aaTRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH TẾ & KINH DOANH QUỐC TẾ
——
——
BÀI THẢO LUẬN
MÔN: KINH TẾ CHIA SẺ
Đề tài: Ảnh hưởng của mơ hình cho vay ngang hàng
đối với lĩnh vực tài chính ngân hàng ở Việt Nam
Giảng viên hướng dẫn
: Nguyễn Bích Thủy;
Lê Hải Hà
Nhóm thực hiện
:7
Lớp HP
: 2303FECO1911
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, chúng em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới sự giúp đỡ nhiệt tình
của TS. Nguyễn Bích Thủy và TS. Lê Hải Hà, giảng viên bộ môn Kinh tế chia sẻ –
Đại học Thương mại đã dành nhiều thời gian quý báu tận tình chỉ bảo, hướng dẫn
và giúp đỡ. Đồng thời trang bị những kiến thức cơ bản, hữu ích phục vụ cho việc
học tập, nghiên cứu của chúng em.
Bài thảo luận chắc chắn sẽ khơng tránh khỏi những sai sót. Chúng em rất
mong nhận được sự đóng góp chỉ bảo của các thầy, cơ và các bạn để bài thảo luận
được hồn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 01 tháng 04 năm 2023
BÀI THẢO LUẬN KINH TẾ CHIA SẺ
Đề tài: Ảnh hưởng của Fintech đối với lĩnh vực tài chính ngân hàng ở Việt
Nam
Giáo viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Bích Thủy; TS. Lê Hải Hà
STT
Tên
Vị trí
Nhiệm vụ
1
Đỗ Hải Nam
Thành viên
Powerpoint
2
Phùng Thị Bích Ngọc
Thành viên
Thuyết trình
3
Nguyễn Hồng Nam
Thành viên
4
Lê Nguyệt Minh
Thành viên
5
Nguyễn Thị Lý
6
Nguyễn Thị Nga
Thành viên
Thành viên
7
Cao Ngọc Trung
Nguyên
8
Lê Như Ngọc
9
Vũ Thị Trà My
Thành viên
Mở đầu + Word + Kết luận +
1.1
1.2+ 2.1
2.2.
2.3.
Chương 3
Nhóm trưởng 2.3.
Thành viên
Chương 3
BỐ CỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Những vấn đề cơ bản về Kinh tế chia sẻ
1.2. Giới thiệu về những ứng dụng cho vay hoạt động dựa trên mơ hình
KTCS
CHƯƠNG 2. ẢNH HƯỞNG CỦA FINTECH ĐỐI VỚI LĨNH VỰC TÀI
CHÍNH NGÂN HÀNG TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
2.1. Bối cảnh cho vay tài chính hiện nay ở Việt Nam.
2.2. Thực trạng phát triển của mơ hình cho vay ngang hàng tại Việt
Nam trong những năm gần đây.
2.3. Đánh giá tác động của Fintech đối với lĩnh vực tài chính ngân hàng
tại Việt Nam trong những năm gần đây
CHƯƠNG 3. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP
3.1. Đối với Chính phủ và các bộ, ban, ngành
3.2. Đối với các chủ thể tham gia thị trường ngân hàng – tài chính
PHẦN KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN MỞ ĐẦU
Với sự phát triển của công nghệ kỹ thuật số, một phương thức cho vay trực tuyến
mới xuất hiện là cho vay ngang hàng . P2P Lending là hoạt động được thiết kế và xây
dựng trên nền tảng ứng dụng công nghệ số để kết nối trực tiếp người đi vay với người
cho vay mà không thông qua các tổ chức trung gian tài chính. Nhờ ứng dụng nền tảng
cơng nghệ kỹ thuật số, thủ tục, quy trình cho vay, giải ngân cũng được tối giản, tiết kiệm
thời gian. Mặc dù có nhiều lợi thế hơn so với cho vay truyền thống, nhưng hoạt động P2P
Lending cũng gây ra một số rủi ro. Vì vậy, bài nghiên cứu của nhóm 7 tập trung làm rõ
vai trò cũng như những rủi ro của hoạt động P2P Lending. Từ đó đề xuất các khuyến nghị
chính sách đối với hoạt động P2P Lending tại Việt Nam.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Những vấn đề cơ bản về Kinh tế chia sẻ
1.1.1. Khái niệm
Kinh tế chia sẻ được định nghĩa là hành động và q trình phân phối hàng hóa
giữa những người sử dụng hay trao đổi sản phẩm (Belk, 2007). Ban đầu Chia sẻ được
thực hiện trong nội bộ gia đình, người thân, người quen để thể hiện sự quan tâm lẫn nhau
(Belk 1988 & Belk 2013). Sau đó, hoạt động “chia sẻ ngồi” hay tiêu dùng chung phát
triển giữa những người khơng quen biết, có thể chia sẻ về khơng gian, sản phẩm, kiến
thức, việc làm và hành động chia sẻ thường được thực hiện một cách ngẫu nhiên vì lợi
ích kinh tế (Belk, 2014.) Dần dần, kinh tế chia sẻ phát triển thành một mơ hình kinh tế,
tạo thành chuỗi hệ thống giá trị kinh doanh, tức sẽ có sự hợp tác giữa các bên để tạo ra
giá trị, mỗi một cá nhân trong đó sẽ hưởng một phần phần giá trị và chia sẻ với nhau.
Trong mơ hình kinh doanh này, sẽ khơng một ai bỏ vốn đầu tư tồn bộ, lợi nhuận cũng
khơng một mình ai hưởng cả, do đó tổn thất trong kinh doanh được giảm thiểu nhờ sự
chia sẻ rủi ro giữa các bên. Kinh tế chia sẻ khai thác các yếu tố tài nguyên sẵn có của
người dùng cuối cùng và kết hợp với các yếu tố cơng nghệ để hợp thành một mơ hình
kinh doanh. Mơ hình này thường do các doanh nghiệp khởi nghiệp khởi xướng – đối
tượng này không sở hữu bất kỳ một nhà máy hay một kho hàng nào nhưng lại có cả một
kho tài ngun sẵn có trên tồn cầu và luôn sẵn sàng gia nhập vào hệ thống
1.1.2. Đặc điểm
- Phương thức giao dịch thông qua sự hỗ trợ của một nền tảng (platform economy):
Trên thực tế, mọi mơ hình KTCS được triển khai đều sử dụng một phương thức
giao dịch thông qua sự hỗ trợ của một nên tảng được cung cấp bởi bên thứ 3, ví dụ như
hệ thống Grab là hệ thống nền tảng trung gian giúp người đi xe tìm được tài xế. Có thể
nói nếu khơng có sự phát triển lớn mạnh cả về chiều rộng và chiều sâu của nền tảng công
nghệ thông tin từ hạ tầng mạng tới các sản phẩm đầu cuối đặc biệt là các sản phẩm di
động cá nhân thì khơng thể có mơ hình KTCS như hiện nay.
Chia sẻ, trao đổi quyền sử dụng Hình thức cộng tác cộng đồng Hỗ trợ của một nền
tảng. Tuy nhiên các nên tảng trong mơ hình KTCS có những đặc điểm riêng khác biệt so
với các mơ hình kinh doanh trên nền tảng số khác. Trong đó, đặc điểm nổi bật dễ nhận
thấy là các nền tảng chia sẻ thường sử dụng mơ hình giao dịch ngang hàng (peer-to-peer).
