Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự từ thực tiễn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (623.79 KB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ MINH NGỌC

GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN
QUẬN HỒNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ MINH NGỌC

GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN
QUẬN HỒNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8 38 01 04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. VŨ GIA LÂM

HÀ NỘI, 2021



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan, đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong đề tài là trung thực và tôi xin chịu
trách nhiệm về tất cả những số liệu, kết quả nghiên cứu đó. Đề tài này
chưa được ai cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Tác giả đề tài

Nguyễn Thị Minh Ngọc


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................. 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ
THẨM HÌNH SỰ .................................................................................... 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm của giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự .............. 8
1.2. Cơ sở của việc quy định giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự ............. 13
1.3. Ý nghĩa của việc quy định giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự .......... 22
Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ
GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM HÌNH SỰ ........................................... 27
2.1. Khái quát lịch sử lập pháp của giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự .... 27
2.2. Quy định về giới hạn xét xử trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015 ................................................................................................... 29
Chương 3. THỰC TIỄN THI HÀNH QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VỀ GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM TẠI TỊA ÁN
NHÂN DÂN QUẬN HỒNG MAI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ............. 47
3.1. Thực tiễn thi hành quy định của Pháp luật Tố tụng hình sự về giới
hạn xét xử sơ thẩm tại Toà án nhân dân Quận Hoàng Mai ................... 47
3.2. Giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện tốt quy định về giới hạn xét xử
sơ thẩm từ thực tiễn Tịa án nhân dân quận Hồng Mai ....................... 61
KẾT LUẬN ........................................................................................... 78

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................. 79


DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật Hình sự

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra

ĐTV

Điều tra viên

HĐXX

Hội đồng xét xử

KSĐT

Kiểm sát điều tra

KSV


Kiểm sát viên

TAND

Tịa án nhân dân

TANDTC

Tồ án nhân dân tối cao

TTHS

Tố tụng hình sự

THQCT

Thực hành quyền công tố

VKS

VKS

VKSND

VKS nhân dân

VKSNDTC

VKS nhân dân tối cao


XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1. Tổng số bị cáo/vụ án TAND quận Hoàng Mai ........................ 49
thụ lý và xét xử từ năm 2016 đến năm 2020 ........................................... 49
Bảng 3.2. Số vụ khi xét xử Tịa án thay đổi khung hình phạt nhẹ hơn so
với VKS truy tố từ năm 2016 đến năm 2020 .......................................... 50
Bảng 3.3. Số vụ khi xét xử Tịa án áp dụng khung hình phạt nặng hơn so
với khung hình phạt VKS truy tố từ năm 2016 đến năm 2020 ................ 51
Bảng 3.4. Số vụ khi xét xử tòa án thay đổi tội danh .............................. 52
so với VKS truy tố từ năm 2016 đến năm 2020 ...................................... 52
Bảng 3.5. Số liệu trả hồ sơ điều tra bổ sung của TAND ......................... 53
quận Hoàng Mai từ 2016-2020 .............................................................. 53


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cơng cuộc cải cách tư pháp hướng tới xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến việc hoàn thiện tổ
chức và hoạt động của Tòa án, thiết chế duy nhất được giao quyền xét xử
các vụ án.
Để có thể thực hiện tốt quá trình cải cách tư pháp đối với hoạt động
xét xử của Tòa án, những chế định, quy định có liên quan đến việc xét xử
trong đó có quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm của Tịa án cần phải được
nghiên cứu chun sâu để có cái nhìn từ tổng quát đến chi tiết các quy
định của pháp luật, từ đó phát huy những kết quả đạt được và đồng thời

khắc phục những quy định còn hạn chế. Giới hạn xét xử là một quy định
rất quan trọng của Tố tụng hình sự . Quy định giới hạn xét xử vừa đảm
bảo mục đích xét xử đúng người, đúng tội, không làm oan người vô tội,
không bỏ lọt tội phạm vừa đảm bảo được vị thế độc lập của Hội đồng xét
xử, của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Quy định về giới hạn xét xử của Tòa án lần đầu tiên được đề cập
đến tại Điều 170 của Bộ luật Tố tụng hình sự 1988: “Tồ án chỉ xét xử
những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà VKS truy tố và Toà án
đã quyết định đưa ra xét xử.” Tuy nhiên, quy định này lại quá khát quát
nên khi đưa vào thực tiễn áp dụng đã xảy ra tình trạng nhận thức khơng
thống nhât giữa VKS và Tịa án. Tại Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003,
chế định này đã được sửa đổi, bổ sung mở rộng thẩm quyền của Hội đồng
xét xử: “Toà án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà VKS
đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ
hơn tội mà VKS đã truy tố.” Trên cơ sở kế thừa và phát triển những quy

