Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Tham nhũng trong việc thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 129 trang )

đại học quốc gia hà nội
Khoa luật

NGUYN HU QUN

THAM NHNG TRONG VIỆC THỰC HIỆN
CÁC NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật

Chuyên ngành

:

Mã số

: 60 38 01

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Bùi Xuân Đức
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

HÀ NỘI - 2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

NGUYỄN HỮU QUÂN



THAM NHŨNG TRONG VIỆC THỰC HIỆN
CÁC NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2009


MỤC LỤC
Trang

PHẦN MỞ ĐẦU
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THAM NHŨNG
TRONG VIỆC THỰC HIỆN CÁC NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ
1.1.
Khái niệm và chủ thể của tham nhũng trong hoạt động
khoa học và công nghệ
1.1.1. Khái niệm tham nhũng
1.1.2. Chủ thể của tham nhũng trong việc thực hiện các nhiệm vụ
khoa học và công nghệ
1.2.
Các dạng tham nhũng trong việc thực hiện các nhiệm vụ
khoa học và công nghệ
1.2.1. Tham nhũng diễn ra dưới dạng gây khó khăn cho người khác
khi giải quyết công việc
1.2.2. Tham nhũng diễn ra dưới dạng mang lại quyền, lợi ích cho chủ
thể khác một cách bất hợp pháp
1.2.3. Tham nhũng diễn ra dưới dạng gian lận, trốn tránh pháp luật và

các tiêu chuẩn, các thoả thuận
1.2.4. Tham nhũng diễn ra dưới dạng thơng đồng, móc ngoặc
Chương 2: NHẬN DIỆN THAM NHŨNG TRONG VIỆC THỰC HIỆN
CÁC NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
2.1.
Tham nhũng trong giai đoạn xác định nhiệm vụ khoa học
và công nghệ
2.2.
Tham nhũng trong giai đoạn giao nhiệm vụ khoa học và
công nghệ
2.2.1. Hành vi tham nhũng của thư ký hội đồng
2.2.2. Hành vi tham nhũng của thành viên hội đồng
2.3.
Tham nhũng trong giai đoạn triển khai nhiệm vụ khoa học
và cơng nghệ
2.3.1. Nhóm hành vi gian gian lận
2.3.2. Nhóm hành vi thơng đồng, móc ngoặc
2.4.
Tham nhũng trong giai đoạn đánh giá, nghiệm thu nhiệm
vụ khoa học và công nghệ
2.4.1. Hành vi tham nhũng trong hoạt động đánh giá, nghiệm thu cấp
cơ sở
3

6
12

12
12
21

30
31
32
33
35
37
39
43
45
46
49
51
65
69
70


2.4.2. Hành vi tham nhũng trong hoạt động đánh giá, nghiệm thu cấp
nhà nước
2.5.
Một số đặc điểm rút ra qua nghiên cứu nhận diện tham
nhũng trong việc thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ
2.5.1. Đặc điểm về quyền lực
2.5.2. Đặc điểm về lợi ích
2.5.3. Đặc điểm về phạm vi và mức độ
2.6.
Những khó khăn khi xác định hành vi tham nhũng trong
việc thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ
Chương 3: NGUYÊN NHÂN, HẬU QUẢ VÀ GIẢI PHÁP
PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG VIỆC THỰC HIỆN

CÁC NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
3.1.
Nguyên nhân tham nhũng trong việc thực hiện các nhiệm
vụ khoa học và công nghệ
3.1.1. Tham nhũng do chế độ thù lao đối với những người thực hiện
nhiệm vụ khoa học và công nghệ chưa tương xứng
3.1.2. Tham nhũng do cơ chế quản lý, sử dụng kinh phí dành cho
nghiên cứu khoa học và cơng nghệ chưa phù hợp
3.1.3. Tham nhũng do ảnh hưởng tiêu cực của quá trình chuyển đổi
cơ chế quản lý
3.2.
Hậu quả của tham nhũng trong việc thực hiện các nhiệm vụ
khoa học và công nghệ
3.2.1. Làm mất cơ hội nghiên cứu của các nhà khoa học khác
3.2.2. Gây thiệt hại về kinh tế cho đất nước
3.2.3. Làm tha hoá đội ngũ trí thức, ảnh hưởng xấu đến giá trị đạo
đức và chuẩn mực xã hội
3.2.4. Cản trở nỗ lực đổi mới, phát triển khoa học và công nghệ
3.3.
Phương hướng, giải pháp phòng, chống tham nhũng trong
việc thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ
3.3.1. Xu hướng phát triển của tham nhũng trong việc thực hiện các
nhiệm vụ khoa học và công nghệ thời gian tới
3.3.2. Một số giải pháp phòng, chống tham nhũng trong việc thực
hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ ở Việt Nam
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

4


71
73
73
78
81
83
86

86
86
88
91
97
97
99
100
102
103
103
105
115
117
124


NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

KH&CN


Khoa học và công nghệ

UBND

Ủy ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

5


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tham nhũng là quốc nạn không chỉ của riêng một quốc gia nào. Cuộc
chiến chống tham nhũng đang hàng ngày, hàng giờ xảy ra mọi lúc, mọi nơi, ở
tất cả các quốc gia trên thế giới.
Ở Việt Nam, tham nhũng được xác định là “cản trở những nỗ lực đổi
mới, tác động tiêu cực tới sự phát triển của đất nước, bóp méo các giá trị đạo
đức truyền thống của dân tộc, làm gia tăng khoảng cách giàu, nghèo. Nghiêm
trọng hơn, tham nhũng cịn làm xói mịn lịng tin của nhân nhân dân vào sự
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước và đe dọa sự tồn vong của chế độ
ta” [37].
Nhận thức được những tác hại đó, thời gian qua, đặc biệt là từ 1998
đến nay, Đảng và Nhà nước đã ban hành rất nhiều các văn bản về vấn đề
phòng, chống tham nhũng. Quyết tâm phòng, chống tham nhũng được khẳng
định mạnh mẽ qua việc Quốc hội đã thơng qua Luật Phịng, chống tham
nhũng (tháng 11 năm 2005, chính thức có hiệu lực từ ngày 1 tháng 6 năm
2006).