Bên cạnh đó, các nền tảng này cũng thường áp dụng mơ hình quản lý phân tán
(distributed control) thay cho các mơ hình quản lý tập trung. Trong các nền tảng phục vụ
mơ hình KTCS, hiệu quả của hệ thống sẽ gia tăng đáng kể khi quy mô người dùng đạt
đến một ngưỡng nhất định nào đó. Ví dụ, khi số lượng tài xế tham gia hệ thống Grab đủ
lớn, người đi xe sẽ luôn gọi được xe trong thời gian ngắn nhất với chi phí rẻ nhất. Khi dữ
liệu người dùng trong các nền tảng KTCS đủ lớn, các mô hình thơng minh sử dụng trí tuệ
nhân tạo (artificial intelligent) sẽ được ứng dụng một cách hiệu quả để tạo ra sự tiện dụng
cho người sử dụng với chi phí rất thấp. Đây là một lợi thế cạnh tranh cực lớn của mơ hình
KTCS so với các mơ hình kinh tế khác.
- Hình thức cộng tác cộng đồng (community-based economic):
Trong mơ hình KTCS, mơ hình tương tác chính là hình thức cộng tác cộng đồng,
trong đó thường là các mơ hình tương tác khơng dựa trên hợp đồng (non-contractual),
khơng có sự phân cấp (non-hierarchical) và đơi khi là khơng vì lợi nhuận (nonmonetized). Các nền tảng dựa trên công nghệ thơng tin cho phép các mơ hình tương tác
này diễn ra thuận lợi với chi phí rất thấp. Trong đó công nghệ điện thoại di động thông
minh cung cấp khả năng thực hiện các dịch vụ chia sẻ thời gian thực.
Hệ thống KTCS thường dựa trên một cộng đồng lớn những người có nhu cầu
tương tự hoặc chung lợi ích với nhau để chia sẻ và trao đổi tài sản ít hữu hình như thời
gian, khơng gian, kỹ năng, và tiền bạc, hay các tài sản hữu hình như phương tiện đi lại,
phịng lưu trú .v.v. Một ví dụ sẻ Taskrabbit, mà phù hợp với người sử dụng cần thực hiện
nhiệm vụ với "vận động viên" người kiếm được tiền bằng cách giúp họ hồn thành của
danh sách cơng việc phải làm. AirBnB giúp những người sở hữu nhà chia sẻ các căn
phòng trống trong một khoảng thời gian nhất định. Tất cả các tương tác này đều khơng có
một hợp động “đúng nghĩa” nào, và cũng khơng có sự phân cấp quản lý thực sự nào.
- Chia sẻ, trao đổi quyền sử dụng:
Mơ hình KTCS hoặc trao đồi, cho thuê quyền sử dụng (tiếp cận) các sản phẩm,
dịch vụ mà không trao đổi quyền sở hữ. Đặc trưng này mang lại những lợi ích rất lớn cho
mơ hình KTCS. Cụ thể là sự tiết kiệm chi phí, giúp bảo vệ mơi trường, tăng tính hiệu quả
của nền kinh tế, giảm bớt sự lãng phí tài nguyên xã hội và sự dư thừa năng lực của các
sản phẩm dịch vụ.
1.1.3. Vai trị
- Tác động tích cực đến mơi trường
Kinh tế chia sẻ cung cấp quyền sử dụng thông qua việc tiếp cận nguồn lực thay vì
sở hữu nguồn lực. Chính vì vậy, nhu cầu về việc sản xuất ra các sản phẩm, dịch vụ giảm
đi đáng kể. Ít các hoạt động sản xuất đồng nghĩa với ít hơn sự xuất hiện của các tác nhân
gây hại cho mơi trường, ít khí thải và dấu chân carbon.
Chúng ta có thể điều này được phản ánh rõ rệt khi chia sẻ trong việc di chuyển.
Nhờ chia sẻ, đi chung xe, số kilomet di chuyển giảm xuống. Thay vì hai, khi chia sẻ, chỉ
có một chiếc xe thải khí ra mơi trường. BlaBlaCar và Vinted chính là hai cơng ty với mơ
hình kinh tế chia sẻ giúp bảo vệ môi trường thông qua việc chia sẻ xe và quần áo.
- Gia tăng tài sản, thu nhập
Một vai trò khác liên quan đến tài chính cá nhân. Vì sản phẩm, dịch vụ cung cấp
trong sharing economy là những tài sản “nhàn rỗi”, chưa được tận dụng đúng mức. Khi
chia sẻ, chúng ta đem đến cơ hội tận dụng nguồn tài sản đó.
Tài sản vốn nhàn rỗi bây giờ đem đến lợi ích không chỉ cho người mua mà cả
người cung cấp dịch vụ. Để không, tài sản không tạo ra giá trị. Nhưng khi được đưa vào
sử dụng, đặc biệt là khi sử dụng đúng cách, đúng mức, tài sản đem đến giá trị.
Trong mơ hình kinh tế chia sẻ, giá trị đó có thể quy đổi thành phí sử dụng mà
người bán thu từ người mua. Như vậy, tài sản nhàn rỗi sẽ bận rộn đem đến cho chủ sở
hữu thêm nhiều tài sản hơn nữa. Từ đó, thu nhập tăng lên. Điều này đặc biệt quan trọng
khi người tiêu dùng nói chung thận trọng hơn trong các quyết định mua bán của mình.
Thu nhập nhiều hơn giúp họ có thêm nhiều lựa chọn, tiếp cận với các lựa chọn tốt
hơn. TaskRabbit, một cơng ty tại Pháp với mơ hình kinh tế chia sẻ, đã góp phần tạo nên
thu nhập cho nhiều người.
- Cơ hội nghề nghiệp
Những đồ vật hữu hình khơng phải thứ duy nhất có thể chia sẻ được. Sharing
economy cịn vận hành dựa trên những thứ vơ hình như kỹ năng. Kỹ năng khơng được
vận dụng hết mức có thể là một rào cản. Họ có thể có một cơng việc nhưng khơng tìm
thấy niềm vui thích trong công việc.
Kinh tế chia sẻ là cơ hội để họ chia sẻ kỹ năng của mình. Bên cạnh cơng việc
chính thức, tồn thời gian, mỗi người có thể dành thêm thời gian và kỹ năng chưa tận
dụng hết của mình cho một người đang cần hoặc thiếu kỹ năng đó. Đó sẽ là một cánh cửa
cơng việc khác mở ra cho mỗi chúng ta: được sử dụng kỹ năng của mình và đem đến giá
trị cho cộng đồng.
