Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

MỘT số vấn đề lý LUẬN về QUYỀN CON NGƯỜI và VAI TRÒ của tòa án TRONG VIỆC bảo vệ QUYỀN CON NGƯỜI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.26 KB, 43 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ
VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN
TRONG VIỆC BẢO VỆ
QUYỀN CON NGƯỜI


Nhận thức chung về quyền con người
Khái niệm về quyền con người
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, từ trước đến nay đã
có rất nhiều định nghĩa về quyền con người được công bố,
mỗi định nghĩa lại tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất định,
chỉ ra những thuộc tính nhất định của quyền con người. Theo
tài liệu Hỏi Đáp về Nhân quyền của Liên hợp quốc (United
Nations: Human rights: Questions and Answers) thì có đến
gần 50 định nghĩa về quyền con người đã được công bố.
Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc đưa ra khái niệm:
Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu
(universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân
và các nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự
bỏ mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những
sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản (fundamental
freedoms) của con người [25, tr.23].
Một định nghĩa khác cũng thường được trích dẫn là
“Quyền con người là những sự được phép mà tất cả thành
viên của cộng đồng nhân loại, không phân biệt giới tính,


chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội… đều có ngay từ khi sinh
ra, đơn giản chỉ vì họ là con người” [23, tr.37].
Tại hai văn kiện nổi tiếng thế giới là Tuyên ngôn Độc lập


của Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền của Pháp năm
1978, khái niệm về quyền con người được thể hiện một cách rất
cụ thể: “Những chân lý sau đây đã được chúng tôi công nhận
như những sự thật hiển nhiên là tất cả mọi người sinh ra đều
bình đẳng; tạo hóa đã cho họ các quyền không thể thay thế
được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do,
và quyền mưu cầu hạnh phúc” [24, tr.96].
Ở Việt Nam, qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy chưa
có một văn bản pháp lý nào quy định về quyền con người như
một định nghĩa, một điều luật chuyên biệt. Nội hàm của khái
niệm quyền con người chỉ được thể hiện trong các quan điểm,
chính sách, pháp luật và cũng chỉ được quy định một cách
chung chung mà không đưa ra một định nghĩa rõ ràng, riêng
biệt. Theo cuốn Đại Từ điển Tiếng Việt thì quyền con người
được hiểu là “điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho
được hưởng, được làm, được đòi hỏi” [1, tr.1010].
Hiến pháp năm năm 2013 quy định:


Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các quyền con
người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa,
xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến
pháp và pháp luật.
Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế
theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do
quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức
xã hội, sức khỏe của cộng đồng [41, Điều 14].
Trên phương diện nghiên cứu khoa học pháp lý, Giáo
trình Lý luận và pháp luật về Quyền con người của Khoa Luật
Đại Học Quốc gia Hà Nội, thì quyền con người là “những

nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con
người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và
các thỏa thuận pháp lý quốc tế” [23, tr.38]
Tại buổi quán triệt Nghị quyết Trung ương 8 (Khóa XI)
của Đảng ủy TANDTC ngày 26/02/2014 khi nói về những
điểm mới về quyền con người, quyền công dân được quy định
trong Hiến pháp năm 2013, PGS.TS Trần Văn Độ - Chánh án
Tòa án Quân sự Trung ương, Phó Chánh án TANDTC cho
rằng: “quyền con người là quyền của cá nhân mà khi sinh ra


vốn dĩ là đã có, còn quyền công dân là quyền được quy định
cụ thể trong Hiến pháp và pháp luật của nhà nước nó gắn
liền với quốc tịch của mỗi công dân” [65].
Chúng tôi cũng đồng quan điểm với PGS.TS Trần Văn
Độ về quan niệm về quyền con người nêu trên. Bởi vì, đây là
khái niệm khái quát dễ hiểu và cơ bản nhất về quyền con
người. Nó phù hợp với học thuyết về quyền tự nhiên (natural
rights) cho rằng quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn
có mà mọi cá nhân sinh ra đều được hưởng, không phân biệt
đẳng cấp, màu da, giới tính, dân tộc hay tôn giáo.
- Các thuộc tính cơ bản của quyền con người
Tính phổ biến:
Tính phổ biến thể hiện ở chỗ quyền con người được áp
dụng chung cho tất cả mọi người, không phân biệt màu da,
dân tộc, giới tính, tôn giáo, độ tuổi, thành phần xuất thân. Con
người, dù ở những chế độ xã hội riêng biệt, thuộc những
truyền thống văn hóa khác nhau vẫn hưởng những quyền và
sự tự do cơ bản của con người.
Tính đặc thù:



