Tải bản đầy đủ (.docx) (57 trang)

Nghiên cứu khả năng sinh trưởng của giống bưởi sa điền (trung quốc) tại tân cương thành phố thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.79 KB, 57 trang )

1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Lịch sử phát triển của xã hội loài người luôn gắn liền với những công
cuộc đấu tranh: khám phá, chinh phục, giải phóng, khai thác và cải tạo thiên
nhiên, nhằm thoả mãn những nhu cầu ngày càng tăng về số lượng và chất
lượng các loại sản phẩm sinh học.
Sản phẩm hoa quả là một trong những loại sản phẩm có ý nghĩa quan
trọng và không thể thiếu được trong tiêu dùng hàng ngày của con người. Khi
xã hội càng phát triển thì nhu cầu đó cũng ngày càng tăng. Trong các loại sản
phẩm về hoa quả, thì sản phẩm cây ăn quả có múi luôn có một vị trí quan
trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Việt Nam được xác định là quê hương của cam quít (Bùi Huy Đáp [6],
ngoài những giống cam quít của địa phương và nhập nội, hiện nay còn tìm thấy
nhiều loài hoang dại thuộc họ cam quít. Hiện nay cam quít trở thành một trong
những cây ăn quả chủ yếu ở Việt Nam và được trồng từ Bắc vào Nam với bộ
giống gồm khoảng gần 200 giống khác nhau (Viện nghiên cứu Rau Quả Hà
Nội (2000) [14]).
Cây Bưởi (Citrus grandis Osbek hay Citrus maxima Merr.) là cây ăn quả
nhiệt đới được trồng rất phổ biến ở nhiều vùng trên cả nước. Ở Việt Nam đã
hình thành nên nhiều vùng trồng bưởi nổi tiếng như bưởi Diễn (Từ Liêm, Hà
Nội), bưởi Đoan Hùng (Phú Thọ), bưởi Đường (Hà Tĩnh), bưởi Phúc Trạch
(Hương Khê, Hà Tĩnh), bưởi Năm Roi, bưởi Da xanh….
Bưởi là đặc sản quý có giá trị dinh dưỡng cao, có nhiều ứng dụng trong y
học cổ truyền của dân tộc. Trong lá, hoa, vỏ quả bưởi đều chứa tinh dầu. Ngoài
ra, vỏ quả bưởi còn có pectin, naringin (một loại glucozid), men tiêu hoá
1
2
peroxydaza và amylaza, đường ramoza, vitamin A và C Dịch ép múi bưởi có
8 - 10% đường, 9% acid citric, 50% vitamin C, vitamin A và B


1
, cùng nhiều
loại men tiêu hóa amylaza, peroxydaza Chính vì vậy mà cây bưởi còn là thứ
dược liệu quan trọng trong đời sống con người (Trần Thế Tục và cộng sự,
(1996)[10]; Đỗ Tất Lợi (2006) [9].
Cây bưởi có phổ thích nghi rộng, có thể trồng được ở nhiều nơi và tạo nên
những vùng quả đặc sản nổi tiếng cho từng vùng sinh thái như bưởi Diễn(Hà
Nội), bưởi Năm Roi(Bình Thuận), bưởi Đoan Hùng(Phú Thọ), bưởi Phúc
Trạch(Nghệ An) mỗi loại có hương vị riêng đặc trưng cho các vùng miền của đất
nước và ngày càng được nhiều người tiêu dùng ưa chuộng. Hiện nay cây bưởi
đang trở thành cây ăn quả có ưu thế trong sản xuất trang trại ở các địa phương.
Năm 2008 bộ môn Cây Ăn Quả khoa Nông Học sang thăm quan vùng
bưởi nổi tiếng ở tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) đã thu thập giống bưởi quý này
mang về lưu giữ ở thành phố Thái Nguyên, nhằm bảo tồn và nhân ra để thử
nghiệm tại một số vùng sinh thái miền núi phía Bắc Việt Nam.
Việc đưa giống bưởi Sa Điền về thử nghiệm để thăm dò khả năng thích
ứng của giống với điều kiện sinh thái trước khi bổ sung vào cơ cấu giống cây
ăn quả ở nước ta là rất cần thiết. Được sự đồng ý của khoa Nông Học và bộ
môn Rau Quả, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu khả năng sinh trưởng của giống bưởi sa điền (Trung Quốc)
tại Tân Cương - Thành phố Thái Nguyên”
1.2. Mục đích và yêu cầu
+ Mục đích: Theo dõi khả năng sinh trưởng của giống bưởi Sa Điền
(Trung Quốc) được trồng tại thành phố Thái Nguyên, từ đó đánh giá khả
năng thích nghi của giống với điều kiện sinh thái của tỉnh Thái Nguyên.
+ Yêu cầu:
- Điều tra một số yếu tố cơ bản về điều kiện tự nhiên và tình hình sản
xuất cây ăn quả của thành phố Thái Nguyên.
2
3

-Theo dõi khả năng sinh trưởng của những cây bưởi thí nghiệm.
- Theo dõi các loại sâu bệnh hại xuất hiện trên những cây bưởi thí nghiệm.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
- Đối với học tập: giúp sinh viên vận dụng những kiến thức đã học vào thực
tế, biết cách thực hiện đề tài và hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
- Đối với nghiên cứu khoa hoc: giúp sinh viên tiếp cận các phương pháp
nghiên cứu khoa học,nâng cao trình độ chuyên môn đồng thời tạo cho minh
tác phong làm viêc đúng đắn, nghiêm túc, sáng tạo, rút ra được những kinh
nghiệm quý báu từ thực tế mà trong sách vở không có được.
1.3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn sản xuất
- Có cơ hội học hỏi thêm những kinh nghiệm trong thực tiễn sản xuất;
nâng cao năng lực nghiên cứu chuyển giao khoa học kỹ thuật cho bản thân.
- Nếu giống bưởi Sa Điền mới nhập nội thích nghi tốt với điều kiện
sinh thái vùng nghiên cứu là cơ sở để công nhận giống tốt sẽ được bổ sung
vào cơ cấu giống bưởi và giống cây ăn quả của tỉnh Thái Nguyên và các tỉnh
có điều kiện sinh thái tương tự.
3
4
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Nguồn gốc, phân loại
2.1.1. Nguồn gốc và phân bố
Trong các loại cây ăn quả, cùng với cây nho, cây cam quít có lịch sử
trồng trọt lâu đời nhất. Có nhiều kết quả nghiên cứu nói về nguồn gốc của
cam quít (Bùi Huy Đáp (1960) [6]; Trần Thế Tục (1967) [10];… phần lớn đều
thống nhất cam quít có nguồn gốc ở miền Nam châu Á, trải dài từ Ấn Độ qua
Himalaya Trung Quốc xuống vùng quần đảo Philippin, Malaysia, miền Nam
Indonecia hoặc kéo đến lục địa Úc.
Các giống bưởi (Citrus grandis) được báo cáo (theo tác giả Bùi Huy Đáp