Những năm gần đây, khoa học và công nghệ (KH&CN) là một trong
những lĩnh vực được Nhà nước quan tâm đầu tư lớn. Hàng năm, lĩnh vực này
được đầu tư khoảng 2% tổng chi ngân sách nhà nước (tương đương 0,5%
GDP), trong đó có một phần khơng nhỏ dành cho nghiên cứu khoa học. Bên
cạnh đó, cơ chế quản lý các nhiệm vụ KH&CN không ngừng được đổi mới
theo hướng tích cực, phù hợp với thực tiễn. Khơng thể phủ nhận những thành
tựu phát triển về mọi mặt của đất nước do kết quả của việc đầu tư cho
KH&CN đem lại nhưng cũng vẫn tồn tại thực tế là, nhiều đề tài, dự án nghiên
cứu khoa học và phát triển công nghệ chưa đem lại hiệu quả, chậm hoặc

6


không được ứng dụng vào thực tiễn cuộc sống, hoặc bị thất bại, gây lãng phí,
thất thốt kinh phí..., mà một trong những nguyên nhân là kinh phí dành cho
nghiên cứu khoa học đã bị "sử dụng sai mục đích, sai chế độ quy định".
Thực chất, các hành vi được coi là "sử dụng kinh phí sai mục đích, sai
chế độ quy định" hết sức đa dạng. Ví dụ như hành vi dùng kinh phí được cấp,
hỗ trợ cho nghiên cứu khoa học để mua xe ôtô phục vụ mục đích cá nhân;
ngụy tạo các bằng chứng về khả năng của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ
KH&CN để chiếm đoạt kinh phí dành cho nghiên cứu khoa học; lập hợp đồng
khống và sử dụng hoá đơn, chứng từ giả để hợp thức hóa kinh phí một cách
bất hợp pháp; "làm lại" một đề tài nghiên cứu khoa học để lấy kinh phí nhiều
lần; "xin - cho" các đề tài, dự án KH&CN để vụ lợi...
Có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Ví dụ, ngay cùng một
hành vi "lập hợp đồng khống và sử dụng hoá đơn chứng từ giả để hợp thức
hóa kinh phí", có quan điểm cho rằng đó là điều bình thường, có quan điểm
coi đó chỉ là vi phạm quy chế, nhưng quan điểm khác lại quy kết và khẳng
định đó là hành vi vi phạm nghiêm trọng - tham nhũng. Thực tế cũng cho thấy
rằng, nhận thức về tham nhũng và phòng, chống tham nhũng nói chung, trong

việc thực hiện các nhiệm vụ KH&CN nói riêng của một bộ phận khơng nhỏ
các chủ thể có liên quan cịn ở mức độ hạn chế. Họ coi tham nhũng là hành vi
phức tạp, khó hiểu hoặc là một vấn đề chẳng bao giờ liên quan đến mình, đơn
vị mình... Một trong những lý do chính là chưa có các quy định, chưa có hệ
thống khái quát các hành vi cụ thể để làm cơ sở tham khảo xác định tham
nhũng trong lĩnh vực này.
Mặt khác, nhiều hành vi có dấu hiệu vi phạm nhưng bản chất vụ việc
thực ra là do cơ chế quản lý khơng cịn phù hợp với thực tiễn khiến chủ thể
buộc phải vi phạm để thực hiện nhiệm vụ đạt kết quả ("tình ngay lý gian").
Ngun Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu cũng đã từng đánh giá: "Tham nhũng ở
nước ta là do cả cơ chế lẫn con người" [36].

7


Một vấn đề quan trọng nữa là việc phòng ngừa tham nhũng trong lĩnh
vực KH&CN được quy định trong Luật Phòng, chống tham nhũng (Điều 25)
mới chỉ dừng ở mức độ quy định chung:
"- Việc xét, tuyển chọn, giao trực tiếp, tài trợ thực hiện nhiệm vụ
KH&CN và việc đánh giá, nghiệm thu kết quả thực hiện nhiệm vụ KH&CN
phải được tiến hành công khai.
- Cơ quan quản lý KH&CN, đơn vị nghiên cứu KH&CN phải công
khai việc quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước, các khoản hỗ trợ,
viện trợ, đầu tư, các khoản thu từ hoạt động KH&CN".
Tức là phạm vi điều chỉnh mới chỉ đề cập đến "đầu vào và đầu ra" của
nhiệm vụ với chủ thể chính là cơ quan quản lý, đơn vị nghiên cứu mà chưa
tiếp cận vấn đề sâu hơn ở quá trình thực hiện nhiệm vụ KH&CN.
Như vậy, nghiên cứu về tham nhũng trong việc thực hiện các nhiệm vụ
KH&CN là việc làm thiết thực, cấp bách nhằm đáp ứng nhu cầu và giải quyết
vấn đề mà thực tiễn đang đặt ra.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề phòng, chống tham nhũng đang ngày càng được quan tâm.
Những năm gần đây đã có nhiều văn bản pháp quy, nhiều bài viết, cơng trình
nghiên cứu về tham nhũng và phòng chống tham nhũng. Việc nhận diện tham
nhũng trong một số lĩnh vực cụ thể như xây dựng, kế hoạch và đầu tư đã
được một số chuyên gia, nhà khoa học của Viện Khoa học Thanh tra thực
hiện, nhưng chưa có đề tài nghiên cứu khoa học nào chuyên sâu về tham
nhũng trong nghiên cứu khoa học. Chính vì vậy, tác giả đã chọn đề tài:
"Tham nhũng trong việc thực hiện các nhiệm vụ KH&CN" làm luận văn tốt
nghiệp cao học luật của mình.
3. Mục đích và mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Với quan điểm "Phòng còn hơn chống" và "Biết để phịng, tránh" thì
việc nghiên cứu về tham nhũng trong thực hiện các nhiệm vụ KH&CN, gợi ý

