Tải bản đầy đủ (.docx) (69 trang)

Nghiên cứu khả năng sinh trưởng của chuối tây trồng chồi và cây nuôi cấy mô tại bắc kạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (539.27 KB, 69 trang )

1
PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Cây ăn quả là loại cây có vị trí quan trọng trong việc chuyển đổi cơ cấu
cây trồng, vừa nâng cao hiệu quả kinh tế vừa có tác dụng trong việc bảo vệ
môi trường. Hiện nay, cây ăn quả đã được chú trọng phát triển trên nhiều
vùng sinh thái đặc biệt là các tỉnh trung du, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng
khó khăn và đã mang lại những hiệu quả thiết thực. Trong thực tế có nhiều dự
án lớn về trồng cây ăn quả đã được quan tâm chú trọng phát triển ở những
vùng này và đã mang lại hiệu quả cao góp phần nâng cao vai trò nghề trồng cây
ăn quả trong việc xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống cho nhiều người dân.
Ngày nay khi đời sống xã hội đã được cải thiện thì nhu cầu của con
người ngày càng cao. Ngoài những giá trị về mặt kinh tế, cây ăn quả còn có
vai trò quan trọng trong việc cung cấp những giá trị dinh dưỡng cho con
người. Quả tươi là một phần rất cần thiết trong bữa ăn của mỗi gia đình, tăng
khẩu phần quả tươi trong mỗi bữa ăn là mức phấn đấu của nhiều nước có nền
kinh tế phát triển. Đáp ứng đủ nhu cầu quả tươi trong mỗi bữa ăn hàng ngày
là đảm bảo dinh dưỡng và an toàn cho mỗi người.
Chuối là loại trái cây có công dụng đa dạng, rất thông dụng ở Việt
Nam. Từ quả chuối, hoa chuối, thân chuối có thể chế biến ra nhiều món ăn
như chuối khô, chuối sấy, mứt chuối, rượu chuối, nước cốt chuối, bột chuối,
Trái chuối tây, chuối tiêu, chuối hột có thể điều chế ra các bài thuốc điều trị
hơn 20 căn bệnh khác nhau: sỏi thận, tiêu chảy, rụng tóc, tiểu đường, viêm
loét dạ dày, phong thấp, hắc lào… Thân chuối còn được dùng làm hàng thủ
công mỹ nghệ hoặc chế biến thức ăn chăn nuôi gia súc, gia cầm. Rác thải từ
cây chuối còn được sử dụng làm than tổ ong, sản xuất chất dẻo. Đặc biệt trái
chuối bị hư hỏng, vạt bỏ trong quá trình thu hoạch, chế biến còn được nghiên
cứu phân hủy tạo ra một nguồn năng lượng điện mới.
Chuối là loại cây dễ trồng, không tốn nhiều công sức chăm bón, ít khi
bị sâu bệnh và ít chịu tác động của thời tiết nên rất phù hợp với điều kiện kinh


tế cũng như tập quán canh tác của bà con nông dân. Chỉ cần một lao động có
thể chăm sóc được 03 ha chuối. Nếu chăm sóc tốt thì một lứa chuối có thể thu
1
1
2
hoạch từ 4 - 5 năm. Bình quân 01 ha đất trồng được khoảng 1.400 gốc chuối,
sau hơn 18 tháng chuối bắt đầu cho thu hoạch, trừ hao hụt do ngã đổ thì cũng
thu được ít nhất 1.300 buồng. Bán tại vườn cho mấy chủ buôn lớn với giá
khoảng 30.000-35.000 nghìn đồng/buồng thì thu được khoảng trên 40 triệu
đồng/ha. Nếu nhà vườn biết cách để kìm cây chuối cho trổ buồng, thu hoạch
đúng vào các dịp rằm, mùng 5 tháng 5 âm lịch hoặc Tết Nguyên đán thì sẽ
bán được giá hơn ngày thường 2 - 3 lần.
Thị xã Bắc Kạn có tổng diện tích tự nhiên là 13.195 ha, trong đó đất sản
xuất nông nghiệp 1.426,5 ha, đất lâm nghiệp 8.506,43 ha, đất chưa sử dụng
1.835,42 ha. Dân số 37.959 người, gồm 5 dân tộc cùng chung sống là Tày,
Kinh, Dao, Nùng, Hoa, với 8592 hộ dân trong đó thành thị 5505 hộ, nông thôn
3087 hộ. Số hộ dân sống ở nông thôn chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp là
chính, cây trồng chủ là các loại cây lương thực như lúa, ngô theo hướng tự
cung tự cấp, các loại cây trồng khác chưa được chú trọng phát triển, các sản
phẩm mang tính hàng hoá không đáng kể và còn manh mún, nhỏ lẻ.[5]
Cho đến nay thị xã chưa có sự đầu tư thích ứng, để phát triển những
tiềm năng sẵn có ở địa phương trở thành thế mạnh trong phát triển kinh tế - xã
hội phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong giai đoạn mới.
Cây chuối là cây trồng quen thuộc với mọi miền của đất nước, có khả
năng thích ứng với nhiều loại đất đai và khí hậu. Chuối là cây ăn quả nhiệt
đới, thời gian sinh trưởng ngắn, sớm cho thu hoạch, dễ trồng và chỉ có vùng
nhiệt đới mới có, cho nên có địa bàn xuất khẩu rộng và luôn là mặt hàng có
giá trị xuất khẩu cao.
Xã Nông Thượng và xã Xuất Hoá, thị xã Bắc Kạn có điều kiện tự nhiên
phù hợp cho phát triển nhiều loại cây ăn quả, đặc biệt là người dân ở đây có

truyền thống trồng cây chuối. Trong thời gian qua chuối tây đã được trồng ở
nhiều nơi trên địa bàn, tuy nhiên việc phát triển cây chuối còn mang tính tự
phát, chưa chú trọng về nguồn giống và áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong việc
thâm canh loại cây ăn quả này, vì những lý do trên chúng tôi tiến hành nghiên
cứu đề tài: “Nghiên cứu khả năng sinh trưởng của chuối tây trồng chồi và
cây nuôi cấy mô tại Bắc Kạn”.
2
2
3
1.2. Mục đích
- Xác định khả năng sinh trưởng - phát triển của chuối tây trồng bằng
chồi và bằng cây nuôi cấy mô trên điều kiện tự nhiên của 2 xã Nông Thượng
và Xuất Hoá, thị xã Bắc Kạn.
- Xây dựng mô hình trồng mới cây chuối tây trồng chồi tại thị xã Bắc Kạn.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
- Giúp sinh viên củng cố kiến thức đã học áp dụng kiến thức đó vào
thực tiễn.
- Tạo điều kiện cho sinh viên có thêm kinh nghiệm sản xuất.
- Giúp cho sinh viên nắm được quy trình trồng chuối tây, cụ thể là cây
chuối chồi trên vườn sản xuất.
1.3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn
- Tìm hiểu được khả năng sinh trưởng phát triển của chuối tây trồng
bằng chồi.
- Lựa chọn được phương pháp trồng thích hợp.
3
3
4
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Chuối là loại cây ăn quả nhiệt đới, ngắn ngày, dễ trồng và cho sản
lượng khá cao, trung bình có thể đạt năng suất 20 - 30 tấn/ha. Chuối có giá trị
kinh tế khá lớn và là mặt hàng xuất khẩu của nhiều nước. Bên cạnh đó,chuối
cũng là cây có giá trị dinh dưỡng cao: gồm nhiều chất bột, chất đạm, chất xơ,
sinh tố và khoáng chất. Đặc biệt chuối có hàm lượng kali rất cao và cả 10 loại
acid amin thiết yếu của cơ thể. Theo Viện Nghiên Cứu và Phát Triển Nông
Nghiệp Malaysia (MARDI), chuối là loại trái cây duy nhất hội tụ đầy đủ
thành phần những chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể con người. Do đó,
chuối đặc biệt thích hợp để bổ sung khẩu phần dinh dưỡng cho trẻ em và
người già, có tác động ngăn ngừa và trị bệnh rất tốt. Nhờ những giá trị này mà
hiện nay chuối đang trở thành mặt hàng mang lại lợi nhuận cao cho người
nông dân ở hầu khắp các quốc gia trên thế giới đặc biệt là các quốc gia vùng
nhiệt đới với thị trường tiêu thụ hứa hẹn nhiều triển vọng.
Trồng cây ăn quả nói chung muốn có năng suất cao, phẩm chất quả tốt,
kéo dài chu kỳ kinh tế của cây cần áp dụng đúng kỹ thuật của từng loại cây.
Không những thế, mỗi loại giống lại có những yêu cầu, đòi hỏi riêng, chỉ khi
đáp ứng được những yêu cầu đó thì giống cây mới phát huy đầy đủ những đặc
tính tốt của nó, mang lại lợi ích thiết thực cho chủ vườn .[9]
Ở nước ta, khí hậu bốn mùa đều phù hợp cho chuối phát triển, từ Bắc
đến Nam, đồng bằng cũng như miền núi, ở đâu và mùa nào cũng có chuối.
Chuối đối với người Việt Nam là rau, là quả, là lương thực, thực phẩm. Sản
lượng chuối ở ta hàng năm cũng khá, ngoài việc tiêu thụ nội địa, chúng ta còn
xuất khẩu một lượng khá lớn. Tuy vậy, so với nhiều nước xuất khẩu chuối thì
năng suất trồng chuối nước ta còn thấp. Do việc trồng chuối ở nước ta hiện
nay chưa áp dụng được những biện pháp kỹ thuật hợp lý trong sản xuất.
Hoạt động nghiên cứu sự sinh trưởng, phát triển của cây chuối tây
nhằm phát hiện các biểu hiện hình thái, các hiện tượng sinh lý cũng như ảnh
hưởng của địa hình, biện pháp kỹ thuật đến sự sinh trưởng và phát triển của
chuối. Trên cơ sở đó nghiên cứu áp dụng các biện pháp kỹ thuật canh tác, có