(1960) [6]) có nguồn gốc ở Malaysia, Ấn Độ, một thuyền trưởng người Ấn Độ
có tên là Shaddock đã mang giống bưởi này tới trồng ở vùng biển Caribe, sau
đó bưởi được giới thiệu ở Palestin vào năm 900 sau công nguyên và tiếp theo
mới đến các nước ở châu Âu. Bưởi chùm (Citrus paradisis) được xác định là
dạng đột biến hay dạng con lai tự nhiên của bưởi (Citrus grandis), xuất hiện
sớm nhất ở vùng Barbadas miền tây Ấn Độ, tiếp theo là trồng ở Bang Florida
(Mỹ) vào năm 1809, sau đó lan rộng và trở thành một trong những sản phẩm
quả chất lượng cao ở châu Mỹ. Các giống quít cũng được xác định có nguồn
gốc ở miền nam châu Á, gồm miền nam Trung Quốc, bán đảo Đông Dương, sau
đó được những người đi biển mang đến trồng ở Ấn Độ.
Tóm lại, cam quít có nguồn gốc ở miền Nam châu Á, sự lan trải của
cam quít trên thế giới gắn liền với lịch sử buôn bán đường biển và các cuộc
chiến tranh trước đây.
2.1.2. Phân loại
Theo tác giả Swingle, W. T và Reece, P. C. (1967) (trích theo tác giả Bùi
Huy Đáp (1960) [6] cây bưởi thuộc:
4
5
Bộ: Aurantiodeae
Họ: Rutaceae
Chi: Citrus
Loài: maxima
Bưởi hiện nay có hai loài phổ biến, đó là:
Bưởi (C. grandis): Quả to nhất trong các loài cam quít, vị chua hoặc
ngọt, bầu có từ 13 - 15 noãn, eo lá khá lớn, hạt nhiều. Hiện nay các giống
bưởi phần lớn thuộc dạng hạt đơn phôi, và được trồng chủ yếu ở các nước
nhiệt đới như Thái Lan, Malaysia, Việt Nam, Trung Quốc Việt Nam có rất
nhiều giống bưởi nổi tiếng (Vũ Công Hậu [13]) như bưởi Đoan Hùng, bưởi
Phúc Trạch, bưởi Năm Roi, bưởi Diễn, v.v
Bưởi chùm (C. paradisi): Được đánh giá là dạng con lai tự nhiên của

bưởi (C. grandis) (theoBùi Huy Đáp [6]), vì vậy hình thái bưởi chùm khá
giống với bưởi (C.grandis) nhưng lá nhỏ hơn, eo lá cũng nhỏ hơn, quả nhỏ,
cùi mỏng, vỏ mỏng, vị chua nhẹ. Bưởi chùm có những giống ít hạt (giống
Duncan), phần lớn các giống bưởi chùm có hạt đa phôi nên cũng có thể sử
dụng làm gốc ghép. Quả bưởi chùm là món ăn tráng miệng rất được ưa
chuộng ở châu Âu, người ta gọt nhẹ lớp vỏ mỏng bên ngoài rồi để cả cùi cắt
thành các lát nhỏ dùng sau bữa ăn. Bưởi chùm được trồng nhiều ở Mỹ, Brazil,
riêng bang Florida Mỹ chiếm 70 % sản lượng bưởi chùm của thế giới. Ở Việt
Nam vào những năm 60 đã nhập nội một số giống bưởi chùm như Duncan,
marsh, forterpink, v.v cho năng suất khá, tuy nhiên bưởi chùm chưa được ưa
chuộng thực sự ở Việt Nam.
2.2. Một số đặc điểm chính của cây ăn quả có múi
2.2.1. Đặc điểm thực vật học
Bưởi là cây ăn quả thân gỗ lâu năm, tán rộng, lá xanh quanh năm, cây
trưởng thành có than, tán lớn, hạt đơn phôi,…
5
6
*Rễ: Rễ cam quít nói chung thuộc loại rễ nấm (Micorhiza), nấm Micorhiza
sống cộng sinh trên lớp biểu bì của rễ, có vai trò như những lông hút ở các cây
trồng và thực vật khác, cung cấp nước, muối khoáng và một lượng nhỏ chất hữu
cơ cho cây, cây cung cấp hydrat carbon cho nấm (Trần Thế Tục (1967) [10],
Nhìn chung rễ cam quít hoạt động mạnh ở thời kỳ 1- 8 năm tuổi sau
trồng, sau đó giảm dần và khả năng tái sinh kém. Trong một năm cam quít có
3 thời kỳ rễ hoạt động mạnh: Trước khi ra cành xuân (tháng 2 đến đầu tháng
3); sau rụng quả sinh lý lần 1 (lúc cành hè xuất hiện) và cành thu đã sung sức
(tháng 9-10). Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của bộ rễ cam quít: nhiệt độ
thích hợp trên dưới 26
0
C; đất thoáng và đủ ẩm (60%); độ chua pH = 4-8 và tối
thích là 5,5-6,5, nhiều mùn, đủ dinh dưỡng, đủ chất kích thích sinh trưởng, v.v

* Thân cành: Trong một năm cam quít có thể ra nhiều đợt lộc tuỳ vào
từng vùng sinh thái, giống, tuổi cây và những tác động kỹ thuật của con người,
thông thường có từ 2 - 4 hoặc 5 đợt lộc. Loại cành mẹ và số đợt lộc trong năm
liên quan khá nhiều đến hiện tượng ra quả cách năm. Ở những loài cây càng
nhiều đợt lộc trong năm, tuổi thuần thục của cành mẹ để có thể sinh ra cành quả
càng ngắn thì hiện tượng ra quả cách năm càng ít hoặc không có, đó cũng là lý
do có thể giải thích vì sao quất và một số giống chanh có thể cho quả quanh năm.
+ Cành xuân nảy mầm vào tháng 2, 3, 4.
+ Cành hè nảy mầm vào tháng 6, 7, 8.
+ Cành thu nảy mầm vào tháng 9, 10.
+ Cành đông nảy mầm vào tháng 11, 12.
Tuỳ từng giống, tuỳ từng cây, tuỳ điều kiện khí hậu và chăm sóc mà
lượng cành và thời gian ra các đợt cành này có sự thay đổi, cành non có thể
quang hợp được, trong các đợt cành thì cành xuân thường ra đều, tập trung và
cành ngắn, còn cành hè thường khoẻ, lá to, dài nhưng rải rác hơn, cành thu
kém hơn cành hè và cành đông thì yếu ớt (Trần Như Ý và cs, 2000)[13].
6
7
Cành cam quýt có 3 loại: cành mẹ, cành dinh dưỡng và cành quả.
- Cành mẹ: Sinh ra cành quả nó có thể là cành xuân, cành hè, hoặc cành
năm trước. Qua theo dõi cho thấy tuỳ theo từng giống, thường cành thu hoặc
cành hè làm cành mẹ thì số cành quả nhiều và tỷ lệ đậu quả cao.
- Cành dinh dưỡng: Cành không ra hoa, quả, chỉ có lá xanh có nhiệm vụ
chính là quang hợp, thực ra giữa cành mẹ và cành dinh dưỡng, sang năm có
thể là cành mẹ.
- Cành quả: Tuỳ giống cam quýt mà cành quả có độ dài từ 3- 25cm thông
thường từ 3 - 9cm. Cành quả có lá thường đậu quả tốt hơn cành quả không có
lá.
* Lá: Cam quýt vốn có lá kép song đến nay dấu vết còn lại là eo lá dưới
gốc lá đơn, lá là một trong những chỉ tiêu để phân loại giữa các giống, tuổi