1


định trong các BLTTHS trước đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã
tiếp tục sửa đổi, bổ sung và cơ bản hoàn thiện được những vấn đề bao
quát nhất của quy định về giới hạn xét xử tại Điều 298 Bộ luật này. Đây
được coi là một sự tiến bộ trong quá trình lập pháp của nước ta. Thực tế
cho thấy, chế định này đã và đang mang đến những hiệu quả nhất định mà
các nhà làm luật đã mong đợi, giúp Tòa án xét xử đúng người, đúng tội,
tránh bỏ lọt tội phạm, đồng thời cũng xác định rõ trách nhiệm củaTòa án
trong xét xử để Tòa án thực sự độc lập, thực hiện đúng chức năng của
mình. Tuy nhiên, cũng giống như nhiều chế định khác, hiện nay việc nhận
thức quy định về giới hạn xét xử vẫn cịn nhiều quan điểm khác nhau,
chính vì vậy mà dẫn đến những vướng mắc, khó khăn nhất định khi áp

dụng quy định này trong thực tiễn tố tụng, gây khó khăn trong giải quyết
các vụ án hình sự của nhiều địa phương trong cả nước.
Quận Hoàng Mai là một đơn vị hành chính cấp huyện thuộc thành
phố Hà Nội với diện tích rộng lớn, mật độ dân cư đơng đúc, tình trạng tội
phạm diễn biến phức tạp về cả tính chất, mức độ trên phạm vi tồn quận.
Vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với các cơ quan tiến hành tố tụng trong đó có
Tịa án nhân dân quận Hồng Mai trong việc đấu tranh phịng chống, đẩy
lùi tội phạm ngày càng được chú trọng. Tuy nhiên, những vướng mắc, bất
cập trong q trình xét xử nói chung và trong việc thực hiện quy định về
giới hạn xét xử tại địa phương nói riêng đã gây khơng ít khó khăn cho Tịa
án địa phương khi thực hiện chức năng xét xử của mình.
Do vậy, việc nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và
thực tiễn của giới hạn xét xử sơ thẩm phải được nhanh chóng đẩy mạnh,
tạo ra cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn cho Thẩm phán, Hội thẩm có thể áp
dụng chính xác, giải quyết nhanh chóng vụ án, đáp ứng yêu cầu cải cách
tư pháp.

2


Xuất phát từ những lý do về tầm quan trọng của giới hạn xét xử đã
nêu trên, tác giả chọn đề tài: “Giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự từ thực
tiễn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Dưới góc độ khoa học, việc nghiên cứu về giới hạn của việc xét xử
cũng được đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp ở một số công trình nghiên cứu
được cơng bố như :
Ở cấp độ luật văn thạc sĩ luật học đã có một số tác giả nghiên cứu
trực tiếp hoặc gián tiếp về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự như:

Luận văn Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam của tác giả Nguyễn Thị
Thúy Hoàn, Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2011; Luận văn
Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật Tố tụng hình sự
Việt Nam từ thực tiễn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh của tác giả
Phan Thị Ánh Tuyết, Học viện Khoa học Xã hội, năm 2018;

Luận văn

Giới hạn xét xử trong Tố tụng hình sự của tác giả Ngô Thị Ánh, Đại học
Luật Hà Nội, năm 2007; Luận văn Giới hạn xét xử trong Tố tụng hình sự
của tác giả Trần Văn Tín, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 1997; Luận
văn Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật Tố tụng hình sự
Việt Nam từ thực tiễn quận 12, thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Trần
Thùy Liên, Học viện Khoa học Xã hội, năm 2017; Luận văn Giới hạn xét
xử theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam của tác giả Hồ Quốc Bình,
Viện Hàn Lâm khoa học xã hội Việt Nam - Học viện khoa học xã hội,
năm 2016.
Ở cấp độ giáo trình, bài viết đăng trên tạp chí đã có đề cập trực tiếp
và gián tiếp về giới hạn xét xử như: Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt

3


Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Công an nhân dân,
Hà Nội, năm 2019; Bài viết Những hạn chế trong quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự về giới hạn việc xét xử sơ thẩm của tác giả Nguyễn Thị Kim
Thanh, Tạp chí Tịa án nhân dân số 20, năm 2010; bài viết Một số vấn đề
về tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm của tác giả Nguyễn Hữu Chính,
Tạp chí Tịa án nhân dân số 13, năm 2012; bài viết Hoàn thiện mối quan

hệ giữa Tịa án và VKS trong q trình giải quyết vụ án hình sự của tác
giả Hồ Sĩ Sơn, Nhà nước và pháp luật, năm 2005; bài viết Một số vấn đề
cần chú ý khi xét xử vụ án hình sự của tác giả Đinh Văn Quế, Tạp chí
Luật học số 9, năm 2012; bài viết Kiến nghị sửa đổi Điều 196 của Bộ luất
Tố tụng hình sự 2003 về giới hạn của việc xét xử của hai tác giả Hồng
Minh Sơn và Vũ Quang Huy, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 14, năm 2015.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu các cơng trình trên cho thấy nhiều cơng
trình nghiên cứu dựa trên những quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự
2003 nên đã khơng cịn phù hợp. Vấn đề giới hạn xét xử sơ thẩm vẫn có
nhiều quan điểm khác nhau, từ thời điểm BLTTHS năm 2015 được ban
hành và có hiệu lực thi hành đến nay có ít cơng trình khoa học nghiên cứu
chun sâu về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Đặc biệt, chưa có
cơng trình nghiên cứu về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự gắn với
thực tiễn áp dụng tại một địa bàn cụ thể. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài
Luận văn Thạc sĩ “Giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự từ thực tiễn quận
Hoàng Mai, thành phố Hà Nội” vẫn là một nội dung mang tính mới, đáp
ứng địi hỏi của thực tiễn cơng cuộc đấu tranh, phịng chống tội phạm
trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ một số vấn đề (lý luận)
chung và những quy định của pháp luật về giới hạn xét xử; nội dung của

