Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

hình thức hoạt động của chính phủ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (46.63 KB, 9 trang )

I.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Hiệu quả hoạt động của chính phủ được bảo đảm bằng hiệu quả hoạt động của
tập thể chính phủ, của thủ tướng chính phủ và từng thành viên Chính phủ được
quy định tại Điều 6 Luật tổ chức Chính Phủ năm 2001 đã quy định khẳng định
hiệu quả hoạt động thực tế của Chính phủ phải được thể hiện ở ba hình thức là
thơng qua phiên họp Chính phủ, thơng qua hoạt động của của Thủ tướng Chính
phủ và thơng qua hoạt động của thành viên Chính phủ.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Thơng qua phiên họp Chính phủ Các phiên họp của Chính phủ là hình thức
hoạt động tập thể chủ yếu, quan trọng nhất có ý nghĩa quyết định đến tồn bộ
hoạt động của Chính phủ. Vì vậy, Điều 32 Luật tổ chức chính phủ năm 2011
quy định: “Chính phủ làm việc theo chế độ kết hợp trách nhiệm của tập thể với
việc đề cao quyền hạn và trách nhiệm cá nhân của Thủ tướng và của mỗi thành
viên Chính phủ”. Có thể hiểu, phiên họp là nơi tập trung trí tuệ của cả tập thể
Chính phủ với sự tham gia ý kiến của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội
để giải quyết phần lớn nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ Việt Nam.
1.1 Thời gian, thành phần phiên họp Theo pháp luật hiện hành, Chính phủ họp
thường kỳ mỗi tháng một lần. Ngồi ra có thể họp bất thường theo quyết định
của Thủ tướng Chính phủ hoặc theo yêu cầu của ít nhất 1/3 tổng số thành viên
Chính phủ. Về thành phần phiên họp: Thành viên Chính phủ chịu trách nhiện
tham dự đầy đủ các phiên họp, nếu vắng mặt trong phiên họp thì phải có sự
đồng ý của Thủ tướng, Thủ tướng có thể cho phép thành viên vắng mặt được cử
người phó của mình dự phiên họp Chính phủ. Ngồi các thành viên Chính phủ,
Chủ tịch nước có quyền tham dự phiên họp Chính phủ khi xét thấy cần thiết.
Chủ tịch Hội đồng dân tộc của Quốc hội, Chánh án Tòa án nhân tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Tổng liên đoàn lao động Việt
Nam và người đứng đầu các tổ chức đoàn thể khác có thể được mời tham dự
các phiên họp của Chính phủ khi bàn về vấn đề có liên quan. Khi cần thiết,


Chính phủ có thể mời thủ trưởng Cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban
nhân dân Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương tham dự phiên họp của Chính
phủ. Các đại biểu được mời dự họp khơng phải là thành viên của Chính phủ có
quyền phát biểu ý kiến nhưng khơng có quyền biểu quyết. Thủ tướng Chính phủ


chủ tọa các phiên họp Chính phủ, nếu được Thủ tướng ủy quyền, một Phó Thủ
tướng có thể chủ tọa phiên họp. Với thành phần này phiên họp Chính phủ vừa
tập trung được trí tuệ tập thể các thành viên Chính phủ, vừa tham khảo được ý
kiến của các đại biểu được mời, từ đó góp phần làm cho quyết định của phiên
họp sát với thực tế, toàn diện hơn, đồng thời cũng đề cao trách nhiệm của thành
viên Chính phủ trong quá trình biểu quyết.
1.2 Nội dung của phiên họp Tại phiên họp, Chính phủ thảo luận và quyết định
những vấn đề quan trọng thuộc nhiệm vụ, quyền hạn như: Chương trình hoạt
động hàng năm của Chính phủ; Các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác
trình Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội; dự án chiến lược, quy hoạch
phát triển kinh tế xã hội ngắn hạn và dài hạn, các cơng trình quan trọng, dự án
ngân sách nhà nước; Các chính sách cụ thể phát triển kinh tế-xã hội, tài chính,
quốc phịng, an ninh, đối ngoại; Các đề án trình quốc hội về cơ cầu tổ chức các
Bộ, cơ quan ngang Bộ, điều chỉnh địa giới hành chính cấp tỉnh, quyết định cơ
cấu thuộc Chính phủ, các báo cáo trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội
và Chủ tịch nước; quyết định việc thành lập, sáp nhập, giải thể cơ quan thuộc
Chính phủ. Tại phiên họp của Chính phủ sẽ quyết định những nội dung quan
trọng đó góp đảm bảo cho việc hồn thành nhiệm vụ của Chính phủ-cơ quan
hành pháp trong bộ máy nhà nước.
1.3 Nghị quyết của phiên họp Theo pháp luật hiện hành, Nghị quyết phiên họp
của Chính phủ phải được quá nửa tổng số thành viên Chính phủ biểu quyết tán
thành, trường hợp biểu quyết ngang nhau, thực hiện theo ý kiến mà Thủ tướng
đã biểu quyết (Điều 35 Luật tổ chức Chính phủ). Quy định này đã thể hiện sự
kết hợp chặt chẽ chế độ trách nhiệm cá nhân với tập thể, đề cao vai trò tập thể