thọ của lá thay đổi phụ thuộc vào điều kiện khí hậu và điều kiện dinh dưỡng
của cây.
Ở Việt Nam tuổi thọ trung bình của lá là 15 - 24 tháng, ở vùng á nhiệt
đới có thể dài hơn.
Tuỳ theo giống và tuỳ theo mùa, lá có thể khác nhau về hình dạng, độ
lớn, mầu sắc, mật độ khí khổng, mật độ túi tinh dầu.
Lá có quan hệ chặt chẽ với sản lượng, nhất là với trọng lượng quả.
* Hoa: Hoa cam quít phần lớn có mùi thơm. Xét về hình thái có 2 loại
hoa: hoa phát triển đầy đủ và hoa dị hình (Bùi Huy Đáp (1960) [6]. Hoa đầy đủ
có cánh dài màu trắng và có công thức cấu tạo: K
5
; C
5
; A
(20-40
; G
(8-15)
, thường thì
số nhị gấp 4 lần số cánh hoa và xếp thành 2 vòng, nhị hợp. Hoa dị hình: là những
hoa bị thiếu khuyết 1 trong các bộ phận của hoa.
Về hoa tự cũng có 2 loại: hoa đơn và hoa chùm. Hoa đơn có 2 dạng:
dạng cành đơn có nhiều lá và 1 hoa ở đầu cành, dạng này có khả năng đậu quả
cao nhất, trong điều kiện được chăm sóc tốt thì cây sẽ có nhiều loại cành này;
7
8
dạng cành không có lá, thường có nhiều cành quả/1 cành mẹ, cuống ngắn dễ
lẫn với dạng hoa chùm. Hoa chùm: có 3 dạng: dạng trên cành ở mỗi nách lá có
1 hoa và 1 hoa ở ngọn cành, trên mỗi cành có từ 3-7 hoa và khả năng đậu từ 1-
2 quả; dạng trên ngọn cành có 1 hoa và mỗi nách lá có 1 hoa và có 1 số lá
không hoàn chỉnh, chỉ ở dạng vảy, dạng này tỷ lệ đậu quả không cao; dạng hoa

chùm không có lá có từ 4-5 hoa, loại này tỷ lệ đậu quả rất thấp hoặc không đậu.
* Quả: Khi còn xanh chứa nhiều axit đến khi chin thì lượng axit giảm,
hàm lượng đường và chất tan tăng lên. Cấu tạo quả gồm 2 phần:
+ Vỏ quả: gồm vỏ ngoài và vỏ giữa.
+ Thịt quả: bộ phận chính của thịt quả là các con tép, màu sắc thịt quả
phụ thuộc vào sắc tố vàng da đỏ. Trong dịch nước quả còn có các hạt dầu
thơm quyết định hương vị quả.
Quả có 2 đợt rụng sinh lý
• Đợt 1: Sau khi ra hoa khoảng 1 tháng (tháng 3-4) quả còn nhỏ khi rụng
mang theo cả cuống.
• Đợt 2: Khi quả đạt đường kính 3 -4cm (cuối tháng 4) quả rụng không
mang theo cuống.
* Hạt: Tuỳ theo giống mà có sự khác nhau về kích thước, số lượng màu
sắc và phôi hạt. Các loạ quả thuộc cây có múi phần lớn là hạt đa phôi, riêng
cây bưởi là hạt đơn phôi.
2.2.2. Yêu cầu ngoại cảnh của cây ăn quả có múi
* Nhiệt độ
Bưởi có thể trồng ở vùng nhiệt độ từ 12 - 39
o
C, trong đó nhiệt độ thích
hợp nhất là từ 23 - 29
o
C. Nhiệt độ thấp hơn 12,5
o
C và cao hơn 40
o
C cây
ngừng sinh trưởng. Nhiệt độ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới toàn bộ hoạt
động sống của cây cũng như năng suất, chất lượng quả (Vũ Công Hậu, 1996;
Vũ Mạnh Hải và cộng sự, 2000).

8
9
Nhiệt độ tốt nhất cho sinh trưởng các đợt lộc trong mùa xuân là từ 12 -
20
o
C, trong mùa hè từ 25 - 30
o
C, còn cho hoạt động của bộ rễ từ 17 - 30
o
C.
Nhiệt độ tăng trong phạm vi từ 17 - 30
o
C thì sự hút nước và các chất dinh
dưỡng tăng và ngược lại, do liên quan đến bốc hơi nước và hô hấp của lá.
Đối với thời kỳ phân bố mầm hoa nhiệt độ phải thấp hơn 25
o
C trong
vòng ít nhất 2 tuần, hoặc phải gây hạn nhân tạo ở những vùng nhiệt đới nóng.
Ngưỡng nhiệt độ tối thiểu cho nở hoa là 9,4
o
C. Trong ngưỡng nhiệt độ nhỏ
hơn 20
o
C sẽ kéo dài thời gian nở hoa, còn từ 25-30
o
C quá trình nở hoa ngắn
hơn (Trần Thế Tục và cộng sự, 1996) [10].
Nhiệt độ thấp trong mùa đông có ảnh hưởng đến sự phát sinh cành hoa
có lá và cành hoa không có lá. Cành hoa không lá tỷ lệ đậu quả tới khi thu
hoạch là rất thấp so với cành hoa có lá, do vậy nếu nhiệt độ mùa đông quá

thấp cành hoa không lá sẽ nhiều hơn và như vậy tỷ lệ đậu quả sẽ thấp.
Nhiệt độ ảnh hưởng tới sự thụ phấn gián tiếp thông qua hoạt đông của
ong và trực tiếp ảnh hưởng tới tốc độ sinh trưởng của ống phấn. Sự nảy mầm
của hạt phấn khi rơi vào đầu nhuỵ và tốc độ sinh trưởng của ống phấn trong
vòi nhuỵ nhanh hơn khi nhiêt độ cao từ 25 - 30
o
C và chậm khi nhiệt độ dưới
20
o
C. Sinh trưởng của ống phấn xuyên suốt hết vòi nhuỵ đến noãn từ 2 ngày
đến 4 tuần phụ thuộc vào giống và điều kiện nhiệt độ. Tuy nhiên, thời gian
càng kéo dài cũng sẽ làm tỷ lệ đậu quả thấp.
Sự rụng quả sinh lý (thời kỳ quả non có đường kính từ 0,5 - 2,0 cm) là
một rối loạn chức năng có liên quan tới vấn đề cạnh tranh của câc quả non về
hydratcacbon, nước, hoocmon và sự trao chất khác, song nguyên nhân quan
trọng nhất được nhấn mạnh đó là nhiệt độ mặt lá lên tới 35 - 40
o
C và hạn.
Nhiệt độ thích hợp cho phát triển của quả từ 14 - 40
o
C, tốt nhất là ở nhiêt độ
xung quanh 32
o
C, nhiệt độ từ 29 - 35
o
C tích luỹ đường tốt nhất và cỏ quả
cũng đạt tới màu sắc tốt nhất.
Nhiệt độ ảnh hưởng đến hình thức bên ngoài và chất lượng bên trong của
quả. Ở những vùng nóng không có mùa đông hàm lượng diệp lục cao trên vỏ
9

10
quả làm cho quả luôn có màu xanh, nhưng nếu nhiệt độ không khí và đất
giảm xuống 15
o
C thì chất diệp lục trên vỏ quả bị biến mất và các hạt lục lạp
biến đổi thành các hạt sắc tố màu vàng, vàng cam hoặc màu đỏ. Sự tổng hợp
carotenoid giảm nếu nhiệt độ trên 35
o
C hoặc dưới 15
o
C nhưng vẫn làm cho
diệp lục biến mất. Ở những vùng nóng có hàm lượng chất khô hoà tan cao
hơn và hàm lượng axit giảm (Trần Thế Tục và cộng sự, 1996) [10].
Nhiệt độ là yếu tố quan trọng đối với sinh trưởng, phát triển cũng như
năng suất chất lượnh của bưởi, bởi vậy việc chọn vùng trồng bưởi trước hết
phải xem xét yếu tố nhiệt độ xem có phù hợp hay không.
* Đất
Bưởi có thể trồng nhiều trên nhiều loại đất, tuy nhiên trồng trên đất xấu
việc đầu tư sẽ cao hơn và hiệu quả kinh tế sẽ thấp hơn trồng trên đất tốt.
Đất tốt đối với bưởi thể hiện qua các chỉ tiêu chủ yếu sau (Trung tâm
Công nghệ phân bón và Thực phẩm, 2003; Trung tâm Kỹ thuật Thực phẩm và
Phân bón, (2005); Nguyễn Văn Luật, (2006)
- Đất phải giàu mùn (hàm lượng từ 2 - 2,5% trở lên), hàm lượng các chất
dinh dưỡng NPK, Ca, Mg… phải đạt mức độ trung bình trở lên (N: 0,1
-0,15%; P
2
O
5
dễ tiêu từ 5 - 7 mg/100 g đất; K
2