1.1.4. Phân loại mơ hình Kinh tế chia sẻ
Theo phương pháp phân loại dựa theo hình thức người sở hữu tài sản và người
quyết định giá, mơ hình KTCS được chia ra làm 3 loại chính: mơ hình nền tảng tập trung
(đơn vị cung cấp nền tảng vừa sở hữu tài sản, vừa quyết định giá thành dịch vụ), mơ hình
nền tảng phi tập trung (đơn vị cung cấp nền tảng chỉ tạo ra môi trường kết nối, người
cung cấp dịch vụ là người sở hữu tài sản và cũng là người quyết định giá thành dịch vụ),
mơ hình nền tảng hỗn hợp (chủ tài sản cung cấp dịch vụ với giá do nền tảng đưa ra và
nền tảng cũng đóng một phần vai trò trong việc đảm bảo chất lượng sản phẩm được cung
ứng ra ngoài thị trường).
1.2. Giới thiệu về những ứng dụng cho vay hoạt động dựa trên mơ hình KTCS
1.2.1. Khái niệm
P2P Lending (cịn gọi là Peer to Peer Lending hay Cho vay ngang hàng) là mơ hình cho
vay trên nền tảng cơng nghệ số, tại đây người đi vay và người cho vay (nhà đầu tư) sẽ
được kết nối trực tiếp với nhau mà không cần phải thông qua bất cứ một tổ chức tín dụng
hay ngân hàng truyền thống nào.
1.2.2. Đặc điểm
- Tính linh hoạt: P2P lending cho phép các cá nhân và doanh nghiệp có thể truy cập
nguồn vốn nhanh chóng và dễ dàng hơn so với các phương thức truyền thống.
- Độ tin cậy cao: Các nền tảng P2P lending thường sử dụng các công nghệ tiên tiến để
xác minh thơng tin khách hàng, đảm bảo tính tồn vẹn của giao dịch và giảm thiểu rủi ro.
- Lãi suất cạnh tranh: Các khoản vay P2P lending thường có lãi suất cạnh tranh hơn so
với các ngân hàng truyền thống.
- Phí thấp: P2P lending thường khơng u cầu các khoản phí và chi phí đăng ký vay như
các ngân hàng truyền thống.
- Không cần thế chấp: Các khoản vay P2P lending thường không yêu cầu tài sản thế chấp,
giúp giảm thiểu rủi ro cho người vay.
- Quản lý dễ dàng: Các nền tảng P2P lending thường cung cấp các công cụ quản lý tài
chính dễ sử dụng, giúp người vay có thể quản lý khoản vay của mình một cách hiệu quả.
Tuy nhiên, điều quan trọng là cần phải đánh giá và quản lý rủi ro một cách hiệu quả để
tránh các rủi ro không mong muốn.
1.2.3. Các sản phẩm nổi bật của mơ hình P2P Lending
P2P lending (Peer-to-Peer lending) là một hình thức cho vay tiền trực tuyến giữa các cá
nhân và tổ chức. Một số sản phẩm phổ biến của P2P lending:
- Khoản vay cá nhân: Là khoản vay được cung cấp bởi các người đầu tư cho các cá nhân.
Tiền vay này có thể được sử dụng để thanh tốn nợ, trang trải chi phí du lịch, điều trị y tế
hay thậm chí là mua sắm.
- Vay cho doanh nghiệp: Là khoản vay doanh nghiệp được cung cấp bởi các nhà đầu tư
cho các doanh nghiệp. Những khoản vay này có thể được sử dụng để đầu tư cho các dự
án mới, nâng cao năng lực sản xuất, hoặc trả nợ vay cũ.
- Cho vay theo hóa đơn: Là sản phẩm cho phép các doanh nghiệp vay tiền từ bên thứ ba
để trả các hóa đơn được phép trả chậm.
- Đầu tư vào các khoản vay: Ngoài việc cho vay, các nhà đầu tư cịn có thể đầu tư vào các
khoản vay khác để thu nhập lợi tức từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi.
Các sản phẩm trên đều có tính linh hoạt và phù hợp với nhu cầu của các cá nhân và doanh
nghiệp. Tuy nhiên, cần phải đảm bảo rằng mức độ rủi ro đã được đánh giá và quản lý
hiệu quả để tránh các rủi ro không mong muốn.
CHƯƠNG 2. ẢNH HƯỞNG CỦA FINTECH ĐỐI VỚI LĨNH VỰC
TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
2.1. Bối cảnh cho vay tài chính hiện nay ở Việt Nam.
Trong những năm qua, hoạt động cho vay tài chính tiêu dùng tại Việt Nam phát
triển khá mạnh, với sự tham gia tích cực của nhiều tổ chức tín dụng (TCTD), đặc biệt là
các cơng ty tài chính. Dù cịn ở mức khiêm tốn nhưng tổng dư nợ tín dụng tiêu dùng và tỷ
trọng tín dụng tiêu dùng so với tổng tín dụng đối với nền kinh tế đều đã tăng đáng kể.
Thực tế, những năm gần đây, tổng dư nợ cho vay tiêu dùng ở Việt Nam có mức
tăng trưởng trung bình 20%/năm. Vào năm 2021, các khoản cho vay tài chính tiêu dùng
đạt 67 tỷ USD, nhưng nợ xấu đã nhảy vọt lên 11%. Con số này tương đương 18% GDP
và 40% doanh thu hàng hóa bán lẻ. Sản phẩm mua ngay trả sau ở Việt Nam mới đạt giá
trị ở mức 500 triệu USD vào năm 2021, nhưng một năm trước đó, con số này chỉ là 270
triệu USD. Theo NHNN, đến cuối tháng 6/2022, dư nợ cho vay phục vụ đời sống tăng
14,12% so với cuối năm 2021 (cuối năm 2021 tăng 13,4%, cùng kỳ năm 2021 tăng
7,24%), chiếm 22,22% dư nợ tín dụng chung. Điều đó cho thấy tiềm năng của ngành tài
chính tiêu dùng và những bước phát triển khả quan của thị trường này. Bên cạnh những
kết quả đạt được, các cơng ty tài chính cũng gặp một số khó khăn, phạm vi và quy mơ
hoạt động cịn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Điển hình trong bối cảnh kinh tế khó khăn,
rất nhiều người thu nhập thấp tìm đến các thơng tin cho vay tiêu dùng được quảng cáo
trên các mạng xã hội và ứng dụng cho vay tiêu dùng chưa được xác thực, từ đó rơi vào
các bẫy lừa đảo chiếm đoạt tiền hoặc trở thành con nợ của “tín dụng đen”, gây ra nhiều
hệ lụy khó lường, ảnh hưởng đến hình ảnh và thương hiệu cho các cơng ty tài chính đồng
thời kìm hãm sự phát triển minh bạch của thị trường cho vay tiêu dùng. Theo số liệu từ
một hội thảo về vay tiêu dùng, hiện có khoảng 47% người Việt tham gia vay tiền, nhưng
chỉ 18,5% là vay từ những tổ chức tín dụng và các tổ chức tài chính chính thức, phần cịn
lại là vay từ người thân, bạn bè hoặc "tín dụng đen". Thực tế, các app cho vay tiêu dùng
đang nở rộ với nhiều biến tướng.