của Chính phủ trong việc quyết định những vấn đề quan trọng, và đặc biệt đề
cao vai trò của Thủ tướng chính phủ. Phiên họp chính phủ quyết định phần lớn
các nhiện vụ, quyền hạn quan trọng trên cơ sở bàn bạc dân chủ, công khai. Nghị
quyết của phiên họp vừa thể hiện nội dung nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng
thời đề cao vai trò của cá nhân Thủ tướng Chính phủ. Đây được xem như là
điểm mới phù hợp với quan niệm xây dựng Bộ máy nhà nước theo Hiến pháp
1992.
2. Thơng qua hoạt động của Thủ tướng Chính phủ Thủ tướng Chính phủ là
người đứng Chính phủ, người lãnh đạo, điều hành và chịu trách nhiệm về mọi


hoạt động của Chính phủ. Khắc phục những hạn chế trong quy định về quyền
hạn của người đứng đầu Chính phủ mà Hiến pháp 1983 đã quy định, Hiến pháp
1992 và Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001 đã đưa ra những quy định nhằm
tăng cường vai trò của người đứng đầu Chính phủ. Với những quy định này,
quyền hạn đã được phân định rõ ràng hơn giữa tập thể Chính phủ với cá nhân
Thủ tướng. Quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ được quy định khá cụ thể, rõ
ràng và có phần mở rộng, nhiều quyền hạn trước đây giao cho tập thể Hội đồng
Bộ trưởng này giao cho cá nhân Thủ tướng. Theo quy định tại Điều 114 Hiến
pháp năm 1992 và Luật Tổ chức chính phủ năm 2001, Thủ tướng Chính phủ có
những quyền hạn sau: Triệu tập, chủ tọa phiên họp Chính phủ; quy định chế độ
làm việc của Thủ tướng với các thành viên Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương; lãnh đạo cơng tác của Chính phủ,
Thành viên của Chính phủ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy
ban nhân dân các cấp; Đề nghị Quốc hội thành lập hoặc bãi bỏ các Bộ, cơ quan
ngang Bộ; trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức, cho từ chức đối với Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang Bộ; trong thời gian giữa Quốc hội khơng họp thì Thủ tướng Chính phủ có
quyền trình Chủ tịch nước quyết định tạm đình chỉ cơng tác của Phó thủ tướng,
Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ. Chỉ đạo xây dựng các dự án trình

Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội, các văn bản quy phạm thuộc thẩm
quyền của Chính phủ và Thủ tướng. Thành lập hội đồng và Ủy ban thường
xuyên hoặc lâm thời khi cần thiết; Quyết định các biện pháp cải tiến lề lối làm
việc, hoàn thiện hệ thống quản lý nhà nước. Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ
những quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang
Bộ, Quyết định, chỉ thị của Ủy ban nhân dân và Chủ tịch Ủy ban nhân dân Tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương trái với Hiến pháp, Luật và các văn bản của cơ
quan Nhà nước cấp trên; Đình chỉ việc thi hành những Nghị quyết của Hội đồng
nhân dân Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trái với Hiến pháp, Luật và các
văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Ủy ban thường vụ
Quốc hội bãi bỏ. Để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Thủ tướng Chính
phủ căn cứ vào Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, Nghị
quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước,
Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ ra quyết định, chỉ
thị và kiểm tra việc thực hiện văn bản đó. Văn bản của Thủ tướng Chính phủ
ban hành có hiệu lực thi hành trong phạm vi cả nước và đồng thời, Thủ tướng


hướng dẫn, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó đối với các ngành, các địa
phương và các cơ sở. Như vậy, Hiến pháp 1992 đã tổ chức lại Chính phủ theo
hướng tăng cường chế độ thủ trưởng thì việc quy định cho người đứng đầu
Chính phủ có những nhiệm vụ, quyền hạn như trên mới có thể đảm bảo được
quyền lãnh đạo của mình là hồn tồn hợp lý. Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một
số điều của Hiến pháp 1992 và Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính
phủ năm 2001 đã có những quy định cụ thể hơn trong trường hợp nào thì Quốc
hội sẽ tự nêu vấn đề bỏ phiếu tín nhiệm đối với các Phó thủ tướng, Bộ trưởng
(sau đó có thể tiến hành thủ tục miễn nhiệm), khi nào thì do Thủ tướng đề nghị
Quốc hội miễn nhiệm, cách chức, cho từ chức. Cơ chế trách nhiệm của các Phó
thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ trước thủ trưởng cịn chưa
được cụ thể hóa. Với tất cả những quy định trên, ta thấy rắng quyền hạn của