O dễ tiêu từ 7 - 10 mg/100 g
đất; Ca, Mg từ 3 - 4 mg/100 g đất.
- Độ pH thích hợp từ 5,5 - 6,5.
- Tầng đất canh tác: dầy trên 1 m.
- Thành phần cơ giới: cát pha hoặc đất thịt nhẹ (cát thô đến đất thịt nhẹ
chiếm 65 - 70%), thoát nước (tốc độ thấm của nước từ 10 - 30 cm/h).
- Độ dốc từ 3 - 8
o
.
Các vùng trồng bưởi nổi tiếng ở nước ta phần lớn nằm trên đất phù sa
hoặc đất phù sa cổ, có lý tính và độ phì khá.
* Nước
Cây ăn quả có múi là loại cây ưa ẩm nhưng không chịu được úng nước
vì rễ của bưởi phụ thuộc loại rễ nấm (hút chất dinh dưỡng qua một hệ nấm
cộng sinh), do đó nếu ngập nước đất bị thiếu ôxy rễ sẽ hoạt động kém, ngập
10
11
lâu sẽ bị thối chết làm rụng lá, quả non (Trung tâm Nghiên cứu Xuất bản sách
và Tạp chí, 2006) [12].
Các thời kỳ cần nước của bưởi là: bật mầm, phân hoá mầm hoa, ra hoa
và phát triển quả. Lượng nước cần hàng năm của 1 ha cam, quýt từ 9,000 -
12,000 m
3
, tương đương với lượng mưa 900 - 1,200 mm/năm (Trần Thế Tục
và cộng sự, 1996) [10].
* Ánh sáng
Cây ăn quả có múi là cây ưa ánh sáng tán xạ có cường độ 10.000 - 15.000
Lux, ứng với 0,6 Cal/cm
2
và tương ứng với ánh sáng lúc 8 giờ và 16 - 17 giờ

những ngày quang mây mùa Hè. Sở dĩ như vậy là do cường độ ánh sáng ảnh
hưởng trực tiếp đến sự đồng hoá CO
2
, cường độ ánh sáng mạnh làm giảm sự
đồng hoá CO
2
vì bức xạ tăng trên mặt lá. Dưới các điều kiện cực trị, nhiệt độ
mặt lá có thể cao hơn nhiệt độ không khí từ 7 - 10
o
C và có thể lên đến 15
o
C.
Nhiệt độ tối thích trên bề mặt lá cho đồng hoá CO
2
dao động từ 28 - 30
o
C. Ở
vùng ẩm độ không khí cao, khi nhiệt độ không khí lớn hơn 35
o
C làm hạn chế
nghiêm trọng tới hoạt tính của ribolose 1,5-bisphosphate carboxylase/oxygenas
(Rubisco) và gây ra sự đóng khí khổng vào giữa ban ngày. Nhiệt độ thấp hơn
mức tối thích cũng làm giảm sự đồng hoá CO
2
do giảm hoạt tính của men (Trần
Thế Tục và cộng sự, 1996) [10].
* Gió
Tốc độ gió vừa phải có ảnh hưởng tốt tới việc lưu thông không khí, điều
hoà độ ẩm, giảm hại sâu bệnh, cây sinh trưởng tốt. Tuy nhiên tốc độ gió lớn
ảnh hưởng đến khả năng đồng hoá của cây đặc biệt những vùng hay bị gió

bão sẽ làm cây gãy cành rụng quả ảnh hưởng tới sinh trưởng và năng suất.
2.3. Kỹ thuật trồng và chăm sóc bưởi
2.3.1. Chọn giống trồng và tiêu chuẩn giống trồng
* Chọn giống
11
12
Để tạo ra các giống mới, trong quá trình chọn giống các nhà khoa học
đã áp dụng nhiều phương pháp khác nhau: lai cùng loài, lai khác loài, gieo
một số lượng hạt lớn từ thụ phấn tự do, chọn lọc cây phôi tâm, chọn lọc
giống bằng phương pháp gây đột biến phóng xạ, gây đột biến bằng phóng xạ
hoá học, v.v (Hoàng Ngọc Thuận (2002) [8].
Ở Việt Nam việc chọn tạo các giống mới cam quít đang còn những hạn
chế. Hướng trọng tâm chủ yếu là nhập nội các giống mới có nhiều đặc điểm
tốt để thử nghiệm với các vùng sinh thái và nghiên cứu thử nghiệm cùng với
các gốc ghép thích hợp.
* Tiêu chuẩn giống
Cây giống phải được nhấc lên từ cây mẹ đầu dòng tuyển chọn và phải
đạt tiêu chuẩn ngành 10 TCN - 2001, cụ thể:
- Cây giống sản xuất bằng phương pháp chiết cành phải có thời gian gơ
lại trong túi bầu polyetylel hoặc rọ tre/nứa, kích thước: cao x đường kính = 35
x 15cm và được chăm sóc trong vườn ươm từ 4 - 6 tháng, có bộ rễ đã hoá nâu
và từ cấp 4-5 trở lên, có 2-3 cành cấp 1, đường kính của các cành từ 0,1-
1,5cm với bộ lá xanh lục, bánh tẻ, không sâu bệnh, dài tối thiểu 50 cm.
- Các giống sản xuất bằng phương pháp ghép cũng phải được tạo hình cơ
bản trong vườn ươm, có 2-3 cành cấp 1. Đường kính cành ghép cách điểm
ghép đạt từ 0,5 - 0,7cm, dài từ 50cm trở lên, có bộ lá xanh tốt, không sâu
bệnh. Cây giống được trồng trong túi bầu polyetylel với kích thước quy định:
cao x đường kính = 35x 15cm.
2.3.2. Chuẩn bị đất
Chuẩn bị đất trồng bao gồm: Phát quang, san bằng, thiết kế vườn trồng,

đào hố, bón phân lót, các công việc khác như làm đường, mương rãnh tưới
tiêu nước v.v.
- Phát quang và san ủi mặt bằng: Đối với những đồi rừng chuyển sang
trồng cây ăn quả nói chung và trồng bưởi đều phải phát quang, thậm chí còn
phải đánh bỏ toàn bộ rễ cây rừng và san ủi tạo mặt phẳng tương đối để cho
12
13
việc thiết kếvườn được dễ dàng. Từ những nơi đất quá dốc sẽ áp dụng biện
pháp làm đất tối thiểu, nghĩa là chỉ phát quang, dãy cỏ, san lấp những chỗ quá
gồ ghề sau đó thiết kế và đào hố trồng cây, còn ở những nơi đất không quá
dốc hoặc bằng, sau khi phát quang, san ủi sơ bộ có thể dung cày máy hoặc cày
trâu, cày bừa một lượt để vừa sạch cỏ vừa tạo cho bề mặt vườn tươi xốp ngăn
được sự bốc hơn nước của vườn sau khi phát quang.
Đối với các loại đất chuyển đổi khác (ví dụ chuyển đổi từ cây trồng sang
cây trồng bưởi) cũng cần phải dọn sạch và tạo mặt bằng trước khi thiết kế.
- Thiết kế vườn trồng: Bao gồm các nội dung công việc như bố trí lô
thửa đường đi, mương rãnh tưới tiêu nước, bố trí mật độ khoảng cách.v.v.
- Đào hố và bón phân lót: Sauk hi đã thiết kế xong tiến hành đào hố và
bón phân lót.
+ Kích thước hố: Nguyên tắc là đất xấu đào hố rộng và sâu, đất tốt đào
hố nhỏ hơn. Thông thường hố trồng bưởi được đào với kích thước: chiều
rộngxchiều dài = 0,8mx 0,8m hoặc 1m x 1m. khi đào lấp đất mặt từ 0,5 - 0,6m
đổ về một bên để chộn với phân lót, lớp đất còn lại đổ về một bên.
+ Bón phân lót (tính cho một hố)
Phân hữu cơ (phân chuồng hoặc phân hoai mục): từ 50- 80kg
Phân lân supe:1- 1,5kg
Kali sunfat: 0,5 - 1kg
Vôi bột: 1kg
Tất cả các loại phân trên trộn đều với lớp đất mặt bón xuống đáy tới ¾
hố. Đất còn lại đập nhỏ lấp phủ lên mặt hố, hoi cao hơn mặt hố khoảng 15-