8


một số giải pháp phịng, chống dưới góc độ quản lý nhà nước là nhằm cụ thể
hóa và có góc nhìn sâu, rộng hơn về vấn đề này, góp phần nâng cao nhận thức
của các chủ thể có liên quan để chủ động phòng, tránh, chống tham nhũng,
đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra và phù hợp với chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước đối với cơng tác phịng, chống tham nhũng trong giai
đoạn hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu KH&CN là hoạt động đang từng bước được xã hội hóa nên
các nhiệm vụ KH&CN cũng hết sức đa dạng, được thực hiện bởi nhiều nguồn
kinh phí khác nhau. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam hiện nay chỉ xác định và
điều chỉnh tham nhũng ở khu vực công (liên quan đến quyền lực cơng và tài
chính cơng) nên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về tham nhũng trong việc
thực hiện các nhiệm vụ KH&CN có sử dụng nguồn vốn từ ngân sách nhà

nước. Đó cũng chính là các nhiệm vụ KH&CN được thực hiện chủ yếu hiện
nay, đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ tham nhũng hơn cả.
Nhiệm vụ KH&CN được thể hiện và tổ chức thực hiện dưới nhiều loại
hình khác nhau, do nhiều cơ quan được phân cấp quản lý như: chương trình
KH&CN trọng điểm cấp nhà nước; chương trình nơng thơn - miền núi; đề tài,
dự án độc lập cấp nhà nước (do Bộ KH&CN quản lý), đề tài, dự án các cấp
như cấp bộ, tỉnh, cơ sở…
Việc thực hiện các nhiệm vụ KH&CN bao gồm hai hình thức:
- Hình thức thực hiện các chương trình nghiên cứu KH&CN. Chương
trình KH&CN gồm một số đề tài, dự án KH&CN nên việc thực hiện chủ yếu
là các thủ tục mang tính hành chính.
- Hình thức thực hiện các đề tài, dự án KH&CN. Hình thức này thể
hiện rõ nét hoạt động nghiên cứu khoa học.
Do vậy, đề tài sẽ tiếp cận vấn đề sâu hơn trên phương diện hoạt động
nghiên cứu khoa học, tức là đối với hình thức thứ hai.

9


5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mac - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về phịng, chống
tham nhũng. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong Đề tài là
phương pháp hệ thống, tổng hợp, điều tra xã hội học, phân tích, so sánh để
nhận diện tham nhũng trong các giai đoạn thực hiện nhiệm vụ KH&CN bằng
việc khái quát, hệ thống hoá các hành vi, đưa ra đặc điểm, nhận định nguyên
nhân và hậu quả của tham nhũng. Trên cơ sở đó, gợi ý một số giải pháp
phịng, chống dưới góc độ quản lý nhà nước.
Đề tài đã tiến hành một cuộc điều tra xã hội học về nhận thức và quan
điểm đối với tham nhũng trong việc thực hiện các nhiệm vụ KH&CN mà đối

tượng là cán bộ của 63 sở KH&CN trên cả nước, nhằm đảm bảo tính khách
quan của một số nhận định, kết luận nêu trong Đề tài.
Ngồi ra, Đề tài có sử dụng tư liệu và viện dẫn quan điểm của một số
nhà khoa học, nhà quản lý trong lĩnh vực KH&CN.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn đã phân tích và làm rõ nguyên nhân, hậu quả, đặc điểm và
xu hướng phát triển của tham nhũng trong việc thực hiện các nhiệm vụ
KH&CN. Trên cơ sở đó đưa một số giải pháp phịng, chống tham nhũng
nhằm từng bước hạn chế tệ nạn này.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo nghiên cứu, xây dựng cơ chế,
chính sách để phịng, chống và xử lý các hành vi tham nhũng cụ thể trong
việc thực hiện các nhiệm vụ KH&CN.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn gồm: Phần mở đầu, 3 chương và Kết luận
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tham nhũng trong việc thực hiện
các nhiệm vụ KH&CN

10


Chương 2: Nhận diện tham nhũng trong việc thực hiện các nhiệm vụ
KH&CN
Chương 3: Nguyên nhân, hậu quả và giải pháp phòng, chống tham
nhũng trong việc thực hiện các nhiệm vụ KH&CN.
Tuy nhiên, cũng phải khẳng định rằng, hành vi tham nhũng nói chung
và trong việc thực hiện các nhiệm vụ KH&CN nói riêng là một hiện tượng xã
hội, có tính chất phức tạp. Vì vậy, khơng một cơng trình nghiên cứu nào có
thể phản ánh đầy đủ thực trạng, lý giải được rõ ràng các nguyên nhân và đề
xuất được hệ thống giải pháp hữu hiệu để loại bỏ hồn tồn. Đề tài này chỉ
góp thêm một tiếng nói, dựa trên việc phân tích và khái quát các hành vi vi

phạm đã và có thể xảy ra trong việc thực hiện các nhiệm vụ KH&CN để nhận
diện, tìm hiểu nguyên nhân, nâng cao nhận thức về tham nhũng trong lĩnh
vực này cho các chủ thể có liên quan để chủ động phòng, tránh và chống
tham nhũng, đồng thời cũng gợi ý một số giải pháp phòng, chống tệ nạn này
dưới góc độ quản lý nhà nước.

11


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THAM NHŨNG TRONG VIỆC
THỰC HIỆN CÁC NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
1.1. Khái niệm và chủ thể của tham nhũng trong hoạt động khoa
học và công nghệ
1.1.1. Khái niệm tham nhũng
Tham nhũng là một hiện tượng xã hội phức tạp và có sức lan tỏa mạnh
mẽ. Nó gây tổn hại đến sự công bằng, dân chủ trong xã hội bởi các tác động
xấu ảnh hưởng tới việc sử dụng các nguồn lực và quyền lực của Nhà nước
cũng như phá hoại các hoạt động quản lý của Nhà nước. Thậm chí, có ý kiến
cịn ví "đó là một loại vi-rút có khả năng làm què quặt các chính phủ, làm mất
uy tín của các tổ chức cơng và các tập đồn tư nhân, có ảnh hưởng mang tính
phá hoại đến nhân quyền của người dân, do vậy hủy hoại xã hội cùng với sự
phát triển của nó, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhân dân, đặc biệt là những
người nghèo" [35].
Tệ nạn này diễn ra ở hầu hết các quốc gia, không phân biệt chế độ
chính trị, tiềm lực kinh tế và có thể xuất hiện ở bất kỳ nơi nào có sự hiện diện
của yếu tố quyền lực công, từ người cung cấp các dịch vụ cơng đến các nhà
hoạch định chính sách, đảm bảo thực thi chính sách pháp luật của mỗi quốc
gia. Thậm chí trong giai đoạn hiện nay, khi xu thế tồn cầu hố đang chiếm
ưu thế và sự hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới được coi "là thước đo