Thủ tướng Chính phủ đã có thay đổi. Đặc biệt là thẩm quyền ban hành văn bản
đã có sự cải thiện đáng kể. Hình thức văn bản đã phù hợp với vai trị, quyền hạn
của Thủ tướng và qua hình thức văn bản có thể phân biệt giữa văn bản của
Chính phủ với văn bản của Thủ tướng Chính phủ ban hành, tránh được sự
chồng chéo về thẩm quyền. Hơn thế, thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ đã
quy định rõ ràng và cụ thể điều kiện thuận lợi cho Thủ tướng Chính phủ hồn
thành tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình, là cơ sở cho các chính sách của Đảng
và Nhà nước Việt Nam được thực hiện trên thực tế.
3. Thông qua hoạt động của Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ. Ngoài
hoạt động của phiên họp, hoạt động của Thủ tướng và phó Thủ tướng, hoạt
động của Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ đóng vai trị khá quan
trọng trong hoạt động của Chính phủ. Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang
Bộ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh vực công tác
trong phạm vi cả nước. Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ là thành
viên Chính phủ, lãnh đạo công tác của Bộ và cơ quan ngang Bộ, phụ trách một
số cơng tác của Chính phủ. Bộ trưởng chịu trách nhiệm trước Thủ tướng và
trước Quốc hội về hoạt động quản lý Nhà nước trong phạm vi ngành , lĩnh vực
được phân cơng. Trong Chính phủ, các Bộ trưởng hoạt động với hai tư cách :
Thứ nhất: là thành viên của Chính phủ, cùng tập thể Chính phủ giải quyết cơng
việc chung của Chính phủ thơng qua các phiên họp; Thứ hai: là người đứng đầu
một Bộ, ngành hoặc lĩnh vực thực hiện lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành hoạt động
của Bộ, ngành, lĩnh vực. (Điều 23 Luật tổ chức Chính phủ). Để thực hiện nhiệm


vụ quyền hạn của mình, pháp luật hiện hành quy định Bộ trưởng có quyền ban
hành gồm quyết định, chỉ thị, thông tư. Bộ trưởng căn cứ vào Hiến pháp, Luật
và Nghị Quyết của Quốc hội; Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ
Quốc hội; Lệnh, Quyết định của Chủ tịch nước, các văn bản của Chính phủ ,
Thủ tướng Chính phủ để ra các văn bản trên và hướng dẫn , kiểm tra việc thi
hành các văn bản đó. Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2011, đã bỏ

quy định thẩm quyền được ban hành các văn bản pháp quy của Thủ trưởng các
cơ quan thuộc Chính phủ nhằm mục đích tăng cường sự giám sát của Quốc hội
với hoạt động lập quy của Chính phủ, cũng như tính chịu trách nhiệm của
Chính phủ trong hoạt động này của Chính phủ trước Quốc hội. Chỉ cơ quan do
Quốc hội thành lập mới được quyền ban hành văn bản pháp quy. Về trách
nhiệm của Chính phủ, Điều 109 Hiến pháp năm 1992 quy định: “ Chính phủ
chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Ủy ban
thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước”. Cơ chế trách nhiệm mới này cho thấy vai
trò của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội lập ra với tư cách là cơ
quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan Hành chính nhà nước cao nhất và chỉ
chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Quy định Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
báo cáo cơng tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước là để đảm
bảo sự giám sát của các cơ quan này – với tư cách là những cơ quant ham gia
thực hiện quyền giám sát đối với bộ máy hành chính Nhà nước. Điều 117 Hiến
pháp cũng quy định rõ: “Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ chịu
trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, trước Quốc hội về lĩnh vực, ngành
mình phụ trách”. Như vậy, các thành viên của Chính phủ (Bộ trưởng và Thủ
trưởng cơ quan ngang Bộ) vừa chịu trách nhiệm về ngành, lĩnh vực mình phụ
trách (giống như quy định tại các Hiến pháp trước) vừa phải chịu trách nhiệm
trước Thủ tướng Chính phủ. Quy định như vậy của Hiến pháp 1992 là nhằm
mục đích tăng cường vai trị điều hành của Thủ tướng Chính phủ đối với các
thành viên khác trong chính phủ. Hiến pháp 1992 đã đề cao trách nhiệm cá
nhân của Thủ tướng, các Bộ trưởng và thành viên khác trước Quốc hội, song
chú trọng về trách nhiệm cá nhân của từng chức danh đó chứ khơng phải là
trách nhiệm tập thể chung chung như trước đây.
4. Một số giải pháp về hồn thiện các hình thức hoạt động của chính phủ Việt
Nam theo pháp luật hiện hành: Thứ nhất là, Trong hoạt động của Chính phủ
nước ta, phiên họp ln được xác định là một hình thức hoạt động quan trọng.