Trên thị trường, có nhiều kênh chính thức để khách hàng tiếp cận tín dụng như
thơng qua các ngân hàng thương mại, Ngân hàng Chính sách xã hội, cơng ty tài chính,
quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mơ. Tại Việt Nam, hiện có 16 cơng ty tài
chính được NHNN cấp phép hoạt động cho vay tài chính tiêu dùng. Các cơng ty tài chính
hiện nay chủ yếu thực hiện hoạt động cho vay tiêu dùng với thủ tục cho vay đơn giản và
các sản phẩm, dịch vụ đa dạng (như cho vay mua, sửa chữa nhà ở, học tập, du lịch, chữa
bệnh, thẻ tín dụng...) được liên kết với các đại lý điện máy, hàng tiêu dùng... giúp người
dân có nhu cầu vay tiêu dùng dễ dàng tiếp cận dịch vụ, qua đó, góp phần ngăn chặn, đẩy
lùi tín dụng đen, kích thích tiêu dùng, sản xuất, kinh doanh, hợp lý hóa q trình ln
chuyển hàng hóa trên thị trường.
2.2. Thực trạng phát triển của mơ hình cho vay ngang hàng tại Việt Nam trong
những năm gần đây.
2.2.1. Giới thiệu về sự phát triển của mơ hình cho vay ngang hàng tại Việt Nam.
Trong những năm gần đây, thị trường Fintech tại Việt Nam đã có những bước phát
triển rất mạnh mẽ cả về mặt số lượng, sự đa dạng trong sản phẩm, dịch vụ và thu hút vốn
đầu tư. Fintech xuất hiện tại Việt Nam từ năm 2017, song phải đến năm 2020, đặc biệt là
năm 2021, thị trường mới chứng kiến sự phát triển cả về lượng và chất của các công ty
khởi nghiệp Fintech trong lĩnh vực này. Theo nghiên cứu của Solidiance - Công ty tư vấn
chiến lược hàng đầu, thị trường Fintech Việt Nam đạt 4,4 tỷ USD giá trị giao dịch vào
năm 2017 và đạt khoảng 7,8 tỷ USD vào năm 2020, tương đương với mức tăng 77%
trong vòng 03 năm (Tuyết & Thủy, 2021). Số lượng các công ty Fintech tại Việt Nam
cũng tăng lên nhanh chóng. Theo số liệu thống kê của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
(NHNN) cũng như Báo cáo thị trường Fintech Việt Nam 2021, số lượng công ty Fintech
đã tăng lên 04 lần, từ 39 công ty vào cuối năm 2015 lên đến hơn 154 công ty vào cuối
năm 2021. Và số lượng công ty đã tăng gần 13% (từ 156 công ty năm 2021 lên 176 công
ty vào năm 2022). Trong số các công ty Fintech tại Việt Nam, có khoảng 70% là cơng ty
khởi nghiệp. Các công ty Fintech hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm
trung gian thanh tốn và ví điện tử, cho vay ngang hàng, công nghệ chuỗi khối, tiền kỹ
thuật số và kiều hối… trong đó mơ hình kinh tế chia sẻ lĩnh vực tài chính được thể hiện
qua mơ hình cho vay P2P Lending.
Có thể xem giai đoạn 2008 - 2017 là thời kỳ bùng nổ sự xuất hiện của các nền
tảng/ giải pháp/ ứng dụng thanh toán, góp phần kiến tạo nền móng cho sự phát triển của
thị trường Fintech Việt Nam; thì giai đoạn 2017 - 2020 là làn sóng ra đời hàng loạt các
doanh nghiệp/ dự án cho vay ngang hàng và blockchain/cryptocurrency; từ năm 2020 tâm
điểm của sự chú ý đã, đang và sẽ chuyển dịch dần sang các giải pháp công nghệ cho thị
trường đầu tư tài chính và bảo hiểm.
Hình 4. Đóng góp của các dịch vụ trong lĩnh vực Fintech tại Việt Nam năm 2022
Nguồn: HyperLead's Fintech Vietnam 2022 report
Về cấu phần đóng góp của các dịch vụ, Cho Vay và Blockchain/Crypto. Bên
cạnh các lĩnh vực chiếm tỷ trọng lớn, Fintech Việt Nam 2022 đã có sự phát triển đáng kể
về số lượng Startups ở các mảng Đầu Tư Tích Lũy (Wealth Management), Bảo Hiểm
Cơng Nghệ (Insurtech) và Mua trước trả sau (Buy Now Pay Later) so với năm 2021, cụ
thể:
+ Ideal Life với trụ sở chính tại TP.HCM đã ra mắt IZIon24 – ứng dụng bảo hiểm
bỏ túi đầu tiên tại Việt Nam.
+ Công ty công nghệ KMS chính thức đưa Kaypay đến với người dùng Việt vào
tháng 8/2022. Kaypay là ứng dụng kết hợp nền tảng thương mại điện tử và tính năng
thanh tốn mua trước trả sau.
+ Tháng 6/2022, ứng dụng đầu tư thông minh Tititada chính thức ra mắt thị
trường Fintech.
+ Ứng dụng tài chính nên ứng dụng Tích lũy & Đầu tư 3Gang chính thức ra mắt
thị trường vào tháng 12/2022 với mong muốn chinh phục giới trẻ Việt.
+ Nền tảng tài chính kỹ thuật số dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ Đơng Nam Á
Funding Societies đã chính thức ra mắt tại Việt Nam, đánh dấu lần mở rộng thị trường
thứ năm của nền tảng này.
+ Sự hợp tác bền chặt giữa Tập đồn Tài chính Cơng nghệ Umee với Ngân hàng
TMCP Kiên Long là tiền đề quan trọng cho sự ra đời của ứng dụng Umee by
KienlongBank, hoạt động với nguyên lý của một ngân hàng số tồn năng.
Điều này xuất phát từ quy mơ dân số lớn, sự hỗ trợ từ Chính phủ nhằm thúc đẩy
một nền kinh tế không dùng tiền mặt, cũng như tỷ lệ sử dụng Internet và di động cao tại
Việt Nam. Không chỉ vậy, các công ty Fintech trong lĩnh vực thanh tốn ln thu hút
được nhiều nguồn vốn đầu tư nhất và đây cũng là quy luật chung của các thị trường
Fintech phát triển ở giai đoạn đầu. Xu hướng này sẽ còn được tiếp tục khi theo dự báo
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), giá trị thanh toán qua thiết bị di động tại
Việt Nam dự kiến tăng gần 4 lần, từ 16 tỷ USD vào năm 2016 lên đến 70,9 tỷ USD vào
năm 2025.
Ngoài ra, đa số công ty Fintech ở Việt Nam do đang ở giai đoạn phát triển sơ khởi
nên có quy mơ cịn khiêm tốn. Phần lớn các công ty Fintech tại Việt Nam là các công ty
mới được thành lập với quy mô nhỏ. Cụ thể, về giai đoạn phát triển của công ty Fintech:
47% đang trong giai đoạn khởi động kinh doanh chưa đạt điểm hòa vốn; 28% đang trong
giai đoạn ra mắt sản phẩm khả thi tối thiểu (MVP) và có doanh thu bán hàng trong sáu
tháng gần nhất tính đến thời điểm khảo sát; 13% đang trong giai đoạn phát triển mơ hình
kinh doanh; 9% đã đạt được lợi nhuận; 3% đang trong giai đoạn chứng minh ý tưởng và
chưa có doanh thu.