20cm để quá trình tưới nước, đất nén chặt bằng mặt hố là được.
Công việc đào hố, bón lót phải làm xong trước khi trồng 1 tháng.
2.3.3. Trồng cây
* Thời vụ trồng
- Thời vụ tốt nhất vào tháng 2- 3 dương lịch.
13
14
- Có thể trồng vào tháng 8- 9 (đã lập thu).
* Cách trồng
Đào một hố nhỏ chính giữa hố trồng, đặt cây vào hố rồi lấp đất vừa bằng
cổ rễ hoặc cao hơn 2- 3cm, không được lấp quá sâu.
Trồng xong mỗi cây cần cắm một cái cọc để buộc thân cây cho gió khỏi
lay làm đổ cây, tưới nước đẫm để đất và rễ tiếp xúc chặt với nhau và dung cỏ
mục để tủ gốc, chú ý phải tủ cáh gốc 10- 15cm để tránh sâu, bệnh xâm nhập.
2.3.4. Kỹ thuật chăm sóc
* Chăm sóc ở thời kỳ chưa cho quả (1-3 năm tuổi)
- Làm cỏ, bón phân, tưới nước.
+ Vườn cây phải luôn luôn sạch cỏ, đặc biệt là xung quang gốc trong
phạm vi bán kính 40- 50 cm. Dùng cỏ khô, rơm rạ tủ xung quanh gốc để vùng
rễ cây thường xuyên ẩm và hạn chế được cỏ dại. Giữa các hàng cây để có thể
trồng xen các loại họ đậu như lạc, đỗ tương hoặc cây thuốc, rau xanh để có
them sản phẩm khi bưởi chưa có quả, đồng thời cũng là biện pháp phòng trừ
cỏ dại hiệu quả. Trên đất dốc không thể trồng xen các cây nông nghiệp ngắn
ngày, có thể để thảm cỏ giữ ẩm cho đồi và chống sói mòn nhưng phải phát
quang thường xuyên để cỏ dại không cạnh tranh dinh dưỡng với bưởi.
+ Thường xuyên kiểm tra độ ẩm đất để bổ xung nước kịp thời cho cây,
đặc biệt trong mùa khô từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau. Giai đoạn này phải
kết hợp tủ gốc với tưới nước để đảm bảo độ ẩm đất luôn ở mức 36- 65% độ
ẩm bão hoà.
+ Kết hợp làm cỏ, bón phân với tưới nước để nâng cao hiệu quả của

phân bón. Trong giai đoạn chưa có quả từ 1- 3 tuổi chia lượng phân bón của
năm làm nhiều lần bón trong một năm. Năm thứ nhất nên bón một tháng một
lần, năm thứ hai 2 tháng bón một lầnvà năm thứ ba 3 tháng bón một lần.
Riêng phân hữu cơ, lân và vôi bón một lần vào lần bón cuối cùng trong năm.
14
15
Bảng 2.1: Lượng phân bón ở thời kỳ chưa cho quả tính theo tuổi cây
ĐV: kg/cây
Tuổi cây
Loại phân và lượng bón
Phân hữu cơ Đạm ure Lân supe Kali clorua
1 - 120 300 100
2 25 150 400 120
3 25 300 800 250
(Nguồn: Ngô Hồng Bình [1])
+ Cách bón: Nếu là nước phân pha loãng, trước khi tưới xới nhẹ, sâu 5-
7cm xung quanh gốc theo hình chiếu của tán vào phía gốc cây sâu khoảng
25cm sau đó mới tới nước phân, tưới xong dùng cỏ khô hoặc rơm rạ tủ gốc lại
gốc cây: còn phân vô cơ riêng rẽ có thể quốc 3 - 4 hố sâu 5- 7cm quanh tán,
bón phân xong thì lấp đất lại, hoặc rạch một rãnh xung quanh hình chiếu tán
cây, rộng 15- 20cm, sâu 7- 10cm rồi rắc phân đều vào rãnh, lấp đất, tưới nước
để phân tan sau đó tủ lại gốc cây. Đợt bón cuối cùng có phân hữu cơ cần rạch
rãnh rộng và sâu hơn.
- Trồng dặm, tỉa, bỏ mầm dại.
Năm đầu phải tiến hành kiểm tra trồng dặm các cây chết, cây sinh
trưởng kém, phát hiện và loại bỏ những mầm dại mọc từ gốc ghép (nếu là
cây ghép).
- Trồng xen.
Ở thời kì cây chưa mang quả nên trồng xen các cây họ đậu, cây thuốc
hoặc cây ăn quả ngắn ngày để tăng độ phì cho đất, hạn chế cỏ dại, nâng cao

hiệu quả sử dụng đất.
Cây trồng xen phải cách gốc cây 0,8 - 1,0m: Để không cạnh tranh ánh
sang, nước và dinh dưỡng làm ảnh hưởng đến khả năng phát triển bình
thường của cây bưởi.
15
16
- Cắt tỉa tạo hình.
+ Tạo cành cấp 1: Cây trồng bằng cành chiết thường đã có 2 hoặc 3 cành
(cành chạc đôi, chạc 3) được gọi là cành cấp 1. Tuy nhiên khi trồng ra vườn
phần lớn các cây bị lấp đất gần tới chạc đôi, chạc 3, nên các cành đó được gọi
là than chính. Sauk hi cây hồi phục (khoảng 2- 3 tháng sau trồng) dùng kéo
cắt ngon của các thân chính ở cách khoảng 40 - 50cm để bật các mầm mới.
Mỗi thân chỉ để 1 cành nếu là cây có 3 thân; 2 cành nếu là cây 2 thân làm
cành cấp 1.
Đối với cây ghép do đã được tạo hình cơ bản trong vườn ươm có thể thừ
2 - 3 cành cấp 1 nên chỉ cần chăm sóc tốt để các cây sinh trưởngkhoẻ, thành
thục hơn cho tạo cành cấp 2. Trường hợp cây chưa được tạo hình trong vườn
ươm hoặc được tạo hình nhưng cành cấp 1 quá nhỏ bé, yếu, khitrồng cần cắt
bỏ những cành yếu chỉ để một cành chính và khi cành chónh sinh trưởng đạt
độ cao 40- 50cm thì cắt bỏ ngọn cho sinh cành cấp 1 (chú ý khi bấm ngọn từ
thân chính có thể bật ra rất nhiều mầm nhưng chỉ để 3- 4 mầm làm cành cấp 1
phân bố tương đối về các hướng). Các cành cấp 1 này thường chọn cành
khoẻ, ít cong queo, cách nhau 7 - 10cm trên thân chính và tạo với thân chính
một góc xấp xỉ 45- 60 độ để khung tán đều và thoáng.
+ Tạo cành cấp 2: Khi cành cấp 1 dài 25 - 30cm, tiếp tục bấm ngọn để
tạo cành cấp 2.
Thông thường trên cành cấp 1 chỉ giữ lại 2 - 3 cành cấp 2 phân bố hợp lý
về góc độ và hướng.
+ Tạo cành cấp 3: Tiếp tục bấm ngọn cành cấp 2 sẽ tạo được cành cấp 3.
Cành cấp 3 là những cành tạo quả và mang quả cho những năm sau. Do vậy