Thuộc tính này được hiểu là mọi người đều được hưởng
quyền con người nhưng mức độ thụ hưởng có sự khác biệt,
phụ thuộc vào năng lực cá nhân của từng người, hoàn cảnh
chính trị, truyền thống văn hóa xã hội mà người đó đang sống.
Ở mỗi vùng, mỗi quốc gia khác nhau, vấn đề quyền con người
mang những sắc thái, đặc trưng riêng gắn liền với trình độ
phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực đó.
Tính không thể bị tước bỏ:
Quyền con người không thể tùy tiện bị tước bỏ hay hạn
chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả các cơ
quan và quan chức nhà nước, chỉ trong một số trường hợp
nhất định được pháp luật quy định trước và phải là những chủ
thể đặc biệt mới có thể hạn chế hay tước bỏ quyền con người.
Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quyền:
Tất cả các quyền con người đều có mối liên hệ chặt chẽ
với nhau, việc thực hiện tốt quyền này sẽ là tiền đề để thực
hiện quyền kia. Ngược lại, khi có một quyền bị xâm phạm thì
sẽ ảnh hưởng đến các quyền khác.
- Phân loại quyền con người


Cách phân loại cơ bản và chủ yếu nhất đó là phân loại
quyền con người theo lĩnh vực. Theo đó, quyền con người
được phân thành hai nhóm chính:
Nhóm các quyền dân sự - chính trị bao gồm: quyền bầu
cử, ứng cử; quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội; các
quyền tự do cơ bản; quyền được bảo đảm an ninh cá nhân;
quyền bình đẳng;…

Nhóm quyền kinh tế - xã hội - văn hóa bao gồm: quyền
làm việc, quyền sở hữu, quyền kinh doanh, quyền được bảo
vệ sức khỏe, quyền được học tập và sáng tạo; quyền hoạt
động văn hóa - nghệ thuật…
Ngoài ra, quyền con người có thể được phân chia theo
chủ thể của quyền. Có thể chia quyền con người ra thành
quyền cá nhân; quyền của nhóm như quyền của phụ nữ, trẻ
em, người cao tuổi… và quyền tập thể như quyền dân tộc tự
quyết và quyền của các dân tộc thiểu số.
- Khái quát chung về các cơ chế bảo vệ quyền con
người
- Khái niệm về cơ chế bảo vệ quyền con người


Khái niệm cơ chế được nêu trong cuốn Đại từ điển Tiếng
Việt là cách thức để làm đường hướng, cơ sở theo đó mà thực
hiện [1, tr.464]. Do các quyền con người rất phong phú và
những vi phạm xâm phạm đến quyền con người cũng rất đa
dạng, được thực hiện bởi nhiều loại chủ thể trên nhiều lĩnh
vực khác nhau nên việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người
đòi hỏi phải có sự tham gia của nhiều dạng chủ thể (cá nhân,
cộng đồng, tổ chức phi chính phủ, cơ quan nhà nước, tổ chức
quốc tế…) thông qua nhiều biện pháp; từ phổ biến, giáo dục,
nâng cao nhận thức cho đến theo dõi, giám sát, và xử lý
những hành vi xâm phạm đến quyền con người. Tập hợp các
cách thức nêu trên để bảo vệ quyền con người được gọi chung
là cơ chế bảo vệ quyền con người.
Như vậy, theo chúng tôi, cơ chế bảo vệ quyền con người
là tổng hợp các biện pháp do các chủ thể khác nhau thực hiện
nhằm mục đích bảo vệ các quyền con người, đảm bảo các

quyền con người được thực hiện trên thực tế và thúc đẩy sự
tôn trọng của các chủ thể đối với quyền con người trong
phạm vi không gian nhất định, thời gian và mức độ khác
nhau.
- Các cơ chế bảo vệ quyền con người