Hình 5. Đánh giá giai đoạn phát triển của các công ty Fintech Việt Nam năm
2022
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Liên kết và hợp tác giữa các công ty Fintech và các ngân hàng vẫn là xu hướng
chính và chủ đạo trong những năm qua tại Việt Nam. Hợp tác giữa Fintech và ngân hàng
chiếm tới hơn 90% số lượng các công ty Fintech. Đối với lĩnh vực trung gian thanh tốn,
100% các cơng ty Fintech do NHNN cấp phép hoạt động đều hợp tác với các ngân hàng.
Đối với các lĩnh vực khác, sự hợp tác giữa các công ty Fintech và các ngân hàng cũng rất
chặt chẽ dựa trên những lợi thế riêng của từng bên để có thể cung ứng các sản phẩm, dịch
vụ chất lượng, lợi ích tốt hơn và tiết kiệm chi phí hơn cho khách hàng. Chẳng hạn như,
hiện nay, khách hàng có thể sử dụng được nhiều dịch vụ ngân hàng hơn thông qua
Internet và thiết bị di động so với đến giao dịch trực tiếp tại ngân hàng.
Mặc dù đã có những bước phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây, song thị
trường Fintech ở Việt Nam hiện vẫn đang trong giai đoạn đầu phát triển. So với các nước
trong khu vực, số lượng công ty Fintech tại Việt Nam còn khá khiêm tốn. Fintech ở Việt
Nam chưa thực sự phát triển do hệ sinh thái Fintech chưa có sự liên kết, phối hợp chặt
chẽ giữa các chủ thể (cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức tài chính, cơng ty khởi nghiệp
Fintech, công ty phát triển công nghệ...) cũng như khuôn khổ pháp lý quản lý lĩnh vực
Fintech chưa được đồng bộ.
2.2.2. Hoạt động cho vay của Fintech
P2P Lending (còn được gọi là Cho vay ngang hàng) được xem là một trong những
mảng mạnh nhất của Fintech Việt Nam nổi bật cho mơ hình kinh tế chia sẻ trong lĩnh vực
tài chính trong thời gian gần đây, khơng chỉ giúp nhà đầu tư dễ dàng lựa chọn khoản cho
vay với mức lãi suất hấp dẫn, mà còn là giải pháp cấp vốn tức thì cho các cá nhân và
doanh nghiệp nhỏ đang gặp khó khăn về tài chính.
Các cơng ty P2P Lending thực hiện hoạt động kết nối giữa người vay và người cho
vay trên nền tảng công nghệ số. Bên vay và bên cho vay được kết nối với nhau để thực
hiện vay tiền. Trường hợp bên cho vay đồng ý cho vay tiền thì bên vay và bên cho vay sẽ
giao kết thỏa thuận tài chính, trong đó thống nhất với nhau về lãi suất, nghĩa vụ giải ngân
của bên cho vay, nghĩa vụ thanh toán khoản vay, tiền lãi và phí (nếu có) của bên vay,…
Trong mơ hình kết nối này, mặc dù các chủ thể tham gia là độc lập nhưng mỗi chủ thể
đều có vai trị, quyền lợi và trách nhiệm riêng. Các tác nhân tham gia trong mơ hình P2P
lending gồm có: Cơng ty P2P Lending; người đi vay; người cho vay; ngân hàng; công ty
cung ứng dịch vụ trung gian thanh tốn (ví điện tử), công ty bảo hiểm, thu hồi nợ,…
Tại Việt Nam bắt đầu xuất hiện công ty hoạt động giống mô hình P2P Lending từ
năm 2016 với trang huydong.com. Kể từ đó, nhiều cơng ty P2P Lending khác đã dần đi
vào hoạt động, như Tima, SHA, Mobivi, Vaymuon.vn, Mofin…
Theo Báo cáo tài chính khu vực châu Á - Thái Bình Dương lần 3, quy mô của thị
trường P2P Lending Việt Nam khá nhỏ so với các nước trong khu vực Đông Nam Á,
chiếm 1,6% khối lượng giao dịch của khu vực, chỉ xếp trên Nepal và Kazakhstan. Điều
này cũng phù hợp với tuổi đời cịn non trẻ của mơ hình P2P Lending tại Việt Nam. Tuy
nhiên, Việt Nam có nhiều tiềm năng thích hợp cho sự phát triển của mơ hình này dựa trên
sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, Internet, thiết bị di động và đặc biệt
là dữ liệu lớn (Big Data). Bên cạnh đó, sự thay đổi về cơ cấu dân số học, đặc biệt là thế
hệ trẻ sẵn sàng thích ứng với cơng nghệ mới và mong muốn được cung cấp các dịch vụ
tài chính thuận lợi và nhanh chóng hơn nên dễ dàng chấp nhận các sản phẩm dịch vụ mới
như P2P Lending…
Thống kê sơ bộ của Ngân hàng Nhà nước, Việt Nam hiện có khoảng 100 cơng ty
P2P Lending (bao gồm cả cơng ty đã đi vào hoạt động chính thức và một số công ty đang
trong giai đoạn thử nghiệm) như Tima, Trust Circle, Vay mượn, Lendmo, Wecash,
InterLoan… (Bảng 1). Tuy nhiên, thực tế số doanh nghiệp hoạt động P2P Lending có thể
nhiều hơn và rất khó đo lường một cách chính xác vì hiện nay các cơ quan quản lý chưa
tổ chức thống kê chính thức các thơng tin liên quan đến doanh nghiệp triển khai hoạt
động P2P Lending tại Việt Nam.
Bảng 1: Danh sách một số công ty P2P Lending truyền thống hoạt động tại Việt
Nam
Nguồn: Lender.vn
Tuy mới xuất hiện và tồn tại khoảng 5 năm, các công ty P2P Lending đã đưa ra
các sản phẩm vay vốn trên các nền tảng trực tuyến khá đa dạng, gồm: Vay có tài sản bảo
đảm và vay khơng có tài sản bảo đảm, trong đó chủ yếu là vay khơng có tài sản bảo đảm.
Điều đó cho thấy, các cơng ty P2P Lending ở Việt Nam hiện nay hầu như khơng phải
hoạt động theo mơ hình P2P Lending truyền thống (với các đặc điểm như đã nêu ở trên).
Đối với các khoản vay cá nhân, các công ty đưa ra các gói sản phẩm rất đa dạng như vay
tín chấp theo lương, vay theo sổ hộ khẩu, vay theo đăng ký xe máy, vay trả góp, vay theo
hóa đơn điện nước, vay theo đăng ký xe ơ tô, cầm ô tô, cầm sổ đỏ…. Đối với các tài
khoản vay SME như: Tài trợ các khoản phải thu, tài trợ bên mua hàng, tài trợ vốn lưu
động,
tài
trợ
thương
mại
điện
tử,
…
(Bảng
2)
Bảng 2: Số nền tảng P2P Lending theo quốc gia và theo đơn vị tiền tệ
Nguồn: />Đối tượng vay vốn trong mô hình P2P Lending chủ yếu là nhóm người lao động
trẻ tuổi, có thu nhập thấp, khơng tiếp cận được tín dụng chính thức. Theo thơng tin của
Cơng ty Tima, người đi vay từ P2P Lending thường là lao động trẻ tuổi (86% khách hàng
có độ tuổi 20-39 tuổi, 14% có độ tuổi 40-60); có thu nhập thấp (từ 3 - dưới 7 triệu
VNĐ/tháng), chưa tiếp cận được vay vốn ngân hàng.