vị thế, là tấm vé bước lên con tàu tăng trưởng và phát triển của mỗi quốc gia"
thì tham nhũng cũng vượt ra ngồi tầm kiểm sốt của chính phủ mỗi nước.
Cho đến nay, tham nhũng chưa được định nghĩa rõ ràng và đạt được sự
thống nhất giữa các quốc gia, thậm chí trong một quốc gia. Ở Áo, tham nhũng
được hiểu "là hiện tượng lừa đảo, hối lộ, bóc lột". Ở Đức lại quan niệm "tham

12


nhũng là hiện tượng mất phẩm chất, hối lộ, đút lót, thường xảy ra đối với
cơng chức có quyền hành". Ở Thụy Sỹ, "tham nhũng là hậu quả nghiêm trọng
của sự vơ tổ chức của tầng lớp có trách nhiệm trong bộ máy nhà nước. Đó là
hành vi phạm pháp để phục vụ lợi ích cá nhân". In-đơ-nê-xi-a định nghĩa
tham nhũng đơn giản là "việc dùng các chức vụ trong bộ máy chính quyền để
phục vụ cho mục đích cá nhân một cách trái pháp luật".
Dưới góc độ quốc tế, Ngân hàng thế giới định nghĩa "tham nhũng là sự
lợi dụng chức vụ công để tư lợi". Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế
(OECD) coi "tham nhũng là sự lợi dụng chức vụ, vai trò và nguồn lực công
để trục lợi cá nhân". Tổ chức Minh bạch quốc tế (TI) - tổ chức phi chính phủ
đi đầu trong những nỗ lực chống tham nhũng coi "tham nhũng là hành vi vi
phạm của công chức trong khu vực công, dù là chính trị gia hay cơng chức
dân sự, trong đó họ làm giàu một cách khơng đúng đắn hoặc bất hợp pháp
cho bản thân hay cho người thân của mình bằng cách lạm dụng quyền lực
cơng đã giao cho họ".
Trong “Tools to support transparency in local govermance”(công cụ hỗ
trợ cho tính minh bạch trong cơng tác cai trị ở địa phương), TI đã nêu một
định nghĩa của Klitgaard, MacLean, Abaroa và Parris, được nhiều định chế
quốc tế và học giả sử dụng như sau: “Tham nhũng có nghĩa là lạm dụng chức
vụ cho lợi ích riêng”. Chức vụ là một vị trí cơng tác dựa trên cơ sở niềm tin,
mà từ đó một người được nhận một thẩm quyền hành động nhân danh một

định chế nào đó.
Theo tài liệu hướng dẫn của Liên hợp quốc về cuộc đấu tranh quốc tế
chống tham nhũng (năm 1969) thì tham nhũng được định nghĩa đơn giản hơn,
trong một phạm vi hẹp, đó là “sự lợi dụng quyền lực nhà nước để trục lợi
riêng”.

13


Tuy nhiên, dù quan niệm về tham nhũng trên thế giới không giống nhau
nhưng đều thống nhất ở một điểm, coi đó là hành vi sử dụng quyền lực cơng
nhằm mưu lợi cá nhân một cách bất hợp pháp.
Ở Việt Nam, theo từ điển tiếng Việt thì "tham nhũng là lợi dụng quyền
hành để nhũng nhiễu nhân dân lấy của" [44]. Đây là một khái niệm tương đối
đơn giản về một vấn đề phức tạp. Quan niệm này xuất phát từ chính bản thân
cụm từ "tham nhũng" gồm 2 yếu tố: tham và nhũng. "Tham" là hám lợi, tư
lợi, vụ lợi; "nhũng" là lợi dụng quyền hành, chức trách được giao để sách
nhiễu, nhũng nhiễu nhằm thỏa mãn lòng tham. Tuy nhiên trong mỗi giai đoạn
lịch sử cụ thể, quan niệm về tham nhũng cũng có những sự khác biệt nhất định.
Thời kỳ phong kiến, với đặc thù vương quyền và thần quyền tối thượng
đều nằm trong tay nhà vua, hệ thống quan lại từ trung ương đến địa phương
(theo phẩm hàm) đều có quyền hành và ảnh hưởng rất lớn tới cuộc sống
người dân. Nguồn sống của triều đình và bộ máy giúp việc chủ yếu trông và
các loại sưu thuế do người dân đóng góp, trong đó, một phần khá lớn được
chuyển về hồng cung, phần cịn lại do các quan địa phương thay mặt triều
đình nắm giữ, quản lý ở tại địa phương. Chính vì vậy, đặc thù tham nhũng
của hệ thống quan lại trong giai đoạn này chủ yếu là nhận hối lộ và biến tài
sản công thành tài sản riêng. Quan niệm và các hành vi tham nhũng cũng
được đề cập trong nhiều điều luật cụ thể. Tất nhiên, thuật ngữ "tham nhũng"
chưa được sử dụng để xác định cho các tội danh cụ thể mà chỉ là những tội

mang tính chất lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tư lợi qua mối quan hệ với
dân hoặc với công quỹ.
Thời kỳ từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến 1998 (trước khi
Pháp lệnh Phòng, chống tham nhũng được ban hành), nhiều quy định về
phòng, chống tham nhũng được Nhà nước ban hành nhưng một định nghĩa
chính thức về tham nhũng vẫn chưa có. Tham nhũng chủ yếu thể hiện qua
nhiều tội danh cụ thể trong pháp luật hình sự với hình phạt khá nghiêm khắc