Cơ chế quốc tế trong việc bảo vệ quyền con người
Về cơ bản, cơ chế quốc tế về bảo vệ và thúc đẩy quyền
con người được thể hiện ở bộ máy các cơ quan và quy tắc, thủ
tục về thúc đẩy, bảo vệ quyền con người trong tổ chức Liên
hợp quốc. Dựa trên địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ và tổ
chức bộ máy mà các cơ quan về quyền con người của Liên
hợp quốc được chia thành hai dạng: dạng các cơ quan được
thành lập dựa trên cơ sở Hiến chương (charter - based
mechanism) và dạng các cơ quan được thành lập dựa trên cơ
sở một số Công ước quan trọng về quyền con người (treaty
bodies).
Cơ chế dựa trên Hiến chương (Charter - based
mechanism) là việc 6 cơ quan chính (gồm: Đại hội đồng General essembly; Hội đồng bảo an - Security council, Hội
đồng kinh tế và xã hội - Economic and social council Ecosoc;
Hội đồng quản thác - Trusteeship council; Tòa án Công lý
quốc tế - Intemetional court of justice; Ban thư ký Liên hợp
quốc) thực hiện các chức năng, nhiệm vụ liên quan đến quyền
con người của các cơ quan này, thông qua đó để nghiên cứu,
xây dựng các dự thảo văn kiện, thẩm định, theo dõi, giám sát


và điều hành các chương trình, hoạt động về quyền con người.
Cơ chế dựa trên Công ước (Treaty -based mechanism):

Cơ chế này được dựa trên các ủy ban giám sát việc thực hiện
một số công ước quốc tế về quyền con người (treaty-based
bodies), được thành lập theo quy định của chính các công
ước đó (ngoại trừ Uỷ ban về các quyền kinh tế, xã hội, văn
hoá được thành lập theo một Nghị quyết của Hội đồng Kinh
tế và Xã hội Liên Hiệp Quốc - ECOSOC), nhằm giám sát,
thúc đẩy việc thực hiện các công ước về quyền con người,
thông qua việc nhận, xem xét và ra khuyến nghị liên quan
đến các báo cáo về việc thực hiện các công ước này của các
nước thành viên [23, tr.327 - 366].
Cơ chế khu vực trong việc bảo vệ quyền con người
Là việc các tổ chức được thành lập tại các khu vực nhất
định để thực hiện các biện pháp bảo vệ và thúc đẩy quyền con
người thông qua việc ban hành các văn bản, thành lập các cơ
quan bảo vệ, thúc đẩy quyền con người trong phạm vi nhất
định. Cơ chế này dễ đạt được đồng thuận hơn khi thiết lập,
sửa đổi, bổ sung và thực hiện, do các quốc gia trong khu vực
thường có nhiều điểm chung về kinh tế, văn hóa, truyền thống


lịch sử. Bên cạnh đó, các cơ chế khu vực, do phạm vi hẹp hơn
về địa lý nên tỏ ra dễ tiếp cận hơn với công chúng so với cơ
chế toàn cầu của Liên hợp quốc. Theo nghiên cứu thì hiện tại
mới chỉ có 3 châu lục thiết lập được cơ chế khu vực bảo vệ và
thúc đẩy quyền con người đó là Châu Âu, Châu Mỹ và Châu
Phi.
Ở Châu Âu:
Đây là khu vực đầu tiên trên thế giới phát triển cơ chế
bảo vệ quyền con người khu vực. Mọi quốc gia thành viên
của Hội đồng châu Âu đều phải tham gia Công ước Quyền

con người châu Âu. Đây là một trong những điều kiện để trở
thành thành viên Hội đồng châu Âu. Hệ thống văn kiện khu
vực về quyền con người ở châu Âu có nòng cốt là Công ước
châu Âu về Bảo vệ Quyền con người và Tự do cơ bản (The
European Convention for the Protection of Human Rights and
Fundamental Freedoms) được Hội đồng châu Âu thông qua
ngày 4/11/1950, có hiệu lực từ tháng 9/1953.
Ở Châu Mỹ:
Bộ máy các cơ quan trong cơ chế bảo vệ và thúc đẩy
quyền con người ở Châu Mỹ bao gồm hai cơ quan chính là


