Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tiểu luận pháp luật đại cương trình bàu nội dung về quyền con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.35 KB, 19 trang )

ĐẠI HỌC CƠNG NGHỆ GIAO THƠNG VẬN TẢI
KHOA CHÍNH TRỊ - QPAN - GDTC

BỘ MƠN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: PHÁP LUẬT VIỆT NAM ĐẠI CƯƠNG

Câu hỏi tiểu luận: “ Trình bày nội dung quyền con người. Quyền nghĩa vụ
cơ bản của công dân theo quy định của Hiến pháp 2013? Những vấn đề lý
luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay?”

1


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU....................................................................................................1
1.Lí do viết đề tài tiểu luận......................................................................................1
2.Mục đích viết bài tiểu luận..................................................................................1
3.Bốc cục bài tiểu luận............................................................................................2
CHƯƠNG I: NỘI DUNG QUYỀN CON NGƯỜI.............................................3
1.Các quyền về dân sự, chính trị.............................................................................3
2.Các quyền kinh tế, văn hóa-xã hội.......................................................................4
CHƯƠNG II: QUYỀN NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN THEO QUY
ĐỊNH CỦA HIẾN PHÁP 2013.............................................................................5
CHƯƠNG III: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM
1.Lý luận về nguyên tắc “Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật
quy định”.................................................................................................................11
2.Thực tiễn về “ Quyền và nghĩa vụ của công dân”................................................14
KẾT LUẬN............................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO



2


PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lí do viết bài tiểu luận:
Có thể nói quyền con người được hiểu với nhiều hình thức khác nhau, tùy thuộc
vào bối cảnh xã hội, văn hóa tín ngưỡng, phong tục – tập quá; mục tiêu và định
hướng, mỗi thể chế chính trị, mỗi giai cấp, mỗi nhà nước, quan điểm của từng giai
cấp cầm quyền, hoàn cảnh và nhu cầu của mỗi cá nhân và từng ngành khoa học
như: triết học, xã hội học, luật học....
Trong lịch sử lập hiến của Việt Nam, quyền của con người ln được cụ thể hóa
bằng những quyền cơ bản của công dân(do được ghi nhận trong Hiến pháp) vad
bao giờ cũng được xem là một chế định pháp luật rất quan trọng – đây là một trong
những chế định thể hiện bản chất dân chủ, tiến bộ của một nhà nước, thể hiện mối
quan hệ giữa Nhà nước với công dân cùng với các cá nhân trong xã hội. Thông qua
đó, có thể xác định được mức độ dân chủ của một nhà nước, một xã hội.Vì vậy,
những nhà lập pháp Việt Nam ln hồn thiện chế định pháp luật về quyền cơ bản
của công dân trong đạo luật cơ bản của Nhà nước là Hiến pháp và luôn gắn liền với
nghĩa vụ cơng dân.
Vì vậy việc ban hành và thực hiện các quy định về quyền con người là một vấn đề
cấp thiết và phù hợp với công dân mà được Nhà nước quan tâm, thực hiện. Việc
nghiên cứu đề tài quyền con người để từ đó hồn thiện các chính sách pháp luật có
lien quan đến sự cơng bằng, văn minh, dân chủ, tự do.
2.Mục đích viết bài tiểu luận:
Bài tiểu luận được viết nhằm mục đích tìm hiểu và làm rõ các vấn đề về quyền và
lợi ích của cơng dân, giúp cơng dân có thể hiểu hơn về nghĩa vụ của mình. Từ đó,
thực hiện đúng và đủ quyền hạn nghĩa vụ của công dân:
-


Xây dựng cơ sở lí luận về quyền và nghĩa vụ của công dân.
Đánh giá thực trạng hành vi thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân và
những yếu tố ảnh hưởng.

3


-

Đề xuất một số quyền và nghĩa công dân của cơng dân để hiểu rõ về những

quyền của mình
3.Bố cục bài tiểu luận:
CHƯƠNG I: NỘI DUNG QUYỀN CON NGƯỜI
1.Các quyền về dân sự, chính trị.
2.Các quyền kinh tế, văn hóa – xã hội.
CHƯƠNG II: QUYỀN NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN THEO QUY
ĐỊNH CỦA HIẾN PHÁP 2013
CHƯƠNG III: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
1.Lý luận về nguyên tắc “Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật
quy định”.
2.Thực tiễn về “ Quyền và nghĩa vụ của công dân”.