phải khống chế để chúng không giao nhau và sắp xếp theo các hướng khác
nhau giúp cây quang hợp được tốt.
* Chăm sóc bưởi ở thời kỳ thu hoạch
-Tưới tiêu nước, làm cỏ cho cây
16
17
+ Cây phải được cung cấp nước đầy đủ ở các thời kỳ quan trong là: Thời
kỳ phân hoá mầm hoa (tháng 11, 12), thời kỳ ra hoa (thang 1, 2) thời kỳ quả
non (rụng quả sinh lý tháng 4) và trong suốt thời kỳ quả phát triển đến trước
thu hoạch một tháng. Cần áp dụng các biện pháp tủ gốc kết hợp tưới nước
trong mùa khô từ tháng 10 - tháng 4 năm sau (như trong thời kỳ cây chưa có
quả) để duy trì độ ẩm cho cây sinh trưởng phát triển.
+ Cần có biện pháp tiêu nước khẩn cấp cho vườn cây trong mùa mưa
bão, đặc biệt ở các vườn ở địa hình bằng và ven các song suối, Các rãnh,thoát
nước thường xuyên phải được nạo vétkhai thong trươcs và sau trận mưa lớn
để không làm đọng nước gây rụng quả và bệnh phát triển.
+ Thường xuyên làm sạch cỏ xung quanh gốc theo hình chiéu của tán
cây để hạn chế cạnh tranh dinh dưỡng.
Bón phân: Bón phân cho bưởi ở thời kỳ cây cho quả có thể dựa vào năng
suất thu hoạch như sau:
Bảng 2.2: Lượng phân bón ở thời kỳ cho thu hoạch dựa vào năng suất
quả thu hoạch vụ trước
Lượng phân
Lượng phân bón
Phân hữu cơ
(g/cây)
Đạm ure
(g/cây)
Lân supe
(g/cây)

Kali clorua
(g/cây)
20kg/năm 30 650 830 410
40kg/năm - 1.100 1.400 680
60kg/năm 50 1.300 1.700 820
100kg/năm - 1.750 2.250 1.090
120kg/năm 70 2.200 2.800 1.360
150kg/năm - 2.600 3.350 1.640
(Nguồn: Ngô Hồng Bình [1])
+ Thời vụ bón: Toàn bộ lượng phân được chia làm 3 lần bón trong năm.
Lần 1: bón thúc hoa (tháng 1- 2) 40% đạm. 40% kali
17
18
Lần 2: bón thúc quả (tháng 4- 5) 20% đạm, 20% kali
Lần 3: bón sau thu hoạch (thang 11- 12) 40% đam, 40% kali và 100%
phân lân và phân hữu cơ.
+ Cánh bón:
- Phân hữu cơ: Đào rãnh xung quanh cây theo hình chiếu tán câyvới bề
mặt rãnh rộng 30 - 40cm, sâu 20 -25cm, rải phân, lấp đất, tưới nước giữ ẩm.
Hoặc có thể đào 3 rãnh theo hình vành khăn xung quanh tán để bón, năm sau
bón tiếp phần còn lại.
- Bón phân vô cơ: Khu đất ẩm chỉ cần rải phân lên mặt đất theo hình
chiếu của tán cây cách xa gốc 20 - 30cm, sau đó tưới nước để hoà tan phân.
Khi trời khô hạn cần hoà tan phân trong nước để tưới hoặc rải phân theo hình
chiếu của tán, xới nhẹ đất và tưới nước.
- Bón phân vi lượng và áp dụng một số biện pháp kĩ thuật tăng khả năng
ra hoa. đậu quả: Bổ sung Magie, kẽm, đồng v.v.
* Cắt tỉa cành
Cắt tỉa chủ yếu tập trung vào thời kỳ thu hoạch,phương pháp cắt tỉa chỉ
là tỉa thua và cắt ngắn.

- Tứa thưa là tập trung cắt bỏ tận gốc các cành mọc quá dầy, cành tăm,
cành vượt, cành khô, cành sâu bệnh.
- Cắt ngắn là cắt bỏ những đầu cành để hãm bớt tốc độ sinh trưởng vươn
cao, thúc đẩy các mầm cành phía dưới phát triển.
2.4. Tình hình sản xuất và tiêu thụ bưởi
2.4.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ bưởi trên thế giới
Theo số liệu thống kê của FAO (2011), tình hình sản xuất cam quít trên
thế giới được tổng hợp như bảng 2.3.
Bảng 2.3: Sản xuất cam quít trên thế giới 5 năm gần đây
Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 2009
18
19
Diện tích (nghìn ha)
Bưởi 269.008 254.241 254.935 250.997 250.953
Chanh 761.467 967.484 979.573 1.019.231 1.014.635
Cam 3.840.541 3.976.639 4.152.568 4.176.254 4.192.351
Quít 1.932.495 2.043.693 2.146.551 2.139.426 2.159.170
Các loại khác 1.078.815 1.077.453 1.100.206 1.102.350 1.102.360
Năng suất (tạ/ha)
Bưởi 150,384 171,516 180,986 185,794 179,191
Chanh 159,137 136,073 133,302 132,674 137,483
Cam 163,850 164,812 157,239 164,260 161,249
Quít 122,898 126,700 129,528 140,391 141,664
Các loại khác 65,649 66,201 67,626 70,368 70,559
Sản lượng (nghìn tấn)
Bưởi 4.045.466 4.360.643 4.613.985 4.663.384 4.496.868
Chanh 12.117.830 13.164.949 13.057.963 13.522.634 13.949.600
Cam 62.927.295 65.539.951 65.294.602 68.599.338 67.601.635
Quít 23.750.064 25.893.747 27.800.394 30.035.799 30.587.778
Các loại khác 7.082.382 7.132.936 7.440.263 7.757.069 7.778.197