Tòa án quyền con người Châu Mỹ (còn được gọi là Tòa án
nhân quyền liên Mỹ) và Ủy ban quyền con người Châu Mỹ
(còn được gọi là Ủy ban Nhân quyền liên Mỹ).
Tòa án Nhân quyền liên Mỹ (Inter-American Court of
Human Rights): Năm 1979 tổ chức các quốc gia châu Mỹ lập
ra Tòa án Nhân quyền này để buộc các nước thành viên tuân
thủ và giải thích các quy định của Công ước châu Mỹ về
Nhân quyền. Hai chức năng chính của Tòa án này là làm
trọng tài xét xử và tư vấn.
Ủy ban quyền con người Châu Mỹ: là một cơ quan
thường trực, có chức năng thúc đẩy việc tuân thủ và bảo vệ
quyền con người ở Châu Mỹ thông qua các công việc chính
như: thu nhận, phân tích và điều tra các đơn thư của các cá
nhân cho rằng họ bị vi phạm các quyền con người cụ thể được
"Công ước châu Mỹ về Nhân quyền" bảo vệ; giải quyết các
đơn khiếu tố đó bằng cách hợp tác hòa nhã với các bên (tranh
chấp); giám sát tình trạng nhân quyền tổng quát trong các nước
thành viên của "Tổ chức các quốc gia châu Mỹ"…

Ở Châu Phi:
Hệ thống văn kiện khu vực về quyền con người ở châu


Phi là Hiến chương châu Phi về quyền con người và quyền
các dân tộc (African Charter on Human and Peoples’ Rights),
được thông qua bởi Tổ chức Liên minh châu Phi
(Organization of African Uninty – OAU) vào ngày 27/6/1981,
có hiệu lực vào ngày 21/10/1981. Đây là văn kiện nền tảng
trong hệ thống văn kiện khu vực về quyền con người ở châu
Phi. Bộ máy cơ quan quyền con người của châu Phi bao gồm
Ủy ban quyền con người và quyền các dân tộc châu Phi và
Tòa án Quyền con người châu Phi.
Ở Châu Á:
Đây là Châu lục có diện tích lớn với lượng dân số chiếm
một nửa nhân loại, đa dạng về văn hóa, dân tộc, lịch sử, chính
trị, kinh tế nhưng hiện nay vẫn chưa thiết lập được cơ chế
chung về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Tuy nhiên, ở
một số khu vực của châu Á hiện đã tồn tại những văn kiện và
thiết chế chung, cho thấy những triển vọng nhất định về thúc
đẩy và bảo vệ quyền con người, điển hình như: Khu vực thế
giới Ả-rập đã có: Tuyên bố Cairo về quyền con người trong
các quốc gia Hồi giáo năm 1990, Tuyên bố về bảo vệ người tị
nạn và người bị chuyển dịch trong thế giới Ả-rập năm 1992,
Hiến chương Ả-rập về quyền con người năm 1994; Khu vực


Đông Nam Á với Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN) được thành lập 1967 được xem là tiểu khu vực có
mối liên kết chặt chẽ hàng đầu tại châu Á…

Cơ chế quốc gia trong việc bảo vệ quyền con người
Cơ chế này thực hiện thông qua các cơ quan quốc gia về
bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền nhằm thực hiện những nghĩa
vụ của nhà nước được nêu trong tất cả các văn kiện quốc tế về
quyền con người [23, tr.380 - 385].
- Khái niệm, đặc điểm của việc bảo vệ quyền con
người bằng Tòa án
- Khái niệm
Như đã trình bày ở phần trên thì quyền con người là
quyền của cá nhân mà khi sinh ra vốn dĩ là đã có, còn quyền
công dân là quyền được quy định cụ thể trong Hiến pháp và
pháp luật của nhà nước nó gắn liền với quốc tịch của mỗi
công dân. Bảo vệ quyền con người là những hoạt động chống
lại mọi sự hủy hoại, xâm phạm nhân phẩm, lợi ích, nhu cầu và
năng lực để giữ gìn cho quyền con người được nguyên vẹn.
Xét xử là việc tòa án nhân danh quyền lực nhà nước,