14


như các quy định về tội tham ô tài sản XHCN trong Pháp lệnh Trừng trị các
tội xâm phạm tài sản XHCN, tội nhận hối lộ trong Pháp lệnh Trừng trị tội hối
lộ… Tuy nhiên, đặc trưng “chức vụ, quyền hạn” và “vụ lợi” của hành vi tham
nhũng đã hình thành và dần rõ nét.
Tham nhũng lần đầu tiên được định nghĩa chính thức và cụ thể trong
một văn bản pháp luật, đó là Pháp lệnh Chống tham nhũng năm 1998 (được
sửa đổi, bổ sung năm 2000). Theo đó, tham nhũng được hiểu là "hành vi của
người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tham ô, hối
lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản của
Nhà nước, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ
quan, tổ chức". Với định nghĩa này, các hành vi tham nhũng được xác định cụ
thể gồm:
- Tham ô tài sản XHCN;
- Nhận hối lộ;
- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành cơng vụ vì vụ lợi;
- Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, cơng vụ vì vụ lợi;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục
lợi;

- Giả mạo trong cơng tác vì vụ lợi.
Tương ứng với các hành vi này là các loại tội tương ứng được quy định
trong Bộ luật Hình sự.
Cũng theo quy định của Pháp lệnh Chống tham nhũng, người có chức
vụ, quyền hạn được xác định rõ là cán bộ, công chức; sỹ quan, hạ sỹ quan,
quân nhân chuyên nghiệp, cơng nhân quốc phịng trong các cơ quan, đơn vị
thuộc Công an nhân dân và Quân đội nhân dân; cán bộ lãnh đạo, quản lý
nghiệp vụ trong các doanh nghiệp nhà nước; cán bộ xã, phường, thị trấn và
những người khác được giao nhiệm vụ, công vụ. Như vậy, tham nhũng được

15


xác định là các hành vi nêu trên nếu xảy ra trong khu vực cơng, khu vực nhà
nước. Đó cũng là điểm khác biệt cơ bản với quan niệm về tham nhũng của các
quốc gia phát triển trên thế giới đang có xu hướng quan niệm tham nhũng bao
gồm cả khu vực tư nhân.
Trong dự thảo Luật phòng, chống tham nhũng do Chính phủ trình
Quốc hội tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khoá XI (tháng 6/2005), tham nhũng
được định nghĩa là “hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn vì vụ lợi”. Người có
chức vụ, quyền hạn được xác định là “người giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý
trong cơ quan, tổ chức được thành lập theo pháp luật hoặc điều lệ của tổ chức
chính trị, chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp, người được giao thực hiện
một cơng vụ, nhiệm vụ và có quyền hạn khi thực hiện cơng vụ, nhiệm vụ đó”.
Như vậy, khái niệm tham nhũng đã được mở rộng hơn, không chỉ là hành vi
của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức của nhà nước mà còn
gồm của cả người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức xã hội,
doanh nghiệp ngoài nhà nước. Nghĩa là, tham nhũng theo pháp luật được xác
định bao gồm cả khu vực tư.
Tuy nhiên, trước khi Luật phòng, chống tham nhũng được thơng qua

cũng có nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau về tham nhũng.
Có ý kiến cho rằng quan niệm về tham nhũng cần xác định là hành vi có đủ 3
yếu tố "quyền lực", "vụ lợi" và "xảy ra ở khu vực công" như trong Pháp lệnh
Chống tham nhũng năm 1998 là phù hợp. Ý kiến khác cho rằng quan niệm về
tham nhũng cần mở rộng ra cả khu vực ngồi nhà nước. Có ý kiến đề nghị coi
tham nhũng còn bao gồm cả hành vi của những người khơng có chức vụ,
quyền hạn nhưng do có mối quan hệ với người có chức vụ, quyền hạn đã lợi
dụng mối quan hệ này để vụ lợi.
Luật Phòng, chống tham nhũng được ban hành năm 2005 đã xác định
"Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức
vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi".

16


Ngoài các hành vi tham nhũng đã được Pháp lệnh đề cập, nhiều hành vi
tiêu cực cũng đã được Luật bổ sung và xếp vào hệ thống các hành vi tham
nhũng, bao gồm:
- Tham ô tài sản: là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn chiếm
đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý.
- Nhận hối lộ: là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn trực tiếp
hoặc qua trung gian nhận lợi ích vật chất (của hối lộ) do đã hoặc sẽ làm hay
không làm một việc có lợi cho bên đưa hoặc theo yêu cầu của bên đưa hối lộ.
- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản: là hành vi của
người có chức vụ, quyền hạn vượt quá quyền hạn được giao nhằm chiếm đoạt
tài sản.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, cơng vụ vì
vụ lợi: là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ,
quyền hạn được giao làm trái cơng vụ vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác.
- Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, cơng vụ vì vụ lợi: là hành vi

của người có chức vụ, quyền hạn vượt quá quyền hạn được giao làm trái cơng
vụ vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác.
Xét về bản chất, lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, cơng vụ vì vụ
lợi cũng là lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ vì vụ lợi
nhưng có điểm khác là chủ thể đã vượt q quyền hạn của mình hay nói cách
khác, chủ thể đã thực hiện việc làm không thuộc thẩm quyền và nội dung việc
làm đó là sai. Tuy nhiên, ở trường hợp lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi
thi thành nhiệm vụ, công vụ nội dung việc làm của chủ thể là sai nhưng việc
làm đó thuộc phạm vi chức trách của chủ thể. Trường hợp lạm quyền có tính
nguy hiểm cao hơn, vì hành vi đã vượt q phạm vi chức trách.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục
lợi: là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian
nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình

17


thức nào để dùng ảnh hưởng của mình thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn
làm hoặc khơng làm một việc thuộc trách nhiệm hoặc liên quan trực tiếp đến
công việc của họ hoặc làm một việc không được phép làm.
- Giả mạo trong cơng tác vì vụ lợi: là hành vi của người có chức vụ,
quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để sửa chữa, làm sai lệch
nội dung giấy tờ, tài liệu hoặc làm, cấp giấy tờ giả nhằm mục đích vụ lợi.
- Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ,
quyền hạn để giải quyết cơng việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa
phương vì vụ lợi: là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đại diện cho cơ
quan, tổ chức, địa phương thông qua việc đưa hối lộ, môi giới hối lộ cho
người có chức vụ, quyền hạn phụ trách việc phê duyệt chương trình, dự án,
cấp kinh phí, ngân sách để được lợi cho cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương
mình và thơng qua đó để đạt được lợi ích cá nhân.