4


giới hạn xét; nghiên cứu thực tiễn thi hành quy định của BLTTHS về giới
hạn xét xử, làm rõ những hạn chế, vướng mắc trong áp dụng để từ đó đưa
ra những giải pháp thích hợp nhằm nâng cao hiểu quả xét xử nói chung
cũng như hiệu quả thi hành quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự tại Tịa án nhân dân quận Hồng Mai, thành phố Hà Nội.

Để có thể đạt được mục đích trên, nhiệm vụ được đặt ra là phải
phân tích, làm rõ các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về giới hạn
xét xử vụ án hình sự, quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán, Hội đồng xét xử
khi áp dụng giới hạn xét xử. Đồng thời, nghiên cứu đánh giá, thực tiễn
hoạt động áp dụng quy định về giới hạn xét xử tại Tịa án nhân dân quận
Hồng Mai. Từ đó, đưa ra những nhận xét, đánh giá về nguyên nhân và
kiến giải hợp lý.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Để có thể đạt được những mục đích trên, đề tài tập trung nghiên cứu
những đối tượng cụ thể :
+ Những vấn đề chung về giới hạn xét xử trong vụ án hình sự sơ
thẩm.
+ Nội dung quy định về giới hạn xét xử theo quy định của Bộ luật
Tố tụng hình sự hiện hành và thực tiễn thi hành tại Tòa án nhân dân Quận
Hoàng Mai.
+ Những giải pháp nhằm hoàn thiện quy định giới hạn xét xử trong
Tố tụng hình sự từ thực tiễn hoạt động của Tòa án nhân dân quận Hoàng
Mai, thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về giới hạn
xét xử theo pháp luật tố tụng hình sự hiện hành. Cụ thể là từ khi VKS

5


chuyển hồ sơ cho Tòa án và Tòa án tiến hành thụ lý vụ án cho đến khi có
bản án, quyết định sơ thẩm vụ án hình sự. Đồng thời, nghiên cứu thực tiễn
áp dụng quy định về giới hạn xét xử dựa trên cơng tác hoạt động của Tịa
án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội trong năm năm (từ năm

2016 năm đến năm 2020).
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận
Đề tài được phân tích, nghiên cứu cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, đường
lối, chính sách hình sự, TTHS của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng,
chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng một số phương pháp phổ biến trong nghiên cứu khoa
học luật tố tụng hình sự như: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương
pháp thống kê, khảo sát thực tiễn, điều tra án điển hình... để làm rõ và giải
quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra.
6. Ý nghĩa của đề tài
Về lý luận, đề tài được hoàn thành dựa trên cơ sở lý luận về giới hạn
xét xử sơ thẩm vụ án hình , quy định của pháp luật tố tụng hình sự về giới
hạn xét xử gắn với thực tiễn xét xử của Tịa án nhân dân quận Hồng Mai,
thành phố Hà Nội trong năm năm vừa qua. Do đó, kết quả nghiên cứu của
đề tài góp phần hồn thiện lý luận về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự.
Về thực tiễn, các kiến giải được đưa ra trong đề tài là một kênh
tham khảo hữu ích cho các đơn vị như Tịa án nhân dân các cấp nói chung
và đơn vị Tịa án nhân dân quận Hồng Mai, thành phố Hà Nội nói riêng
trong thực tiễn thực hiện quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong vụ án

6


hình sự. Ngồi ra, kết quả của đề tài cũng có thể là tài liệu tham khảo cho
các đối tượng nghiên cứu, áp dụng pháp luật có liên quan đến vấn đề này.
7. Kết cấu của luân văn