nhân danh công lý phán quyết tính hợp pháp của hành vi pháp
lý đã xảy ra trên cơ sở những chứng cứ, lập luận do các bên
cung cấp và trên cơ sở pháp luật buộc cá nhân, tổ chức hay nhà
nước phải thực hiện nghĩa vụ pháp lý hoặc được thụ hưởng
những quyền nhất định nhằm bảo vệ công lý và quyền, lợi ích
chính đáng của cá nhân, tổ chức, lợi ích của nhà nước và xã
hội đồng thời bảo vệ trật tự pháp luật.
Như vậy, bảo vệ quyền con người bằng tòa án có thể
được khái niệm như sau: là hoạt động trừng phạt những hành
vi vi phạm quyền con người, khôi phục lại những quyền con
người đã bị hạn chế, tước đoạt được thực hiện theo trình tự,
thủ tục pháp luật tố tụng tư pháp nhằm bảo đảm cho các

quyền của cá nhân được tôn trọng và thực hiện trong đời sống
xã hội.
- Đặc điểm của việc bảo vệ quyền con người bằng Tòa
án
Bảo vệ quyền con người bằng Tòa án mang tính quyền
lực Nhà nước:
Để thực hiện quyền tư pháp, Nhà nước trao quyền cho
nhiều cơ quan trong đó có Tòa án. Tòa án thông qua hoạt


động xét xử quyết định tính hợp pháp của hành vi pháp lý và
từ đó đưa ra các chế tài pháp lý đối với những người thực hiện
hành vi vi phạm pháp luật. Tính quyền lực Nhà nước được
thể hiện qua việc Tòa án được áp dụng các chế tài pháp lý
như: hạn chế, thậm chí tước quyền và lợi ích thiết yếu nhất
của người vi phạm pháp luật, như: quyền sở hữu, quyền tự do,
quyền sống. Bên cạnh đó, tính quyền lực Nhà nước còn được
thể hiện qua các cơ chế bảo đảm thi hành bản án, quyết định
của tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Nghĩa vụ chấp hành phán
quyết của tòa án không chỉ là nghĩa vụ pháp lý thông thường
mà là một loại nghĩa vụ được quy định chặt chẽ theo một trình
tự thủ tục luật định.
Bảo vệ quyền con người bằng tòa án được thực hiện theo
trình tự, thủ tục chặt chẽ:
Hoạt động xét xử được tiến hành theo một trình tự thủ
tục chặt chẽ được quy định trong luật. Thẩm quyền và cơ cấu
tổ chức hệ thống tòa án cũng được giới hạn bởi những quy
định của pháp luật. Nội dung và căn cứ phán quyết của tòa án
phải dựa trên cơ sở nội dung của các quy phạm pháp luật điều
chỉnh hành vi pháp lý được xét xử. Tòa án không có quyền

xét xử những hành vi không thuộc phạm vi thẩm quyền pháp


luật quy định. Phán quyết của tòa án không được trái với nội
dung của pháp luật điều chỉnh hành hành vi pháp lý được xét
xử.
Trong phần lớn các trường hợp thì Tòa án chỉ thực sự
bảo vệ được quyền con người khi có yêu cầu của cá nhân
hoặc tổ chức.
Khi quyền lợi hợp pháp của cá nhân, tổ chức bị xâm
phạm bởi hành vi vi phạm pháp luật, thì các chủ thể muốn
được Tòa án đứng ra bảo vệ quyền lợi của mình thì họ phải có
yêu cầu gửi cho Tòa án. Trên cơ sở yêu cầu đó, Tòa án sẽ xem
xét để đưa ra phán quyết buộc bên có hành vi xâm phạm khôi
phục lại tình trạng ban đầu hoặc Tòa án sẽ đưa ra những phán
quyết để trừng phạt thích đáng những người có hành vi vi
phạm.
Tuy nhiên, một số trường hợp cá biệt không cần phải có
yêu cầu của người khác nhưng do tính chất nghiêm trọng của
hành vi vi phạm pháp luật mà Tòa án vẫn đứng ra bảo vệ
quyền lợi của người bị xâm phạm.
- Các cách thức bảo vệ quyền con người bằng Tòa án