4
4
5
ảnh hưởng tốt đến năng suất, chất lượng chuối. Góp phần nâng cao sản lượng
chuối, nâng cao thu nhập cho người dân, mở rộng thêm nguồn cung cấp chuối
cho thị trường nội địa và xuất khẩu.
2.2. Nguồn gốc, sự phân bố và hệ thống phân loại chuối
2.2.1. Nguồn gốc và phân bố
Cây chuối là một cây được con người sớm biết đến và được đưa về
trồng cách đây 3000 - 4000 năm. Là thức ăn chính của người nguyên thủy,
còn cung cấp xơ bẹ để làm quần áo cho họ che thân; khi biết chuyển từ kinh
tế hái lượm sang trồng tỉa, con người đã biết đưa cây chuối về trồng.
Về nguồn gốc cây chuối, nhiều tác giả nghiên cứu đã thống nhất là
chuối có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới Đông Nam Á, Ấn Độ, Nê Pan, Miến
Điện, bán đảo Đông Dương, Malaixia, Philippin
Từ vùng khởi sinh cây chuối được đưa đi theo 2 đường:
- Phát triển về phía Tây: Ấn Độ - Ả Rập - Trung Mỹ - Nam Mỹ.
- Phát triển về phía Đông: Indonesia - châu Úc, Tân Ghinê và các quần
đảo Thái Bình Dương, Trung Mỹ.[3]
Cây chuối được trồng ở Nam Ấn Độ từ cách đây khoảng 500 năm trước
công nguyên và từ nơi này chúng được đưa đến Malaixia qua Mandagaca rồi
chuyển dịch về phương đông qua Thái Bình Dương đến Nhật Bản và Samoa ở
miền trung Thái Bình Dương khoảng 1000 năm sau công nguyên. Có lẽ chuối
được du nhập vào Đông Phi khoảng 500 năm sau công nguyên và được ổn
định ở Tây Phi khoảng 1400 năm sau công nguyên, cuối cùng chuối đã có mặt
ở vùng Caribê và Mỹ La Tinh ngay sau năm 1500 sau công nguyên
(Simmond 1962 - 1966 - 1976). Cuối thế kỷ XI cây chuối đã được trồng phổ
biến khắp các vùng nhiệt đới. Ở Nam Mỹ người ta đã thấy cây chuối được
trồng nhiều ở phía Nam Bolivia và hầu khắp Braxin. Ở châu Phi khu vực
trồng chuối trải rộng từ vùng Sahara tới Tanzania, ở phía Tây và Đông

Cotdivia qua Côngô đến các vùng Tây và Trung nước Nam Phi.
Những bằng chứng khảo cổ cho thấy chuối đã được trồng ở thế kỷ VI-
V trước công nguyên. Đầu thế kỷ I sau công nguyên khoảng năm 200 cây
chuối đã được trồng ở Trung Quốc, sau đó vào năm 700 chuối được trồng ở
vùng Địa Trung Hải. Khoảng thế kỷ XV người Tây Ban Nha đưa chuối từ
5
5
6
châu Âu về trồng ở đảo Cana của Đôminica và mãi đến thế kỷ XIX chuối mới
được buôn bán trên thế giới.
Những bằng chứng khảo cổ khác lại cho thấy khoảng 10.000 năm trước
đây ở châu Á vào thời kỳ đồ đá, con người đã tìm thấy một giống cây đột biến
có thể ăn được mà không có hạt. Họ nhân giống chuối bằng cách tách mầm
con từ thân ngầm của cây mẹ để đem trồng, phương pháp này vẫn được duy
trì đến ngày nay. Điều này có ý nghĩa là các cây chuối đều giống nhau về mặt
di truyền (không có sự kết hợp gen giữa các cây khác nhau), do vậy qua thời
gian dài chúng sẽ mất đi đặc tính chống chịu sâu bệnh và một khi dịch bệnh
xuất hiện sẽ rất nghiêm trọng.
Vào những năm 50 giống chuối Gros Michel đã bị quét sạch khỏi trái
đất. Theo chân chuối Gros Michel là Cavendish hiện bị đe dọa bởi đại dịch
toàn cầu khác do nấm đen Sigatoka gây ra. Loại nấm này xuất hiện đầu tiên ở
núi Phú Sĩ (Nhật Bản) từ năm 1963, sau đó đã nhanh chóng phát tán và phá
hủy gần hết các cánh đồng chuối ở Amaron, làm giảm tới 70% sản lượng
chuối ở đây.
Ngày nay chuối được trồng hầu hết ở các vùng nhiệt đới, Á nhiệt đới
ẩm, phân bố từ 30
0
vĩ Bắc đến 30
0
vĩ Nam.

Theo FAO, tổng diện tích trồng chuối trên toàn thế giới tính đến năm
2010 là 4.771.944 ha tập trung chư yếu ở các nước Trung và Nam Mỹ, châu
Á và châu Phi. Các nước trồng nhiều chuối là: Ấn Độ, Braxin, Ecuador,
Honduras, Philippin, Columbia, Panama, Thái Lan, Trung Quốc, Venezuela
2.2.2. Phân loại
Cây chuối nói chung có tên khoa học là Musa do nhà phân loại học
người Anh Chline (1707 - 1778) đặt ra để tưởng nhớ đến Antonius Musa một
thầy thuốc sống vào thời hoàng đế Rome thứ nhất Octavius Agnstus.
Việc phân loại chuối từ lâu đã là một vấn đề lớn đối với phân loại học.
Ban đầu chuối được sắp xếp vào 2 loại chuẩn theo Linmaur là chuối ăn tươi
và chuối ăn luộc vì tinh bột ở những quả này khi chín không chuyển hóa
thành đường dễ tan. Nhưng sau đó những dòng chuối thu thập được ngày
càng nhiều, có những dòng có thể vừa ăn tươi vừa ăn luộc được (khi quả xanh
6
6
7
có thể ăn luộc, khi quả chín tinh bột lại chuyển hóa thành đường dễ tiêu).
Trước sự đa dạng của các giống chuối người ta nghĩ ra việc gọi tên chúng
bằng cả ngôn ngữ Latin và tên gọi thông thường của địa phương.Việc phân
loại đã trở nên lộn xộn khi các giống chuối ngày càng tăng. Sau đó vấn đề
phân loại chuối được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu nhiều hơn, tiêu
biểu là công trình phân loại của tác giả Kurs (1865) sau đó là học giả
Chesman (1948) và gần đây nhất là Simmond và Shepherd (1955).
Tất cả các loài chuối trồng hiện nay đều bắt nguồn từ 2 loài chuối dại là
Musa acuminata và Musa balbisiana. Tùy theo mức độ lai của 2 loài này mà
cho ra các giống chuối khác nhau.[3]
Bảng 2.1: Bảng đặc tính phân biệt M.acuminata và M.balbisiana
(theo Simmonds 1966)
Đặc tính M.acuminata (A) M.balbisiana (B)
Màu sắc thân giả Vết nâu đên từng đám Xanh lục