Mơ hình phát triển P2P Lending tại Việt Nam đa dạng. Theo Ngân hàng Nhà nước
(NHNN), mơ hình hoạt động trực tiếp và gián tiếp đều đã được triển khai tại Việt Nam.
Thứ nhất, với mơ hình trực tiếp, các cơng ty Fintech có dịch vụ P2P Lending cung
cấp cơng nghệ đơn thuần. Đây là các công ty cung cấp nền tảng công nghệ để kết nối
giữa người cho vay - người đi vay và hưởng phí. Các cơng ty cơng nghệ này cũng có thể
hợp tác với các ngân hàng trong lĩnh vực thanh toán, quản lý tài khoản của khách hàng tại
ngân hàng như: Công ty cổ phần Interloan hợp tác với ba ngân hàng Sacombank, Nam Á
Bank và Vietcapital Bank; Công ty cổ phần Tima hợp tác với NCB, Nam Á Bank; Công
ty cổ phần Lendbiz hợp tác với PG Bank, VIB…
Thứ hai, với mơ hình cho vay gián tiếp, các công ty P2P Lending hợp tác với ngân
hàng, tổ chức tín dụng để cho vay khách hàng. Theo đó, một số ngân hàng kết hợp với
công ty công nghệ để cho vay khách hàng doanh nghiệp nhỏ và cá nhân như Dragon
Bank, The Bank, Gobear là ba công ty cổ phần hợp tác và kết nối với ngân hàng trong
việc tìm kiếm khách hàng. Các ngân hàng hợp tác rất đa dạng. Công ty cổ phần Dragon
Bank hợp tác với các ngân hàng: OCB, Shinhan Bank, HDBank, ACB, UOB, VPBank,
TPBank, MSB. Công ty cổ phần Gobear kết nối với BaovietBank, Citibank, DongA Bank,
Eximbank, HD Bank. The Bank có các đối tác tài chính là: FE Credit, Techcombank,
Manulife, VPBank, UOB, Shinhan Bank, BIDV, ABBank, Sacombank,… Nhìn chung,
các cơng ty P2P Lending kết nối với ngân hàng sẽ hợp tác với rất nhiều tổ chức tài chính.
Hoạt động P2P Lending đã cho phép khách hàng tra cứu thông tin và thực hiện
giao dịch vay tiền qua nhiều kênh như website, ứng dụng di động, Facebook, Zalo hoặc
đường dây nóng mà khơng cần đến văn phòng để ký kết giấy tờ. Quyết định cho vay sẽ
được phản hồi rất nhanh trong ngày hoặc tối đa là một tuần. Vì vậy, khả năng tiếp cận
khách hàng tốt và thu hút được sự quan tâm của nhiều doanh nghiệp nhỏ có nhu cầu vay
vốn sản xuất, kinh doanh ngắn hạn. Đến nay, số lượng người vay và người cho vay/nhà
đầu tư khá lớn như Tima (tổng số tiền lên đến gần 100 nghìn tỷ đồng và tổng số người
cho vay gần 3 triệu người)... với thời hạn cho vay phần lớn là ngắn hạn, dưới 1 năm. Mức
cho vay nhỏ, mức vay tối đa của nhiều sản phẩm ở mức 50 triệu đồng và thực tế cho vay
phổ biến là 10 triệu đồng với cá nhân, với doanh nghiệp món vay thường dưới 400 triệu
đồng (có trường hợp lên đến 1 tỷ đồng/doanh nghiệp như tại Lenbiz).
Đồng thời, sản phẩm P2P Lending khá đa dạng, bao gồm cho vay đáp ứng nhu cầu
sản xuất kinh doanh và phục vụ đời sống... Định hướng khách hàng mục tiêu của các
công ty khá rõ ràng và đa dạng. Bên cạnh một số công ty phục vụ khách hàng cá nhân
như Tima, Vaymuon…, nhiều công ty tập trung vào khách hàng doanh nghiệp nhỏ, hộ
kinh doanh như HuyDong, Lendbiz... là đối tượng thường có nhu cầu vay vốn lưu động.
Theo đó, ước tính đến cuối năm 2021, Lenbiz đã giải ngân lên đến 756 tỷ đồng cho
doanh nghiệp/hộ kinh doanh, với hơn 980 chiến dịch gọi vốn và thu hút gần 7.000 nhà
đầu tư. Các doanh nghiệp thường được cung ứng vốn nhanh hơn và thủ tục cũng đơn giản
hơn - điều này là cần thiết hơn với các DNNVV với các khoản vay giá trị không cao. Lãi
suất cho vay thường cao hơn nhiều so với lãi cho vay của các NHTM, nhưng vẫn thấp
hơn các nguồn vốn phi chính thức như tín dụng đen. Theo thơng tin từ Vụ Chính sách
tiền tệ - NHNN, lãi suất cho vay của các công ty P2P Lending thường từ 20 - 30%/năm
cho nhà đầu tư, nhưng còn một số loại phí như phí tư vấn, phí trả nợ trước hạn…
Tuy nhiên, hiện nay, đa phần các công ty P2P Lending có trụ sở hoạt động tại hai
thành phố lớn là Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và thường có quy mơ nhỏ nên khả năng
phịng vệ rủi ro cịn hạn chế. Vốn điều lệ của các công ty phần lớn là dưới 10 tỷ đồng, rất
ít cơng ty có vốn điều lệ trên 10 tỷ đồng. Ngoài ra, thị trường cịn tồn tại một số bất cập
khi một số cơng ty P2P Lending tự huy động vốn, rồi cho vay; một số khác thực chất là
doanh nghiệp cầm đồ xây dựng App và website riêng để cho vay dưới hình thức cho vay
nặng lãi, hoặc có thể liên kết với công ty công nghệ để ứng dụng trong cho vay cầm đồ...
Đặc biệt là sau khi Chính phủ Trung Quốc siết chặt lại các hoạt động này thì một số nền
tảng P2P Lending khơng chính thống của Trung Quốc đã chuyển hoạt động sang Việt
Nam. Đây là những hình thức cần ngăn chặn vì gây nên hệ lụy xã hội xấu và đặc biệt dễ
bị người dân hiểu và đánh giá sai về các công ty P2P Lending. Bên cạnh đó, khơng loại
trừ trường hợp các NHTM hợp tác, liên kết với các cơng ty P2P Lending mà khơng kiểm
sốt hết được những rủi ro thì có thể chịu tác động tiêu cực về chất lượng tín dụng, uy tín,
thương hiệu…
Nguyên nhân một phần của những tồn tại này là do thiếu những chế tài pháp lý
quản lý hoạt động P2P Lending tại Việt Nam. Cho vay là một trong các hình thức cấp tín
dụng và bị điều chỉnh bởi Luật Các tổ chức tín dụng, nhưng P2P Lending thì không bị
điều chỉnh bởi Luật này mà hiện vẫn được điều chỉnh theo Bộ luật Dân sự năm 2015. Từ
năm 2017, NHNN đã thành lập Ban Chỉ đạo về lĩnh vực Fintech, trong đó có P2P
Lending. Theo đó, NHNN sẽ nghiên cứu và đề xuất quy định quản lý về hoạt động P2P
Lending dựa trên nền tảng Fintech. Ngày 08/7/2019, NHNN ban hành Công văn số
5228/NHNN-CSTT yêu cầu các tổ chức tín dụng thận trọng trong việc ký kết và thực
hiện các thỏa thuận hợp tác với các công ty P2P Lending để đảm bảo an tồn của hệ
thống ngân hàng. Tiếp đó, theo Quyết định số 999/QĐ-TTg ngày 12/8/2019 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Đề án thúc đẩy mơ hình kinh tế chia sẻ, NHNN được giao
nhiệm vụ nghiên cứu xây dựng cơ chế thí điểm về quản lý hoạt động P2P Lending.