CHƯƠNG I: NỘI DUNG QUYỀN CON NGƯỜI
4


1.Các quyền về chính trị:
- Quyền sống, tự do và an tồn cá nhân (Điều 3 Tun ngơn thế giới về nhân quyền

- UDHR); Điều 6 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) đã
cụ thể hóa quyền này trong Tun ngơn thế giới về nhân quyền: Mọi người có
quyền sống. Quyền này phải được pháp luật bảo vệ. Khơng ai có thể bị tước mạng
sống một cách tuỳ tiện. Ở những nước mà hình phạt tử hình chưa được xóa bỏ thì
chỉ được phép áp dụng với những tội ác nghiêm trọng nhất. Hình phạt tử hình chỉ
được thi hành trên cơ sở bản án đã có hiệu lực pháp luật, do một tịa án có thẩm
quyền phán quyết. Bất kì người nào bị kết án tử hình đều có quyền xin ân giảm
hoặc xin thay đổi mức hình phạt. Việc ân xá, ân giảm hoặc chuyển đổi hình phạt tử
hình có thể được áp dụng đối với mọi trường hợp. Không được phép tuyên án tử
hình đối với người dưới 18 tuổi và phụ nữ đang mang thai (Điều 6ICCPR).
- Quyền tự do đi lại, tự do cư trú trong phạm vi lãnh thổ quốc gia; mọi người có
quyền rời khỏi bất kì nước nào, kể cả đất nước mình, cũng như có quyền trở về
nước mình (Điều 13 UDHR; Điều 12ICCPR).
- Quyền kết hơn, lập gia đình và bình đẳng trong hơn nhân (Điều 16 UDHR; Điều
23 ICCPR).
- Quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng, tơn giáo (Điều 18 UDHR, Điều 18 ICCPR).
- Quyền bình đẳng trước pháp luật (Điều 7 ƯDHR, Điều 26 ICCPR).
- Quyền không bị bắt và bị giam giữ hay bị lưu đày một cách tuỳ tiện (Điều 9
UDHR, Điều 9 ICCPR).
- Quyền tự do ngôn luận (Điều 19 UDHR, Điều 19 ICCPR).
- Quyền tự do hội họp và lập hội một cách hồ bình (Điều 20 UDHR, Điều 21,
Điếu 22ICCPR).
- Quyền tham gia quản lí đất nước mình một cách trực tiếp hoặc thơng qua các đại
diện mà họ được tự do lựa chọn (khoản 1 Điêu 21 UDHR, Điều 25 ICCPR)
- Ý chí của nhân dân phải là cơ sở tạo nên quyền lực của chính quyền; ý chí đó phải
được thể hiện qua một cuộc bầu cử định kì và chân thực được tổ chức theo nguyên
5


tắc phổ thơng đầu phiếu, bình đẳng và bỏ phiếu kín hoặc bằng những thủ tục bàu cử

tự do tương tự (khoản 3 Điều 21 UDHR). Quyền bầu cử và ứng cử trong các cuộc
bầu cử định kì chân thực, bằng phổ thơng đầu phiếu, bình đẳng và bỏ phiếu kín
nhằm đảm bảo cho cử tri tự do bày tỏ nguyện vọng của mình (khoản b Điều 25
ICCPR).
- Quyền được các tịa án quốc gia có thẩm quyền bảo vệ bằng biện pháp hữu hiệu
để chống lại các hành vi vi phạm các quyền cơ bản của họ mà đã được hiến pháp
hay pháp luật quy định (Điều 8 UDHR, Điều 14ICCPR).
- Quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một tòa án độc lập và khách quan
để xác định các quyền và nghĩa vụ của họ, cũng như về bất cứ sự buộc tội nào đối
với họ (Điều 10 UDHR, Điều 14ICCPR)
- Mọi người đều có quyền sở hữu tài sản cùa riêng mình hoặc sở hữu tài sản chung
với người khác. Không ai bị tước đoạt tài sản một cách tuỳ tiện (Điều 17 UDHR).
2.Các quyền về kinh tế, văn hóa – xã hội:
- Quyền làm việc và quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, được hưởng những điều
kiện làm việc công bằng, thuận lợi và được bảo vệ chống lại nạn thất nghiệp. Mọi
người đều có quyền được trả cơng ngang nhau cho những cơng việc như nhau mà
khơng có sự phân biệt đối xử nào. Mọi người lao động đều có quyền được hưởng
chế độ thù lao cơng bằng hợp lí nhằm bảo đảm sự tồn tại của bản thân và gia đình
xứng đáng với nhân phẩm và được trợ Cấp khi cần thiết bằng các biện pháp bảo trợ
xã hội. Mọi người đều có quyền thành lập hoặc gia nhập cơng đồn để bảo vệ
quyền lợi của mình (Điều 23 UDHR, Điều 6, Điều 7ICESCR).
- Quyền nghỉ ngoi và thư giãn, kể cả quyền được giới hạn hợp lí số giờ làm việc và
được hưởng những ngày nghỉ định kì có hưởng lương (Điều 24 UDHR, khoản d
Điều 7 ICESCR).
- Quyền được hưởng một mức sống thích đáng đủ để đảm bảo sức khỏe và phúc lợi
của bản thân và gia đình về các khía cạnh ăn, mặc, ở, chăm sóc y tế và các dịch vụ
xã hội cần thiết, cũng như có quyền được bảo hiểm trong trường hợp thất nghiệp,
6