- Tòa án bảo vệ quyền con người thông qua việc kiểm
soát quyền lực Nhà nước
Các cơ quan Nhà nước là chủ thể đóng vai trò quan
trọng trong việc bảo vệ quyền con người, nhưng cũng là chủ
thể chứa đựng những nguy cơ xâm hại đến quyền con người.
Vì vậy, kiểm soát quyền lực nhà nước là một trong những

biện pháp đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ quyền con
người. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền lực nhà nước
là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp” [41, Điều 2]. Với quy định này, về cơ
bản vẫn kế thừa tư tưởng “Quyền lực nhà nước là thống nhất”
được quy định trong các bản Hiến pháp trước đó, nhưng đã có
một điểm sửa đổi rất đáng ghi nhận đó là việc đề xuất và đưa
được chế định “kiểm soát” quyền lực giữa các cơ quan nhà
nước. Thông qua đó, TAND có thể kiểm soát được các hoạt
động của các cơ quan hành pháp, lập pháp, nhằm hạn chế
những xâm phạm của các cơ quan này đến quyền con người.
Ngoài ra, bằng hoạt động xét xử các vụ án hình sự, dân
sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình, đặc biệt là khi xét
xử các vụ án hành chính, Tòa án có quyền đề nghị, hay yêu


cầu các cơ quan, tổ chức áp dụng các biện pháp để khắc phục,
loại trừ những nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm,
vi phạm pháp luật, hoặc hoàn thiện pháp luật, chính sách, cải
tiến phương thức quản lý. Thông qua hoạt động xét xử các vụ
án hành chính, Tòa án thực hiện hoạt động giám sát của mình
đối với hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước và
các cơ quan khác của nhà nước trong việc ban hành các quyết
định hành chính, thực hiện hành vi hành chính.
- Tòa án bảo vệ quyền con người thông qua việc bảo
vệ quyền tự do và an toàn của cá nhân
Quyền tự do và an toàn cá nhân là một trong những
quyền cơ bản của con người. Để bảo đảm các cá nhân được
hưởng tự do thì các cơ quan nhà nước, các tổ chức và mọi

người trong xã hội phải có nghĩa vụ tôn trọng quyền tự do và
an toàn cá nhân. Mọi hành vi tước quyền tự do của cá nhân
đều bị nghiêm cấm trừ trường hợp có lý do luật định. Cùng
với việc nghiêm cấm những hành vi đe dọa, xâm hại đến
quyền hưởng tự do và an toàn cá nhân, các quốc gia phải xây
dựng cơ chế pháp lý hữu hiệu để ngăn ngừa những người có
thẩm quyền lợi dụng "lý do luật định" để "bắt" hoặc "giam
giữ" người trái pháp luật, xâm hại quyền tự do và an toàn của


cá nhân.
Trong các cơ chế pháp lý bảo vệ quyền tự do của cá
nhân thì cơ chế pháp lý do quyền hành pháp thực hiện đóng
vai trò quan trọng. Quyền hành pháp được sinh ra để trực tiếp
phục vụ những nhu cầu thiết yếu của xã hội mà tự bản thân
các cá nhân không thể thực hiện được trong đó có nhu cầu
bảo vệ quyền tự do và an toàn cá nhân. Tuy nhiên, do mục
đích của hoạt động hành pháp là bảo vệ lợi ích của xã hội, lợi
ích của cá nhân, tổ chức nên hoạt động hành pháp luôn gắn
chặt với những lợi ích vật chất và tinh thần của xã hội cũng
như của người dân khiến cho hoạt động hành pháp dễ bị
những người trực tiếp thực hiện lợi dụng nhằm phục vụ lợi
ích cá nhân, lợi ích nhóm. Điều này khiến cho quyền hành
pháp dễ bị lạm dụng để xâm hại quyền con người của cá nhân,
công dân. Chính vì thế, nhằm phát huy tối đa năng lực bảo vệ
quyền con người của hành pháp đồng thời bảo đảm hạn chế
tối đa nguy cơ xâm hại quyền con người của hành pháp, cơ
chế tư pháp độc lập được trao quyền tối cao trong việc bảo vệ
quyền tự do an toàn cá nhân đặc biệt là trong trường hợp nguy
cơ bị quyền hành pháp xâm hại.

Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm


1966 quy định: “Bất cứ người nào do bị bắt hoặc giam giữ
mà bị tước tự do đều có quyền yêu cầu được xét xử trước tòa
án, nhằm mục đích để tòa án đó có thể quyết định không
chậm trễ về tính hợp pháp của việc giam giữ và ra lệnh trả tự
do cho họ, nếu việc giam giữ là bất hợp pháp” [26]. Quy định
này cho thấy những người bị tước tự do do bị “bắt” và “giam
giữ” có quyền được yêu cầu tòa án kiểm tra và xác định tính
hợp pháp của việc bắt và giam giữ nhằm bảo đảm việc họ bị
“bắt” và “giam giữ” đúng quy định của pháp luật cũng như
hạn chế tình trạng họ bị hạn chế quyền tự do một cách bất hợp
pháp. Tòa án là thiết chế được trao quyền kiểm tra, thẩm định
và ra phán quyết về tính hợp pháp của hành vi bắt và giam giữ
khi người bị bắt và giam giữ yêu cầu nhằm hạn chế, ngăn
chặn những hành vi lợi dụng quyền "bắt", "giam giữ" xâm hại
nghiêm trọng quyền tự do và an toàn cá nhân và quyết định
bãi bỏ ngay tức khắc việc giam giữ và trả tự do cho người bị
bắt và giam giữ trong trường hợp phát hiện những dấu hiệu
bất hợp pháp của việc bắt và giam giữ.
Tòa án không chỉ trừng trị hành vi phạm tội xâm hại đến
quyền tự do và an toàn cá nhân bằng việc áp dụng hình phạt
mà còn có quyền xác định tính hợp pháp hay không hợp pháp


của hành vi hạn chế quyền tự do và an toàn cá nhân của cơ
quan cảnh sát, cơ quan điều tra khi “bắt” và “giam giữ” nhằm
hạn chế tình trạng người có thẩm quyền lợi dụng quyền “bắt”
và “giam giữ” mà xâm hại đến quyền tự do và an toàn cá

nhân.
- Tòa án bảo vệ quyền con người bằng việc trừng phạt
công bằng người thực hiện hành vi phạm tội
Tội phạm là hành vi đặc biệt nguy hiểm cho quyền con
người cho nên nhà nước và xã hội đặc biệt đề cao hoạt động
ngăn chặn, trừng trị và loại trừ hành vi phạm tội nhằm bảo vệ
quyền con người. Pháp luật hình sự bao gồm các quy phạm
pháp luật về tội phạm và hình phạt là công cụ cơ bản được nhà
nước sử dụng để trừng trị những hành vi phạm tội. Việc tước
đoạt và hạn chế quyền và lợi ích đối với chủ thể thực hiện hành
vi phạm tội là một trong những cách thức hữu hiệu hạn chế
hành vi phạm tội xảy ra. Sự trừng trị nghiêm khắc của hình
phạt sẽ khiến cho những người có ý định thực hiện hành vi
phạm tội lo sợ bị tước đoạt quyền lợi mà từ bỏ quyết tâm thực
hiện hành vi phạm tội. Hình phạt chỉ phát huy được vai trò xã
hội khi được áp dụng đúng đắn và tương xứng với mức độ
nguy hiểm của hành vi phạm tội trong khi đó thực tiễn cho


thấy không phải lúc nào hoạt động áp dụng hình phạt cũng bảo
đảm được công bằng và đúng với quy định pháp luật. Tòa án
thông qua hoạt động xét xử mới có quyền định tội và áp dụng
hình phạt đối với tội phạm. Việc xét xử phải kịp thời, công
bằng và khách quan cho những người bị buộc tội, “mọi người
đều có quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một tòa
án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra bởi
pháp luật để quyết định về lời buộc tội người đó trong các vụ
án hình sự" [30].
Hoạt động xét xử công bằng và công khai bởi một tòa án
có thẩm quyền độc lập, không thiên vị sẽ hạn chế được những