Điều này được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật như: Luật tổ chức Hội
đồng Chính phủ năm 1960 , Luật tổ chức Hội đồng bộ trưởng năm 1981 tại
Điều 17, Luật tổ chức Chính phủ năm 1992 và năm 2001 tại điều 33. Để đảm
bảo hiệu quả cho phiên họp của chính phủ ngồi việc hồn thiện các quy định
của pháp luật, sự cần thiết phải mở rộng thành phần phiên họp, làm tốt công tác
chuẩn bị (đặc biệt là chuẩn bị dự án và các nội dung đưa ra phiên họp). Phiên
họp cần tập trung giải quyết tốt những nhiệm vụ quan trọng của Chính phủ.
Ngồi ra hiện nay ở nước ta do đặc thù của nền kinh tế chuyển đổi rất nhiều quy
định mang tính chất kĩ thuật về chính sách kinh tế - xã hội cần phải thơng qua
một cách nhanh chóng dứt khốt khơng cần phải chờ đến phiên hợp thường kì
của Chính phủ. Vì vậy, việc tổ chức một cơ cấu bên trong Chính Phủ, có đủ các
thành phần thay mặt cho Chính phủ có thể đưa ra quy định nhanh chóng, kịp
thời đáp ứng đòi hỏi của xã hội, Thứ hai là, Thực hiện đúng, có sự kết hợp hiệu
quả nguyên tắc tập thể và đề cao trách nhiệm cá nhân người đứng đầu nguyên
tắc thủ trưởng. Nguyên tắc tập thể kết hợp với trách nhiệm người đứng đầu là
một nguyên tắc cơ bản của bất cứ Chính phủ nào trong các nhà nước hiện đại.
Việc kết hợp hai mặt của nguyên tắc tập thể - cá nhân Thủ trưởng là động lực
thúc đẩy hoạt động của Chính phủ. Chính phủ của nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là một tập thể thống nhất dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng
Chính phủ. Qua nhiều năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, cơ cấu tổ
chức, thiết chế bộ máy và phương thức hoạt động của Chính Phủ và bộ máy nhà
nước Việt Nam nói chung đã được đổi mới khá cơ bản theo hướng hoàn thiện
hơn, hiệu quả hơn, dân chủ và vì dân hơn. Về hình thức hoạt động của Chính
phủ Việt Nam nổi lên hai vấn đề quan tâm: + Tính chịu trách nhiệm của Chính
phủ và các thành viên của chính phủ + Hoạt động của Chính phủ chưa thật sự là
một tập thể thống nhất, trong đó, phải kể đến vấn đề trách nhiệm phải từ chức
của các Bộ trưởng cũng như tập thể của Chính phủ. Bên cạnh đó là các thành
viên của Chính Phủ nhiều khi chưa được thấy được tính thống nhất trong hoạt
động của Chính phủ như là một tổ chức chặt chẽ giữa các Bộ còn rất nhiều
quyết định mẫu thuẫn, chồng chéo lên nhau. Trách nhiệm của từng thành viên

Chính phủ được quy định trong Luật tổ chức Chính phủ năm 2001 “ Hiệu quả
hoạt động của Chính phủ được đảm bảo bằng hiệu quả hoạt động của tập thể
Chính phủ, của Thủ tướng Chính phủ và từng thành viên Chính phủ” (Điều 6).
Tuy nhiên, Luật tổ chức Chính phủ năm 2001 mới chỉ quy định thẩm quyền của
Thủ tướng Chính phủ - người đứng đầu nền hành pháp trong việc phê chuẩn