đau ốm, tàn phế, góa bụa, già nua hoặc thiếu phương tiện sinh sống do những hoàn
cảnh khách quan vượt quá khả năng đổi phó của họ. Các bà mẹ, trẻ em có quyền
được hưởng sự chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt. Mọi trẻ em sinh ra trong hay ngoài
giá thú đều phải được hưởng sự bảo trợ xã hội như nhau (Điều 25 ƯDHR, khoản 1
Điều 11 ICESCR).
- Mọi người có quyền được học tập. Giáo dục phải miễn phí, ít nhất là ở các bậc
tiểu học và trung học cơ sở. Giáo dục tiểu học phải bắt buộc. Giáo dục kĩ thuật và
dạy nghề phải mang tính phổ thông và giáo dục đại học hay cao hơn phải theo
ngun tắc cơng bằng cho bất cứ ai có khả năng. Giáo dục phải giúp con người
phát triển đầy đủ về nhân cách và thúc đẩy sự tôn trọng các quyền và tự do cơ bản
của con người. Giáo dục cũng phải nhằm tăng cường sự hiểu biết, lòng khoan dung
và tình hữu nghị giữa các dân tộc, các nhóm chủng tộc hoặc tơn giáo cũng như phải
đẩy mạnh các hoạt động của Liên họp quốc về duy trì hồ bình. Cha mẹ có quyền
ưu tiên lựa chọn các hình thức giáo dục cho con cái họ (Điều 26 UDHR).
- Mọi người có quyền tự do tham gia vào đời sống văn hóa của cộng đồng, được
thưởng thức nghệ thuật và chia sẻ những tiến bộ khoa học. Mọi người đều có quyền
được bảo vệ quyền lợi vật chất và tinh thần phát sinh từ bất kì sáng tạo khoa học,
văn học hay nghệ thuật nào mà người đó là tác giả (Điều 27 UDHR, Điều 15
ICESCR).
-Bên cạnh việc quy định về các quyền, Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền
(UDHR) cũng xác định mọi người có những nghĩa vụ với cộng đồng - là noi duy
nhất mà ở đó nhân cách của bản thân họ có thể phát triển tự do và đầy đủ (khoản 1
Điều 29 UDHR).
CHƯƠNG II: QUYỀN NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN THEO QUY
ĐỊNH CỦA HIẾN PHÁP 2013
Sự đấu tranh bảo vệ, giải phóng lồi người thốt khỏi ách áp bức, bóc lột, đi đến
xây dựng xã hội dân sự, thực sự dân chủ, công bằng, văn minh là mục tiêu hàng
đầu của hầu hết các dân tộc. Chính vì điều đó, quyền con người, quyền công dân là
7



yếu tố quan trọng trong mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội và
quyền con người, quyền công dân là một trong những nội dung cơ bản nhất trong
mọi hiến pháp.
Hiến pháp năm 2013 đã tiếp tục sử dụng khái niệm “quyền con người” với
nội dung chính trị - pháp lý rộng hơn để phản ánh giá trị của cá nhân con người.
Nhìn ở góc độ về khái niệm, “quyền con người” khơng loại trừ và không thay thế
được khái niệm “quyền công dân”. Hiến pháp năm 2013 đặc biệt quan tâm đặt vị trí
của chương “Quyền con người và quyền và nghĩa vụ cơ bản của cơng dân”
-Chương II. Có thể nói đây cũng chính là sự kế thừa “vị trí” của Hiến pháp năm
1946. Tuy nhiên, do nhiệm vụ chính trị của các thời kỳ là khác nhau nên có điều
khác biệt, nếu như Hiến pháp năm 1946 đặt nghĩa vụ của cơng dân lên trước thì
Hiến pháp năm 2013 lại đặt quyền của công dân lên trước. Một mặt điều này cho
thấy quan điểm tôn trọng quyền con người, quyền công dân, một mặt cho thấy
quyền và nghĩa vụ trong tất cả các thời kỳ là có mối quan hệ mật thiết với nhau, có
sự kế thừa và phát triển của Hiến pháp sau so với Hiến pháp trước.
Hiến pháp năm 2013 đã chuyển chương quyền con người và quyền và nghĩa vụ cơ
bản của cơng dân từ “vị trí” Chương V (Hiến pháp năm 1992) lên “vị trí” Chương
II (Hiến pháp năm 2014), tăng hai điều, từ ba mươi tư điều (từ Điều 49 đến Điều 82
– Hiến pháp năm 1992) lên ba mươi sáu điều (từ Điều 14 đến điều 49 – Hiến pháp
năm 2013), tăng mười tám điều so với Hiến pháp năm 1946, tăng mười lăm điều so
với Hiến pháp năm 1959 và tăng bảy điều so với Hiến pháp năm 1980. Trong đó,
có năm điều mới (là những điều: Điều 19, Điều 34, Điều 41, Điều 42, Điều 43), sửa
đổi, bổ sung 28 điều (là những điều: từ Điều 14 đến Điều 18, Điều 20 đến Điều 33,
Điều 35 đến Điều 40, Điều 45, Điều 47, Điều 48), giữ nguyên ba điều (là những
điều: Điều 44, Điều 46, Điều 49), trong đó có những nội dung cực kỳ quan trọng cụ
thể như sau:
- Điều 14 ghi nhận: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người, quyền cơng dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được cơng
8



nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Quyền con người,
quyền cơng dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần
thiết vì lý do quốc phịng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội,
sức khỏe của cộng đồng”. Đây thực chất là sự hiến pháp hóa quan điểm của Đảng
về quyền con người “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công
dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ
công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định”[2] [3]. Như vậy, lần đầu tiên trong
Hiến pháp Việt Nam ghi nhận “Quyền con người”, điều này cho thấy không phải
các bản Hiến pháp trước đó chúng ta khơng ghi nhận về “quyền con người” (nhân
quyền) mà trước đây chúng ta chưa phân biệt rõ hai khái niệm “quyền con người”
và “quyền cơng dân”, hay nói cách khách chúng ta đã đồng nhất hai khái niệm trên,
cũng chính vì điều này mà chúng ta bị các thế lực thù địch xuyên tạc Nhà nước ta
không quan tâm đến “quyền con người”, vi phạm nhân quyền…lần ghi nhận này có
ý nghĩa hết sức quan trọng một mặt chúng ta phân biệt rõ hai khái niệm “quyền con
người” và “quyền công dân”, ghi nhận “quyền con người” đứng trước “quyền cơng
dân” cũng có nghĩa là chúng ta ghi nhận “quyền con người” có nội hàm rộng hơn
“quyền công dân”, “quyền công dân” là một bộ phận của quyền con người, đồng
thời cũng ghi nhận từ trước đến nay chúng ta luôn thừa nhận quyền con người đã
được cụ thể hóa trong quyền cơng dân mà các Hiến pháp trước đây đã cơng nhận,
có điều chúng ta chưa tách bạch độc lập về hai khái niệm trên.
- Điều 15 ghi nhậnbốn nguyên tắt hết sức cơ bản: Quyền công dân không tách rời
nghĩa vụ công dân; mọi người có nghĩa vụ tơn trọng quyền của người khác; cơng
dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội; việc thực hiện
quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc,
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
- Điều 16 ghi nhận một vấn đề hết sức cơ bản, bằng việc tiếp thu những giá trị của
nhân loại về quyền con người, đã nâng cao thêm tính cơng bằng cơng lý cho “mọi
người” (kể cả cơng dân Việt Nam và người nước ngồi và người không quốc tịch),

9


mở rộng đối tượng được hưởng tính cơng bằng này là “mọi người” chứ không chỉ
riêng cho “công dân” như Hiến pháp năm 1992, mặc dù về mặt nhận thức trước đây
chúng ta cũng muốn công bằng cho mọi người nhưng việc thể hiện chưa sâu sắc
“Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời
sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”.
- Điều 18 (sửa đổi, bổ sung Điều 49) là sự sáng tạo, khẳng định sức mạnh của một
quốc gia độc lập ngang tầm, bình đẳng với các quốc gia khác, dân tộc khác trên thế
giới “...Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, giao nộp cho Nhà nước khác. Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài” cũng nhằm khẳng
định cộng đồng người Việt Nam ở khắp nơi trên thế giới là một “bộ phận không thể
tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam”.
- Điều 19 ghi nhận “Mọi người có quyền sống...” đây là một điều mới, ghi nhận
một quyền mới, đã thể chế một quyền hết sức cơ bản, quyền tự nhiên của con người
vừa phù hợp công ước quốc tế về quyền con người vừa khẳng định tính khởi thủy
của quyền con người như là một sinh vật sống và tồn tại trong thế giới khách quan.
- Điều 20 (sửa đổi, bổ sung Điều 72) thể hiện tính phù hợp hơn của tinh thần nhà
nước pháp quyền, tiếp tục khẳng định vai trò của cơ quan tòa án nhưng cũng khẳng
định một trong những quyền của con người là được tòa án xét xử khi bị buộc tội,
như vậy có thể hiểu rằng không một cơ quan nào khác được thực hiện quyền này
nhằm đảm bảo tính cơng bằng cơng lý cho tất cả những người phạm tội và việc xét
xử ấy cũng chỉ được xét xử bằng chính pháp luật và chỉ bằng pháp luật, họ có thể
sử dụng sự trợ giúp pháp lý của người bào chữa để có thể “gỡ” tội cho chính mình:
“Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức
khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất
kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự,
nhân phẩm. Không ai bị bắt nếu khơng có quyết định của Tồ án nhân dân, quyết