Chương 1: Những vấn đề chung về giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự.
Chương 2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về giới hạn xét
xử sơ thẩm hình sự
Chương 3: Thực tiễn thi hành quy định của pháp luật tố tụng hình
sự về giới hạn xét xử sơ thẩm tại Toà án nhân dân quận Hoàng Mai và
một số kiến nghị.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM
HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm của giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự
1.1.1. Khái niệm giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự
Tố tụng hình sự là một lĩnh vực hoạt động đặc thù của Nhà nước,
mà hệ quả của nó có tác động lớn đến quyền con người, quyền cơng dân.
Chính vì vậy, các vấn đề liên quan đến TTHS luôn được sự quan tâm,
nghiên cứu nhất là hoạt động xét xử của Tòa án.
Xét dưới góc độ tranh tụng, xét xử là một trong ba chức năng cơ
bản của TTHS đó là: chức năng buộc tội; chức năng gỡ tội (bào chữa);
chức năng xét xử. Xét xử chỉ được thực hiện bởi một chủ thể duy nhất là
Tòa án. Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 2013 xác định: "Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng
hòa XHCN Việt nam, thực hiện quyền tư pháp" [40].
Xét dưới góc độ TTHS, xét xử là một giai đoạn trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự, do Tịa án có thẩm quyền tiến hành. Thơng qua hoạt
động xét xử tại phiên tòa, HĐXX nhân danh Nhà nước xem xét cơng khai,
khách quan, tồn diện kết quả của hoạt động điều tra, truy tố, bào chữa để
đưa ra phán quyết về vụ án. Theo quy định của pháp luật TTHS, có hai

cấp xét xử là xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm, theo đó mỗi cấp Tịa án
sẽ có thẩm quyền xét xử nhất định đối với các vụ án hình sự.
Việc xét xử của Tịa án nói chung được thực hiện theo chế độ hai
cấp xét xử, đó là chế độ xét xử sơ thẩm và chế độ xét xử phúc thẩm. Qua
nghiên cứu các cơng trình và tài liệu chun ngành TTHS đã cơng bố cho

8


thấy, khái niệm “xét xử sơ thẩm” trong TTHS được tiếp cận ở nhiều góc
độ khác nhau:
Như vậy, trong khoa học pháp lý tố tụng hình sự về xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự có nhiều góc độ tiếp cận khác nhau đối với khái niệm này.
Mỗi góc độ tiếp cận đều chứa đựng những hạt nhân hợp lý nhất định, song
xét tính chính xác và đầy đủ thì hầu hết chỉ mang tính tương đối. Theo
quan điểm của tác giả: Xét xử sơ thẩm là việc xét xử lần đầu vụ án hình
sự do Tồ án được giao thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp
luật. Xét xử sơ thẩm được xác định như là một giai đoạn kết thúc của quá
trình giải quyết một vụ án hình sự, mọi tài liệu chứng cứ của vụ án do
CQĐT, truy tố thu thập trong quá trình điều tra đều được xem xét một
cách cơng khai tại phiên tồ, những người tiến hành tố tụng và người
tham gia tố tụng được nghe trực tiếp lời khai của nhau, được tranh luận
chất vấn những điều mà tại CQĐT họ không có điều kiện thực hiện. Do
đó, xét xử sơ thẩm là thủ tục tố tụng vô cùng quan trọng đối với tồn bộ
q trình tố tụng. Tuy nhiên, để thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử, kết
quả xét xử (bản án hoặc quyết định) của tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu
lực pháp luật ngay và có thể bị kháng cáo, kháng nghị để xét xử tại cấp
phúc thẩm.
Theo quan điểm của tác giả, giới hạn của việc xét xử là mối quan hệ
tố tụng hình sự giữa Viện kiểm sát và Toà án ở giai đoạn xét xử từ sơ

thẩm. Mối quan hệ này xuất hiện từ khi Viện Kiểm sát gửi cáo trạng và
hồ sơ vụ án sang Tồ án và nó được thể hiện thơng qua Kiểm sát viên
được Viện trưởng Viện kiểm sát uỷ quyền nghiên cứu hồ sơ vụ án, làm
cáo trạng và giữ quyền cơng tố trước tồ cùng với Thẩm phán được giao
nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ vụ án và sẽ làm chủ toạ phiên toà nếu vụ án

9


được đưa ra xét xử. Giới hạn xét xử là quy định pháp lí quan trọng có liên
quan đến nhiều đến các chức năng của tố tụng hình sự. Giới hạn xét xử là
phạm vi những vấn đề thuộc nội dung vụ án mà hội đồng xét xử được
phép xét xử tại phiên tịa. Phạm vi đó khơng phải là vơ hạn mà ngược lại
nó được hạn chế trước hết bởi phạm vi những người và những hành vi mà
VKS truy tố trong cáo trạng và quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Thì cơ sở pháp lý để xác định về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự trong mọi trường hợp chính là nội dung quyết định truy tố của
VKS và nội dung quyết định đưa vụ án ra xét xử của Thẩm phán chủ tọa
phiên tòa. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử vụ án hình sự trong phạm vi truy tố
của VKS và quyết định đưa vụ án ra xét xử của Thẩm phán. Tịa án khơng
có quyền xét xử đối với những bị cáo và những hành vi mà VKS không
truy tố hoặc không được Thẩm phán quyết định đưa ra xét xử.
Trên cơ sở những phân tích và lý giải nêu trên, có thể đưa ra khái
niệm khoa học về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự như sau: "Giới
hạn xét xử sơ thẩm hình sự là phạm vi mà Tòa án cấp sơ thẩm được xem
xét, giải quyết cũng như mức độ xem xét, giải quyết vụ án tại phiên tòa sơ
thẩm theo quyết định truy tố của Viện kiểm sát và quyết định đưa vụ án ra
xét xử của thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử.
1.1.2. Đặc điểm của giới hạn xét xử sơ thẩm trong Tố tụng hình

sự
Thứ nhất, giới hạn xét xử sơ thẩm thể hiện mối quan hệ chặt chẽ
giữa Tòa án với VKS trong TTHS (quan hệ giữa cơ quan thực hành quyền
công tố-buộc tội với cơ quan thực hiện quyền tư pháp- xét xử mà thực
chất là quan hệ giữa hai chức năng của Tố tụng hình sự). Giới hạn xét xử
sơ thẩm thể hiện mối quan hệ phối hợp và chế ước lẫn nhau giữa VKS và