Rãnh gân lá chính Mở hình chữ U Đóng hình chữ O
Cuống buồng Ngắn Dài
Thai hạt 2 hàng đều nhau 4 hàng không đều
Bẹ nải chuối Cuốn ngược lên Không cuốn ngược
Hình bẹ nải (bắp quả) Hẹp (x/y < 0,28) Rộng (x/y > 0,30)
Đầu bẹ nải Nhọn Hình trứng không nhọn
Do chuối có lịch sử trồng trọt lâu đời, biến dị cũng rất đa dạng nên việc
phân loại chuối gặp nhiều khó khăn. Theo một số nhà khoa học người Anh thì
hiện nay chuối có trên 300 giống (trong đó có 150 giống được tạo thành do
đột biến mầm) và họ phân loại dựa vào hệ thống phân loại trên cơ sở nhiễm
sắc thể của Simmond (1966). Theo hệ thống phân loại này chi Eumusa, thuộc
loài M.paradisiaca, có số nhiễm sắc thể là 11 và có 131 giống chuối ăn được
xếp trong 9 - 10 loài của chi Eumusa (Simmond 1982).
7
7
8
Bảng 2.2: Phân loại chuối theo số nhiễm sắc thể cơ sở
(Theo Simmonds 1982)
Chi
Số nhiễm sắc
thể cơ sở
Số loại Phân bố
Autralimysa 10 5 - 6 Queenland đến Philippin
Callimusa 10 5 - 6 Đông Dương và Inclovesia
Eumusa 11 9 - 10 Nam Ấn Độ đến Nhật Bản
Rhodochlamys 11 5 - 6 Ấn Độ đến Đông Nam Á
Ingentimusa 14 1 Tân Ghine
Cho đến nay ngày càng có nhiều phương pháp phân loại chuối bổ xung
khác nhưng hệ thống phân loại dựa trên số nhiễm sắc thể của Simmonds và
Shepherd vẫn là phương pháp có vai trò quan trọng, không thể thiếu được

mặc dù còn hạn chế là chưa đề cập đến sự có mặt của dòng thuần
M.balbisiana colla và không đưa ra giới hạn cho nhóm này.
Các loài chuối trồng hiện nay thuộc dòng Musa acuminata có các loài như:
- Loại chuối có lưỡng bội thể AA: cây có đặc điểm màu lá xanh vàng,
vỏ mỏng, cây mảnh mai, quả ngắn, mập, thịt quả ngọt, thơm nhưng do vỏ
mỏng, vận chuyển gặp nhiều khó khăn nên ít xuất khẩu. Là loại chuối tiêu thụ
nội địa ăn tráng miệng tốt. Ở Việt Nam có giống chuối ngự thuộc nhóm này.
- Loại chuối có tam bội thể AAA: nhóm này gồm hầu hết các loài chuối
trồng xuất khẩu hiện nay như Grosmichel, cây cao trồng nhiều ở châu Mỹ
Latinh, Cavendis, Lacatan, Grandenaine, và Naine, giống chuối tiêu (chuối
già) ở Việt Nam cũng thuộc nhóm này.
- Loại tam bội thể có tính trội acuminata (AAB): loại này quả thường
phải nấu mới ăn được, trồng nhiều ở châu Phi và châu Mỹ. Ở Việt Nam có
giống chuối tây (chuối sứ) thuộc nhóm này.
- Loại tam bội thể có tính trội balbisiana (ABB): cây to cao, quả to, có
cạnh, dùng lấy bột. Ở Trung Mỹ loại chuối này có thể được trồng để che bóng
cho cao su, cà phê lúc còn nhỏ.
8
8
9
2.3. Các nghiên cứu về đặc điểm thực vật học, sinh thái học của cây chuối
2.3.1. Đặc điểm thực vật học
2.3.1.1. Bộ rễ
Rễ chuối thuộc lớp một lá mầm, rễ chùm. Ở cây con mọc từ hạt thì rễ
sơ cấp chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, sau đó chỉ có rễ phụ mọc từ thân củ.
Đường kính rễ từ 5,1- 8,5mm. Mỗi điểm mắt, thân, củ có 1 - 3 rễ. Mỗi
thân củ thường có từ 200 - 300 rễ, đặc biệt có thể đạt tối đa 1000 rễ. Đầu rễ
chính bị tổn thương thì mọc ra chùm rễ ở đó.[2]
Người ta chia rễ chuối thành 2 lớp: lớp rễ ngang và lớp rễ đứng.
- Lớp rễ ngang: mọc xung quanh thân ngầm, phân bố trên lớp đất mặt,

phạm vi 10 - 20cm, nếu đất tốt, xốp tầng dày rễ có thể phát triển đến 35 - 70cm.
Rễ này có thể phát triển cách xa tán lá đến 2m, giữ vai trò chủ đạo trong việc
cung cấp chất dinh dưỡng cho cây.
- Lớp rễ đứng: thường mọc từ phía đáy thân ngầm, đâm thẳng xuống
tầng đất sâu có thể sâu tới 1 - 1,5m, nó giữ vai trò chủ đạo trong việc giữ cho
cây vững chắc, ít bị đổ.
Rễ trong đất phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trước hết là thành phần cơ
giới, độ tơi xốp của đất, giống, mực nước ngầm và chế độ canh tác. Theo
Fawcett (1913) rễ của chuối có thể ăn sâu gần 5,2m, thường là 0,75m và chiều
ngang có thể ăn rộng 2 - 3,5m.
Rễ hoạt động mạnh ở nhiệt độ 25 - 30
0
C. Thường mùa Xuân rễ bắt dầu
hoạt động mạnh. Từ tháng 4 - 9 rễ hoạt động mạnh nhất. Sau tháng 10 rễ phát
triển chậm dần và hầu như nghỉ trong mùa Đông.
Mùa Hè rễ phát triển chồi lên mặt đất để hô hấp, do đó cần tránh những
thao tác trong vườn chuối sẽ làm gẫy rễ.[3]
2.3.1.2. Thân chuối
Thân chuối chia làm 2 phần: thân thật và thân giả.
Thân thật là củ chuối nằm trong đất và từ đó sinh ra các cây con tạo
thành bụi. Thân chuối sinh trưởng phát triển theo chiều ngang và có xu hướng
nhô dần lên mặt đất vì vậy thường có hiện tượng "trồi gốc" ở các vườn chuối
lâu năm. Ở Bắc Kạn, Thái Nguyên các vườn chuối trồng theo phương thức
quảng canh thường xảy ra hiện tượng này.
9
9
10
Kích thước và hình dáng thân phụ thuộc vào nhiều yếu tố và thường có
dạng tròn, tròn dẹp, hình trứng, hình chùy, đường kính khoảng 30cm, có trọng
lượng từ 2,5 - 3,0kg.

Thân giả do các bẹ lá mọc dài ôm sát lấy nhau, tạo thành một khối trụ tròn
nhẵn, có thể cao từ 2 - 5m, có khi cao 6 - 8m. Tùy theo loài, tùy vào cường độ
chăm bón mà thân giả có thể cao hay thấp, to hay nhỏ và màu sắc, độ bền chắc
cũng khác nhau. Do đó khả năng chống đổ, chống sâu bệnh cũng khác nhau.
Trong quá trình phát triển, thân giả cần được vệ sinh sạch sẽ để tránh
sâu bệnh đặc biệt là sâu đục thân.
Khi cây phân hóa mầm hoa thì thân củ mọc ra cuống chùm hoa. Cuống
này vươn dài lên vượt ra khỏi thân giả, đưa chùm hoa ra ngoài phát triển tạo
thành buồng quả chuối. Phần cuống đó gọi là thân ký sinh.[2]
Mỗi thân giả chỉ cho một buồng chuối độc nhất rồi chết và được các
nhánh ngang (chồi con) thay thế. Sự tồn tại được bảo đảm bằng sinh sản vô
tính.[1]
2.3.1.3 Lá chuối
Lá chuối gồm có bẹ lá, cuống lá và phiến lá. Khi mới nảy chồi, cây có
lá kiếm, thường có 3 - 5 lá kiếm rồi cây mới hình thành lá thật. Lá cuốn thành
hình ống, một nửa cuốn vào trong, nằm gọn trong rãnh của gân chính, còn
nửa kia cuốn ngược lại bao ra ngoài gân chính, lá mọc xen kẽ hình xoắn ốc
cho nên điểm sinh trưởng luôn luôn được che kín hoàn toàn.
Theo các tác giả Trung Quốc cây chuối tiêu phân hóa hoa khi đạt được
22 lá thật. Tổng số lá thật của nó đạt 28 - 30 lá. Sau khi phân hóa hoa cây còn
ra tiếp 8 lá nữa thì hoa xuất hiện. Trước khi hoa ra, có xuất hiện một lá nhỏ
chỉ bằng 1/2 kích thước các lá khác. Tuổi thọ trung bình của một lá chuối là
90 ngày (phạm vi không quá 130 ngày). Nếu vườn chuối bị bệnh đốm lá
(Cercospora musac Zim), thì tuổi thọ lá giảm nhanh. Giải phẫu lá thấy giữa
các gân lá có các "tế bào bản lề" nó nằm giữa điểm giao nhau của cuống lá
chính và gân phụ, những tế bào này rất mẫn cảm với điều kiện ngoại cảnh.
Khi môi trường hạn, nắng gay gắt các tế bào này mất nước làm cho nó xẹp lại,
2 mép phiến lá rủ xuống để giảm bớt sự thoát hơi nước. Ngược lại khi môi
10
10