Hành vi đưa hối lộ, môi giới hối lộ là tội danh được quy định trong Bộ
luật Hình sự khơng thuộc nhóm các tội phạm về tham nhũng mà thuộc nhóm
các tội phạm về chức vụ. Nhưng hành vi đưa hối lộ, làm môi giới hối lộ được
thực hiện bởi chủ thể có chức vụ, quyền hạn để giải quyết công việc của cơ
quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi thì mới được coi là hành vi
tham nhũng. Hành vi này vừa chịu sự điều chỉnh của pháp luật hình sự với tội
danh tương ứng (nếu hành vi đó cấu thành tội phạm) vừa là hành vi tham
nhũng theo sự điều chỉnh của pháp luật về tham nhũng.
- Lợi dụng chức vụ quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của nhà nước
vì vụ lợi: là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn nhưng đã lợi dụng việc
được giao quyền quản lý tài sản của nhà nước để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc
một nhóm người nào đó thay vì phục vụ lợi ích cơng. Hành vi này bao gồm:
sử dụng tài sản của Nhà nước vào việc riêng; cho thuê tài sản của Nhà nước,
cho mượn tài sản của Nhà nước; sử dụng tài sản của Nhà nước vượt quá chế
độ, định mức, tiêu chuẩn (khoản 2 Điều 3 Nghị định số 120/2006/NĐ-CP

18


ngày 20/10/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật Phòng, chống tham nhũng).
- Nhũng nhiễu vì vụ lợi: là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn
thể hiện sự cửa quyền, hách dịch, gây khó khăn, phiền hà khi thực hiện nhiệm
vụ, cơng vụ nhằm địi hỏi, ép buộc cơng dân, doanh nghiệp và tổ chức, cá
nhân khác phải nộp những khoản chi phí ngồi quy định hoặc phải thực hiện
những hành vi khác vì lợi ích của người thực hiện hành vi nhũng nhiễu
(khoản 3 Điều 3 Nghị định số 120/2006/NĐ-CP ngày 20/10/2006 quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phịng, chống tham
nhũng).
- Khơng thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ vì vụ lợi: là hành vi của người có

chức vụ, quyền hạn đã khơng thực hiện nhiệm vụ, công vụ mà pháp luật buộc
phải làm để được trao một lợi ích nhất định nào đó.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi
phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra,
thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi: là hành vi
của người có chức vụ, quyền hạn vì vụ lợi đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn
của mình để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật, cản trở q
trình phát hiện và xử lý vi phạm pháp luật thông qua các hình thức như thư
tay, điện thoại, nhắc nhở, bất hợp tác với cơ quan có thẩm quyền...
Như vậy, có thể thấy rằng, khơng chỉ trong cộng đồng quốc tế mà ngay
cả ở nước ta vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau về tham nhũng. Nhìn chung,
tồn tại hai khái niệm phổ biến sau:
Tham nhũng được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm mọi hành vi của bất
kỳ người nào có chức vụ, quyền hạn hoặc được giao nhiệm vụ, quyền hạn và
lợi dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc nhiệm vụ được giao để vụ lợi. Chủ thể của
hành vi tham nhũng có thể là cán bộ, cơng chức, viên chức hoặc người khác
thuộc khu vực nhà nước (cơ quan nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, tổ chức

19


chính trị, tổ chức chính trị - xã hội…) nhưng không phải là cán bộ, công
chức, viên chức; chủ thể của hành vi tham nhũng cũng có thể là người thuộc
khu vực tư nhân.
Theo nghĩa hẹp và là khái niệm chính thống được pháp luật Việt Nam
quy định (Luật Phịng, chống tham nhũng) thì tham nhũng là hành vi của
người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi;
người có chức vụ, quyền hạn chỉ giới hạn ở những người trong khu vực nhà
nước, tức là ở các cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị trong hệ thống chính trị
hay nói cách khác là ở các cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân sách,

vốn, tài sản của Nhà nước. Quan niệm về tham nhũng như vậy có lý do là để
bảo đảm cho cuộc đấu tranh chống tham nhũng tập trung vào những hành vi
tham nhũng phổ biến nhất, đảm bảo tính trọng tâm, trọng điểm đồng thời hạn
chế ảnh hưởng tiêu cực tới chính sách khuyến khích đầu tư phát triển kinh tế xã hội.
Ngồi ra cũng có quan điểm cho rằng, nếu chiếu theo định nghĩa chung
của quốc tế mà xét, có lẽ gần hết hệ thống cán bộ, công chức Việt Nam đều
mắc tội tham nhũng. Tính chính xác của quan điểm này cịn phải xem xét
nhưng đó là một nhận xét đáng để suy nghĩ. Bởi vì ở các nước, khi mức lương
cơ bản của cơng chức nói chung đã đáp ứng đủ những nhu cầu bình thường
thì tham nhũng chủ yếu là để nói về những quan chức muốn làm giàu bất
chính. Cịn ở Việt Nam, khi đồng lương trên giấy tờ không đủ để chi trả
những nhu cầu thiết yếu (ăn, ở, đi lại, học hành...) và nguồn thu nhập ngoài
lương cao hơn nhiều lần so với cái gọi là lương thì cần phân biệt công chức
tham nhũng thành hai loại: loại thứ nhất là tham nhũng tệ hại cần lên án, làm
không tốt chỉ tìm cách gian lận, móc ngoặc để bịn rút của cơng, gây khó dễ
cho tổ chức, cá nhân để vụ lợi. Loại thứ hai là buộc phải tham nhũng để tồn
tại hoặc có ý thức làm nghiêm túc, làm tốt nhưng cơ chế bất hợp lý nên tìm
cách để đối phó.

