mình
thì lập ra các hội quần chúng, như hội hiếu hỉ, hội tương tế, hội chơi họ.. .từ đó chuyển
dần sang công hội. do vậy,đến năm 1927, ở miền Bắc đã có nhiều nơi có tổ chức công
hội như trung tâm công nghiệp Vinh - Bến Thủy, tiếp đó là ở Nhà máy ôtô Avia (Hà
Nội), các nhà máy chai, sợi, xi măng (Hải
Phòng), ở khu Hồng Gai- Đông Triều (Quảng Ninh). Ở Nam Kì công hội cũng đã hình
thành ở Sài Gòn và nhiều đồn điền ở miền Đông Nam Kỳ. Tất cả như những đợt sóng
nhỏ liên kết lại thành một tổ chức, một khối thống nhất cho sự ra đời tổ chức quần
chúng thống nhất của giai cấp công nhân Việt Nam.
Trong hai năm 1927, 1928 và nửa đàu năm 1929, phong ừào cách mạng nước ta
nói chung và phong trào công nhân nói riêng, đã phát triển mạnh mẽ, dẫn đến một kết
quả là ở Việt Nam đã hình thành ra ba tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản


Đảng(6-1929), An Nam Cộng sản Đảng(8-1929) và Đông Dương cộng sản Liên
đoàn(9-1929).
Sự ra đời và hoạt động tích cực của ba tổ chức cộng sản đã bước đầu đáp ứng
tích cực phong trào cách mạng và phong trào công nhân.Nhờ đó mà tổ chức công hội
càng phát triển mau lẹ, nhất là ở các tỉnh miền Bắc nơi có nhiều trung tâm công nghiệp
và tập trung một số lượng lớn giai cấp công nhân. Trên cơ sở tổ chức công hội ở các
nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ, Đông Dương Cộng sản Đảng đã nhanh chóng xây dựng
tổ chức công hội ở nhiều tỉnh, thành phố , nhất là ở Hà Nội, Nam Định, Hòn Gai,
Đông Triều. Để đáp ứng yêu cầu cấp thiết của công tác vận động công nhân và tăng
cường sức mạnh cho tổ chức Công hội, Ban Chấp Hành Trung ương lâm thời Đông
Dương Cộng sản Đảng, quyết định triệu tập đại hội thành lập Tổng công hội Đỏ Bắc
Kỳ vào ngày 28-7-1929, tại số nhà 15-Hàng Nón -Hà Nội. Tham dự đại hội có đại

biểu các tổng công hội tỉnh và thành phố như: Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng , Đông
Triều, Mạo Khê. Đại Hội đã bầu ra Ban Chấp Hành lâm thòi Tổng công hội Đỏ Bắc
Kỳ, do đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, Uỷ viên Ban Chấp hành lâm thời Đông Dương
Cộng sản Đảng đứng đầu, Đại hội thông qua chương trình, Điều lệ và ra báo Lao động
cùng tạp chí Công Hội Đỏ làm cơ quan ngôn luận của mình.
Sự kiên ra đời của Tổng Công hội Đỏ Bắc Kỳ nói riêng và ngày thành lập Công
đoàn cách mạng Việt Nam nói chung có ý nghĩa to lớn trong lịch sử phong trào công
nhân Việt Nam. Đó là kết quả tất yếu trong phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân, là thắng lợi của đường lối công vận của Đảng ta, đánh dấu một bước ngoặt về sự
chuyển biến từ tự phát lên tự giác của giai cấp công nhân, đánh dấu sự trưởng thành về
chất lượng của giai cấp công nhân Việt Nam trong những năm đầu thế kỉ XX.


1.2.

Đảng lãnh đạo phong trào công nhân và công đoàn sau Cách mạng Tháng

Tám(9/1945-12/1946)

1.2.1.

Hoàn cảnh mói của phong trào công nhân và công đoàn sau Cách mạng

Tháng Tám

1.2.1.1.