(Nguồn: FAOSTAT/Statistics (2011)[7])
Qua bảng số liệu trên ta thấy, trên thế giới trong những năm gần đây diện
tích sản trồng cam là cao nhất năm 2005 diện tích trồng cam đạt 3.840.541
nghìn ha sau đó là diện tích quýt là 1.932.495 nghìn ha. Bắt đầu từ năm 2005
trở lại đây thì diện tích trông cam quýt tăng lên đáng kể, từ 2005 đến 2009 thì
diện tích cam tăng đạt4.192.351 nghìn ha, quýt đạt 2.159.170 nghìn ha. Bưởi
có diện tích thấp nhất năm 2005 là 269.008 nghìn ha, trong mấy năm trở lại
đây thì diện tích bưởi trên thế giới giảm dần, đến năm 2009 thì diện tích giảm
xuống chỉ còn 250.953 nghìn ha, ta thấy trong mấy năm gần đây diện tích
19
20
bưởi giảm đi 18.055 nghìn ha.
Qua bảng số liệu về năng suất ta thấy, tuy diện tích bưởi trên thế giới
mấy năm gần đây giảm nhưng năng suất lại tăng lên đáng kể, năm 2005
năng suất đạt 150.384 tạ/ha đến năm 2009 năng suất tăng lên đạt 179,191
tạ/ha. Như vậy trong mấy năm gần đây năng suất tăng được 28,807 tạ/ha.
Sau đó là năng suất quýt năm 2005 đến 2009 tăng 18,76 tạ/ha, còn các cây
khác thì năng suất có chiều hướng giảm dần.
Về sản lượng từ năm 2005 đến 2009 ta thấy sản lượng bưởi và các cây
trồng khác tăng không dáng kể. Diện tích bưởi tuy giảm nhiều nhưng do
năng suất tăng cao nên sản lượng có xu hướng tăng.
2.4.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ bưởi ở Việt Nam
Bảng 2.4: Tình hình sản xuất cam quít ở Việt Nam từ năm 2003-2009
Chỉ tiêu
Năm
2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Diện tích (1000ha)
Bưởi 2,00 1,90 1,90 2,00 2,00 2.000 2.000
Cam 50,70 55,50 59,10 59,10 59,10 59.100 59.100
Loại khác 0,03 0,03 0,03 0,03 0,03 0,03 0,03

Năng suất (tạ/ha)
Bưởi 105,000 116,840 118,420 115,000 115,000 115,000 115,000
Cam 98,086 97,387 101,742 101,692 101,692 101,692 101,692
Loại khác 40,000 40,000 40,000 40,000 40,000 40,000 40,000
Sản lượng (1000tấn)
Bưởi 21,000 22,199 22,499 23,000 23,000 23,000 23,000
Cam 497,296 540,498 601,295 600,999 600,999 601,000 601,000
Loại khác 0,120 0,120 0,120 0,120 0,120 0,120 0,120
(Nguồn: FAOSTAT/Statistics (2011)[7])
Ở nước ta, cây ăn quả có múi trong đó có bưởi là một trong những loại
quả quan trọng được xếp vào nhóm các cây ăn quả chủ lực với diện tích
20
21
111,299 ha, chiếm 14,8% diện tích cây ăn quả. Qua bảng số liệu trên ta thấy
trong khoảng 3 năm trở lại đây diện tích về cam và bưởi đều không có sự
thay đổi, về năng suất và sản lượng tăng tương đối ổn định. Tuy chưa có số
liệu thống kê riêng biệt về từng loại quả có múi, song cũng dễ dàng nhận thấy
rằng ở nước ta bưởi được trồng ở hầu hết khắp các tỉnh trong cả nước và có
nhiều vùng sản xuất tập trung nổi tiếng tới hàng trăm ha như vùng bưởi Đoan
Hùng - Phú Thọ (khoảng 300 ha), Phúc Trạch - Hà Tĩnh (800 ha), Thanh Trà -
Thừa Thiên Huế (1000 ha), Biên Hòa - Đồng Nai, vv…, đặc biệt là vùng bưởi
Đồng bằng sông Cửu Long.
Theo Viện Nghiên cứu Cây ăn quả Miền Nam, chỉ riêng bưởi Năm Roi ở
Đồng bằng sông Cửu Long diện tích đã khoảng 10.000 ha, sản lượng đạt
60.000 tấn/năm, phân bố chính ở tỉnh Vĩnh Long với diện tích 4,5 nghìn ha
cho sản lượng 31,3 nghìn tấn, chiếm 48,6% về diện tích và 54,3% về sản
lượng bưởi Năm Roi của cả nước, trong đó tập trung ở huyện Bình Minh gần
3,4 nghìn ha với sản lượng gần 30 nghìn tấn. Tiếp theo là tỉnh Hậu Giang có
1,3 nghìn ha. Giống bưởi Da xanh mới chọn lọc cách đây khoảng chục năm
nhưng diện tích trồng giống bưởi này ở Bến Tre đã có 1.544 ha. Dự kiến đến

năm 2010 tỉnh Bến Tre sẽ có 4.000 ha trồng bưởi Da xanh.
Theo số liệu điều tra cho thấy diện tích bưởi Diễn ở Hà Tây (cũ) năm
2006 lên đến gần 650 ha. Những huyện có nhiều diện tích bưởi Diễn là: Đan
Phượng, Phúc Thọ, Hoài Đức, Chương Mỹ, Quốc Oai, , riêng xã Thượng
Mỗ huyện Hoài Đức, diện tích bưởi Diễn có khoảng 125 ha; xã Phú Diễn
huyện Từ Liêm diện tích bưởi Diễn khoảng 53 ha với 600 hộ trồng bưởi (dẫn
theo Nguyễn Thị Lan Anh, 2007) [8].
Trồng bưởi mang lại hiệu quả kinh tế cao. Ở Thượng Mỗ Hà Tây (cũ)
người ta tính được hiệu quả kinh tế của trồng bưởi gấp 4 - 5 lần so với trồng
21
22
lúa. Giá trị thu nhập của 1 sào bưởi lên khoảng trên 10 triệu đồng. Còn đối
với bưởi Đoan Hùng, thông thường những nhà trồng 30 cây bưởi cũng thu
được mỗi năm 15 - 20 triệu đồng/năm. Ở Đồng bằng sông Cửu Long hiệu quả
của trồng bưởi Năm Roi không có gì phải bàn cãi vì giá mỗi chục bưởi (14
quả) loại 1 từ 68 ngàn đồng đến 120 ngàn đồng trong thời điểm từ Tết
Nguyên đán đến tháng 5 âm lịch, tính ra 1 công bưởi (1000 m
2
) thu được vài
chục đến cả trăm triệu đồng mỗi năm. Các hộ trồng bưởi Da xanh ở tỉnh Bến
Tre đều thu nhập trên 150 triệu đồng/ha (Đường Hồng Dật, 2000) [8].
Bưởi ở Việt Nam chủ yếu sử dụng ăn tươi và hiện tại sản xuất bưởi của
nước ta vẫn chưa đủ để cung cấp cho thị trường trong nước. Một vài năm gần
đây đã có một số công ty như Hoàng Gia, Đông Nam đã bắt đầu những hoạt
động như đầu tư sản xuất, áp dụng các biện pháp quản lý chất lượng theo
hướng thực hành nông nghiệp tốt (GAP-Good Agricultural Practices), đăng
ký thương hiệu một số giống bưởi ngon ở nước ta như Năm Roi, Da xanh,
Phúc Trạch, với mục đích xuất khẩu ra thị trường nước ngoài.
Sản xuất bưởi ở nước ta vẫn mang tính tự phát, thiếu quy hoạch, đặc biệt
là việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật thâm canh nâng cao năng suất, chất