Đồng thời, theo các Nghị quyết, Quyết định của Bộ Chính trị, Chính phủ về
chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 thì Việt
Nam sẽ tập trung ban hành cơ chế, chính sách để các doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi
số được tiếp cận tín dụng một cách thuận lợi, xây dựng hệ sinh thái dịch vụ tài chính ngân hàng để thúc đẩy phổ cập tài chính quốc gia… Ngày 11/5/2021, Thống đốc NHNN
đã ký Quyết định số 810/QĐ-NHNN phê duyệt “Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân
hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” thể hiện rõ định hướng trong việc phát
triển các dịch vụ tài chính số như chỉ tiêu về tỷ lệ quyết định giải ngân, cho vay của
NHTM, cơng ty tài chính đối với các khoản vay nhỏ lẻ, vay tiêu dùng của khách hàng cá
nhân được thực hiện theo hướng số hóa, tự động, đến năm 2025 đạt tối thiểu 50% và đến
năm 2030 đạt tối thiểu 70%...
Như vậy, có thể thấy, thị trường P2P Lending tại Việt Nam đã hình thành và đạt
được kết quả bước đầu, có nhiều cơ hội tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn trong tương lai.
Tuy nhiên, cũng có những rủi ro tiềm ẩn; do đó, việc quản lý, kiểm sốt thị trường P2P
Lending là rất cần thiết để có thể hiện thực hóa tiềm năng trở thành kênh huy động vốn
hiệu quả cho DNNVV của thị trường này.
2.3. Đánh giá tác động của Fintech đối với lĩnh vực tài chính ngân hàng tại Việt
Nam trong những năm gần đây
2.3.1. Tích cực
Một là, Fintech tạo ra những mơ hình kinh doanh mới làm thay đổi kênh phân phối
và các sản phẩm dịch vụ tài chính truyền thống, đặc biệt là dịch vụ ngân hàng, ví dụ:
Internet banking, Mobile banking, QR code, ngân hàng số, ví điện tử…
Hai là, sự phát triển và ứng dụng các công nghệ mới như Big data, blockchain, hệ
thống định dạng cá nhân sinh trắc học, định danh khách hàng điện tử… sẽ giúp các tổ
chức tài chính thu thập dữ liệu, đơn giản hóa quy trình phân tích hành vi khách hàng, cải
tiến chất lượng dịch vụ, tiết giảm chi phí hạ tầng kỹ thuật, tăng cường tính minh bạch,
nhưng vẫn đảm bảo an tồn, nhanh chóng, hiệu quả trong giao dịch ngân hàng cũng như
hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại, tạo động lực cho sự nâng cao chất
lượng dịch vụ cho vay nói riêng và uy tín ngân hàng nói chung.
Ba là, Fintech tạo ra các giải pháp tài chính cho khách hàng ở vùng sâu, vùng xa
hoặc những khách hàng gặp khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ tài chính do những
rào cản về thủ tục hoặc địa lý. Đặc biệt, mơ hình P2P Lending hỗ trợ tốt hơn cho nhóm
khách hàng cá nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ, siêu nhỏ. Những khách hàng này thường
bị các ngân hàng từ chối do không đáp ứng được các yêu cầu về vốn và tài sản.
Bốn là, Fintech giúp cung cấp danh mục các sản phẩm tài chính đa dạng cho
khách hàng nhờ sự phát triển của công nghệ, giúp bảo đảm sự cung ứng dịch vụ 24/7 theo
cả khơng gian và thời gian. Ví dụ: Hiện tại các công ty cho vay P2P (kết nối trực tiếp
người đi vay với người cho vay trên Internet) đã hoạt động khá hiệu quả, giúp rút ngắn
thời gian phê duyệt các khoản vay từ vài tuần ở các ngân hàng xuống chỉ còn vài giờ.
Cùng với sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, ngày càng nhiều
người tiêu dùng sử dụng các sản phẩm, dịch vụ từ Fintech nói chung và P2P Lending nói
riêng. Qua mơ hình cho vay ngang hàng, khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính - ngân hàng
được nâng cao, gia tăng giá trị cho khách hàng sử dụng dịch vụ. Cũng bởi ưu thế phát
triển trên nền tảng công nghệ thông tin không cần mạng lưới phòng giao dịch như ngân
hàng, nên các sản phẩm dịch vụ do các nền tảng P2P Lending cung ứng đã và đang thu
hút được số lượng lớn khách hàng; đặc biệt là những người gặp khó khăn trong việc tiếp
cận dịch vụ ngân hàng. Nhìn chung thì tồn thế giới chào đón làn sóng Fintech bởi nó
giúp cho các giao dịch tài chính dễ dàng, minh bạch hơn và có chi phí thấp hơn.
2.3.2. Tiêu cực
Bên cạnh những lợi ích mà mơ hình cho vay ngang hàng đem lại, mơ hình này có
thể mang lại một số tác động bất lợi đến hệ thống tài chính nói chung và hoạt động cho
vay nói riêng.
Một là, nguy cơ bị tấn cơng bởi chính cơng nghệ. Các sản phẩm Fintech nói chung
và hoạt động cho vay P2P Lending nói riêng được tạo ra trên nền tảng công nghệ nên
việc gặp phải các nguy cơ tấn công từ công nghệ là điều không tránh khỏi. Giải pháp
cơng nghệ thơng tin càng hiện đại thì rủi ro càng dễ xảy ra, một sự cố có thể dẫn đến rủi
ro cả hệ thống. Các doanh nghiệp và người sử dụng phải đối mặt với nhiều nguy cơ tiềm
ẩn đến từ việc gian lận tài chính, lỗi hệ thống, tội phạm công nghệ ăn cắp dữ liệu, phát
tán mã độc… Các sản phẩm Fintech nói chung và Mơ hình P2P Lending riêng mới được
hình thành và phát triển gần đây tại Việt Nam, nên nhiều ứng dụng P2P Lending chưa
được hoàn thiện, cũng như chưa đáp ứng các tiêu chí về an tồn bảo mật dẫn tới nhiều lỗ
hổng bảo mật còn tồn tại trước nguy cơ bị tấn cơng mạng, đánh cắp thơng tin, lộ, lọt, rị rỉ
dữ liệu tài khoản, có thể gây thiệt hại cho các bên tham gia. Trường hợp các nền tảng P2P
Lending bị mất dữ liệu hoặc các rủi ro công nghệ liên quan thì khả năng người cho vay
mất trắng các khoản đầu tư là rất cao (vì khơng có cơ sở, bằng chứng ghi nhận lại các
khoản cho vay mà người cho vay đã tiến hành cho vay). Bên cạnh đó, các công ty Fintech
hầu hết khởi nguồn là các công ty khởi nghiệp non trẻ, khơng có hoặc chưa thiết lập bộ
phận kiểm soát tuân thủ, thiếu sự kiểm soát, giám sát về mặt quy trình hoạt động (như
yêu cầu kỹ thuật, yêu cầu về vốn và khuôn khổ kiểm soát các rủi ro trong hoạt động...)
nên hoạt động của các công ty tiềm ẩn rủi ro dẫn tới thiệt hại, tổn thất cho khách hàng,
gây mất niềm tin của công chúng vào lĩnh vực non trẻ này.