Những thuận lợi cơ bản
Cách mạng Tháng Tám 1945 thắng lọi.Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh


đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.MỞ ra một kỉ
nguyên mới trong lịch sử dân tộc. Kỷ nguyên độc lập, giai cấp công nhân và nhân dân
lao động được làm chủ xã hội và tạo những tiền đề cần thiết tiến lên một xã hội không
có người áp bức, bóc lột. Cảm nhận được ý nghĩa đó , hơn lúc nào hết giai cấp công
nhân và nhân dân lao động cả nướcnâng cao tinh thần đoàn kết một lòng, sẵn sàng
chiến đấu hi sinh đến cùng để giữ vững nền độc lập non trẻ vừa giành được.
Thuận lợi hết sức cơ bản nữa là nhân dân ta có đội tham mưu của giai cấp
công nhân là Đảng Cộng sản, Đứng đầu đội tiền phong của giai cấp công nhân là lãnh
tụ Hồ Chí Minh.
Đảng ta từ hoạt động bí mật ra trở thành Đảng lãnh đạo chính quyền.Chính
quyền mang bản chất của giai cấp công nhân. Vì chính quyền đó do dân cử ra. Do
Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo; tư tưởng ; quan điểm của giai cấp công nhân
được quán triệt nhằm đem lại lợi ích cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Xét trên bình diện quốc tế cũng có nhiều thuận lợi chi phối đến tình hình Cách
mạng Việt Nam, đến phong trào công nhân và công đoàn.Đó là lực lượng cách mạng
thế giới có xu thế phát triển lớn mạnh gấp nhiều lần so với trước chiến tranh thế giới
thứ 2.Trước hết là sự lớn mạnh của Nhà nước Xô Viết và sự ra đòi của hàng loạt của
các nước dân chủ nhân dân. Phong trào giải phóng thuộc địa ở các nước thuộc địa và
nửa thuộc địa phát triển mạnh mẽ, nhất là ở Châu Á .
Phong ttào giải phóng dân tộc, phong trào cộng sản và phong trào công nhân


thế giới phát triển họp thành sức mạnh to lớn dồn dập tiến công vào các thế lực đế
quốc và phản động thế giới đã có ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình cách mạng Việt
Nam và phong trào công nhân Việt Nam. Tình hình quốc tế nói trên là một trong những
căn cứ để Đảng định ra đường lối đúng đắn cho cuộc kháng chiến.
Những thuận lợi chung, cơ bản nói trên chi phối sâu sắc đến phong trào công
nhân và công đoàn trong những năm sau Cách mạng Tháng Tám thắng lợi. Xét riêng
về nội tại giai cấp công nhân, thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã đưa giai cấp công
nhân từ chỗ không có tư liệu sản xuất trở thành chủ thể của xã hội.Điều này tạo ra

bước ngoặt lịch sử quan trọng về vị trí của giai cấp công nhân trong cách mạng Việt
Nam, tạo ra thế và lực để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử là lãnh đạo
toàn dân dẹp thù trong. Gi ặc ngoài. Giữ vững độc lập tự do, hạnh phúc cho dân tộc mà
Cách mạng tháng Tám đã đem lại.
Đối với tổ chức công đoàn, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám xác lập vị trí
họp pháp của công đoàn trong pháp luật của Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa.
Đây là điều kiện đặc biệt thuận lợi và có ý nghĩa quan trọng để công đoàn thực sự trở
thành trung tâm tập hợp, đoàn kết đông đảo công nhân, lao động đấy tranh, xây dựng,
bảo vệ chính quyền cách mạng trong những năm 1945-1946.

I.2.I.2.

Những khó khăn, thử thách
Bên cạnh những thuận lợi cơ bản nói trên, chính quyên cách mạng nói chung,

phong ừào công nhân và công đoàn nói riêng còn phải đương đầu với vô vàn khó khăn
gay gắt, thử thách nặng nề.
Vào thời điểm sau Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, nước ta vẫn đứng trước khó
khăn về ngoại xâm và nội phản. Miền Bắc(từ vĩ tuyến 16 trở ra): 20 van quân Trung
Hoa dân quốc kéo vào nước ta theo sau là các Đảng phái tay sai như Việt Nam Quốc
Dân Đảng(Việt Quốc), Việt Nam cách mạng đồng chí hội(Việt Cách) hòng giành lại
chính quyền. Ở Miền Nam(từ vĩ tuyến 16 ttở vào nam) quân Anh kéo vào, dọn đường


cho Pháp quay trở lại xâm lược nước ta. Lợi dụng tình hình bọn phản động ngóc đầu
dậy làm tay sai cho Pháp chống phá cách mạng. Trên cả nước còn 6 vạn quân Nhật chờ
giải giáp, theo lệnh Anh chống cách mạng. Có thể nói, chưa bao giờ ừên đất nước ta lại
có nhiều kẻ thù xâm lược hung bạo, xảo quyệt và nhiều thế lực, đảng phái phản động
như trong những năm 1945-1946. Trong khi đó, về quan hệ quốc tế, cah mạng Việt
Nam chưa nhận được sự giúp đỡ trực tiếp của bạn bè thế giới.

Cùng với những khó khăn ừên chính quyền cách mạng còn non yếu và thiếu kinh
nghiêm lãnh đạo, quản lí nhà nước.Lực lượng vũ trang còn non yếu.
Hậu quả nặng nề của nạn đói 1945 chưa khắc phục được thì nạn lụt lớn làm
vỡ đê 9 tỉnh Bắc BỘ.Sau lụt lại hạn hán kéo dài làm 50% ruộng đất bị bỏ hoang, mùa
màng mất mát nặng, khiến nạn đói mới có nguy cơ lại đến, đe dọa hàng triệu sinh
mệnh.
về tình hình công nghiệp, trong hơn 80 năm đô hộ nước ta, thực dân Pháp đã
thực hiện chính sách bòn rút nguyên liệu của nước ta để cung cấp cho nền công nghiệp
chính quốc; bóc lột công nhân rẻ mạt của ta để thu nhiều lợi nhuận; trút sang nước ta
những thiết bị cũ kĩ dư thừa của công nghiệp chính quốc. Do vậy, sau Cách mạng
Tháng Tám thắng lợi, Nhà nước cách mạng của ta chỉ tiếp thu được một nền công
nghiệp nhỏ yếu và què quặt. Cả nước không có một cơ sở luyện kim, chế tạo máy móc
và hóa chất nào đáng kể. Riêng miền Bắc, có trên dưới 100 nhà máy lớn nhỏ với số
công nhân viên chức khoảng 85000 người, trong đó riêng khu mỏ Hòn Gai đã tập trung
tới 50000 công nhân, về công nghiệp nhẹ, tập trung nhất là công nghiệp dệt(Nam
Định), nhưng sản lượng rất thấp, chưa đủ cho mỗi người một mét vải ttong một năm.
về đời sống văn hóa, xã hộihết sức thấp kém.Hơn 90% dân số mù chữ.Cứ 100
người dân chưa được 3 người đi học mà hầu hết là ở bậc tiểu học.Trên 3 vạn người dân
mới có một học sinh cao đẳng hoặc đại học.Nghành y tế lạc hậu. Năm 1940 cả nước
chỉ có 23 bệnh viện, các bệnh truyền nhiễm lan tràn. Vừng đồng bằng bệnh đau mắt


hột lên đến 80-90% dân số.ở Miền Nam, 80-90% dân số mang bệnh sốt rét.Thêm vào
đó, các tệ nạn xã hội cờ bạc, rượu chè, mê tín dị đoan... tràn lan khắp các vùng thôn
quê, hầm mỏ, xưởng máy.
Tất cả những khó khăn, thử thách về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa đã
đặt chính quyền công nông non trẻ trước tình thế hiểm nghèo, có lúc như “ngàn cân
treo sợi tóc”. Để giữ vững thành quả Cách mạng Tháng Tám, hơn lúc nào hết, đòi hỏi
Đảng phải có đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn .Nhiệm vụ đấu tranh, xây
dựng, bảo vệ chính quyền trở thành nhiệm vụ trung tâm của giai cấp công nhân và cách

mạng Việt Nam trong những năm 1945-1946. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trọng
đại đó, Đảng phải giữ vững được quyền lãnh đạo cách mạng cho giai cấp công nhân ,
xây dựng vững chắc khối liên minh công nông, thúc đẩy phong trào công nhân làm
nòng cốt đi đầu trong các phong trào cách mạng của nhân dân.

1.2.2.

Đảng lãnh đạo phong trào công nhân và công đoàn trong thòi kì

mới(9/1945-12/1946)
1.2.2.7. Những chủ trương, đường lối của Đảng
Trong 2 năm từ 1945-1946 hàng loạt các chỉ thị nghị quyết của Đảng đã được
ban hành. Trong đó có chứa đựng những nội dung cơ bản về đường lối chủ trương,
công vận của Đảng trong tình hình mới như: “chỉ thị kháng chiến kiến quốc” ban hành
ngày 25/11/1945, “Chỉ thị về việc tổ chức kỉ niệm ngày 1/5 của Ban Thường Vụ Trung
ương Đảng” ban hành ngày 14/4/1946, Nghị quyết của Hội nghị cán bộ Trung ương(từ
31/7 đến 1/8/1946), “Công việc khẩn cấp bây giờ” (Chỉ thị viết tay của Hồ Chủ tịch
ngày 5/11/1946), “Nhiệm vụ của thợ thuyền trong lúc này” của đồng chí Trường
Chinh, đăng trên báo Cờ giải phóng ngày 17/9/1945,...
Nội dung của các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng trước hết xác định rõ vị trí,
nhiệm vu của giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn trong giai đoạn cách mạng mói.
Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” của Đảng chỉ rõ: “Nhiệm vụ cứu nước của giai cấp vô


sản chưa xong. Giai cấp vô sản vẫn phải hăng hái, kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ
thiêng liêng ấy. Khẩu hiệu vẫn là: Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên /zéV[38, tr,27].
Hội nghị cán bộ trung ương Đảng họp từ 31/7 đến 1/8/1946. Hội nghị đi đến xác
định đường lối công vận nhằm nhanh chóng tập họp lực lượng công nhân lao động vào
cuộc đấu tranh xây dựng, bảo vệ chính quyền cách mạng. Nghị quyết nêu rõ: Phải
nhanh chóng “ lập Ban công vận toàn quốc” nhằm thống nhất tổ chức trong cả nước.

Hội nghị còn chỉ rõ phải: “Đổi tên công nhân cứu quốc ra công đoàn
Để tập hợp được đông đảo mọi lực lượng công nhân lao động vào công đoàn,
Nghị quyết Trung ương Đảng còn nêu rõ, phải:
• Chú ý kéo lao động công giáo vào Tổng Liên đoàn
•Phải kéo đa số thợ vào Tổng Liên đoàn....
Vì công đoàn là tổ chức quần chúng rộng lớn nhất của giai cấp công nhân, là sợi
dây nối liền công nhân với Đảng.
Đồng chí Trường Chinh (lúc đó là Tổng bí thư của Đảng) còn nêu rõ nhiệm vụ cụ
thể của giai cấp công nhân là: “ giờ đây chính quyền đã trong tay nhân dân. Giai cấp
thợ thuyền chúng ta phải cùng đồng bào ủng hộ chính phủ lâm thời dân chủ cộng hòa;
củng cố chính quyên nhân dân, chống mọi mưu mô xâm lược[40, trl 19].
Như vậy, đường lối công vận của Đảng trong thời gian này hướng tới một mục
tiêu bao trùm là xây dựng lực lượng công nhân và công đoàn vững mạnh trở thành lực
lượng nòng cốt thực hiện nhiệm vụ cốt tử của cách mạng là: củng cố, giữ vững chính
quyền dân chủ nhân dân non trẻ vừa được thiết lập.
Đường lối, chủ trưong “kháng chiến, kiến quốc” và đường lối công vận của
Đảng là sự vận dụng sáng tạo, linh hoạt học thuyết Mác- Lênin về chiến tranh và cách
mạng vào hoàn cảnh thực tiễn của nước ta sau Cách mạng Tháng Tám thắng lợi.
Đường lối “Kháng chiến, Kiến quốc” và những chỉ thị, nghị quyết về công tác
công vận của Đảng trong những năm đầu sau Cách mạng tháng Tám còn thể hiện rõ
nét tư tưởng nhất quán của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là “con đường giải phóng


dân tộc phải là con đường cách mạng vô sản” . Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa MácLênin đã nhấn mạnh rằng, chỉ có đứng trên lập trường giai cấp vô sản và cahs mạng vô
sản mới có thể giải quyết đúng đắn vấn đề độc lập dân tộc, mới xóa bỏ triệt để tình
trạng bóc lột và áp bức giai cấp. Đối với giai câp công nhân Việt Nam, tuy vào thời
điểm sau Cách mạng Tháng Tám số lượng chưa đông, nhưng vẫn là giai cấp vô sản
công nghiệp hiện đại, là 1 bộ phận của giai cấp công nhân quốc tế mà vai trò của nó
là xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng xã hội mới không có người bóc lột người. Như
V.I.Lênin đã nói:


. .Mặc dù giai cấp công nhân ở các nước thuộc

địa tương đối ít, nhưng nó và các Đảng Cộng sản lãnh đạo nó bao giờ cũng đứng ở vị
trí tiên tiến của phong trào giải phóng dân tộc.Giai cấp công nhân có ý thức giai câp và
ý thức dân tộc hơn các giai cấp khác.Là giai cấp tiên tiến đối địch với mọi sự áp bức,
và không có những tính toán vụ lợi, giai cấp vô sản trẻ tuổi ở các nước thuộc đĩa thể
hiện tốt nhất lợi ích căn bản, thiết thân của toàn dân. Như kinh nghiệm đã chứng tỏ, đó
là lực lượng chống đế quốc triệt để nhất, là lực lượng có thể lôi cuốn được các tầng lớp
nông dân đông đảo và quần chúng lao động thành thị.”[23, tr.152].
Hơn thế, đối với giai cấp công nhân Việt Nam phần đông từ những ngưòi nông
dân bị bần cùng hóa bước vào giai cấp công nhân.Trong nhà máy, xí nghiệp, họ vừa bị
chủ tư bản bóc lột dưới nhiều hình thức siêu kinh tế, vừa chịu những áp bức phong
kiến. Do vậy, ở công nhân Việt Nam hận thù giai cấp hòa làm một vói nỗi nhục mất
nước, lòng căm thù bọn áp bức dân tộc gắn chặt với tinh thần chống phong kiến. Sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam là trên con đường giải phóng mình, giải
phóng nhân dân lao động khỏi chế độ người bóc lột người, nó phải giai phóng dân tộc
khỏi chế độ thuộc địa nửa phong kiến . Gia cấp công nhân có đội tiên phong của mình
là Đảng cộng sản Đông Dương, ngay từ khi thành lập đã công khai tuyên bố rằng:
Đảng là Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam. Điều đó có nghĩa là nhiệm vụ lịch sử
của giai cấp công nhân là đánh đổ thực dân, phong kiến đưa dân tộc tiến lên chủ nghĩa


xã hội.Ngoài giai cấp công nhân ra, không ai có thể hoàn thành được sứ mệnh lịch sử,
vẻ vang phù hợp vói quy luật phát triển của cách mạng thế giói này.
Những nội dung đường lối nhằm giữ vững Nhà nước dân chủ nhân dân do giai cấp
công nhân lãnh đạo, biến thành ý chí quyết tâm sắt đá của giai
ấp công nhân và nhân dân cả nước qua khẩu hiệu: “Thà hi sinh tất cả chứ nhất định
không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”.


1.2.2.2.

Phong trào công nhân và công đoàn dưới sự lãnh đạo của Đảng trong thời

là mói (9/1945 đến 12/1946)
Đấu tranh xây dựng chính quyền cách mạng:
Vấn đề thiết lập quyền dân chủ cho giai cấp công nhân và nhân dân là nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu trong củng cố, xây dựng chính quyền.Vì vậy, chỉ sau một ngày
nhà nước cách mạng ra đời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị chính phủ tổ chức càng
sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu.
Trong cuộc tổng tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, dưới
sự lãnh đạo của các cấp bộ Đảng từ trung ương đến cơ sở , công nhân lao động đã ừở
thành lực lượng nòng cốt tập họp đông đảo quần chúng cách mạng thành đội quân
chính trị hàng đầu , trấn áp mọi âm mưu, hành động chống phá bầu cử của kẻ thù, đưa
cuộc Tổng tuyển cử đến thắng lợi rực rỡ.
Ở các tỉnh của Miền Bắc, mặc dù phải đối phó với âm mưu khi thì tinh vi, khi
thì trắng trợn của kẻ thù, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, giai cấp công nhân và
đông đảo nhân dân vẫn tìm cách thực hiện quyền công dân của mình, đưa cuộc Tổng
tuyển cử đến thắng lợi.
Riêng ở Nam Bộ cuộc Tổng tuyển cử diễn ra dưới bom đạn ác liệt của kẻ thù.
Thực dân phản động Pháp và bè lũ tay sai đã dùng súng đạn nhằm bóp chết cuộc Tổng
tuyển cử. Dưới sự lãnh đạo của xứ ủy Nam Kì, nhân dân miền Nam ý thức rằng: Bỏ
phiếu bầu Quốc hội lúc này là thể hiện ý chí độc lập, thống nhất, kiên quyết kháng


chiến chống thực dân Pháp xâm lược, ủng hộ chính phủ Hồ Chí Minh, bảo vệ tính
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam. Vì vậy, bất chấp bom đạn,
đông đảo công nhân, lao động và mọi tầng lớp nhân dân đã đi boe phiếu. Nhiều công
nhân và cán bộ công đoàn đã anh dũng hi sinh làm nhiệm vụ tổ chức bầu cử, ừong đó
có đồng chí Nguyễn Văn Tư, ủy viên Ban Chấp hành Tổng công đoàn Nam Bộ.

Thắng lợi của Tổng tuyển cử tháng 1/1946, ngoài việc đánh dấu mốc phát
triển nhảy vọt đầu tiên về thể chế dân chủ của nước Việt Nam, nó còn là một cuộc tập
dượt động viên chính tri sâu sắc, rộng lớn, biểu thị sức mạnh không gì lay chuyển nổi
của giai cấp công nhân và nhân dân cả nước trong sự nghiệp đấu tranh, xây dựng, củng
cố, bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân.
Cùng với việc Tổng tuyển cử xây dựng chính quyền Cách mạng dưới sự lãnh
đạo của Đảng, công nhân lao động còn bắt tay vào việc triển khai các hoạt động thiết
thực góp phần xây dựng chính quyền, giữ vững ổn định ở các thành phố, khu công
nghiệp, vấn đề nóng bỏng nhất là tập trung giải quyết công ăn việc làm giảm thất
nghiệp, ổn định đời sống của công nhân lao động,qua đó từng bước phục hổi guồng
máy sản xuất.
Những chính sách mới ban hành chưa có tác dụng ngay, nhưng hào khí cách
mạng và sự cổ vũ về mặt tinh thần đã giúp giai cấp công nhân vượt qua những khó
khăn thử thách nặng nề về đời sống, ý thức rõ vị trí giai cấp tiên tiến nhất của xã hội,
có sứ mệnh lãnh đạo toàn dân xóa bỏ chế độ xã hội cũ, thiết lập một chế độ xã hội mới.
Giai cấp công nhân đã nhân thức sâu sắc về vấn đề khôi phục nền kinh tế quốc dân là
một yêu cầu cực kì quan họng đối vói sự phát triển của Cách mạng Việt Nam. Nó đã
ừở thành một trong những nội dung đấu tranh quan trọng nhất của giai cấp công nhân
và nhân dân ta vào thời điểm nóng bỏng sau Cách mạng Tháng Tám.
Dựa chắc vào sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch, hội công nhân cứu
quốc (sau này là công đoàn) đã vận động công nhân thành lập các ủy ban công nhân


cách mạng (sau trở thành ủy ban công xưởng) giám sát chủ tư bản trong việc thực hiện
các kế hoạch sản xuất, bảo đảm các quyền lợi của người lao động. Kiên quyết đấu
tranh, ngăn chặn các thủ đoạn cắt xén lương, tăng giờ làm việc, sa thải thợ cũ, tuyển
thợ mới...ừong các nhà máy cong thuộc quyền quản lí của tư bản nước ngoài, buộc
chúng phải nghiêm chỉnh thực hiện mọi chế độ, chính sách mà chính phủ đã ban hành.
Tại các xí nghiệp do công nhân tự quản, Hội công nhân cứu quốc đã phát động
phong ừào “giờ làm cứu nước” được công nhân hăng hái hưởng ứng thực hiện. Chỉ

tính trong 12 ngày đầu năm 1946, công nhân Hà Nội đã tự nguyện làm thêm hàng chục
giờ công , lấy tiền ủng hộ quỹ quốc gia.. .Tại Hải Phòng, công nhân hỏa xa trong 1
tuần đã làm được 500 “giờ cứu nước”. Tính chung, trong phong trào “giờ làm cứu
nước”, công nhân các tỉnh, thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Hòn Gai... đã
làm dược 1 triệu 20 vạn giờ, lấy tiền ủng hộ chính quyền cách mạng.
Công nhân bưu điện, bưu cục đã chủ động đảm nhận những phàn việc của
chuyên gia Pháp bỏ lại: Trước 19/8/1945, có 3869 công nhân và viên chức bưu điện
nguười Việt và 220 viên chức ngưòi Pháp, sau ngày 19/8 không còn một nhân viên
người Pháp nào trong ngành bưu điện, số công nhân Việt Nam còn lại 2382 người,
những vẫn bảo đảm công việc chạy đều, tăng hơn trước. Cụ thể, số điện tuyến đã đặt
tăng gấp 7 lần so với trước ngày Tổng khởi nghĩa tháng Tám(trước chỉ có 642km nay
tăng lên 3954km). Ngành đường sắt, thực hiện phong trào thi đua “giờ làm cứu nước”,
với ý thức trách nhiệm cao, công nhân đã khôi phục được 15 chiếc cầu, 65 đầu máy,
206 toa hàng loại 10 tấn. Tất cả đều do công nhân Việt Nam đảm nhận. Tháng 7/1946,
tuyến đường sắt Hải Phòng - Lào Cai, một tuyến đường săt huyết mạch được thông
suốt.
Thực hiện chủ trương tiêu diệt nạn đói do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động, Hội
công nhân cứu quốc vận động công nhân dân tận dụng giờ nghỉ, khai khẩn đât hoang,
tăng gia sản xuất, tư túc lương thực. Hội công nhân cứu quốc Hải Phòng đã lập các đội


×