20


Việc quan niệm và xác định rõ ràng về tham nhũng có ý nghĩa hết sức
quan trọng. Nó là tiền đề, là cơ sở để nhận diện, phát hiện, xử lý và có những
giải pháp phù hợp nhằm từng bước kiềm chế tham nhũng trong các lĩnh vực
của đời sống xã hội, đặc biệt là trong các lĩnh vực có tính chất đặc thù như
hoạt động nghiên cứu KH&CN.
1.1.2. Chủ thể của tham nhũng trong việc thực hiện nhiệm vụ khoa
học và công nghệ
Nhiệm vụ KH&CN được pháp luật hiện hành (Điều 14 Nghị định số

81/2002/NĐ-CP ngày 17/10/2008 của Chính phủ về quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành Luật KH&CN) quy định là: "Những vấn đề KH&CN cần
được giải quyết, được tổ chức thực hiện dưới hình thức đề tài, dự án, chương
trình KH&CN.
Đề tài KH&CN có nội dung chủ yếu nghiên cứu về một chủ đề
KH&CN. Đề tài có thể độc lập hoặc thuộc dự án, chương trình KH&CN.
Dự án KH&CN có nội dung chủ yếu tiến hành các hoạt động nghiên
cứu khoa học, phát triển công nghệ, ứng dụng công nghệ; áp dụng, thử
nghiệm các giải pháp, phương pháp, mơ hình quản lý kinh tế - xã hội. Dự án
có thể độc lập hoặc thuộc chương trình KH&CN.
Chương trình KH&CN bao gồm một nhóm các đề tài, dự án KH&CN,
được tập hợp theo một mục đích xác định nhằm thực hiện mục tiêu phát triển
KH&CN cụ thể hoặc ứng dụng trong thực tiễn".
Hiện nay có các hình thức nhiệm vụ sau: chương trình KH&CN trọng
điểm cấp nhà nước; chương trình nơng thơn - miền núi (Bộ KH&CN quản lý);
đề tài, dự án độc lập cấp nhà nước (Bộ KH&CN quản lý); đề tài, dự án các
cấp như cấp bộ, tỉnh; đề tài, dự án theo Nghị định thư…; đề tài hỗ trợ doanh
nghiệp đổi mới công nghệ (quy định tại Nghị định 119/1999/NĐ-CP ngày
18/9/1999 về một số chính sách và cơ chế tài chính khuyến khích các doanh
nghiệp đầu tư vào hoạt động KH&CN) do các tổ chức được phân cấp quản lý.

21


Các nhiệm vụ KH&CN được thực hiện chủ yếu thông qua hoạt động nghiên
cứu khoa học.
Về lý luận, nghiên cứu thường được mơ tả là một quy trình tìm hiểu
tích cực, cần cù và có hệ thống nhằm khám phá, lý giải và xem xét các sự
kiện. Sự điều tra tri thức này tạo ra sự hiểu biết tốt hơn về các sự kiện, hành vi
hoặc giả thuyết và tạo ra các ứng dụng thực tế thông qua các định luật và giả

thuyết. Thuật ngữ nghiên cứu cũng được sử dụng để mô tả việc thu thập thông
tin về các vấn đề chun mơn và nó thường liên quan đến khoa học và các
phương pháp khoa học.
Nghiên cứu khoa học là một hoạt động xã hội, hướng vào việc tìm kiếm
những điều mới mà khoa học chưa biết: hoặc là phát hiện ra bản chất sự vật,
phát triển nhận thức khoa học về thế giới; hoặc là sáng tạo phương pháp mới
và phương tiện kỹ thuật mới để cải tạo thế giới [33].
Nói một cách khác, nghiên cứu khoa học là tìm cái mới, "dị dẫm" tìm
cái chưa biết, phát triển tri thức để giải quyết một vấn đề chưa có sẵn giải
pháp. Q trình tìm tịi, sáng tạo ấy khơng thể bảo đảm thành cơng tuyệt đối,
vì thường có những yếu tố bất ngờ, định tìm cái này lại ra cái khác. Bản chất
của nghiên cứu khoa học là khai phá, sáng tạo, thực hiện vai trò dự báo, định
hướng cho xã hội.
Tùy theo trình độ phát triển, ở các góc độ tiếp cận khái quát khác nhau
có thể chia hoạt động nghiên cứu khoa học theo các tiêu chí: chức năng
(truyền thống), tính thơng tin (hiện đại)… Tuy nhiên, hiện nay nghiên cứu
khoa học thường được phân loại theo sản phẩm (thông thường), gồm nghiên
cứu cơ bản; nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu triển khai.
Hoạt động nghiên cứu khoa học có những đặc điểm nổi bật là tính
mới, có thơng tin, sự kế thừa và cả rủi ro. Những đặc điểm này tạo nên và
khẳng định giá trị của hoạt động nghiên cứu, nhưng đồng thời tiềm ẩn nguy
cơ nảy sinh các hành vi tiêu cực nói chung và tham nhũng nói riêng. Ví dụ, sự

22


kế thừa thường được biện minh cho hành vi "đạo văn"; hoặc sự rủi ro thường
bị lợi dụng để che dấu, lý giải cho việc tham ơ, thất thốt tài sản (kinh phí)
trong q trình thực hiện nhiệm vụ KH&CN.
Chủ thể của hành vi tham nhũng trong việc thực hiện nhiệm vụ

KH&CN là những người được Nhà nước giao nhiệm vụ, quyền hạn trong việc
thực hiện chương trình và đề tài, dự án KH&CN. Theo quy định của Luật
KH&CN, Nghị định số 81/2002/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều
của Luật KH&CN, Quy chế Tổ chức quản lý hoạt động Chương trình
KH&CN ban hành kèm theo Quyết định số 18/2006/QĐ-BKHCN, được sửa
đổi bổ sung bằng Quyết định số 23/2006/QĐ-BKHCN, những người này gồm:
Ban chủ nhiệm Chương trình và tổ thư ký giúp việc cho ban chủ
nhiệm. Ban chủ nhiệm có chủ nhiệm, một phó chủ nhiệm và các ủy viên ban
chủ nhiệm Chương trình. Thư ký ban chủ nhiệm Chương trình gồm có thư ký
chun mơn và thư ký hành chính;
Giám đốc, các phó giám đốc và các cán bộ, nhân viên của Văn phịng
các chương trình;
Chủ nhiệm đề tài, dự án và người đại diện của tổ chức chủ trì;
Thành viên các hội đồng: Hội đồng tư vấn xác định nhiệm vụ, Hội
đồng tuyển chọn, Hội đồng xét duyệt đề cương, Hội đồng nghiệm thu kết quả,
hội đồng khoa học khác.
Căn cứ theo vị trí, vai trị tham gia việc thực hiện các nhiệm vụ
KH&CN, có thể chia thành các nhóm chủ thể sau:
- Nhóm chủ thể quản lý KH&CN
Đây là nhóm chủ thể có nguy cơ cao nhất và có thể dễ dàng trở thành
trung tâm của chuỗi liên kết tham nhũng trong hoạt động khoa học. Một trong
những nguyên nhân của tham nhũng là cơ chế "xin - cho" đã tồn tại từ lâu, tuy
nhiên hiện nay trong việc thực hiện các nhiệm vụ KH&CN đã đề cập khái
niệm “cho - xin”. Thực chất là việc các chủ thể trong khối cơ quan quản lý đi