11
trường dư thừa nước hoặc trời râm mát, các tế bào này hút nước, căng lên và
làm cho phiến lá trải rộng ra.
Giải phẫu cũng cho thấy mô cơ giới và bó dẫn ở lá chuối và bẹ chuối
thường tập trung thành bó nên nó có độ bền cơ giới. Một số loài có thể dùng
làm dây thừng.
Sự ra lá của cây chuối phụ thuộc vào nhiệt độ và độ ẩm của đất. Thuận
lợi thì 7 - 10 ngày ra một lá: lá to, dày, xanh đậm. Nếu gặp hạn, thiếu dinh
dưỡng, nhiệt độ thấp thì 20 - 30 ngày mới được một lá: lá nhỏ, mỏng, màu
xanh nhạt.
Ở Việt Nam từ tháng 12 đến tháng 2 thì chuối chỉ ra được 1 - 1,5
lá/tháng. Từ tháng 5 đến tháng 9 chuối ra 4 - 5 lá/tháng.
Ở miền Nam hiện tượng khác biệt này ít hơn và chu kỳ từ trồng đến lúc
ra hoa cũng ngắn hơn.
Qua nghiên cứu thấy quan hệ giữa diện tích lá và năng suất của cây có
tương quan rất chặt. Nhìn vào bộ lá của cây chuối có thể dự đoán được tình
hình phát triển của cây, là căn cứ để xác định việc bón phân đem lại hiệu quả
tốt. Khi nhìn vào một cây chuối, nếu thấy có số lá xanh trên cây từ 10 - 12 lá,
phiến lá rộng, mềm mại, màu xanh bóng thì ta không cần bón thêm phân nữa
và chắc chắn sẽ cho năng suất khá. Ngược lại lá cây ít, màu xanh vàng, mỏng,
cần bón thêm phân thúc.
Cũng cần chú ý hạn chế sự rách lá (gió, bão) vì rách lá làm vỡ mạch
dẫn, ảnh hưởng đến quang hợp, giảm năng suất.[3]
2.3.1.4. Hoa và quả chuối
Khi cây chuối có từ 28 - 55 lá thì phân hóa hoa. Thời gian phân hóa hoa
đến khi hoa nhú ra khỏi thân giả dài 60 - 85 ngày. Hoa chuối xếp trên trục hoa
thành các chùm nải. Mỗi chùm nải có một lá bắc màu đỏ. Chuối tiêu có 6 - 12
chùm nải tạo được thành quả. Chuối tây có 4 - 8 chùm nải tạo được thành
quả; các chùm hoa sau đó không tạo được thành quả và hoa sẽ rụng dần nên
phải cắt bỏ phần hoa không quả (cắt bi chuối).[2]

Cấu tạo một hoa đơn bao gồm đủ các bộ phận: đế, đài, tràng, nhị, nhụy
(thuộc loại hoa đủ). Song căn cứ vào hình thái của ha người ta chia ra làm 3
loại: hoa cái, hoa lưỡng tính và hoa đực.[3]
11
11
12
Hoa cái là phần sẽ phát triển thành quả chuối sau này, thường tập trung
ở gốc chùm hoa, luôn luôn nở trước các hoa khác và quyết định đến năng suất
của cây chuối. Số hoa cái nhiều hay ít được quyết định ngay từ khi phân hóa
hoa. Lúc này nếu cây chuối sung sức, đủ đạm thì số hoa cái sẽ nhiều.
Số lượng hoa lưỡng tính trên chùm hoa ít, khả năng hình thành quả
kém. Hoa đực là phần không thể phát triển thành quả được và rụng dần theo
thời gian.
Quá trình chuyển đổi từ sinh trưởng dinh dưỡng sang sinh trưởng sinh
thực cần có một số điều kiện nhất định, mà trong đó quan trọng nhất là sự tích
lũy dinh dưỡng (gồm hàm lượng hydrat cacbon, các chất có đạm và các chất vô
cơ ). Vì vậy trồng chuối vào vụ nào thuận lợi, cây sinh trưởng nhanh, bón
phân đầy đủ, cây nhanh chóng đạt được số lá tối đa, thì sẽ sớm ra hoa.
Quả chuối thuộc loại quả mọng phần ăn được do tử phòng phát triển
thành. Khi mới phát dục quả còn mang cạnh, càng già quả tròn dần. Khi gặp
điều kiện lạnh khô (mùa Đông) trọng lượng quả chỉ bằng 1/2 mùa Hè, quả
ngắn, có cạnh. Mùa Hè quả thẳng, tròn, bình quân trọng lượng quả chuối tiêu
89 - 90g. Lớn có thể từ 130 - 150g. Quả phát triển liên tục từ tuần đầu đến
tuần 10 - 12. Sau đó là giai đoạn tích lũy và chuyển hóa trong quả.
Trong quá trình chọn lọc, các loài chuối không hạt được chú ý phát
triển. Trong sản xuất hiện nay nơi nào chăm sóc kém thì một số loài lại quay
trở lại tính hoang dã của tổ tiên chúng, lại mang hạt.[3]
2.3.1.5. Chồi con và sự đẻ chồi của chuối
Chồi con là thế hệ tiếp theo để duy trì nòi giống của chuối. Chồi được
mọc ra từ thân thật. Các chồi ở vị trí thấp của cây mọc trước, dần dần lên các

chồi phía trên. Thường sau trồng 6 - 7 tháng thì cây bắt đầu mọc chồi (nhất là
từ sau khi cây phân hóa hoa).
Chồi mọc khỏe hay yếu phụ thuộc vào điều kiện môi trường. Đủ nước,
đủ dinh dưỡng, nhiệt độ từ 25 - 35
0
C, chồi mọc khỏe cả về số lượng và tốc độ.
Sau mùa Xuân chồi mọc sớm song yếu, tháng 4 - 7 - 8 chồi mọc khỏe và tăng
dần, cho những cây con chất lượng tốt nhất. Sau tháng 10 tốc độ mọc chồi
chậm dần.
12
12
13
Do đặc điểm về chồi nên bụi chuối sau một vài năm sẽ rất rậm rạp và
năng suất giảm dần. Trong kỹ thuật cần chú ý biện pháp tỉa chồi thích hợp để
kéo dài tuổi thọ và năng suất của vườn chuối.[3]
2.3.2. Yêu cầu sinh thái
2.3.2.1. Điều kiện nhiệt độ
Các giống khác nhau yêu cầu nhiệt độ khác nhau. Trên thế giới các
vùng có nhiệt độ bình quân 24 - 25
0
C trồng chuối tốt. Khi nhiệt độ giảm
xuống 10 - 12
0
C, cây ngừng sinh trưởng, quả bé, phẩm chất giảm. nếu nhiệt
độ giảm -1
0
C cây có thể chết (do không lấy được nước) (Trần Như Ý và CS,
2000)[3]. Chuối tiêu lùn chịu rét tốt hơn chuối tiêu vừa và chuối tiêu cao. Ở
Ghinê khi nhiệt độ giảm xuống -5
0