định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang.
10


Việc bắt, giam giữ người do luật định. Mọi người có quyền hiến mơ, bộ phận cơ thể
người và hiến xác theo quy định của luật. Việc thử nghiệm y học, dược học, khoa
học hay bất kỳ hình thức thử nghiệm nào khác trên cơ thể người phải có sự đồng ý
của người được thử nghiệm”; trong điều này ghi nhận hai quyền cơ bản; quyền bất
khả xâm phạm về thân thể; quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác.
- Điều 29 ghi nhận: “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi
Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”. Đây là sự phát triển Điều 53 của Hiến pháp
năm 1992, tiếp tục khẳng định quyền được trưng cầu ý kiến, cách thể hiện cơ đọng
hơn và có sự giới hạn về độ tuổi của người dân được trưng cầu, phải là “công dân
đủ mười tám tuổi trở lên”, việc giới hạn độ tuổi như vậy cũng là cần thiết và phù
hợi với điều kiện thực tiễn Việt Nam.
- Các Điều 30, Điều 31 tiếp tục kế thừa Hiến pháp năm 1992 tại các Điều 74, Điều
72 và có tiếp thu tinh thần Nghị quyết số 49 về cái cách tư pháp, cải cách hành
chính và các vấn đề về quyền khiếu nại, tố cáo.
- Điều 32 (sửa đổi, bổ sung Điều 58) đã ghi nhận hết sức cơ bản về quyền sở hữu tư
nhân, việc ghi nhận này đã giúp cho việc nhìn nhận của thế giới về tính cơng bằng
giữa chế độ sở hữu tư nhân và công hữu “Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập
hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp
trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác. Quyền sở hữu tư nhân và
quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ. Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc
phịng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phịng chống thiên tai,
Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân
theo giá thị trường”. Việc ghi nhận này giúp cho các nhà đầu tư nước ngoài hiểu
thêm về chế độ tư hữu ở Việt Nam là hiện hữu, không thể hiểu nhầm khi họ đầu tư
là sợ quốc hữu hóa về tài sản như trước đây, tránh việc các thế lực thù địch lợi dụng
cơng kích và theo đó, cũng giúp việc ghi nhận tại Chương III quy định về chế độ

kinh tế là không cần liệt kê các thành phần kinh tế như các bản Hiến pháp trước
nữa mà chỉ cần ghi nhận nhà nước ta thừa nhận nền kinh tế có nhiều thành phần,
11


cũng có thể hiểu rằng Hiến pháp năm 2013 đã mở rộng quyền về tự do kinh doanh
của mọi người, mở rộng hơn nữa quyền con người trong lĩnh vực kinh tế.
- Các Điều 41, Điều 42, Điều 43 là các điều mới ghi nhận những quyền thuộc về
lĩnh vực đời sống tinh thần mà trước đây trong Hiến pháp năm 1992 chưa thể hiện,
đó cũng do những điều kiện khách quan đang cho phép, đồng thời cũng buộc chúng
ta phải ghi nhận, đặc biệt cần quan tâm “Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận
các giá trị văn hố, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa”
(Điều 41); “cơng dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngơn ngữ mẹ
đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp” (Điều 42); “mọi người có quyền được sống trong
mơi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ mơi trường” (Điều 43), sự thừa nhận
này có thể hiểu giá trị con người cần được đề cao, đáng được đề cao và xem trọng.
Đặc biệt là ghi nhận một quyền mới “quyền được sống trong môi trường trong
lành” là điều hiển nhiên trong một xã hội văn minh, việc ghi nhận này có thể nói là
khá muộn. Tuy nhiên, đã thể hiện sự cầu thị, tiếp thu, kế thừa những giá trị của
nhân loại, làm điều kiện thúc đẩy môi trường xã hội văn minh, tiến bộ.
Hiến pháp năm 2013 đã có những thay đổi hết sức quan trọng về quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Lần đầu tiên Hiến pháp đã làm rõ hai khái
niệm “quyền con người” và “quyền cơng dân”. Sự tách bạch này đã góp phần củng
cố lý luận về quyền con người, quyền công dân, làm cơ sở để tiếp tục nghiên cứu
về vấn đề này cũng như áp dụng vào thực tiễn. Có thể nói,Hiến pháp năm 2013 như
một “làn gió mới” tiếp tục khẳng định chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, tiếp thu có
chọn lọc phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam đối với các qui định về
quyền con người trong các văn bản pháp luật quốc tế, ghi nhận một số quyền mới
cụ thể, thể hế hóa ngun tắc “cơng dân được làm những gì mà pháp luật không
cấm” trong lĩnh vực kinh doanh tại Điều 33 “mọi người có quyền tự do kinh doanh