lượng theo hướng vệ sinh an toàn thực phẩm.
2.5. Những nghiên cứu về cây bưởi và công tác chọn lọc bình tuyển trên
thế giới và ở Việt Nam
2.5.1. Trên thế giới
Trên thế giới, nghiên cứu về bưởi đã thu được kết quả trên rất nhiều lĩnh
vực như chọn tạo giống mới, kỹ thuật canh tác cho tới kỹ thuật bảo quản và
chế biến sau thu hoạch.
Theo Viện Tài nguyên Di truyền Thực vật Quốc tế (IPGRI, 2003)[15],
trong lĩnh vực thu thập, bảo tồn cây có múi nói chung và bưởi nói riêng cũng
22
23
được quan tâm của hầu hết cácnước trồng cây có múi trên thế giới. Càng ở
những nướccó ngành sản xuất cây có múi phát triển, thì việc thu thập, bảo tồn
lưu giữ cũng như việc đánh giá, sử dụng càng được quan tâm đầu tư.
Do tầm quan trọng của việc bảo tồn và sử dụng nguồn tài nguyên di
truyền thực vật nói chung và tài nguyên di truyền cây trồng nông nghiệp nói
riêng trong đó có cây có múi, mỗi quốc gia đều đã tiến hành công việc điều
tra thu thập, bảo tồnmột cách nghiêm túc, lựa chọn cách tiến hành phù hợp
với điều kiện kinh tế xã hội của mình. Xu hướng chung là tập trung vào điều
tra thu thập, bảo tồn, đánh giá sử dụng các giống bản địa, khai thác những đặc
tính, đặc trưng tốt của giống phục vụ cho việc thương mại hóa sản phẩm và
lai tạo giống, đặc biệt là tạo giống chống chịu với điều kiện sinh thái khí hậu
và sâu bệnh (Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, 1996) [2].
Trong lĩnh vực chọn tạo giống mới, các nhà khoa học Trung Quốc đã
tiến hành điều tra thu thập được hơn 1.000 giống trong quần thể tự nhiên có
năng suất cao và phẩm chất quả tốt (Lý Gia Cầu, 1993) [3]. Theo hướng chọn
tạo giống mới bằng phương pháp lai hữu tính, các nhà chọn tạo giống cây ăn
quả ở các nước trong khu vực đã chọn tạo được một số giống bưởi mới. Một
số giống bưởi có triển vọng phát triển tốt ở các nước như Thái Lan có 3
giống, Trung Quốc có 3 giống như bưởi Sa Điền, bưởi Văn Đán, bưởi Quân

Khê; Indonesia có 5 giống, 7 giống bưởi Chùm (Saunt, 2000) [16].
Tại Trung tâm Nghiên cứu Cây trồng Davao - Philippines các nhà nghiên
cứu đã tiến hành nghiên cứu một số giống bưởi đại diện và đã chọn lọc được
4 giống năng suất cao, phẩm chất tốt. Trong đó, có 3 giống bưởi có tép màu
hồng là Delarcuzink, Magalanes và Amoymantan. Một số giống có tép màu
trắng ví dụ như Sianese. Theo hướng đi từ nuôi cấy hạt phấn, các nhà khoa
học của Trung Quốc cũng đã thu được những kết quả nhất định (Estella và
Odtojan, 1992) [16].
23
24
Khi nghiên cứu trên các giống bưởi của Thái Lan, tác giả Suwanapong
(1991) [18] cho rằng, tỷ lệ đậu quả khi để các giống tự thụ phấn đạt rất thấp,
nhưng khi giao phấn giữa các giống thì tỷ lệ đậu quả tăng lên từ 9 đến 24%.
Theo Lý Gia Cầu (1993) [2], khả năng ra hoa của bưởi rất cao nhưng nếu để
tự nhiên thì tỷ lệ đậu quả rất thấp chỉ đạt 0 - 2%. Khi cho bưởi Sa Điền giao
phấn với bưởi chua thì tỷ lệ đậu quả tăng từ 1,99 - 25%.
Lai tạo là một trong những biện pháp tạo giống mới có hiệu quả. Mỗi
giống có một vài ưu nhược điểm của nó, khi đưa vào lai tạo có thể tạo ra
giống mới có nhiều đặc điểm ưu việt hơn. Các giống bưởi May pummelo và
Yellow pummelo là 2 giống được tạo ra từ lai tại Trại Nghiên cứu Giống cây
ăn quả Okitsu, Nhật Bản, cả 2 giống đều sinh trưởng khoẻ, chống chịu lạnh
tốt, hàm lượng chất khô tổng số cao và đều chống chịu bệnh loét tốt, bưởi
Hayasaki được lai tạo từ bưởi Mato và Hirado tại Trại Nghiên cứu Cây ăn quả
Kuchinotsu, cây sinh trưởng khoẻ, quả to, chất lượng tốt, chống chịu tốt với
bệnh vẩy vỏ. Ở Liên Xô (cũ) đã tạo ra những giống có khả năng chịu sương
giá tốt (Rene và Espino, 1990) [15].
Ngoài việc lai tạo để tạo ra các giống mới các nhà khoa học còn dùng để
cải tiến gốc ghép theo ý muốn (Beattie và Revelant, 1992) [16].
2.5.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam, trong nhóm cây ăn quả có múi thì bưởi ít được nghiên cứu

hơn so với cam, chanh và quýt.
Theo Phạm Văn Côn (2005) [5] thì những cây có múi được nghiên cứu
sớm nhất trong các cây ăn quả ở nước ta. Hiện nay, nước ta có rất nhiều giống
bưởi. Bưởi Đoan Hùng nhiều nước, hương vị thơm ngon bảo quản được 4 - 5
tháng nhưng nhiều hạt, thịt nát, ít róc vỏ. Bưởi Phúc Trạch có nhiều ưu điểm
hơn. Bưởi Năm Roi trái to mẫu mã đẹp, dễ bóc múi và vỏ, hương vị thơm, ít
hạt, bưởi Biên Hòa, bưởi Da xanh (Bến Tre), bưởi Hồng (Tiền Giang) và bưởi
24
25
Thanh Trà (miền Trung).
Theo Phạm Thị Chữ (1996) [4], qua 3 năm tuyển chọn giống bưởi Phúc
Trạch (1993 - 1995) đã chọn được 3 dòng tiêu chuẩn là M4, M1 và M5, đặc
biệt là M4 với các đặc điểm sau (đối với cây 20 năm tuổi): sinh trưởng tốt,
năng suất đạt 253 quả/cây, tỷ lệ phần ăn được đạt 54.5%, hàm lượng vitamin
C đạt 53,56 mg/100g, đường đạt 9.3%.
Hội thi Giống tốt do Viện Nghiên cứu Cây ăn quả miền Nam tổ chức,
cùng với việc điều tra nghiên cứu của các trung tâm và các nhà khoa học
trong nhiều năm đã tuyển chọn được mọt số giống quýt và bưởi có triển vọng
như cam sành (C58), quýt Tiều (QT12), bưởi Năm Roi, … Các giống này đã
được Bộ Nông nghiệp & PTNT công nhận là các giống tốt theo quyết định số
2767NN- KHCN/QD ngày 27/10/1997 (dẫn qua [2]).
Trần Thế Tục (1997) [10] tiến hành nghiên cứu 8 giống bưởi (Đoan
Hùng, bưởi ngọt Như Quỳnh, Pumello, bưởi đường Yên Phong, Phú Thọ đã
đưa ra đặc điểm hình thái, cấu tạo, tỷ lệ từng phần trong quả và thành phần
hoá học trong nước ép của các giống bưởi nghiên cứu này.
Trong quá trình tuyển chọn các giống bưởi ở một số tỉnh Nam Bộ, Phạm
Ngọc Liễu, Nguyễn Ngọc Thi (1999) [8] có kết luận: từ năm 1995 - 1998 đã
xác định được 67 giống bưởi được trồng trong vườn thuộc các tỉnh Nam Bộ,
54 giống đã được thu thập và lưu giữ tại nhà lưới của Viện Nghiên cứu Cây ăn
quả miền Nam. Các cá thể bưởi Năm Roi (BNR03, BNR05) cá thể bưởi

đường lá cam (BC12), cá thể bưởi Da xanh (BDX30) và cá thể bưởi đường
Bến Tre (BĐ340) có thể dùng làm cây mẹ để nhân giống cho nhu cầu trồng
bưởi hiện nay.
Theo kết quả điều tra khảo sát tập đoàn giống bưởi tại Biên Hòa (Đồng
Nai) do Trung tâm Nghiên cứu Cây ăn quả miền Đông Nam Bộ thực hiện
25

×