10


Tịa án cấp sơ thẩm có thẩm quyền. Quyết định truy tố của VKS sẽ làm
căn cứ pháp lý thứ nhất để Tòa án khi tiến hành xét xử để xác định sự thật
khách quan của vụ án nhằm bảo vệ quyền con người, lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức,cá nhân. Hành vi bị
truy tố, tội danh mà VKS viện dẫn để truy tố tại bản cáo trạng là cơ sở để
Tòa án xem xét thực hiện chức năng xét xử của mình, cịn VKS thực hiện
chức năng buộc tội trong suốt giia đoạn điều tra và được kéo dài cho đến
khi Tịa án cấp có thẩm quyền ra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật. Đối tượng bị Tòa án xét xử sơ thẩm là hành vi và bị cáo mà Tòa án
sơ thẩm ra quyết định đưa vụ án ra xét xử trên cơ sở quyết định truy tố
của VKS. Tòa án chỉ được xét xử những bị cáo về những hành vi phạm tội
của họ mà VKS truy tố, có nghĩa là Tịa án khơng được xét xử thêm hành
vi hoặc bị cáo khi chưa được VKS truy tố. VKS quyết định truy tố bằng
cáo trạng ra trước Tịa án sơ thẩm cấp có thẩm quyền là cơ sở pháp lý đầu
tiên để Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tòa án thực hiện chức năng
xét xử chứ không phải là bên buộc tội, nên Tịa án khơng thể đưa ra xét
xử những bị cáo ngoài diện VKS truy tố.
Thứ hai, giới hạn xét xử sơ thẩm khẳng định vị trí, chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và tính độc lập của Tịa án và VKS. Mặc dù VKS đã
có cáo trạng quyết định truy tố bị can ra Tòa án cấp sơ thẩm có thẩm

quyền để xét xử về hành vi phạm tội do bị can đó gây ra theo điểm,
khoản, điều được quy định trong BLHS, nhưng trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tịa, khi nghiên cứu
hồ sơ nếu xét thấy có căn cứ cho rằng bị can phạm một tội khác, hoặc có
đồng phạm khác, hoặc trong trường hợp tài liệu, chứng cứ đã thu được
trong giai đoạn điều tra cho thấy bị can phạm một tội khác nặng hơn tội
mà VKS đã truy tố, thì Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ cho VKS để

11


điều tra bổ sung hoặc truy tố về một tội nặng hơn. Trường hợp tội đó nhẹ
hơn hoặc bằng tội VKS truy tố thì Thẩm phán khơng nhất thiết phải ra
quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung... Sau khi Thẩm phán trả hồ sơ
điều tra bổ sung, hoặc đề nghị VKS truy tố lại về tội nặng hơn mà VKS
vẫn giữ nguyên tội danh quyết định truy tố thì Thẩm phán quyết định đưa
vụ án ra xét xử. Ngoài ra trong giai đoạn chuẩn bị xét xử Thẩm phán cịn
có thể ra quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án theo quy định của
pháp luật TTHS. Như vậy không phải lúc nào VKS truy tố bị can ra trước
Tịa án thì Tịa án đều sẽ quyết định đưa vụ án ra xét xử. Do vậy, Thẩm
phán được phân cơng làm chủ tọa phiên tịa khơng quyết định đưa vụ án
ra xét xử thì khơng có việc tiếp theo là mở phiên tòa và Tòa án chịu tác
động của giới hạn xét xử mà VKS đặt ra trong bản cáo trạng, vì vậy mọi
quyết định truy tố của VKS phải được Tòa án xem xét và thông qua bằng
việc quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tại phiên tồ, VKS giữ quyền cơng
tố, thực hiện việc buộc tội, đề nghị kết tội bị cáo theo nội dung của quyết
định truy tố hoặc có thể rút toàn bộ quyết định truy tố. Quyết định nhũng
vấn đề này thuộc về tồ án theo đúng ngun tắc “khơng ai bị coi là có tội
khi chưa có bản án kết tội của tồ án đã có hiệu lực pháp luật ” (Điều 9
BLTTHS). Thực hiện chức năng của mình, toà án xét xử các bị cáo trong

phạm vi quyết định truy tố của VKS đồng thời phải xét xử trong phạm vi
quyết định đưa vụ án ra xét xử của thẩm phán chủ tọa phiên tòa.
Thứ ba, việc quy định giới hạn xét xử sơ thẩm hướng đến mục tiêu
bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội (bị can, bị
cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm) đồng thời thể hiện sự nghiêm minh
của pháp luật hình sự, sự tuân thủ pháp chế. Mỗi cơ quan khác nhau có
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau nhưng đều hướng đến mục
tiêu chung nhằm bảo vệ tốt nhất quyền con người và giữ vững bản chất

12


của Nhà nước pháp quyền XHCN. Với tư cách là chủ thể thực hiện quyền
tư pháp Khi xét xử sơ thẩm, Tịa án có thẩm quyền sau khi nghiên cứu
tồn diện, khách quan hồ sơ vụ án, lần đầu tiên đưa vụ án hình sự ra xét
xử cơng khai nhằm xác định có hay khơng có tội phạm xảy ra, người đã bị
VKS buộc tội là có tội hay khơng có tội, nếu có tội thì phạm tội gì, để có
thể ra bản án, quyết định phù hợp với hành vi mà VKS đã truy tố. Chế
định về giới hạn xét xử sơ thẩm của Tịa án góp phần thực hiện mục tiêu
của TTHS đó là: Khơng bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, đảm
bảo quyền công tố của VKS cũng như sự độc lập của Tòa án (thẩm phán,
hội thẩm) giúp việc xét xử được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Tóm lại, phạm vi xem xét, giải quyết cũng như mức độ được xem
xét, giải quyết khi xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tịa án được khơng
phải là vơ hạn, bởi nó bị hạn chế trong phạm vi những người và những
hành vi mà VKS truy tố trong bản cáo trạng cũng như quyết định đưa vụ
án ra xét xử của thẩm phán được phân cơng làm chủ tọa phiên tịa.
1.2. Cơ sở của việc quy định giới hạn xét xử sơ thẩm hình sự
Pháp luật TTHS quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm xuất phát từ
chức năng, nhiệm vụ của VKS, Tòa án trong TTHS; các nguyên tắc cơ

bản của TTHS; mối quan hệ giữa các giai đoạn trong TTHS; vai trị của
Tịa án trong q trình tranh tụng tại phiên tịa hình sự sơ thẩm; nhu cầu
cần giải quyết những quan điểm chưa thống nhất giữa VKS và Tịa án;
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo. Quy định về giới
hạn xét xử sơ thẩm dựa trên những cơ sở sau:
1.2.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của việc quy định giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự xuất phát từ quan điểm tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm tốt nhất quyền
con người, từ yêu cầu cải cách tư pháp, đổi mới và hoàn thiện thủ tục

13


TTHS, từ vị trí, vai trị của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành TTHS,
cụ thể:
Thứ nhất, xuất phát từ quan điểm tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm tốt
nhất quyền con người. Những nguyên tắc về quyền con người luôn được
ghi nhận và khẳng định trong BLTTHS và các văn bản pháp lý là tất yếu
và được hoàn thiện dần theo thời gian.

Đến nay, Việt Nam đã tham gia

hầu hết các Công ước quốc tế cơ bản về quyền con người, cụ thể: Tuyên
ngôn quốc tế nhân quyền (UDHR) năm 1948; Công ước về các Quyền
Dân sự và Chính trị 1966 (ICCPR), gia nhập ngày 24-9-1982; Cơng ước
về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa 1966, gia nhập ngày 24-91982… Một trong những quyền con người cơ bản là quyền sống, quyền
bất khả xâm phạm về thân thể, quyền không bị tra tấn, bạo lực, truy bức,
nhục hình hay các hình thức nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc
phạm danh dự, nhân phẩm; không ai bị bắt nếu khơng có quyết định của
Tịa án, quyết định hoặc phê chuẩn của VKSND; quyền được pháp luật

bảo hộ về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm.

Trong tiến trình cải cách tư

pháp sâu rộng hiện nay thì vấn đề bảo vệ tốt nhất quyền con người càng
được quan tâm đẩy mạnh hơn nữa. Ở đâu có buộc tội, ở đâu có xét xử thì
ở đó cần có sự bảo vệ (bào chữa) cần được tiến hành trong phạm vi, giới
hạn của sự buộc tội cũng như sự xét xử. Mặt khác, bên bảo vệ (bào chữa)
cần biết giới hạn xét xử (trên cơ sở giới hạn buộc tội) để có thể chuẩn bị
tốt các điều kiện để bảo vệ (bào chữa). Do vậy nhu cầu bảo vệ quyền con
người nói chung, quyền bào chữa nói riêng đặt ra nhu cầu phải có giới hạn
xét xử sơ thẩm trong vụ án hình sự.
Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu cải cách tư pháp, đổi mới và hoàn
thiện thủ tục TTHS.

Nhiệm vụ của TTHS là đấu tranh phòng chống tội

phạm có hiệu quả và bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công

14


dânCũng bởi vậy, phải quy định rõ ràng, rành mạch chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành
TTHS, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của những người tiến hành
TTHS, quyền và nghĩa vụ của những người tham gia TTHS, của các cơ
quan, tổ chức bảo đảm ngăn chặn việc truy cứu trách nhiệm hình sự và kết
án khơng có căn cứ đối với con người, cơng dân. Trong tiến trình thực
hiện cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta
việc ghi nhận và hoàn thiện các quy định của BLTTHS về giới hạn xét xử

sơ thẩm vụ án hình sự là điều tất yếu, đây là cơ sở để các cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện việc cải cách tư pháp có
hiệu quả trong q trình triển khai thực hiện chủ trương đường lối của
Đảng trong lĩnh vực hoạt động tư pháp.
Thứ ba, xuất phát từ sự phân định vị trí, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của VKS và Tòa án trong TTHS. Tuy nhiên, để thực hiện được
mục đích chung đó, VKS và Tịa án cần phải thực hiện chức năng riêng có
tính độc lập. Trong đó, VKS có thực hành quyền cơng tố và kiểm sát việc
tn theo pháp luật nhằm đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất, còn Tòa án thực hiện chức năng xét xử bảo đảm xét
xử công bằng, khách quan đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Quyết
định truy tố của VKS là cơ sở pháp lý làm phát sinh hoạt động xét xử của
Tịa án. . Do đó, chức năng xét xử là định hướng các hoạt động TTHS
của Tòa án, và việc quy định về giới hạn xét xử của Tòa án trong
BLTTHS là tất yếu khách quan để đảm bảo sự cân bằng và rạch ròi giữa
các chức năng tố tụng (buộc tội và xét xử).
1.2.2. Cơ sở pháp lý
Việc quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm được dựa trên nền
tảng các chế định pháp lý quan trọng có liên quan chặt chẽ với nhau trong

15


BLTTHS, tạo thành một thể thống nhất đảm bảo chất lượng giải quyết vụ
án hình sự. Trong đó quan trọng nhất và quyết định nhất chính là hệ thống
các nguyên tắc của TTHS, bao gồm:
Thứ nhất, quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm được dựa trên
nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa (Điều 7 BLTTHS 2015):
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, là bảo
vệ quyền con người, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp

pháp của công dân là một trong những nhiệm vụ trọng tâm mà Đảng và
Nhà nước ta đã xác định khi xây dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nước,
hồn thiện pháp luật nói chung và các quy phạm pháp luật TTHS nói
riêng. Vì vậy, Hiến pháp năm 2013 và BLTTHS quy định nguyên tắc bảo
đảm pháp chế XHCN là một trong những nguyên tắc hàng đầu trong hoạt
động TTHS, để các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
phải thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, không được giải quyết
nguồn tin về tội phạm khi khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử ngoài những
căn cứ mà BLTTHS quy định. Nguyên tắc bảo đảm pháp chế XHCN đòi
hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng và
những người tham gia tố tụng phải tuân thủ một cách nghiêm chỉnh, triệt
để và thống nhất theo đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình
theo quy định của pháp luật nói chung và TTHS nói riêng. Mọi hành vi
lạm quyền trong hoạt động TTHS vượt quá chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn coi như là vi phạm nguyên tắc pháp chế XHCN. Do vậy, Tòa án là cơ
quan tiến hành tố tụng và là chủ thể duy nhất thực hiện quyền tư pháp với
chức năng xét xử phải luôn tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật
TTHS. Giới hạn xét xử sơ thẩm là một quy định rất quan trọng thể hiện
nội dung của mối quan hệ chế ước giữa VKS và Tòa án trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm. Vì lẽ trên, việc quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm các

16


nhà làm luật căn cứ vào tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về
nguyên tắc hiến định bảo đảm pháp chế XHCN trong TTHS là cần thiết.
Thứ hai, quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm được dựa trên
ngun tắc suy đốn vơ tội (Điều 13 BLTTHS 2015): Đây là một nguyên
tắc rất quan trọng trong hoạt động TTHS, nguyên tắc này được Hiến pháp
2013 và BLTTHS 2015 ghi nhận nhằm mục đích bảo vệ tốt hơn quyền

con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Tịa án là cơ quan
duy nhất thực hiện chức năng xét xử, và chỉ có Tịa án, mới là cơ quan có
quyền kết tội một người nào đó bằng biện pháp áp dụng hình phạt đối với
người phạm tội trên cơ sở xem xét, đánh giá một cách khách quan, toàn
diện sự thật của vụ án tại phiên tòa. Đây là nguyên tắc, quy định trách
nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng, bị
can, bị cáo có quyền nhưng khơng buộc phải có nghĩa vụ chứng minh. Vì
vậy, trong q trình điều tra, truy tố và xét xử nếu xét thấy chưa có đủ cơ
sở chứng minh, thì giải thích theo hướng có lợi cho bị can, bị cáo. Theo
đó, q trình xét xử tại phiên tịa, nếu xét thấy chưa có đủ căn cứ chứng
minh bị cáo bị truy tố và đưa ra xét xử là một người đã thực hiện hành vi
phạm tội, thì HĐXX phải tuyên bố bị cáo khơng phạm tội. Chính vì vậy,
đây cũng là một trong những cơ sở để các nhà làm luật quy định về giới
hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự cho phù hợp với nội dung của nguyên
tắc này.
Thứ ba, quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm được dựa trên
nguyên tắc xác định sự thật của vụ án (Điều 15 BLTTHS 2015): Xác định
sự thật của vụ án là trách nhiệm chung của các cơ quan tiến hành tố tụng
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, nhằm mục đích tìm ra sự thật
khách quan của vụ án. Để đạt được hiệu quả trong đấu tranh phịng chống
tội phạm thì mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện nhanh chóng,