C thấy cây chuối tiêu cao lá bị vàng song
chuối tiêu lùn lá vẫn còn xanh.
Theo Ganry (1980) nhiệt độ tối thích cho sự sinh trưởng thân lá là 26 -
28
0
C, đối với sự phát triển của quả là 29 - 30
0
C, nhiệt độ xuống dưới 16
0
C đã
làm tổn hại lá của nhóm Cavendish; cây ngừng sinh trưởng hoàn toàn ở nhiệt
độ 10
0
C và ở 11
0
C quả bị hại, nhiệt độ xuống thấp hơn sẽ gây chết thân giả.
Nhiệt độ ảnh hưởng đến nhịp độ sinh trưởng, thời gian ra lá, ra hoa và
ảnh hưởng đến phẩm chất, trọng lượng quả. Khi nhiệt độ quá cao trong thời
gian ngắn cũng ảnh hưởng đến năng suất, phẩm chất quả như hóa nâu thịt
quả, tích lũy tinh bột, chuyển hóa và tạo các este thơm, độ chắc của thịt quả
(Phạm Văn Duệ, 2006) [2].
Ở những vùng có nhiệt độ tháng 12 và tháng 1 lạnh, song nếu chỉ trong
chốc lát về ban đêm, còn ban ngày lại nóng, nhiệt độ cao như ở Ghinê thì ít
ảnh hưởng đến sinh trưởng của chuối, song một số vùng như ở Israel, châu
Úc, đảo Canari, nam châu Phi có một mùa Đông lạnh và khô kéo dài thì
chuối chỉ sinh trưởng và ra hoa kết quả trong vòng nửa năm.[3]
2.3.2.2. Điều kiện về nước
Nhu cầu nước của cây chuối là rất lớn. Theo tác giả J.Shampion diện
tích thoát hơi nước của một cây chuối tiêu lùn khoảng 13,5 m
3

/cây thì một
ngày nắng cần 25 lít, ngày nửa nắng, nửa râm cần 18 lít, ngày râm cần 9,5 lít.
Khả năng chịu hạn của chuối không lớn. Khi thiếu nước khí khổng
đóng lại. Song không hoàn toàn khép kín nên vẫn tiếp tục thoát hơi nước. Cây
13
13
14
chỉ hút nước tốt ở 30% lượng nước có trong đất. Nếu lượng nước có trong đất
tiêu thụ hết 60% thì cây chuối đã bước vào thời kỳ khô héo. Nếu kéo dài có
thể bị khô chết. Hạn hán làm cho các khí khổng đóng lại sớm, do đó làm giảm
quang hợp, sinh trưởng chậm, ra lá chậm. Giảm kích thước lá, hoa ít và nhỏ,
lá mau tàn, thân giả mau chết. Nếu nhẹ cũng làm cho cây khó trổ hoa (nghẹn
buồng). Tuy cần nước như vậy song nếu bị ngập nước chuối cũng rất dễ chết,
chuối tiêu chỉ độ 2 tuần là chết, chuối tây khả năng chống chịu có khá hơn.
Để thỏa mãn nhu cầu nước cho chuối thì hầu khắp các vùng trồng chuối
đều phải xây dựng hệ thống tưới nước, không thể căn cứ vào tổng lượng mưa
mà phải căn cứ vào sự phân bố mưa trong năm. Nếu có thời gian khô hạn liên
tục 2 - 3 tháng thì phải tưới nước nhân tạo.
Ví dụ ở Ghinê tổng lượng mưa tới hơn 3000mm. Song lại có tới 5
tháng khô nên việc trồng chuối vẫn phải tưới. Ở Ănggôla chuối chỉ ra lá, trổ
hoa, kết quả trong 6 tháng mùa mưa. Còn 6 tháng mùa khô, chuối bị khô chết
thân giả, chỉ tồn tại thân thật ở trong đất.[3]
2.3.2.3. Điều kiện về ánh sáng
Người ta đã thí nghiệm trong điều kiện thiếu ánh sáng không ảnh
hưởng đến sự ra lá của cây chuối. Nếu thiếu hoàn toàn phiến lá sẽ có màu
trắng nhạt, bẹ lá vươn dài nhanh. Điều kiện trong vườn chuối thiếu ánh sáng
cây vươn cao.
Ánh sáng có ảnh hưởng đến chu kỳ sinh trưởng của cây. Nếu giảm 75%
cường độ ánh sáng thì chu kỳ cây kéo dài thêm 2 tháng.
Chuối yêu cầu ánh sáng nhiều trong thời kỳ ra hoa, sinh trưởng của

quả, cường độ ánh sáng thích hợp để cây quang hợp là: 1000 - 10000 lux,
hoạt động quang hợp của lá mạnh nhất ở 2000 - 5000 lux (mặc dù nó có thể
chịu đến 10000 lux. Bức xạ quá mạnh và đột ngột sẽ làm bỏng (rám) chỗ
cong của cổ buồng và quả chuối.[3]
Về độ dài ngày, chuối là cây trồng yêu cầu không nghiêm ngặt, chúng
có thể phân hóa ở bất kỳ độ chiếu sáng nào.
Chuối tiêu chịu cường độ ánh sáng yếu hơn chuối tây. Khi đủ ánh sáng lá
tăng trưởng mạnh, lá rộng, dày, có màu xanh đậm, phản quang, tốc độ ra lá nhanh.
14
14
15
2.3.2.4. Ảnh hưởng của gió bão
Gió ảnh hưởng rất lớn đến chuối, nó làm cây bốc hơi nước nhanh, làm
rách lá, gẫy buồng đổ cây… Nhất là ở các vùng có gió bão hàng năm. Chỉ
riêng việc làm rách lá cũng làm giảm năng suất tới 20 - 25% ở Camơrun và
10% ở Bờ Biển Ngà. Thậm chí một số vùng phải bỏ nghề trồng chuối vì gió
quá mạnh. Ở ta còn bị ảnh hưởng bởi gió nóng (gió Lào) làm lá khô héo, quả
cũng bị nhỏ và quắt lại.[3]
Gió nhẹ 4 - 5 m/s làm thông thoáng vườn, giảm sâu bệnh [2]. Để hạn
chế tác hại của gió bão, người ta chọn đai rừng chắn gió, chọn các giống
chống đổ tốt hoặc làm cọc chống.[3]
2.3.2.5. Điều kiện về đất
Đất trồng ảnh hưởng đến năng suất quả và quy cách, phẩm chất quả,
đặc biệt là trong việc trồng chuối hàng hóa xuất khẩu.
Đất thích hợp cho việc trồng chuối là đất phù sa, đất bazan, đất có kết
cấu tốt và độ xốp; có khả năng thoát nước dễ và giữ chế độ nước cân bằng với
chế độ khí; có độ mùn 1,5 - 2%, tầng canh tác dày từ 60cm, pH 6 - 7,5 là thích
hợp nhất.[2]
Các loại đất khác nhau ảnh hưởng đến số nải và chiều dài quả khác nhau.
Bảng 2.3: Ảnh hưởng của đất trồng tới số nải và chiều dài quả

TT Loại đất Số nải/buồng Chiều dài quả (cm)
1 Phù sa 10,4 18,5
2 Gley nhẹ 10,5 17,5
3 Gley nặng 8,9 17,5
(Nguồn: Viện nghiên cứu rau quả, 1997)
Để trồng chuối thu được hiệu quả người ta phải chọn đất tốt, nhiều
màu. Nếu trồng trên đất cát, đất sỏi cơm… ta phải bón thêm một lượng dinh
dưỡng khá, để thỏa mãn nhu cầu của cây chuối đặc biệt là K.[3]
Ở nước ta, về khí hậu thì nhiều vùng có thể trồng chuối được, song về
đất đai, tìm được một vùng thích hợp là rất khó. Những vùng trồng chuối phù
hợp thì hiện đang được khai thác để trồng các cây lương thực (lúa, ngô…).
Còn nếu đưa lên vùng đồi núi thì cũng gặp nhiều khó khăn, cần tránh những
vùng có sương muối.
15
15
16
2.4. Ý nghĩa kinh tế và giá trị dinh dưỡng của cây chuối
2.4.1. Ý nghĩa kinh tế
Chuối được xem là một trong những loại quả phổ biến nhất trên thế
giới, chỉ đứng thứ hai sau cây ăn quả có múi về kim ngạch xuất nhập khẩu và
là loại trái cây có khối lượng xuất khẩu nhiều nhất, nhờ đó chuối đang dần trở
thành loại quả chính trong nền thương mại quốc tế. Theo thống kê của FAO
tổng lượng chuối xuất khẩu của thế giới năm 2009 là 18,32 triệu tấn. Ở các
nước đang phát triển, cùng với gạo, lúa mì, ngô, chuối đang là mặt hàng chủ
lực rất quan trọng, điều đó nói lên tầm quan trọng của chuối đối với việc đảm
bảo an ninh lương thực ở các nước này.
Chuối là cây ăn quả mà chỉ có vùng nhiệt đới mới có, cho nên có địa
bàn xuất khẩu rộng lớn. Theo thống kê của FAO, xuất khẩu chuối trên thế
giới có giá trị tổng cộng 8,08 tỷ USD trong năm 2009, làm cho chuối thực sự
là nguồn thu nhập quan trọng của nhiều nước.