Hai là, mô hình P2P Lending phát triển quá nhanh so với hệ thống pháp luật hiện
hành. Các sản phẩm này là dựa trên những đổi mới và sáng tạo liên tục của cơng nghệ, do
đó, nhiều trường hợp các quy định của pháp luật hiện hành chưa theo kịp. Chính điều này
là một trong những nguyên nhân gây ra hàng loạt các vụ lừa đảo liên quan đến fintech
thời gian qua như lừa đảo góp vốn mua máy đào tiền ảo, lừa đảo ICO, kinh doanh tiền
điện tử… Việt Nam chưa có khung khổ pháp lý điều chỉnh, thiếu sự quản lý, giám sát
của cơ quan quản lý dẫn đến tình trạng khách hàng không được bảo vệ quyền lợi thỏa
đáng, với một hệ sinh thái như vậy, người cho vay trên các nền tảng Fintech này phải đối
mặt với rủi ro mất tiền do người đi vay không thực hiện đúng thỏa thuận, lừa đảo; hoặc
công ty vận hành thực hiện không đúng, không đủ các thủ tục xác định thông tin khách
hàng vay và phòng, chống rửa tiền (AML) và trên thực tế hiện nay, đa số các sàn nền
tảng Fintech đều quy định việc thực hiện các nghĩa vụ đối với người đầu tư thuộc trách
nhiệm của người đi vay mà khơng có bất kỳ liên đới trách nhiệm nào đến các doanh
nghiệp này.
Ba là, sự thuận tiện của P2P Lending làm cho khách hàng đôi khi sử dụng mà chưa
thực sự hiểu về sản phẩm, khơng có kiến thức cơ bản về tài chính, thậm chí khơng hề biết
cách bảo mật các thông tin cá nhân. Đây là kẽ hở cho tội phạm tài chính tấn cơng. Ví dụ:
lập các website giả mạo làm người dùng lộ tài khoản và mật khẩu để chiếm đoạt tài
sản, … Điều này bắt nguồn do sự thiếu rõ ràng, thiếu ràng buộc có tính pháp lý, cũng như
chưa có cơ chế giám sát, hậu kiểm đối với việc sử dụng, quản lý vốn vay đúng mục đích
của người đi vay nên người cho vay có nguy cơ mất tài sản, dẫn đến rất nhiều tranh chấp,
khiếu kiện kéo dài giữa các bên đối với các thỏa thuận và giao dịch dân sự lỏng lẻo.
Bốn là, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ có thể thay thế cho lượng lớn nhân
viên của các ngân hàng đang làm việc trực tiếp tại các quầy giao dịch truyền thống. Xu
hướng “ngân hàng không giấy”, “tổ chức tài chính khơng giấy”, trí tuệ nhân tạo, robot sẽ
ngày càng phổ biến. Các chi nhánh, phòng giao dịch của các ngân hàng ngày càng thu
hẹp cả về quy mô và số lượng.
2.3.3. Rủi ro mà thị trường Việt Nam phải đối mặt trước sự phát triển của kinh tế
chia sẻ lĩnh vực tài chính
Lĩnh vực P2P Lending mới xuất hiện tại Việt Nam với những rủi ro chưa được
nhận diện, đánh giá, xác định bản chất một cách đầy đủ, tồn diện và chính xác. Tuy
nhiên, nhìn chung rủi ro đối với hoạt động P2P Lending có thể tương tự với các rủi ro
trong hoạt động đầu tư tài chính và rủi ro vay nợ ngân hàng truyền thống, mang lại những
tác động bất lợi, bất ổn đến an ninh kinh tế và ổn định xã hội.
Qua khảo sát của các chuyên gia, hoạt động P2P Lending ở Việt Nam hiện nay có
thể gây ra các rủi ro sau đây cho những người tham gia: Rủi ro tín dụng và rủi ro pháp lý
là hai rủi ro lớn nhất khi tham gia vào hoạt động P2P Lending vì hiện nay khung pháp lý
chưa được hồn thiện. Tiếp theo đó là rủi ro liên quan đến vấn đề bảo mật thông tin, về
đạo đức cũng như rủi ro trong vận hành công nghệ, và các nền tảng. Cụ thể như sau:
Hình 6. Mức độ nghiêm trọng của các loại rủi ro trong P2P Lending hiện nay tại Việt
Nam (Điểm trung bình từ các chun gia)
Nguồn: Tạp chí Ngân hàng
Thứ nhất, Rủi ro pháp lý. Hiện nay, Việt Nam chưa có khung khổ pháp lý điều
chỉnh, thiếu sự quản lý, giám sát của cơ quan quản lý dẫn đến tình trạng khách hàng
không được bảo vệ quyền lợi thỏa đáng, với một hệ sinh thái như vậy, người cho vay trên
hệ thống P2P Lending phải đối mặt với rủi ro mất tiền do người đi vay không thực hiện
đúng thỏa thuận, lừa đảo; hoặc công ty vận hành P2P Lending thực hiện không đúng,
không đủ các thủ tục xác định thông tin khách hàng vay và phòng, chống rửa tiền (AML)
và trên thực tế hiện nay, đa số các sàn P2P Lending đều quy định việc thực hiện các
nghĩa vụ đối với người đầu tư thuộc trách nhiệm của người đi vay mà khơng có bất kỳ
liên đới trách nhiệm nào đến các cơng ty P2P.
Thứ hai, Rủi ro tín dụng. Thỏa thuận giữa các bên tham gia mơ hình P2P Lending
(công ty P2P Lending và người cho vay, công ty P2P Lending và bên thứ ba, công ty
P2P Lending và khách hàng vay…) còn thiếu rõ ràng, thiếu ràng buộc có tính pháp lý,
cũng như chưa có cơ chế giám sát, hậu kiểm đối với việc sử dụng, quản lý vốn vay đúng
mục đích của người đi vay, nên người cho vay có nguy cơ mất tài sản, dẫn đến rất nhiều
tranh chấp, khiếu kiện kéo dài giữa các bên đối với các thỏa thuận và giao dịch dân sự
lỏng lẻo nêu trên, từ đó tạo áp lực rất lớn cho các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan
tư pháp trong việc theo đuổi, xét xử các vụ kiện, đặc biệt là các vụ khiếu kiện tập thể,