23


tìm các tổ chức, cá nhân có chức năng và khả năng nghiên cứu để “mời” làm
chủ trì, chủ nhiệm đề tài, dự án với mục đích giải ngân cho hết số kinh phí

dành cho nghiên cứu KH&CN. Tất nhiên, khi đã triển khai các nhiệm vụ thì
họ cũng có tỷ lệ phần trăm nhất định theo quy ước ngầm được gọi là "luật bất
thành văn".
Vi phạm của nhóm chủ thể này khá phổ biến nhưng lại tinh vi, kín kẽ,
phức tạp và rất khó phát hiện bởi có sự liên kết giữa các cá nhân có quyền lực
trong bộ máy quản lý hoạt động KH&CN và các đầu mối, chủ thể khác.
- Nhóm chủ thể Hội đồng tư vấn KH&CN
Theo thống kê chưa đầy đủ, hệ thống đánh giá hiện nay đưa ra kết quả
các đề tài, dự án được đánh giá nghiệm thu xuất sắc và khá với tỷ lệ khoảng
90% [42]. Tuy nhiên, các kết quả đã nghiệm thu được áp dụng trong thực tế
rất khiêm tốn. Điều đó cũng nói lên rằng có một số khá lớn các nhiệm vụ
KH&CN được nghiệm thu nhưng thực chất khơng có giá trị. Hệ thống đánh
giá so với hiệu quả thực sự mang lại trong thực tế như vậy dễ dàng triệt tiêu
các nghiên cứu khoa học nghiêm túc, làm lãng phí cơ hội, kinh phí và thời
gian của hoạt động nghiên cứu khoa học.
Phương thức đánh giá hiện nay chủ yếu dựa vào các hội đồng tư vấn
khoa học nhưng chưa có cơ chế kiểm sốt phù hợp nên rất dễ xảy ra tham
nhũng. Nhìn chung, các hội đồng đều làm việc nghiêm túc, có trách nhiệm
nhưng hiện nay cũng đã xuất hiện tình trạng “móc ngoặc” ngầm giữa các cá
nhân (vì nhiều người vừa là thành viên xét duyệt ở hội đồng này lại vừa tham
gia tuyển chọn thực hiện nhiệm vụ KH&CN ở hội đồng khác) để tránh phản
biện độc lập các vấn đề về khoa học, đặc biệt trong khoa học xã hội. Nói một
cách khác, ở vị trí là thành viên hội đồng tư vấn, một cá nhân có thể tác động
vào quyết định của cấp có thẩm quyền qua vai trị tư vấn đã được pháp lý hóa
của mình.
- Nhóm chủ thể thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu KH&CN

24



Chủ thể thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu KH&CN là những người trực
tiếp tổ chức triển khai thực hiện các nội dung nghiên cứu. Đây là nhóm phổ
biến nhất và đúng nghĩa "thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu" nhất. Theo quy định
hiện hành, tùy theo cấp của nhiệm vụ mà các chủ thể đăng ký thực hiện phải có
học hàm, học vị nhất định (ví dụ đối với nhiệm vụ cấp nhà nước, người chủ trì
thường phải có học vị tiến sỹ), nhưng tối thiểu phải tốt nghiệp đại học. Do vậy
có thể nói, đặc điểm nổi bật của chủ thể thực hiện nhiệm vụ KH&CN có hành
vi tham nhũng chỉ là những trí thức - nhà khoa học thuộc các chuyên ngành
khác nhau.
Nhiệm vụ, quyền hạn trong việc thực hiện các nhiệm vụ KH&CN của
các chủ thể nêu trên được Bộ trưởng Bộ KH&CN giao cho, cụ thể là:
Nhiệm vụ và quyền hạn của thành viên trong Ban Chủ nhiệm Chương
trình được quy định tại các điều 4, 5, 6 và 7 của Quy định về tổ chức và hoạt
động của Ban chủ nhiệm Chương trình ban hành kèm theo Quyết định số
2855/QĐ-BKHCN ngày 29/12/2006 của Bộ trưởng Bộ KH&CN. Trong đó có
một số nhiệm vụ, quyền hạn có khả năng chi phối, ảnh hưởng lớn đến quá
trình thực hiện các nhiệm vụ KH&CN, cụ thể là:
- "Chủ nhiệm Chương trình: quy định các biện pháp lãnh đạo và điều
hành hoạt động, chế độ làm việc của các thành viên trong Ban chủ nhiệm; chỉ
đạo, phối hợp hoạt động của các thành viên trong Ban chủ nhiệm Chương
trình; quyết định các vấn đề về hoạt động của Chương trình.
- Phó chủ nhiệm Chương trình: giúp Chủ nhiệm Chương trình thực hiện
các nhiệm vụ theo sự phân công của Chủ nhiệm Chương trình; được uỷ quyền
điều hành cơng việc của Ban chủ nhiệm Chương trình khi Chủ nhiệm Chương
trình vắng mặt.
- Uỷ viên Ban chủ nhiệm Chương trình: giúp Chủ nhiệm Chương trình
giải quyết các cơng việc theo sự phân công và được uỷ quyền thay mặt Ban
Chủ nhiệm Chương trình khi cần thiết.

25



×