Ở nước ta chuối từ lâu đã là cây trồng quen thuộc bởi không những nó
là cây trồng có thời gian sinh trưởng ngắn, sớm cho thu hoạch, dễ trồng và
cho sản lượng khá cao, có hiệu quả kinh tế lớn mà còn có khả năng thích ứng
khá tốt với nhiều loại đất đai,nhiều vùng khí hậu. Nó cũng yêu cầu kỹ thuật
song không có gì phức tạp và phù hợp với dân trí ở nước ta. Chuối là cây
trồng có năng suất khá cao, bình quân có thể đạt 20 - 30 tấn/ha. Trên thế giới
nhiều vùng trồng chuối đã đạt năng suất khá như: Paragoay: 35 tấn/ha;
Braxin: 50 tấn/ha. Những vùng thâm canh, chuyên canh cao như một số nước
Trung Mỹ (Panama, Costarica ) đã có điển hình đạt 100 tấn/ha.
Chuối là loại cây trồng có giá trị kinh tế cao và cần ít vốn đầu tư. Hàng
năm kim ngạch xuất khẩu chuối của Việt Nam sang Trung Quốc chiếm tỷ lệ
lớn và ổn định. Do vậy chuối luôn luôn là mặt hàng có giá trị cao trong các
nông sản xuất khẩu ở nước ta.
2.4.2. Giá trị dinh dưỡng
Chuối là cây trồng được sử dụng triệt để nhất. Người Trung Quốc có
nói bộ phận nào của cây chuối cũng đều là của quý giá. Từ củ chuối, thân
chuối, lá khô lá tươi, hoa, trái xanh trái chín đều có thể sử dụng được: để ăn,
16
16
17
làm rau sạch, làm kẹo chuối, mứt chuối, lá tươi và khô làm nguyên liệu gói,
trái chuối chín để cải thiện dinh dưỡng cho mọi người và làm hàng hoá.
Chuối có vỏ màu vàng, quả no tròn và dài, vỏ mỏng, thịt dẻo và mềm,
mùi vị thơm ngon, dinh dưỡng phong phú. Chuối có chứa 16 loại Acid amin
và nhiều Vitamin, thích hợp dùng cho cả người lớn và trẻ em.
Quả chuối chứa nhiều thành phần dinh dưỡng thiết yếu mà cơ thể cần,
vì thế mà nó còn được xem là kho cung cấp năng lượng trong thiên nhiên. Hiện
nay trên thế giới có 1/2 sản lượng chuối được dùng ăn tươi, 1/2 còn lại được sử
dụng dưới dạng nấu chín và chế biến thành các loại thực phẩm khác [10].
Kết quả phân tích hàm lượng dinh dưỡng ở một số giống chuối đang

trồng phổ biến ở Việt Nam được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.4: Hàm lượng dinh dưỡng ở một số giống chuối trồng phổ biến ở
Việt Nam
(ĐVT : %)
Giống
chuối
Nước Đường Bột Đạm Axit Lipit Tro VitaminC
Chuối tiêu 76,5 18,4 0,8 1,8 0,15 0,07 0,8 6,5
Chuối tây 70,5 22,5 0,8 1,5 0,20 0,05 0,8 4,0
Chuối ngự 75,0 17,1 1,1 1,8 0,10 0,12 0,8 9,0
(Nguồn: Đào Thanh Vân, Ngô Xuân Bình,(2002)) [11]
Ngoài Vitamin C trong quả chuối còn có một lượng Vitamin B
1
(0,04%), B
2
(0,05%) và rất giàu khoáng chất như P, Ca, Fe [3]
Về giá trị năng lượng : 1kg quả chuối cho 1.100 - 1300 calo
1kg chuối khô cho 2790 calo
1kg hoa chuối cho 200 calo
1kg thân cây chuối cho 50 - 60 calo
Thành phần dinh dưỡng tính trên 100g chuối ăn được (Theo cách tính
của Tổ chức Nông - Lương thế giới - FAO, 1976) : protein hàm lượng 1,8g,
lipid hàm lượng 0,2g, glucid hàm lượng 18,0g, vitamin A hàm lượng 80,0UI,
carotene hàm lượng 60IU, canxi hàm lượng 10,0mg, vitamin C hàm lượng
8,0mg, năng lượng 72,0 calo, kẽm hàm lượng 0,18g, sắt hàm lượng 0,4mg.
17
17
18
Chuối là một loại thực phẩm, đồng thời cũng là một dược liệu thiên
nhiên để hỗ trợ cho nhiều căn bệnh. So với quả táo, chuối có hàm lượng

Carbohydrate cao gấp 2 lần, protein cao gấp 4 lần, Vitamin A và sắt cao gấp 5
lần, những loại Vitamin và khoáng chất khác cao gấp 2 lần, hàm lượng
Phosphorus cao gấp 3 lần [17].
Trong chuối, hàm lượng kali (potassium) chiếm tỉ lệ rất cao, chứa nhiều
loại đường thiên nhiên như: fructose, sucrose, glucose, cung cấp một năng lượng
dồi dào cho cơ thể. Hai quả chuối có thể cung cấp năng lượng cho 90 phút luyện
tập thể thao. Không những thế, chuối còn giúp điều trị một số bệnh, nhờ đó
chuối được xếp vào hạng “top” trong thực đơn hàng ngày [17].
Mới đây, các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng, quả chuối, loại trái cây
phổ thông trên thế giới là một thần dược. Chuối là loại trái cây dễ tiêu hóa, là
thực phẩm giàu chất carbon hydrate, các loại vitamin, nhiều chất khoáng.
Thành phần bổ dưỡng của chuối khác nhau trong từng loại chuối, trong từng
thời kỳ thu hoạch và khi sử dụng nó (xanh hay chín). Một quả chuối chín có
thể cung cấp đủ năng lượng calo trong mỗi ngày. Về dinh dưỡng, cứ 100g
chuối cung cấp 99 calo, rất bổ ích cho người chơi thể thao vì cơ bắp hấp thụ
đường trong chuối nhanh hơn. Chuối giúp phục hồi sức khỏe nhanh, nhưng
không nên ăn nhiều chuối khô, vì 100g chuối khô cung cấp đến 285 calo [17].
Ngoài ra trong quả chuối chín có chứa 0,5 - 0,7% chất xơ hoà tan. Acid
hữu cơ trong chuối chủ yếu là Acid malic. Dù là chuối tươi hay chuối sấy
khô, đều chứa hàm lượng đường lớn, mỗi quả chuối có khoảng 335kj đường
(1kj = 0,24kcal ) [12].
Như vậy cây chuối đem lại cho con người rất nhiều lợi ích, do đó ngành
trồng chuối cần được mở rộng hơn nữa trên cơ sở áp dụng rộng rãi các biện
pháp khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất để nâng cao năng suất chất lượng
của chuối.
2.5. Tình hình sản xuất chuối trên thế giới và trong nước
2.5.1. Tình hình sản xuất chuối trên thế giới
Chuối là loại cây nhiệt đới được trồng phổ biến ở nhiều quốc gia và
vùng miền trên thế giới, đồng thời cũng chiếm một tỷ trọng đáng kể trong
18

18
19
thương mại rau quả của toàn cầu. Xuất khẩu chuối đứng đầu về khối lượng và
đứng thứ hai về kim ngạch sau cam trong cơ cấu xuất khẩu trái cây ở thế giới.
Thích hợp với khí hậu nhiệt đới, chuối chủ yếu được trồng chủ yếu ở những
nước đang phát triển. Khoảng 98% sản lượng chuối của thế giới được trồng ở
những nước đang phát triển và được xuất khẩu tới các nước phát triển. Vào
năm 2007, tổng cộng có 130 nước sản xuất chuối. Tuy nhiên, về việc sản xuất
cũng như xuất nhập khẩu chuối thường là tập trung vào một số nước nhất định.
Bảng 2.5: Diện tích và sản lượng chuối trên thế giới 2008 -2010
Chỉ tiêu
Năm
Diện tích
(ha)
Sản lượng
(tấn)
2008 4.807.158 93.813.033
2009 4.923.584 97.378.272
2010 4.771.944 102.114.819
(Nguồn: theo thống kê của FAO, 2011)[22]
Qua bảng số liệu cho ta thấy, diện tích trồng chuối trên thế giới năm
2009 tăng 116.526 ha so với năm 2008 nhưng năm 2010 giảm 151.640 ha so
với năm 2009. Tuy nhiên sản lượng chuối được tăng lên hàng năm, năm 2009
tăng hơn 3,5 triệu tấn so với năm 2008 và năm 2010 tăng hơn 4,7 triệu tấn so
với năm 2009. Điều đó nói lên mức độ ứng dụng những biện pháp khoa học
kỹ thuật mới trong việc sản xuất chuối của thế giới, công tác chọn tạo giống
được chú trọng đặc biệt là sử dụng công nghệ cao trong chọn tạo như nuôi cấy
mô tế bào nhờ đó năng suất đã dược nâng cao hơn. Ngoài ra sự tăng cường
mối quan hệ giữa các quốc gia cùng với việc thành lập các tổ chức, diễn đàn
trao đổi kinh nghiệm giữa các nước trồng chuối tạo điều kiện thuận lợi cho