17


kịp thời, chính xác và xử lý nghiêm khắc theo pháp luật. Các cơ quan tiến
hành tố tụng phải xác định sự thật vụ án một cách khách quan, toàn diện
và đầy đủ diễn biến của việc phạm tội đã xảy ra, nhằm làm rõ những
chứng cứ có tội và chứng cứ xác định vơ tội, những tình tiết tăng nặng,
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội, trách nhiệm

này thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, bị can,
bị cáo có quyền nhưng khơng bắt buộc phải chứng minh. Như vậy, trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự, việc xác định sự thật vụ án cần phải
dựa trên quan điểm, tư tưởng khách quan, biện chứng. Nếu việc CQĐT,
điều tra khơng đầy đủ thì phải điều tra bổ sung, nếu việc xét xử khơng
khách quan, chính xác thì phải sửa án, hủy án. Tịa án khi tiến hành xét xử
vụ án hình sự trước hết phải xác định sự thật vụ án một cách khách quan
toàn diện, đầy đủ để xác định hành vi của người bị truy tố có phải là hành
vi phạm tội khơng, nếu có hành vi phạm tội, thì phạm tội gì, người bị truy
tố có phải là người đã thực hiện hành vi phạm tội hay không, nếu là người
thực hiện hành vi phạm tội thì quyết định áp dụng hình phạt như thế nào
là tương xứng. Đây là trách nhiệm của Tòa án mà cụ thể là HĐXX phải
tuân thủ, chứ không phải chủ quan dựa vào ý kiến buộc tội từ cơ quan
truy tố VKS, hay ý kiến gỡ tội của người bào chữa, của bị can, bị cáo để
đưa ra một phán quyết thiên vị hay cảm tính đối với một bên. Cho nên,
việc xác định sự thật của vụ án cũng là một trong những cơ sở khi quy
định về giới hạn xét xử sơ thẩm trong BLTTHS.
Thứ tư, quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm được dựa trên
nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội (Điều 16
BLTTHS 2015): Hiến pháp 2013, BLTTHS và Luật tổ chức TAND đã ghi
nhận nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội nhằm bảo
vệ quyền con người, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của công dân trong

18


TTHS xuất phát từ quan điểm mở rộng tính dân chủ trong hoạt động tư
pháp trong thời kỳ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Bảo đảm
quyền con người nói chung, quyền con người của người bị buộc tội nói
riêng trong TTHS là một xu thế tất yếu trong việc xây dựng nhà nước

pháp quyền XHCN.
Quyền bào chữa của người bị buộc tội được quy định trong
BLTTHS là nhằm bảo đảm cho họ được trình bày quan điểm đối với việc
bị buộc tội, đồng thời đưa ra các chứng cứ, những tình tiết cần thiết để các
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng xem xét minh oan,
hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ. Bảo đảm quyền bào chữa của
người bị buộc tội không chỉ là biểu hiện của tính dân chủ trong hoạt động
tư pháp mà cịn là biểu hiện tính nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta trong
hoạt động TTHS.
Do vậy, pháp luật TTHS khơng chỉ quy định họ có quyền bào chữa
mà cịn có những đảm bảo cần thiết để quyền bào chữa của họ được thực
hiện. CQĐT, VKS, Tòa án có nhiệm vụ bảo đảm cho họ thực hiện quyền
bào chữa được thông qua việc giao nhận quyết định khởi tố bị can, quyết
định tạm giữ, tạm giam, bản kết luận điều tra vụ án, cáo trạng và quyết
định đưa vụ án ra xét xử để họ tự chuẩn bị bào chữa hoặc nhờ người khác
bào chữa thay cho họ, quyền được bào chữa của họ được thể hiện tập
trung nhất tại phiên tịa sơ thẩm, trong q trình bào chữa họ và người bào
chữa thay cho họ có thể trình bày tất cả những gì trên cơ sở pháp luật để
làm sáng tỏ là mình khơng có tội hoặc được giảm nhẹ hình phạt. Do vậy,
trên cơ sở bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo được phát huy hiệu quả tại
phiên tịa sơ thẩm, thì pháp luật TTHS cần có quy định rõ ràng về giới hạn
xét xử sơ thẩm nói riêng sao cho thật phù hợp nhằm tạo điều kiện thuận
lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người bào chữa của họ nắm

19


×