trong những ngành nghề mà pháp luật khơng cấm”. Bên cạnh đó, Hiến pháp cũng
bổ sung cơ bản cơ chế đảm bảo cho việc thực hiện quyền công dân và giữ nguyên
phần nghĩa vụ, tuy nhiên có sự thay đổi về cách bố trí vị trí của phần nghĩa vụ, theo
12


đó một phần nghĩa vụ được đặt lên trước (Điều 15) liên quan trực tiếp đến quyền và
nghĩa vụ giữa công dân với công dân, giữa công dân với Nhà nước. Cách bố trí này
có phần giống với cách bố trí của Hiến pháp năm 1946, phần cịn lại bố trí phía sau
(Điều 44, Điều 45, Điều 46, Điều 47…). Ngoài ra cách thứ ba vẫn lồng ghép nghĩa
vụ vào quyền của công dân như “quyền và nghĩa vụ học tập”, “quyền và nghĩa vụ
lao động”… Bên cạnh đó, Hiến pháp năm 2013 cũng ghi nhận lại những quyền và
nghĩa vụ mà Hiến pháp năm 1992 đã ghi nhận bằng cánh ghi nhận đổi mới theo
hướng vĩ mô, tinh gọn, bao quát vấn đề hơn cách ghi nhận của các bản Hiến pháp
trước đó.
CHƯƠNG III: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
1. Lý luận về nguyên tắc “Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và
luật quy định”:
Để thể chế hóa nguyên lý đại diện trên, đồng thời “khắc phục sự vi phạm quyền
con người, quyền cơng dân do thiếu sót của Nhà nước từ hoạt động lập pháp, lập
quy”[1], Hiến pháp năm 1992 khẳng định một tư tưởng chỉ đạo hay nguyên tắc nền
tảng cho việc xác lập địa vị pháp lý của công dân: Quyền và nghĩa vụ của công dân
do Hiến pháp và luật quy định. Ngay từ năm 1992, Phó Chủ tịch Quốc hội khóa
VIII[2] - luật gia kỳ cựu Phùng Văn Tửu - đã bình luận: “Ở đây nói luật chứ khơng
phải pháp luật. Như vậy là sau khi có Hiến pháp mới thì chỉ có luật do Quốc hội
thông qua mới quy định về quyền và nghĩa vụ cơng dân. Cịn các văn bản dưới luật
chỉ là hướng dẫn cụ thể việc thực hiện. Đó cũng là một trong nhiều thí dụ khác
chứng tỏ quyết tâm của Nhà nước ta xây dựng nhà nước pháp quyền, tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa”[3]. Đây cũng chính là quy định mới mang tính nền tảng

đối với hoạt động lập pháp của Nhà nước ta nói chung, Quốc hội nói riêng. Điều
này, một lần nữa, thể hiện thái độ trân trọng rất đáng ghi nhận của Nhà nước đối
với việc thể chế hóa địa vị pháp lý của cơng dân, nhằm hạn chế tối đa sự tùy tiện từ
phía Nhà nước.
13