các nước đang phát triển có điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận các kỹ
thuật mới. Đây là những điều kiện tốt cho sự phát triển sản xuất chuối cũng
như phát triển thị trường chuối trên thế giới.
19
19
20
Bảng 2.6: Diện tích và sản lượng chuối 10 nước đứng đầu trên thế giới
2008 - 2010
Đơn vị
Tên nước
Diện tích (ha) Sản lượng (tấn)
2008 2009 2010 2008 2009 2010
Thế giới 4.778.464 4.843.110 4.771.944 93.745.445
95.816.62
7
102.114.819
Ân Độ 709.000 770.300 844.000 26.217.000
26.469.50
0
31.897.900
Brazil 513.097 479.614 486.991 6.998.150 6.783.480 6.978.310
Philippin 438.593 446.400 449.610 8.687.620 9.013.190 9.101.340
Trung
Quốc
328.906 350.224 413.853
8.042.372
9.006.450 9.848.895
Ecuado 215.521 216.115 215.647 6.701.150 7.637.320 7.931.060
Thái Lan 132.491 133.162 133.527 1.540.480 1.400.000 1.584.900
Việt Nam 95.000 95.000 99.600 1.400.000 1.532.420 1.481.400

Indonesia 105.797 105.000 98.000 6.004.620 6.373.530 5.814.580
Colombia 72.396 74.112 80.518 1.987.600 2.020.390 2.034.340
Costa Rica 44.313 42.416 42.900 1.886.770 1.588.740 1.803.940
(Nguồn: Theo FAO Start, 2011)[22]
Qua bảng 2.6 ta thấy việc sản xuất chuối trên thế giới tập trung vào một
số nước nhất định, 10 nước sản xuất chính chiếm tới 60,03% diện tích và
76,85% sản lượng chuối thế giới vào năm 2010. Trong đó thì Ấn Độ, Trung
Quốc, Philippin và Ecuado chiếm 64,39% sản lượng chuối thế giới. Diện tích
trồng chuối ở các nước có mức tăng giảm khác nhau qua các năm, tuy nhiên nhìn
chung đều có sự tăng về sản lượng. Ấn Độ là nước đứng đầu thế giới về sản xuất
chuối, năm 2010 có diện tích tăng 9,57% và sản lượng tăng 20,51% so với năm
2009, so với toàn thế giới năm 2010 Ấn Độ có diện tích trồng chuối chiếm
17,69% và sản lượng chiếm tới 31,24%. Việc sản xuất chuối tập chung ở một số
20
20
21
nước dẫn đến sự tập trung hoá về phân phối chuối trên toàn thế giới. Theo đánh
giá của FAO tổng kim ngạch xuất khẩu chuối đạt 15 triệu tấn vào năm 2010, trung
bình tăng sẽ là 1 - 2%/năm. Chuối cũng là một trong số những mặt hàng chủ lực
của nhiều nước đang phát triển Mỹ La Tinh, Caribean, cũng như là châu Á và
châu Phi - Theo FAO, xuất khẩu chuối của cả thế giới đạt được trên 4,7 tỷ/1 năm
đem lại nguồn thu nhập lớn cho nhiều nước (FAO Star, 2009) [22].
Xuất khẩu chuối trên thế giới chủ yếu là tập trung vào các nước đang
phát triển và Trung Đông là thị trường tiềm năng lớn để một số nước xuất khẩu
chuối; riêng Philippin là nước xuất khẩu chuối lớn thứ 2 trên thế giới sau
Ecuador khoảng 279.500 - 286.000 tấn, đem lại kim ngạch 720 triệu USD.
Trong quý đầu năm 2011, xuất khẩu chuối của Peru đạt kim ngạch 21,74 triệu
đô la Mỹ tăng 9,9% so với cùng kỳ năm trước, ước tính cuối năm 2011 xuất
khẩu đạt 61,7 triệu USD. Xuất khẩu chuối của Honduras năm 2010 đạt 350
triệu USD, xuất khẩu chủ yếu sang Hoa Kỳ chiếm 90%. Costa Rica cũng là

nước xuất khẩu chuối lớn với 200.000 tấn/năm, tăng trưởng xuất khẩu chuối
của nước này trong năm 2010 đạt 20% so với năm trước và kim ngạch xuất
khẩu đạt 602,4 triệu USD (Theo FAO Star, 2010) [22].
(Theo: UNCTAD Secretariat from FAO statistics)[22]
Hình 2.1. Biểu đồ tỷ trọng xuất khẩu chuối trên thế giới năm 2010
Tình hình nhập khẩu chuối chỉ riêng EU, Mỹ và Nhật, đã chiếm trên
70% nhập khẩu trên toàn thế giới năm 2009. Thế giới nhập khẩu chuối tăng lên
khoảng 14,3 triệu tấn trong năm 2010. Riêng Mỹ đứng đầu trong các nước
nhập khẩu chuối, năm 2009 Mỹ nhập khẩu chuối tương đương 1,9 tỷ đồng và
Mỹ và Canada nhập khẩu hơn 4,6 triệu tấn năm 2010. Còn tại Nhật Bản nhập
khẩu chuối được dự báo tăng 0,7% mỗi năm, đạt gần 1,1 triệu tấn năm 2010.
Các nước Đông Á đang phát triển nhập khẩu đạt 1,3 triệu tấn trong năm 2010,
cộng với 75% so với thập kỷ này và giá sẽ tăng từ 1 - 2% mỗi năm. Đối với các
nước thuộc khu vực EC và khu vực Trung Đông, nhập khẩu chuối năm 2010 là
3,9 triệu tấn và 900 nghìn tấn. Theo một bản báo cáo được công bố của FAO
21
Ecuador
39%
Nước khác
33%
Costa Rica
15%
Colombia
13%
21
22
đã chỉ ra chuối là mặt hàng nông sản ít chịu tác động của các cuộc khủng hoảng
tài chính toàn cầu hơn so với các mặt hàng nông sản khác. FAO dự đoán nhập
khẩu chuối năm 2009 sẽ giảm nhẹ xuống còn 13.8 triệu tấn. Nhập khẩu chuối
của EU, Mỹ và các nước phát triển lần lượt giảm 4,1%, 5,5% và 3,2%. Nhu cầu

về chuối của các nước đang phát triển sẽ tiếp tục tăng, dự kiến sẽ tăng 2,5% lên
2,33 triệu tấn, chủ yếu là nhu cầu từ Trung Quốc. FAO cho biết nếu suy thoái
kinh tế kết thúc, nhu cầu về chuối sẽ tăng lên 7,8% và nhu cầu các loại hoa quả
nhiệt đới sẽ tăng khoảng 2%.
(Theo: UNCTAD Secretariat from FAO statistics)[22]
Hình 2.2. Biểu đồ cơ cấu nhập khẩu chuối trên thế giới năm 2010
2.5.2. Tình hình sản xuất chuối ở Việt Nam
Ở nước ta, khí hậu bốn mùa đều phù hợp cho chuối phát triển, từ Bắc
đến Nam, đồng bằng cũng như miền núi, ở đâu và mùa nào cũng có chuối.
Chuối đối với người Việt Nam là rau, là quả, là lương thực, thực phẩm. Sản
lượng chuối ở ta hàng năm cũng khá, ngoài việc tiêu thụ nội địa, chúng ta còn
xuất khẩu một lượng khá lớn. Việt Nam là nước nhiệt đới và là một trong
những xứ sở của chuối với nhiều giống chuối rất quý như: chuối tiêu, chuối
tây, chuối bom, chuối ngự, có loại chuối nổi tiếng như chuối ngự Đại Hoàng
(Nam Định), từng là đặc sản tiến vua. Phần lớn diện tích trồng chuối ở các hộ
nông dân cá thể, các nông trường quốc doanh chỉ chiếm diện tích nhỏ.
Chủng loại chuối ở Việt Nam rất đa dạng như chuối tiêu, chuối lá,
chuối xiêm và chuối ngự… được trồng rải rác khắp các tỉnh thành trong cả
nước. Các giống chuối của Việt Nam không chỉ phong phú về kích cỡ, hương vị
mà còn có những giá trị sử dụng rất khác nhau. Cao cấp nhất vẫn là chuối ngự,
loại chuối tiến vua, quả thon nhỏ, vàng óng, thơm ngậy nhưng diện tích và sản
lượng không cao. Chuối tiêu, chuối gòn có sản lượng lớn hơn, hương vị tuy không
ngon bằng nhưng chất lượng đang ngày càng được cải tiến.
Với những đặc điểm trên, chuối là mặt hàng có triển vọng xuất khẩu
của Việt Nam, nhất là đối với giống chuối tiêu và chuối tây. Viện Nghiên cứu
Cây ăn quả Miền Nam đã có những công nghệ mới để hỗ trợ các tỉnh cây
giống chuối nuôi cấy mô sạch bệnh và công nghệ chuyển màu chuối già sang
màu vàng rất đẹp, có thể cạnh tranh xuất khẩu chuối với Philippin, Đài Loan
22
4,3% 7,8% 35,8%

