Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

VẬN DỤNG QUY LUẬT VỀ SỰ PHÙ HỢP CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀO VIỆC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.67 KB, 31 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HỒ CHÍ MINH


ĐỀ TÀI:03
VẬN DỤNG QUY LUẬT VỀ SỰ PHÙ HỢP CỦA QUAN HỆ SẢN
XUẤT VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN
XUẤT VÀO VIỆC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LỚP AN01 NHÓM 1 HK 222
NGÀY NỘP 19/04/2023
GVHD: TRẦN THỊ HOA
Danh sách thành viên:
STT

HỌ VÀ TÊN

MSSV

1

Huỳnh Gia An

2112730

2

Nguyễn Gia1 Bảo

2112870


3

Lê Quốc Bình

2110816

4

Lê Duy (nhóm trưởng)

2110920


BÁO CÁO PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI CỦA
TỪNG THÀNH VIÊN NHÓM 1
STT
1

Họ và tên
Huỳnh Gia An

MSSV
2112730

Nhiệm vụ
_ Phần 2.1 và 2.2

Kết quả
100%


Chữ ký

_ Phần kết luận
_ Chỉnh sửa và bổ
2
3

Nguyễn Gia Bảo
Lê Quốc Bình

2112870
2110816

sung word
Phần 1.3
_ Phần 2.3 và 2.4

100%
100%

_ Tiểu kết chương 2
4

Lê Duy (nhóm

2110920

trưởng)

_ Phần mở đầu

_ Phần 1.1 và 1.2

100%

_ Tiểu kết chương 1
_ Tổng hợp
NHÓM TRƯỞNG
(Ký tên, ghi rõ họ tên)

LÊ DUY

2


MỤC LỤC

3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn 20 năm đổi mới cũng đồng nghĩa với việc từng bước xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, nước ta đã đạt được những thành tựu nhất định, bên cạnh đó
cũng có những khó khăn những vấn đề phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
không thể giải quyết chỉ bằng triết học, cũng như không thể giải quyết thành công nếu thiếu
sự vận dụng linh hoạt quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. Vì vậy,
quán triệt quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là một trong những điều
kiện quan trọng góp phần vào sự phát triển kinh tế.
Hơn nữa, việc vận dụng có hiệu quả quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển
của LLSX vào trong sự nghiệp phát triển nền kinh tế của nước ta trở thành vấn đề rất bức

thiết. Việc nhận thức và phát triển sáng tạo di sản kinh điển đó của chủ nghĩa Mác – Lênin,
làm giàu thêm tiềm năng của quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX quy luật cốt lõi của hệ thống các quy luật của chủ nghĩa duy vật lịch sử và vận dụng sáng tạo
quy luật đó nhằm đưa nền kinh tế nước ta tiếp tục phát triển trở thành một vấn đề bức xúc
hơn bao giờ hết.1
Xuất phát từ ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề nêu trên, nhóm quyết định chọn
vấn đề: “Vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay” làm đề tài cho bài báo cáo của mình.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu đề tài là làm rõ nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nhận thức và vận dụng quy luật vào việc xây dung
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó rút ra
những nguyên nhân của thành tựu và hạn chế để đưa ra những giải pháp nhằm khắc phục
4
1 Luận văn “VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG
SẢN XUẤT TRONG VIỆC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM”,
Tác giả : Nguyễn Thị Thu Thuỷ, bảo vệ ở Đại học KHXH và NV (ĐHQGHN), trang 4


những hạn chế của việc vận dụng quy luật vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài tập trung giải quyết các nhiệm vụ cơ bản sau:
Thứ nhất, trình bày, phân tích và làm rõ nội dung quy luật phù hợp của quan hệ với
xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Thứ hai, phân tích và làm rõ sự vận dụng quy luật về sự phù hớp của quan hệ sản xuất
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, thành tựu và hạn chế của nó, từ đó đề xuất
một số giải pháp nhằm khác phục nhwuxng hạn chế trong việc vận dụng quy luật trong xây
dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng , phạm vi nghiên cứu đề tài

Đề tài tập trung làm rõ nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển
của lực lượng sản xuất và việc vận dụng quy luật vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu của bài tiểu luận là sự vận dụng quy luật QHSX phù hợp với
trình độ phát triển của LLSX của Đảng ta trong việc đề ra và tiến hành đường lối đổi mới
kinh tế - xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Phương pháp nghiên cứu đề tài: Để đạt được mục đích và hồn thành nhiệm vụ nêu
trên thì đề tài được thực hiện dựa trên các cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của
CNDVBC và CNDVLS; kết hợp và vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như:
phân tích, quy nạp, diễn dịch, tổng hợp, đối chiếu và so sánh và cụ thể; lịch sử và logic để
trình bày và nghiên cứu đề tài.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tham khảo thì bài tiểu luận gồm 2 chương và 7
mục.

5


Chương 1
QUY LUẬT VỀ SỰ PHