MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài.
Ở Việt Nam Đảng cộng sản là chính Đảng duy nhất và được cầm
quyền. Đảng Cộng sản Việt Nam là đại diện cho giai cấp cơng nhân, nhân dân
lao động và của tồn thể dân tộc Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư
tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động.
Xây dựng Đảng về tư tưởng theo chỉ dẫn của V.I.Lênin là nội dung cơ
bản, quan trọng công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng; là nhiệm vụ thường
xuyên, cấp bách của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta để Đảng ln xứng
đáng với vai trị tiền phong. Xây dựng Đảng về tư tưởng là một trong bốn mặt
chủ yếu trong công tác xây dựng nội bộ Đảng. Đại hội XII của Đảng đã nhấn
mạnh: “Tập trung thực hiện mục tiêu: Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”. Theo Nghị quyết số 35-NQ/TW,
ngày 22/10/2018 của Bộ chính trị “ về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình
mới” đã xác định: “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là bảo vệ Đảng,
Cương lĩnh chính trị, đường lối của Đảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ cơng cuộc đổi mới, cơng nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân
tộc; giữ gìn mơi trường hịa bình, ổn định để phát triển đất nước”. Công tác
xây dựng Đảng về tư tưởng giữ vai trò quan trọng trong việc xây dựng, chỉnh
đốn Đảng cũng như phát triển của đất nước.
Chú trọng công tác tư tưởng trong Đảng theo chỉ dẫn của Lênin chính
là thực hiện tốt nhiệm vụ nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn và đưa ra
những luận cứ khoa học đúng đắn để xây dựng cương lĩnh, đường lối; giáo
dục, truyền bá, cổ động cho hệ tư tưởng chính sách của Đảng, tạo ra sự thống
nhất trong nhận thức và tự giác hành động; xây dựng đội ngũ làm công tác tư
tưởng và cơ quan ngôn luận của Đảng; phê phán các nhận thức lệch lạc, đấu
tranh chống mọi âm mưu xuyên tạc, chống các quan điểm sai trái của thế lực
thù địch trong và ngoài nước,..
Ngay từ khi mới thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chú trọng
công tác xây dựng Đảng về tư tưởng phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng đường lối đúng đắn, đề ra những chủ
trương, chính sách phù hợp, lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành thắng lợi
trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng, bảo vệ và phát triển
đất nước ngày càng vững mạnh, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Trong quá trình xây dựng và trưởng thành, trên cơ sở định
hướng tư tưởng đúng đắn là điều kiện quan trọng nhất đảm bảo thực hiện
thắng lợi đường lối cách mạng của Đảng; là mục tiêu hàng đầu có ý nghĩa
sống cịn đối với công tác tư tưởng của Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức được vai trị, vị trí, tầm quan
trọng của công tác tư tưởng, coi công tác tư tưởng là một lĩnh vực đặc biệt
quan trọng để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Cùng với việc nhận
thức được vai trò quan trọng cuả xây dựng Đảng về tư tưởng và nhận thức
được công tác xây dựng Đảng về tư tưởng của Đảng ta đã đạt được nhiều hiệu
quả tích cực, nhưng bên cạnh đó cơng tác tư tưởng ở một số nơi, có lúc thiếu
tính kịp thời, chưa sắc bén, tính thuyết phục chưa cao, hình thức truyền bá tư
tưởng chưa phong phú,...Vì vậy, để làm rõ nội dung xây dựng Đảng của Đảng
Cộng sản Việt Nam, những hiệu quả của việc xây dựng đảng về tư tưởng,
những hạn chế và khắc phục hạn chế, từ đó đưa ra phương hướng, biện pháp
xây dựng Đảng về tư tưởng và sự vận dụng công tác xây dựng Đảng về tư
tưởng vào thực tiễn nên tôi chọn đề tài “Nội dung xây dựng Đảng về tư
tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự vận dụng của Đảng bộ
tỉnh/huyện/cơ sở...hiện nay”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
2.1. Mục đích nghiên cứu.
Làm rõ thực trạng công tác xây dựng Đảng về tư tưởng, phân tích và
làm rõ nội dung xây dựng Đảng về tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam và
từ đó chỉ ra sự vận dụng của Đảng bộ tỉnh/huyện/cơ sở...hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Xây dựng cơ sở lý thuyết cho đề tài
- Khảo sát và phân tích thực trạng của cơng tác xây dựng Đảng về tư
tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Làm rõ nội dung công tác xây dựng Đảng về tư tưởng
- Đề xuất những giải pháp, phương hướng xây dựng Đảng về tư tưởng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là nội dung xây dựng Đảng về tư
tưởng và sự vận dụng của Đảng bộ tỉnh/huyện/cơ sở...hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu.
Đề tài tập trung nghiên cứu nội dung xây dựng Đảng về tư tưởng của
Đảng Cộng sản Việt Nam của một số tổ chức Đảng
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
4.1. Cơ sở lý luận của đề tài.
Đề tài được xây dựng trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng
Đảng; các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác xây dựng Đảng về tư
tưởng
4.2. Phương pháp nghiên cứu.
Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tiểu luận sử
dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của Khoa học xã hội và nhân
văn: Kết hợp logic với lịch sử, phân tích, tổng hợp,...
5. Kết cấu của tiểu luận.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì tiểu
luận gồm 4 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận của đề tài nghiên cứu.
Chương 2: Nội dung xây dựng Đảng về tư tưởng của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Chương 3: Mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng đảng về tư
tưởng.
Chương 4: Sự vận dụng của Đảng bộ tỉnh/huyện/cơ sở..
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm tư tưởng, hệ tư tưởng.
* Khái niệm tư tưởng
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: tư tưởng là quan điểm và ý nghĩ chung
của con người đối với hiện thực khách quan và đối với xã hội, ví dụ: đổi mới
tư tưởng, tư tưởng tiến bộ, hệ tư tưởng nho giáo.
Từ điển Triết học định nghĩa: “tư tưởng là sự phản ánh hiện thực trong
ý thức, là biểu hiện của con người với thế giới xung quanh”.
Tư tưởng là sự phản ánh của hiện thực trong ý thức, biểu thị những lợi
ích ít nhiều có tính phổ biến của con người, của xã hội. Tư tưởng là hình thức
phản ánh thế giới bên ngồi, được thơi thúc bởi mục đích, bởi ý thức rõ ràng
về những ích lợi, triển vọng của nhận thức đó nhằm và việc cải tạo thế giới
bên ngồi; là sự phản ánh thế giới khách quan, phản ánh bản chất sâu kín, bên
trong sự vật, hiện tượng. Thơng qua những kinh nghiệm do thực tiễn mang
lại, thông qua những tri thức đã được tích lũy trong lịch sử, tư tưởng có khả
năng khái quát hóa, trừu tượng hóa để hiểu sâu sắc hơn bản chất sự vật, thể
hiện dưới dạng các khái niệm, phạm trù, nguyên lý...trong xã hội có giai cấp,
tư tưởng gắn liền với giai cấp, hay nói đúng hơn,gắn liền với lợi ích giai cấp.
Theo C.Mác tư tưởng phải gắn với lợi ích, tư tưởng khơng gắn với lợi ích là
điều hết sức vơ nghĩa.
Như vậy, có thể quan niệm: tư tưởng là ý niệm, quan điểm phản ánh
tương đối khái quát hiện thực trong ý thức, biểu thị những lợi ích ít nhiều có
tính phổ biến của con người. Độ chính xác, tính khoa học có thể kiểm nghiệm
được của các khái niệm, phạm trù, nguyên lý, ý niệm, quan điểm là minh
chứng đánh giá chân lý của các tư tưởng. Song, tư tưởng không chỉ là sự phản
ánh thế giới khách quan mà tư tưởng còn xác định con đường để cải tạo thế
giới khách quan phục vụ cho nhu cầu của con người.
Trong quá trình phản ánh đó, tư tưởng có những đặc trưng cơ bản sau
đây:
Một là, hình thức phản ánh của tư tưởng là chủ quan, nhưng nội dung
phản ánh là khách quan.
Hai là, tư tưởng có tính độc lập tương đối so với thế giới khách quan và
có tác động trở lại thế giới khách quan.
Ba là, tư tưởng gắn với lợi ích con người.
Bốn là, tư tưởng ln có chủ thể xác định.
Năm là, tư tưởng có thể được phân loại dưới nhiều hình thức khác
nhau.
* Hệ tư tưởng:
Theo từ điển Tiếng Việt: hệ tư tưởng là hệ thống tư tưởng và quan
điểm, thường phản ánh quyền lợi cơ bản khác nhau của các giai cấp, tầng lớp
xã hội.1
Đó là những quan điểm, quan niệm về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, pháp - quyền, tôn giáo, đạo đức, thẩm mĩ, triết học thuộc ý thức xã hội,
mang bản chất giai cấp và kim chỉ nam cho hành động của một giai cấp, tầng
lớp nhất định trong xã hội.
Là một yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng xã hội, hệ tư tưởng có những
đặc điểm riêng: chỉ gắn với giai cấp giữ địa vị thống trị, hoặc đại diện cho
một hình thế kinh tế- xã hội; phản ánh lợi ích của giai cấp thơng qua lăng
kính của các nhà tư tưởng đại diện cho giai cấp; mang tính khái quát, trừu
tượng cao và có tính ổn định tương đối; bao gồm hệ thống các tư tưởng: chính
trị, tơn giáo, đạo đức... trong đó tư tưởng chính trị là cốt lõi.
Hệ tư tưởng chính trị là hệ thống lý luận, quan điểm của một giai cấp,
một chính đảng nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp đó, được biểu hiện thành các
quan điểm chính trị, cụ thể hóa trong cương lĩnh đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Chính đảng của giai cấp cầm quyền luôn truyền bá hệ tư tưởng của giai
cấp thống trị trở thành hệ tư tưởng của xã hội, chiếm địa vị thống trị trong đời
sống tinh thần xã hội, được nhân dân ủng hộ, tin theo. Quá trình sáng tạo hệ
tư tưởng gồm 3 quá trình chủ yếu: quá trình hình thành hệ tư tưởng; quá trình
truyền bá, giáo dục hệ tư tưởng trong Đảng và trong xã hội và quá trình biến
tư tưởng thành hiện thực.
Hệ tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay là: chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.1.2. Công tác tư tưởng của Đảng
“Công tác tư tưởng là hoạt động lãnh đạo quan trọng hàng đầu của
Đảng trong việc: phát triển hệ tư tưởng của Đảng; nghiên cứu lý luận, tổng
kết thực tiễn, góp phần hình thành quan điểm, đường lối, chính sách của
Đảng; truyền bá giáo dục hệ tư tưởng đường lối chủ trương của Đảng, chính
sách pháp luật của nhà nước nhằm hình thành thế giới quan, phương pháp
nhận thức khoa học cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, tạo sự
thống nhất tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận tư tưởng giữa Đảng với nhân
dân, cổ vũ động viên tinh thần sáng tạo của nhân dân thực hiện thắng lợi
đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước; đấu tranh
chống thế lực thù địch trên mặt trận tư tưởng; góp phần xây dựng nền văn hóa
mới, con người mới xã hội chủ nghĩa; quảng bá hình ảnh tươi đẹp của đất
nước, con người Việt Nam, đường lối chủ trương của đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra cộng đồng quốc
tế”
1.1.3. Khái niệm xây dựng Đảng về tư tưởng.
Theo Từ điển Tiếng Việt, xây dựng là làm cho hình thành một chỉnh
thể về xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa theo một phương hướng nhất định.
Tập bài giảng chương trình cao cấp lý luận chính trị- hành chính Học
viện Chính trị- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh viết: “ Xây dựng Đảng về
tư tưởng là xây dựng nền tưởng của Đảng, tạo sự thống nhất về mục tiêu, lý
tưởng, về đường lối , chính sách, về hành động; xây dựng nền tảng đạo đức
vững chắc của Đảng thể hiện trong nội bộ mặt tinh thần của cán bộ, đảng
viên; làm cho lý tưởng đạo đức của Đảng trở thành giá trị chung, trở thành
động lực phát triển của toàn xã hội”
Xây dựng Đảng về tư tưởng là xây dựng và bảo về tư tưởng của Đảng;
truyền bá, giáo dục hệ tư tưởng đó, giáo dục lý luận chính trị, tạo sự thống
nhất tư tưởng và hành động trong toàn Đảng; đấu tranh chống tư tưởng sai
trái thù địch góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Chủ thể của xây dựng Đảng được xác định là toàn Đảng, từ Trung ương
Đảng đến từng Đảng viên, trong đó trực tiếp chủ yếu là Bộ Chính trị, Ban Bí
thư; cấp ủy Đảng các cấp; đảng đoàn, ban cán sự đảng và các chi bộ.
Đối tượng của xây dựng Đảng vể tư tưởng là toàn thể đội ngũ đảng
viên của Đảng.
Nội dung xây dựng Đảng về tư tưởng bao gồm: xây dựng nền tảng tư
tưởng của Đảng; giáo dục nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đảng viên;
nghiên cứu bổ sung phát triển lý luận, tổng kết thực tiễn; tạo sự thống nhất về
tư tưởng, làm cơ sở để xây dựng khối đồn kết, thống nhất về ý chí và hành
động trong toàn Đảng và đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng.
1.2. Thực trạng xây dựng Đảng về tư tưởng
Trong điều kiện thế giới biến đổi khó lường, nhiều vấn đề nảy sinh
trong quá trình đổi mới, các thế lực thù địch ra sức tấn cơng vào nền tảng tư
tưởng của Đảng thì việc bảo vệ và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành nhiệm vụ hàng đầu của cơng tác chính trị, tư
tưởng và lý luận của toàn Đảng và toàn dân ta. Việc đảng ta khẳng định chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng là
bước phát triển quan trọng trong tư duy của Đảng ta.
Trong những năm qua công tác tư tưởng của Đảng đã đáp ứng ngày
càng tốt hơn yêu cầu của công việc xây dựng, cụ thể hóa và phát triển đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước và yêu cầu xây dựng con người về mặt
hình thái ý thức xã hội, nhất là việc hình thành thế giới quan khoa học, tăng
cường sự nhất trí tư tưởng trong Đảng và xã hội trên một tầm cao mới...
Công tác tư tưởng luôn nắm vững mục tiêu và các định hướng lớn của
cách mạng và bản thân cơng tác tư tưởng. Khi cách mạng gặp nhiều khó
khăn, thử thách gay gắt, hoặc đứng trước những diễn biến phức tạp của tình
hình, Đảng đã kịp thời có định hướng tư tưởng, chính trị đúng đắn , uốn nắn
nhận thức lệch lạc, chống những luận điệu thù địch, tạo cơ sở cho sự thống
nhất tư tưởng và hành động tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân.
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được Đảng ta đặc biệt coi trọng,
triển khai thực hiện toàn diện, đồng bộ với quyết tâm chính trị cao, nỗ lực
lớn, hành động quyết liệt và đạt được hiệu quả rõ rệt. Trong đó cơng tác xây
dựng Đảng về tư tưởng tiếp tục được tăng cường, đã góp phần nâng cao nhận
thức, củng cố sự đoàn kết và thống nhất trong Đảng và đồng thuận trong xã
hội: Cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng, học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục được đẩy mạnh với nội dung, hình thức đa dạng,
phong phú hơn. Tư duy lý luận của Đảng có bước phát triển, hệ thống lý luận
về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam tiếp tục được bổ sung, phát triển. Công tác tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định
đường lối chủ trương chính sách của Đảng. Cơng tác đào tạo, bồi dưỡng lý
luận chính trị được đổi mới về nội dung và phương pháp; tăng cường công tác
quản lý, kỷ luật trong giảng dạy, học tập; chất lượng đào tạo bồi dưỡng được
nâng lên; từng bước khắc phục tình trạng lười học, ngại học lý luận chính trị,
dạy và học hình thức. Nâng cao nhận thức, ý chí hành động trong cán bộ đảng
viên nhất là trong đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực,
ngăn chặn đẩy lùi suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Việc bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái,
thù địch được lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, chuyển biến tích cực.
Mặc dù vậy công tác tư tưởng ở nhiều nơi, nhiều lúc chưa kịp thời,
chưa sắc bén, chưa có tính thuyết phục cao; việc giáo dục chính trị, tư tưởng
cho cán bộ, đảng viên còn còn chưa được thực hiện đầy đủ. Công tác thông
tin, tuyên truyền về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước có lúc chưa kịp thời, hình thức cịn rất máy móc, thiếu tính linh
hoạt. Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch nhiều lúc còn bị
động, lúng túng; việc nắm bắt, định hướng dư luận xã hội chưa kịp thời hoặc
còn chậm. Kết quả thực hiện một số chủ trương, chính sách của Đảng về quản
lý báo chí, truyền thơng, xuất bản, quản lý các trang mạng xã hôi, internet
chưa đáp ứng yêu cầu trong thời đại mới. Vai trị của văn học nghệ thuật
trong cơng tác chưa được phát huy đầy đủ. Công tác tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận chính trị chưa được quan tâm nhiều, chưa đáp ứng được
yêu cầu; một số vấn đề mới, khó, phức tạp do thực tiễn đặt ra chưa được sáng
tỏ.
1.3.Thời cơ, thuận lợi, khó khăn và thách thức trong xây dựng Đảng về
tư tưởng.
- Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tạo sự
phát triển mạnh mẽ về kinh tế nhưng cũng gây tình trạng phân hóa giàu
nghèo, giá trị tư tưởng, đạo đức thay đổi, lối sống thực dụng....
- Quá trình mở cửa hội nhập quốc tế thu hút nguồn đầu tư, khoa học kỹ
thuật hiện đại...để đất nước phát triển. Nhưng kèm theo đó là sự thâm nhập
của hệ tư tưởng mới, văn hóa, lối sống sai lệch.
- Hệ thống pháp luật nước ta đang dần được hoàn thiện nhưng chưa
đồng bộ, còn nhiều kẽ hở, dễ bị lợi dụng vì lợi ích cá nhân, gây khó khăn cho
cơng tác xây dựng và lãnh đạo của đảng...
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG XÂY DỰNG ĐẢNG VỀ TƯ TƯỞNG CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
2.1. Vai trò xây dựng Đảng về tư tưởng.
2.1.1. Góp phần nâng cao vai trị tiên phong của Đảng.
Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân nhân
dân lao động và cả dân tộc để xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp và dân
tộc Đảng phải làm tốt công tác xây dựng đảng và chính trị tư tưởng tổ chức
và đạo đức trong đó xây dựng đảng về tư tưởng là vấn đề đặt lên hàng đầu.
Tiên phong về lý luận là biểu hiện tập trung nhất tính tiên phong của
đảng công tác đến mức của đảng trong những năm qua đã góp phần cung cấp
cơ sở khoa học trong việc tìm lời giải đáp đúng đắn kịp thời giải quyết có
hiệu quả những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn. Sau 30 năm đổi mới, nhiều vấn
để lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
đã được làm sáng tỏ hơn. Đây là cơ sở để toàn Đảng, toàn dân tiếp tục vững
tin và củng cố quyết tâm để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Tiên phong về lý luận không chỉ là yếu tố quyết định tư cách, tính chất
của Đảng và vấn đề chất lượng đội ngũ đáng viên mà còn tác động tới vai trò
lãnh đạo của Đảng. Đảng đỏi hỏi đảng viên và cán bộ phải: Học, hiểu lý luận,
chính sách, tình hình trong nước và trên thế giới để giáo dục quần chúng...
Phải nắm vững chính sách của Đảng và Chính phủ, đi theo đường lối quần
chúng như thế mới xứng đáng là đảng viên và cán bộ của Đảng, có như vậy
mới có thể lãnh đạo được nhân dân.
Trong xây dựng Đảng về tư tưởng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định,
phải học tập lý luận Mác-Lênin. Do đó, Đảng cần phải giáo dục và yêu cầu
đảng viên ra sức học tập lý luận, mở rộng tự phê bình và phê bình, đấu tranh
với những tư tưởng phi Vơ sản.
2.1.2. Góp phần thực hiện dân chủ, thống nhất ý chí và hành động
trong Đảng
Làm tốt xây dựng Đảng về tư tưởng góp phần thực hiện dân chủ thống
nhất ý chí và hành động trong Đảng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln
coi sự thống nhất về tư tưởng, về hành động là nguồn sức mạnh to lớn của
Đảng. Người khẳng định: Nếu đảng viên tư tưởng và hành động khơng nhất
trí, thì khác nào một mớ cắt rời, "trống đánh xi, kèn thổi ngược". Như vậy,
thì khơng thể lãnh đạo quần chúng, không thể làm quần chúng tin theo, không
thể làm cách mạng.
Thực hành dân chủ trong Đảng là chìa khóa giải đáp mọi vướng mắc tư
tưởng của đảng viên nảy sinh, tồn tại trong thực tiễn. Thông qua sinh hoạt
đảng, mọi đảng viên thực hiện tự phê bình và phê bình, phản ánh tâm tư, tình
cảm, những vấn đề còn băn khoăn, vướng mắc. Qua trao đổi, tranh luận, thảo
luận đi đến thống nhất về tư tưởng trong tổ chức đảng, tạo ra sự gắn kết tình
đồng chí, bảo đảm Đảng là một khối thống nhất về tư tưởng, ý chí và hành
động.
2.1.3. Góp phần bảo vệ, phát triển hệ tư tưởng của Đảng
Ph.Ăngghen cho rằng cuộc đấu tranh giữa các giai cấp với nhau không
chỉ diễn ra trên lĩnh vực kinh tế, chính trị mà trước hết và quan trọng nhất là
cuộc đầu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận. Đấu tranh tư tưởng, lý luận
mang tính phố biến, bởi vì khơng chỉ có các giai cấp, các chính đảng mà cả
những tổ chức tơn giáo cũng đấu tranh quyết liệt với nhau để khẳng định và
mở rộng phạm vi ảnh hưởng của mình. Đấu tranh tư tưởng là một tất yếu
khách quan của lịch sử để khẳng định sử mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân
cùng với hệ tư tưởng của nó.
Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được xác định là nền
tảng tư tưởng, là kim chi nam cho mọi hành động của Đảng. Do đó, đây là
một trọng điểm chống phá của các thể lực thù địch, phản động. Phản bác lại
những luận điệu xuyên tạc, chống phá của kẻ thù trên mặt trận tư tưởng là
cuộc chiến cực kỳ gay go, phức tạp và quyết liệt, địi hải phải có trình độ lý
luận, trình độ trí tuệ cao. Đấu tranh tư tưởng không chỉ nhằm củng cố vững
chắc trận địa tư tưởng hằng ngày, hằng giờ, mà cịn có tầm chiến lược, góp
phần quyết định trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, của Nhà nước,
của chế độ; xây dựng và bảo vệ cơ sở lý luận, đường lồi cách mạng, xác định
hướng đi và dẫn dắt quần chúng nhân dân; ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện
“tự diễn biến", “tự chuyển hóa" trong Đảng; làm thất bại chiến lược “diễn
biến hịa bình" của các thế lực thù địch.
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định nhiệm vụ xây dựng Đảng về tư
tưởng tưởng hiện nay là đấu tranh kiên quyết, không khoan nhượng với kẻ
địch để bảo vệ học thuyết Mác-Lênin, các nguyên lý khoa học của chủ nghĩa
Mác-Lênin đã được lịch sử thừa nhận, trong đó cần tập trung bảo vệ và phát
triển ba học thuyết nền tàng của chủ nghĩa Mác là học thuyết về giá trị thặng
dư, học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội, học thuyết về sứ mệnh lịch sử củ
giai cấp vô sản.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng Đảng về tư tưởng là phải
đấu tranh bảo vệ tự tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, làm
cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự là nền tảng tư tưởng
trong Đảng. Xây dựng Đảng về tư tưởng góp phần quyết định nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, bảo đảm cho Đảng dù sức gánh vác
trọng trách mà nhân dân giao phó, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị.
2.1.4. Góp phần dự báo và định hướng tư tưởng trong Đảng
Xây dựng Đảng về tư tưởng là một mặt hoạt động quan trọng trong
công tác xây dựng nội bộ Đảng. Muốn đánh thắng kẻ thù giai cấp thì trước
hết và quan trọng nhất là phải thắng trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận. Trên lĩnh
vực này, hệ tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam đưoc xác định là học
thuyết Mác- Lênin, tưởng Hồ Chí Minh - hệ tư tưởng cách mạng và khoa học
- nhân tố đầu tiên đảm bảo sự thắng lợi cùa cách mạng. Tuy nhiên, thực tế, có
chiến thắng được kẻ thù hay khơng cịn phụ thuộc vào hình thức, phương
pháp xây dựng Đảng về tư tưởng, có làm cho hệ tư tưởng đó giữ vai trị thống
trị đời sống tinh thần xã hội hay không. Điều quan trọng là phải dự báo được
những diễn biến tư tưởng trong Đảng, những âm mưu, thủ đoạn của kẻ địch
để có khả năng định hướng tư tưởng trong Đảng.
Trong tiến trình hội nhập quốc tế, đa dạng hóa các mối hệ đối ngoại,
bối cảnh tồn cầu hóa kinh tế đã kéo theo tồn cầu hóa trên các lĩnh vực khác
của đời sống xã hội, trong đó có thơng tin truyền thơng. Khi thông tin ngày
càng nhiều, hướng tiếp cận ngày càng đa dạng, tính chất thơng tin ngày càng
phức tạp... sẽ tác động đến đội ngũ cán bộ, đảng viên cả chiều hướng tích cực
và tiêu cực. Trong Đảng có thể hình thành nên những luồng tư tưởng khác
nhau, không thống nhất, thậm chí trái chiều. Vì vậy, cần nắm vững và dự báo
diễn biến tư tưởng trong Đảng một cách chủ động, chính xác, kịp thời để xác
định nội dung, hình thức, phương pháp xây dựng và đấu tranh tư tưởng có
hiệu quả.
Kinh nghiệm lịch sử cách mạng Việt Nam cho thấy, ở những bước
ngoặt của cách mạng, hoặc khi tình hình thực tiễn diễn biến phức tạp, cần
sớm có định hướng chính tư tưởng. Lúc nào chậm chạp, chập chờn thì tư
tưởng một bộ phận khơng nhỏ sẽ chao đảo. Trái lại, hễ chớm nở những biểu
hiện dao động mà uốn nắn ngay, nhất là khi bộ chỉ huy của tồn Đảng nhất trí
cao, cách xử lý kịp thời thì tồn Đảng, tồn xã hội sẽ nhanh chóng ổn định tư
tưởng. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền, do đó mà tư
tưởng của Đảng cũng chính là tư tưởng được phổ biến trong toàn xã hội. Khi
tư tưởng trong Đảng được thống nhất, tư tưởng trong xã hội cũng thông suốt,
là cơ sở bảo đảm cho Đảng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng thành công với sự
ủng hộ, góp sức của nhân dân.
2.2. Nội dung xây dựng Đảng về tư tưởng
2.2.1. Xây dựng nền tảng tư tưởng của Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chi nam cho hành động.
Xây dựng đảng về tư tưởng, trước hết là xây dựng nền tảng tư tưởng
của Đảng chính là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chi Minh. Những vấn
đề lý luận về xây dựng Đảng đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa MácLênin đưa ra, được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa, bổ sung, vận dụng vào
thực tiễn cách mạng Việt Nam. Trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến
phức tạp, khó lường, từ sau sự sup đổ của mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Liên
Xô và Đông Âu, các thế lực thù địch sử dụng chiến lược "diễn biến hịa bình"
tấn cơng vào Đảng, Nhà nước và chế độ ta do đó, cần có sự nghiên cứu, phát
triển về mặt lý luận, đồng thời phải kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, tiếp tục xây dụng vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.
2.2.2. Giáo dục nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ đảng
viên của Đảng
Cơng tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên một trong
những nội dung quan trọng trong xây dựng Đảng về tư tưởng. Trong Diễn văn
khai mạc lớp học lý luận khóa I Trường Nguyễn Ái Quốc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh nói: “Trong Đảng ta trình độ lý luận cịn thấp kém, khơng ai có thể tự
xưng mình là giỏi lý luận. Do đó phải nêu cao tinh thần khiêm tốn, thật thà.
Đào sâu suy nghĩ khi nghiên cứu các tác phẩm của Mác-Lênin”. Người cho
rằng, cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ nghiên cứu lý luận nói riêng, khi
nghiên cứu lý luận phải gắn chặt với thực tiễn, hướng đến mục đích thực tiễn.
Khi nghiên cứu lý luận phải có tư duy độc lập, sáng tạo, tránh giáo điều, máy
móc.
2.2.3. Nghiên cứu, bổ sung phát triển lý luận, tổng kết thực tiễn
Hồ Chí Minh khẳng định: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một
nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Thực tiễn khơng có lý luận
hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực
tiễn là lý luận suông". Như vậy, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn phải
được hiểu trên tinh thần biện chứng: thực tiễn cần tới lý luận soi đường, dẫn
dắt, chỉ đạo, hướng dẫn, định hướng để khơng mắc phải bệnh kinh nghiệm,
cịn lý luận phải dựa trên cơ sở thực tiễn, phản ánh thực tiễn và phải luôn liên
hệ với thực tiễn, nếu không sẽ mắc phải bệnh giáo điều. Nghĩa là thực tiễn, lý
luận cần đến nhau, nương tựa vào nhau, hậu thuẫn, bổ sung cho nhau.
Để quán triệt tốt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm
ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều có hiệu quả thi
phải khơng ngừng hoc tập lý luận, nâng cao trình độ lý luận. Khi có lý luận
thì phải vận dụng vào thực tiễn, phải biết tổng kết thực tiễn để làm giàu lý
luận bằng những kinh nghiệm thực tiễn mới. Chi thơng qua quy trình như vậy
thì lý luận mới gắn với thực tiễn, mới không trở thành giáo điều. Đông thời,
thực tiễn mới sẽ được chỉ đạo bởi lý luận, sẽ khơng bị mị mẫm, vấp váp, hay
chệch hướng. Như vậy thì bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều cũng khơng
cịn chỗ đứng.
2.2.4. Xây dựng sự thống nhất về tư tưởng, làm cơ sở để dựng khối
đoàn kết, thống nhất về ý chí và hành động trong tồn Đảng
Từ thực tiễn lịch sử đất nước nói chung, lịch sử phát triển của cách
mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng nói riêng, Hồ Chí Minh đã khẳng định:
“Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết. Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng.”
Để có đồn kết, giữa các bộ phận hợp thành chỉnh thể phải có cái chung, cái
đồng nhất, cái giống nhau - đó là cơ sở liên kết, cố kết giữa người với người,
tổ chức với tổ chức,... trên nền tảng đó mà có được sự thống nhất tư tưởng và
hành động. Đối với Đảng ta, dân tộc ta lúc này, cái chung, cái thống nhất đó
chính là hệ tư tưởng chính trị, mục tiêu chính trị, mục đích vì dân vì nước; vì
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng
bằng, văn minh.
Có được sự thống nhất về tư tưởng là tiền đề để kết, thống nhất trong
Đảng - yếu tố quyết định sức mạnh và uỷ thế của Đảng. Song, thống nhất tư
tưởng khơng có nghĩa hịan tồn loại trừ mọi khác biệt, trong Đảng hồn tồn
khơng có ý kiến khác nhau. Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất
nước Việt Nam chưa có tiền lệ trong lịch sử dân tộc , do đó chúng ta phải vừa
làm vừa tổng kết rút kinh nghiệm để từng bước hoàn thiện lý luận về chủ
nghĩa xã hội cho phù hợp xu thế thời dại và đất nước. Trong bối cảnh đó,
trong Đảng có ý kiến khác nhau là bình thường và tự nhiên. Qua trao đổi,
tranh luận trên cơ sở thực tiễn, chân lý được phát hiện và nhận thức đúng sẽ
trở thành tư tưởng chủ đạo trong Đảng, tạo thành sự đồng thuận trong nhân
dân.
2.2.5. Đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, bảo vệ nên tảng tư tưởng
của Đảng
Về thế giới quan, hệ tư tưởng của giai cấp vô sản phải đấu tranh chống
lại quan điểm duy tâm, quan điểm duy vật tầm thường về sự phát triển nói
chung, về sự phát triển xã hội nói riêng. Về phương pháp luận, phải đấu tranh
chống lại phương pháp tư duy siêu hình, chiết trung, ngụy biện. Về tư tưởng
chính trị, phải đấu tranh chống lại chủ nghĩa cải lương, tư tưởng phiêu lưu
mạo hiểm, xét lại, cơ hội hữu và tả khuynh... dưới mọi biểu hiện, mọi biến
dạng của chúng.
Ngày nay, khi tình hình thế giới đang có nhiều diễn biến phức tạp,
những thành tựu mới nhất của khoa học công nghệ, đặc biệt của công nghệ
thông tin đã làm cho cuộc đấu tranh tư tưởng diễn ra với cả chiều rộng và
chiều sâu chưa từng thấy. Nếu Đảng Cộng sản Việt Nam khơng tiến hành đấu
tranh có hiệu quả trên lĩnh vực này, sự kiên định tư tưởng trong Đảng sẽ có
nguy cơ bị lung lay, vai trị lãnh đạo của Đảng khó bề giữ vững, phát triển
thậm chí có thể bị thủ tiêu.
Ở nước ta hiện nay, phải đấu tranh bác bỏ những luận điện sai trái, đấu
tranh chống sự phá hoại của các thế lực thù địch trước hết là những luận điệu
xuyên tạc chủ nghĩa Mác-Lênin, tự tưởng Hồ Chí Minh; xuyên tạc đường lối
phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phá hoại khối đại đoàn
kết tồn dân tộc, phá hoại mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng và nhân
dân; phá hoại đoàn kết thống nhất trong Đảng
2.3.Một số vấn đề bổ sung trong đại hội XIII của Đảng
Tăng cường giáo dục truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng; tuyên
truyền sâu rộng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước gắn với đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, tạo chuyển biến
mạnh mẽ về nhận thức của các cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã
hội và nhân dân; khơng ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ,
đảng viên. Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tệ quan liêu, lối
sống cơ hội, thực dụng, bè phái, nói khơng đi đôi với làm trong cán bộ, đảng
viên. Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường
xuyên đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; chủ động cung cấp
thông tin kịp thời, chính xác, khách quan, đúng định hướng để phịng, chống
“diễn biến hịa bình”, các thơng tin xấu, độc trên internet và mạng xã hội.
Thực hiện tốt việc quy hoạch các cơ quan báo chí phù hợp với tình hình
mới; tập trung đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý báo chí, phóng viên,
biên tập viên có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực, nghiệp vụ
giỏi để nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền; phát huy hơn nữa vai trò của
văn học - nghệ thuật trên mặt trận tư tưởng; đẩy mạnh ứng dụng thành tựu
khoa học - công nghệ để phục vụ cho công tác tuyên truyền, bảo đảm an ninh
tư tưởng trên môi trường không gian mạng.
Nâng tầm tư duy lý luận của Đảng. Tập trung nghiên cứu các vấn đề lý
luận mới, khó, phức tạp, nhạy cảm phát sinh từ thực tiễn hoặc tồn tại trong
thời gian dài; những vấn đề chưa rõ về cơ sở lý luận, còn ý kiến khác nhau thì
mạnh dạn thí điểm, tổng kết kịp thời để có kết luận nhằm thống nhất nhận
thức trong Đảng; tạo cơ chế, mơi trường thuận lợi và bố trí nguồn lực cần
thiết cho nghiên cứu lý luận. Có cơ chế, chính sách thu hút, sử dụng, đãi ngộ
các chuyên gia đầu ngành.
Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục lý luận chính
trị theo hướng khoa học, sáng tạo và hiện đại. Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa
học tập lý luận với rèn luyện, thử thách cán bộ trong thực tiễn; khắc phục tình
trạng ngại học, lười học lý luận chính trị trong cán bộ, đảng viên. Quan tâm
chăm lo xây dựng, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống các trường
chính trị; thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất, năng lực của đội ngũ
giảng viên chính trị, báo cáo viên.
Trong tình hình hiện nay, tăng cường đội ngũ, giáo dục rèn luyện cán
bộ, đảng viên để có đội ngũ cán bộ trong sạch, vững mạnh.
Để giáo dục, rèn luyện cán bộ Đảng viên trong sạch, vững mạnh các
cấp ủy Đảng phải: vừa “xây” vừa “chống”:
- “Xây” là xây dựng, nuôi dưỡng bồi đắp làm cán bộ đảng viên trong
sạch, vững mạnh. Phải thực hiện phương châm: 8 xin, 6 phải, 4 xin, 3T
“8 dân”: trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với
dân, lắng nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin
“6 phải”: óc phải nghĩ, mắt phải trơng, tai phải nghe, chân phải đi,
miệng phải nói, tay phải làm.
“4 xin”: xin chào, xin lắng nghe, xin lỗi, xin cảm ơn. “3T”: tâm, tầm,
tài.
- “Chống”: là chống những thói hư tật xấu như: tham ơ, lãng phí, quan
liêu, cửa quyền, giả dối, vơ trách nhiệm, suy thối chính trị, tư tưởng, đạo đức
lối sống của cán bộ đảng viên. Chống chủ nghĩa cá nhân trong cán bộ đảng
viên.
CHƯƠNG 3: MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN XÂY
DỰNG ĐẢNG VỀ TƯ TƯỞNG.
3.1. Mục tiêu xây dựng Đảng về tư tưởng.
- Xây dựng Đảng về tư tưởng phải góp phần tích cực vào việc thực hiện
thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng; củng cố, tăng cường sự thống nhất
về tư tưởng, chính trị trong Đảng, sự đồng thuận về chính trị và tinh thần
trong nhân dân, giữ vững và mở rộng trận địa tư tưởng của Đảng, bảo vệ và
phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phát huy sức mạnh
của nên dân chủ xã hội chủ nghĩa, của đại đoàn kết toàn dân tộc, nâng cao ý
chí phấn đấu thực hiện thành cơng sự nghiệp đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo về vững chấc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
- Xây dựng Đảng về tư tưởng phải góp phần tích cực thực hiện có hiệu
quả nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, các tổ chức đảng
ngày càng trong sạch, vững mạnh, ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng,
lãng phí, khắc phục tình trạng suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối
sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.
-Xây dựng Đảng về tư tưởng phải vượt qua tình trạng lạc hậu, yếu kém
về lý luận, phát triển trình độ lý luận chính trị, tri thức của tồn Đảng và hệ
thống chính trị, khẳng định vai trị tiên phong của Đảng.
3.2. Phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Đảng về tư tưởng
Một là, nâng cao nhận thức của các tổ chức đảng, đảng viên, trước hết
là cấp ủy và người đứng đầu cấp ủy về vai trị của cơng tác tư tưởng và xây
dựng Đảng về tư tưởng trong tình hình hiện nay. Để cao trách nhiệm của toàn
Đảng đối với công tác tư tường. Xây dựng và thực hiện quy chế, quy định
toàn Đảng, từ Trung ương đến cơ sở và mỗi đảng viên có trách nhiệm trực