29,6% 10,4%
7,7%
4,4%
22
23
vào thị trường châu Âu, Nhật Bản. Thời gian gần đây các tỉnh Cà Mau, Đồng
Nai, Quảng Ngãi… đã có những bước cải thiện trong việc trồng và phát triển
cây chuối tiến tới xuất khẩu sản phẩm chuối (Nguyễn Văn Luật, 2010) [13].
Bảng 2.7: Diện tích, năng suất, sản lượng chuối cả nước
từ năm 2008 - 2010
Chỉ tiêu
Năm
Diện tích
(ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(tấn)
2008 98.400 164,6 1.602.500
2009 101.000 159,6 1.611.800
2010 105.500 157,4 1.660.800
(Nguồn: )[19]
Qua bảng số liệu cho thấy, diện tích trồng chuối của nước tăng từ
98.400 ha (năm 2008) lên 101.000 ha (năm 2009), năm 2010 mức tăng không
đáng kể đạt 105.500 ha. Tuy nhiên năng suất chuối lại có xu hướng giảm dần
năm 2008 đạt 164,6 tạ/ha giảm xuống 159,6 tạ/ha năm 2009 và năm 2010
giảm xuống còn 157,4 tạ/ha. Điều đó cho thấy sản lượng chuối hàng năm tăng
lên là do tăng diện tích. Do đó cần chú trọng việc tăng diện tích trồng chuối đi
đôi với việc tăng năng suất cây chuối.
Ở miền Bắc những tỉnh có sản lượng chuối lớn là: Vĩnh Yên, Phú Thọ,

Hải Dương, Hưng Yên, Hà Tây, Thanh Hóa, Hải Phòng
Ở miền Nam: Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên, nhiều tỉnh ở Nam
Trung Bộ và Tây Nam Bộ.
Bảng 2.8: Diện tích, năng suất và sản lượng chuối của vùng Trung du và
miền núi phía Bắc năm 2010 (phân theo địa phương).
ST
T
Tỉnh/vùng
Diện
tích
(ha)
Năng
suất
(tạ/ha)
Sản
lượng
(tấn)
Cả nước
105.50
0 157,4
1.660.80
0
I
Trung du và miền núi
phía Bắc 13.100 127,7 167.300
1 Hà Giang 500 116,0 5.800
23
23
24
2 Cao Bằng 300 73,3 2.200

3 Bắc Cạn 500 112,0 5.600
4 Tuyên Quang 300 180,0 5.400
5 Lào Cai 900 134,4 12.100
6 Yên Bái 1.100 100,0 11.000
7 Thái Nguyên 1.500 132,7 19.900
8 Lạng Sơn 1.100 63,6 7.000
9 Bắc Giang 1.000 119,0 11.900
10 Phú Thọ 2.200 208,2 45.800
11 Điện Biên 200 145,0 2.900
12 Lai Châu 200 40,0 800
13 Sơn La 1.800 108,9 19.600
14 Hoà Bình 1.500 115,3 17.300
II ĐB.Sông Hồng 15.900 262,0 416.600
III Bắc Trung Bộ & DHMT 28.400 153,3 435.300
IV Tây Nguyên 4.200 182,1 76.500
V Đông Nam Bộ 10.200 157,4 160.500
VI ĐB.Sông Cửu Long 33.700 120,1 404.600
(Nguồn: )[19]
Qua bảng trên ta thấy, ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc tỉnh có
diện tích cao nhất là Phú Thọ đạt 2.200 ha chiếm hơn 16% tổng diện tích của
vùng và Phú Thọ cũng là địa phương có năng suất cao nhất vùng đạt 208.2
tạ/ha. Tiếp theo là các tỉnh như Sơn La, Hòa Bình, Thái Nguyên, Lạng Sơn,
Yên Bái… có diện tích từ 1.100 - 1.800 ha. So với cả nước diện tích của vùng
chiếm hơn 12%, sản lượng chiếm hơn 10% và năng suất thuộc diện khá thấp
so với các vùng trên cả nước, điều kiện khí hậu và địa hình phức tạ có ảnh
hưởng lớn đến việc mở rộng diện tích trồng chuối của vùng. Vùng có diện
tích trồng chuối lớn nhất cả nước là ĐB.Sông Cửu Long với diện tích chiếm
hơn 31% tổng diện tích cả nước, vùng có năng suất cao nhất là ĐB.Sông
Hồng đạt 262 tạ/ha.
24

24
25
Hiện nay chuối Việt Nam được đánh giá là ngon nhưng có sức cạnh
tranh kém so với chuối nhập ngoại. Các siêu thị và đại lý bán hoa quả cho
biết, mặc dù giá của loại chuối này đắt gấp 3 lần so với chuối trong nước,
nhưng khách hàng vẫn thích mua loại chuối này hơn. Chuối Philippin có giá
22,000 đồng/kg, trong khi đó chuối Việt Nam chỉ từ 5,000 - 7,000 đồng. Các
thương lái cho rằng nguyên nhân của việc xuất hiện nhan nhản các mặt hàng
chuối nhập khẩu là do sự thiếu thận trọng trong quá trình vận chuyển hoa quả
từ các nhà vườn nên không thể giữ nguyên được hình thức bên ngoài của
chúng và cũng chưa có biện pháp bảo quản thích hợp. Do đó để tăng khả năng
cạnh tranh của sản phẩm chuối Việt Nam cần bảo quản đúng kỹ thuật, vận
chuyển cẩn thận để tránh làm ảnh hưởng đến mẫu mã sản phẩm gây ra thiệt
hại không đáng có và tăng sức cạnh tranh của sản phẩm.[18]
Trong chiến lược xuất khẩu hàng nông sản đến năm 2020, Bộ Công
thương có đề cập đến việc xuất khẩu chuối và xem đây là một mặt hàng
quan trọng mà Việt Nam có nhiều lợi thế. Mặt khác chuối Việt Nam theo đề
án quy hoạch phát triển rau quả và hoa, cây cảnh đến năm 2010, tầm nhìn
2020 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, chuối được nhiều địa
phương chọn làm cây trồng chủ lực. Chuối Việt Nam theo ông Vũ Mạnh
Hải, Viện trưởng Viện Nghiên cứu rau quả Trung ương là loại cây trồng có
giá trị kinh tế cao.
2.6. Một số giống chuối được trồng phổ biến ở Việt Nam
Từ lâu đời nay cây chuối đã trở thành loại cây trồng quen thuộc đối với
người dân Việt Nam. Chuối được trồng phổ biến từ Bắc vào Nam, đặc biệt ở
vùng nông thôn có thể nói nhà nào cũng có cây chuối. Theo nghiên cứu của
các nhà khoa học nước ta thì chuối Việt Nam được sắp xếp trong 9 nhóm
phân loại chủ yếu (xem bảng 2.6).
Theo GS.TS. Trần Thế Tục thì các giống chuối chính ở miền Bắc được
xếp vào 4 nhóm cơ bản là:

- Nhóm chuối tiêu, gồm 3 giống: tiêu cao, tiêu lùn, tiêu nhỏ. Đây là loại
được trồng rộng rãi ở nước ta. Hàng năm cho sản lượng lớn nhất và cũng
đóng vai trò chủ yếu trong xuất khẩu chuối của nước ta. Có phẩm chất tốt,
25
25

×