Về mặt hình thức pháp lý,chúng tơi xin diễn giải như sau[4]:
1.Quyền và nghĩa vụ của cơng dân có thể được chia thành hai loại gồm quyền và
nghĩa vụ cơ bản (được quy định mang tính xác lập, khởi đầu trong Hiến pháp - luật
cơ bản của Nhà nước) và quyền, nghĩa vụ khác hay quyền, nghĩa vụ không cơ bản
(được quy định mang tính xác lập, khởi đầu trong các luật, bộ luật). Phân tích sâu
hơn, chúng ta nhận thấy Hiến pháp chỉ quy định những quyền và nghĩa vụ cơng dân
hoặc có tính quan trọng đặc biệt, hoặc vừa có tính quan trọng đặc biệt vừa có tính
khái quát so với quyền và nghĩa vụ luật định. Ví dụ: nghĩa vụ nộp thuế là nghĩa vụ
chung được hiến định; còn nghĩa vụ nộp một loại thuế cụ thể như thuế thu nhập cá
nhân, thuế xuất nhập khẩu… sẽ do luật định. Hoặc quyền được Nhà nước bảo hộ
hôn nhân và gia đình (theo suy đốn) là quyền chung; cịn quyền kết hơn theo quy
định của Luật Hơn nhân và gia đình là quyền cụ thể. Một ví dụ khác, quyền bầu cử
là quyền quan trọng đặc biệt vừa có tính chung nên được hiến định: "Cơng dân,
khơng phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tơn giáo, trình độ
văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ
21 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy
định của pháp luật” (Điều 54 Hiến pháp 1992). Trong trường hợp này, nếu chỉ lấy
việc xác định độ tuổi làm căn cứ thì quyền bầu cử dường như là quyền khá cụ thể;
tuy nhiên, nếu tiếp tục xét một số trường hợp công dân tuy đủ tuổi hiến định song
vẫn bị tước quyền bầu cử theo luật định (ngoại lệ) thì quyền này lại vẫn mang tính
khái qt[5].
2. Bản thân Quốc hội cũng không được ban hành các loại văn bản khác mà nội
dung có liên quan đến việc quy định mang tính xác lập, khởi đầu quyền và nghĩa vụ

cơng dân. Chiểu theo cách hiểu trên thì Quốc hội không thể sử dụng Nghị quyết
vào việc này. Khoản 3 Điều 11 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
(VBQPPL) quy định: “Nghị quyết của Quốc hội được ban hành để quyết định
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân
sách trung ương; điều chỉnh ngân sách nhà nước; phê chuẩn quyết toán ngân sách
14


nhà nước; quy định chế độ làm việc của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội,
Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu
Quốc hội; phê chuẩn điều ước quốc tế và quyết định các vấn đề khác thuộc thẩm
quyền của Quốc hội”. Hệ quả là, không thể suy diễn “các vấn đề khác” ở đây bao
hàm mọi thẩm quyền của Quốc hội để ban hành nghị quyết kiểu Nghị quyết số
51/2001/QH10 ngày 07/01/2002 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến
pháp năm 1992 hay Nghị quyết số 55/2010/NQ- QH12 ngày 6/12/2010 về việc
miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp.
3. Tất nhiên, Quốc hội cũng không thể ủy quyền cho bất kỳ cơ quan nào khác việc
quy định quyền và nghĩa vụ công dân. Như vậy, thật khó mà bào chữa cho sự có
mặt của pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội, thậm chí là Nghị định “khơng
đầu” của Chính phủ quy định về địa vị pháp lý của công dân, nếu chúng ta thượng
tôn Hiến pháp.
Về mặt nội dung, theo Luật Ban hành VBQPPL 2008, “Luật của Quốc hội quy định
các vấn đề cơ bản thuộc lĩnh vực... quyền và nghĩa vụ của công dân” (Khoản 2
Điều 11). Trong khi đó, các VBQPPL khác hoặc không được Luật này xác định rõ
thẩm quyền như trên hoặc nếu được trao thẩm quyền có liên quan, như nghị định
do Chính phủ ban hành sẽ “quy định các biện pháp cụ thể để thực hiện… quyền,
nghĩa vụ của cơng dân” (Điều 14). Từ đó, có thể hiểu:
1. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền quy định quyền và nghĩa vụ cơng dân
mang tính xác lập, khởi đầu trong Hiến pháp và các đạo luật.
2. Các cơ quan nhà nước khác chỉ có quyền dựa vào Hiến pháp và luật để quy định

chi tiết, hướng dẫn thi hành quyền, nghĩa vụ công dân và phải đảm bảo rằng, hoạt
động này không được tiến hành trái với tinh thần hiến định, luật định. Ví dụ: Quốc
hội đặt ra các thứ thuế kèm theo khung thuế suất chuẩn; cơ quan thuế vụ theo thẩm
quyền chỉ có thể tổ chức cho công dân đăng ký mã số thuế, kê khai và nộp thuế
(chẳng hạn ở tỉnh A, công dân đăng ký mã số thuế, kê khai và nộp thuế trực tiếp tại
trụ sở cơ quan thuế; còn ở tỉnh B, công dân đăng ký mã số thuế, kê khai thuế qua
15