sai sót, bất cẩn trong quá trình xác định sự thật của hành vi có
đủ hay không các yếu tố cấu thành tội phạm. Như vậy, xét xử
không chỉ là hoạt động trừng phạt tội phạm mà còn là phương
thức bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội. Tòa án
không chỉ bảo vệ quyền con người bằng việc áp dụng hình
phạt trừng trị người thực hiện hành vi phạm tội nhằm ngăn
ngừa và loại trừ nguy cơ hành vi tội phạm xâm hại đến quyền
con người mà còn được thừa nhận là chủ thể đóng vai trò
không thể thiếu nhằm bảo vệ quyền của những người bị các
cơ quan điều tra và cơ quan công tố buộc tội nhưng trên thực


tế họ là người vô tội.
- Tòa án bảo vệ quyền con người bằng cách khôi phục
lại quyền và lợi ích của cá nhân thông qua hoạt động xét xử
Bảo vệ quyền con người không chỉ là ngăn ngừa, loại bỏ
những hành vi xâm hại quyền con người, mà trong trường hợp
quyền con người đã bị xâm hại thì việc bảo vệ quyền con
người còn bao hàm mục đích khôi phục lại những quyền và
lợi ích mà con người đã bị xâm hại. Khôi phục quyền con
người chính là tái sinh những quyền con người đã bị tước bỏ,
bị cắt xén, bị hạn chế để trở lại tình trạng vốn có nó, hoặc
khôi phục những lợi ích do quyền đó mang lại mà đã bị mất đi
hoặc sẽ mất đi bởi hành vi vi phạm pháp luật.
Khôi phục quyền con người được thực hiện theo nhiều
phương cách khác nhau do nhiều chủ thể khác nhau thực hiện.
Cá nhân mang quyền có thể tự mình khôi phục hoặc cũng có
thể cầu cứu sự giúp đỡ của các chủ thể xã hội khác, như người
thân, bạn bè, đồng nghiệp, các tổ chức xã hội, nhà nước. Nhà
nước là tổ chức do xã hội tạo ra để phục vụ nhu cầu, đòi hỏi

của người dân vì thế nhà nước không chỉ có trách nhiệm đứng
ra ngăn chặn các nguy cơ xâm hại đến lợi ích của xã hội mà


trước tiên là các quyền con người của công dân, mà còn phải
khôi phục quyền của con người. Pháp luật là công cụ khôi
phục quyền con người một cách toàn diện nhất. Thông qua
hoạt động xét xử sẽ khôi phục lại quyền và những lợi ích đã bị
hành vi xâm hại hoặc tước đoạt, cắt xén, hạn chế. Mỗi phương
thức khôi phục quyền mang lại những lợi ích và ý nghĩa khác
nhau cho chủ thể mang quyền. Pháp luật trang bị cho cá nhân
sự nhận thức về quyền, tạo ra ý thức bảo vệ quyền. Áp dụng
pháp luật đặc biệt là xét xử thì cung cấp cơ chế pháp lý sẵn có
để cá nhân yêu cầu khi họ cho rằng những quyền của họ đã,
đang bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại và cần được bảo
vệ kịp thời bằng quyền lực nhà nước.
Tòa án bằng hoạt động xét xử có quyền và trách nhiệm
buộc các chủ thể khác (kể cả cơ quan nhà nước, cán bộ công
chức nhà nước) phải khôi phục các quyền, lợi ích hợp pháp
của cá nhân khi họ không thực hiện, thực hiện không đúng,
không đầy đủ hoặc gây thiệt hại cho họ. Thông qua xét xử
dân sự và xét xử hành chính, tòa án quyết định phương thức,
nội dung và mức độ quyền, lợi ích mà những chủ thể có
nghĩa vụ khôi phục phải tiến hành khôi phục.
Ngoài ra, Tòa án còn có quyền quyết định buộc các thiết


×