việc bầu cử, miễn nhiệm, điều động cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp. Để phát huy mạnh mẽ vai trò, chức năng của thủ tướng Chính
phủ với tư cách là người đứng đầu Chính phủ và hệ thống hành chính Nhà
nước. Cần phải đề cao thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ đối với tổ chức
của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nói riêng và các bộ phận khác nói chung khi được
bổ nhiệm, bên cạnh quyền giám sát chặt chẽ của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
với chức vụ này. Thứ ba là, Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, cơng chức của
Chính phủ. Đáp ứng yêu cầu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ cơng chức cần đào tạo,
bố trí sử dụng cán bộ. ban hành các quy định pháp luật về đánh giá cán bộ công
chức thật sự khoa học đúng người đúng việc. Bảo đảm chính sách và lợi ích vật
chất hợp lý động viên tinh thần đối với cán bộ, cơng chức trong bộ máy hành
chính. Tại kì họp thứ nhất Quốc hội khóa XII đã thành lập ra được một Chính
Phủ nhiệm kì mới (2007- 2011) bao gồm thủ tướng, 5 phó thủ tướng và 22 Bộ
trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Đều được dư luận chú ý là thành viên
nhiệm kì mới trẻ hơn, được đào tạo chính quy bài bản hơn, có nhiều người có
bằng cấp học hàm học vị cao hơn. So với thành phần của Chính phủ các khóa
trước đây. Chính phủ theo nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII có độ tuổi trẻ hơn rất
nhiều – trong số các thành viên của Chính phủ có 4 người độ tuổi 61-65, có 20
người đội tuổi 51-59 và 2 người độ tuổi 48 -50. Thứ tư là, Chính phủ Việt Nam
hiện nay cần phải coi trọng vấn đề tham nhũng, tham nhũng có thể xảy ra ở tất
cả các cơ quan trong bộ máy nhà nước, những năm gần đây Chính phủ Việt
Nam cũng đã xác định tham nhũng là vẫn nạn, nó kìm hãm sự phát triển kinh tế,
nhưng kết quả chống tham nhũng ở Việt Nam còn ở mức độ hạn chế. Đây là

một trong những trọng tâm cơng tác được Chính phủ nhiệm kì khóa XII (20012011) ưu tiên quan tâm lãnh đạo chỉ đạo thưc hiện. Thời gian qua, khi có nghị
quyết Trung ương III và Luật phòng chống tham nhũng, với quyết tâm chính trị
cao của Đảng và Nhà nước Việt Nam, cơng tác phịng chống tham nhũng đã đạt
được những kết quả tích cực bước đầu, tạo sự chuyển biến trong nhận thức và
hành động của cả hệ thống chính trị, nhiều vụ việc tham nhũng tiêu cực nổi cộm
được phát hiện xử lý nghiêm, tạo được niềm tin của nhân dân và bạn bè quốc tế.
Để duy trì và thực hiện có hiệu quả cơng tác phịng, chống tham nhũng Chính
phủ tiếp tục triển khai thực hiện đồng bộ các luật, nghị quyết của Chính phủ và
cần triển khai kế hoạch thanh tra, kiểm tra, kiểm tốn có trọng tâm trọng điểm
đối với tất cả các lĩnh vực. Tập trung chỉ đạo điểu tra làm rõ là xử lý đúng pháp
luật nhũng vụ việc tham nhũng đã được phát hiện, nhất là tham nhũng lớn mà


xã hội đặc biệt quan tâm. Ngồi ra để cơng tác này đạt được hiệu quả cao, thực
hiện phòng, chống tham nhũng phải kết hợp chặt chẽ với cải cách hành chính ở
từng cơ quan, địa phương, đơn vị và gắn với thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí, quan liêu.
III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Như vậy, về hình thức hoạt động của Chính phủ Việt Nam theo pháp luật hiện
hành đã đạt được nhiều hiệu quả góp phần đưa đất nước phát triển thêm một
tầm cao mới. Tuy nhiên, bên cạnh đó cịn tồn tại những yếu kém bất cập cần có
những phương hướng hồn thiện về mặt hình thức hoạt động của Chính phủ để
đáp ứng được thực tế khách quan và nhiệm vụ của cơ quan hành chính Nhà
nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, giữ vững được
lòng tin của nhân dân.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 Trường đại học Luật Hà Nội,
Giáo trình Luật hiến pháp Việt Nam . Nxb. CAND, Hà Nội, 2011.
Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật hiến pháp Việt Nam ,
NXB . ĐHQG , Hà Nội 2005.

Luật tổ chức Chính phủ năm 2001.
4. Trường đại học Luật Hà Nội, Khóa luật tốt nghiệp PHICHIT THOUN
VILAY về “ Tổ chức và hoạt động của Chính phủ Việt Nam theo pháp luật hiện
hành”.


MỤC LỤC



×