Internet và nộp thuế qua ngân hàng) hoặc cơ quan thuế có quyền ấn định mức thuế
suất riêng cho từng đối tượng nộp thuế nhưng khơng được nằm ngồi khung thuế
suất luật định. Nếu hiểu một cách nghiêm ngặt thì các cơ quan này chỉ có thể tác
động đến việc hưởng quyền và gánh vác nghĩa vụ của công dân thơng qua việc tự
mình xây dựng hoặc tham gia xây dựng thủ tục hành chính; thậm chí, trong một số
trường hợp, Hiến pháp, luật sẽ quy định về quyền, nghĩa vụ cơng dân một cách trực
tiếp và tồn diện (tuyệt đối).
3. Các cơ quan nhà nước khác không được đặt ra quyền, nghĩa vụ mới so với
quyền, nghĩa vụ hiến định và luật định hoặc xóa bỏ quyền, nghĩa vụ hiến định và
luật định.
2.Thực tiễn về “ Quyền và nghĩa vụ của công dân”:
Trên thực tế, quyền con người vẫn là một tồn tại lớn của chủ nghĩa xã hội hiện
thực, nổi cộm trên mặt bằng xã hội. ở nước ta các vấn đề về dân sinh, dân quyền,
dân trí chưa được giải quyết một cách căn bản. Tình trạng thất học, thất nghiệp nổi
lên gay gắt trong hiện thực kinh tế xã hội. Sau hàng chục năm hịa bình, nước ta
vẫn là một trong những nước nghèo nhất thế giới.
Nhiều quyền có giá trị thực hiện vẫn bị ràng buộc, cấm đoán bởi những quy định
luật lệ cấm kị của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Những quyền cơ bản của
công dân không được thực hiện vẫn mang tính hình thức. Chẳng hạn, quyền được
khiếu nại, tố cáo đối với bất cứ cá nhân hoặc công dân nhà nước nào đc ghi nhận ở
Hiến pháp nhưng trên thực tế khơng có cơ chế thích hợp để thực hiện. Điều đó đưa

đến tình trạng đơn từ của cơng dân gửi các cơ quan có thẩm quyền khơng được giải
quyết hoặc giải quyết không kịp thời thỏa đáng. Trên bình diện chung của xã hội
tình trạng ức hiếp quần chúng, hiện tượng vi phạm nhân quyền xảy ra một cách khá
phổ biến, có lúc có nơi rất nghiêm trọng. Chính vì vậy, nhu cầu địi hỏi tự do, dân
chủ, công bằng xã hội vẫn là nhu cầu thường trực, gay gắt của nhân dân.
16


KẾT LUẬN
Qua đó, có thể nhận thức được rằng quyền công dân là một nôi dung nhạy cảm và
luôn chưa bao giờ hết hot cả. Cùng với sự phát triển của nền văn minh nhân loại và
nhận thức của con người ngày càng tốt hơn, xóa bỏ được nhiều vấn nạn cổ hủ;
quyền con người đang ngày càng được hoàn thiện. Sự ra đời của các cơ chế quốc,
các tổ chức, các hiệp ước để đảm bảo quyền con người và thực thi đúng pháp luật
đã dánh dấu bước phát triển và đột phá về quyền con người. Tuy nhiên, điều này
vẫn chưa phải đúng hết khi mà ở nhiều nơi, phụ nữ vẫn bị coi thường, nhiều người
không được đi học, nạn buôn bán người, kết hôn dưới 16, hiến tế...các loại tệ nạn
vẫn diễn ra và theo thời gian nó vẫn chưa có dấu hiệu sụt giảm. Vì thé, cần có các
cơ quan chức năng, những bộ luật để giúp chúng ta hiểu rõ hơn về quyền con
người. Nói tóm lại, chúng ta cần phải có đầy đủ nhận thức về quyền và nghĩa vụ
của con người vì đó là quyền được trao cho mỗi chúng ta, khơng ai có quyền tước
đi nó.

17


18


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.
2.

Giáo trình kinh tế chính trị MÁC- LÊNIN
Quyền con người là gì ? Đặc điểm, phân loại các quyền con người
(luatminhkhue.vn)
/>%C6%B0%E1%BB%9Di%20c%C3%B3%20th%E1%BB
%83%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%A3c%20ph%C3%A2n%20lo
%E1%BA%A1i,gia,%20d%C3%A2n%20t%E1%BB%99c%20thi
%E1%BB%83u%20s%E1%BB%91,%20quy%E1%BB%81n%20ph

3.

%C3%A1t%20tri%E1%BB%83n)
Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền cơ bản của công dân
(lapphap.vn)

/>
4.

tintucid=208141
“Quyền và nghĩa vụ của công dân do hiến pháp và luật quy định” - nhận

5.

diện từ lý luận và tình huống (lapphap.vn)
/>Tiểu Luận Về Quyền Con Người Ở Việt Nam, Tiểu Luận Tìm Hiểu
Quyền Con Người – Lingocard.vn
/>



×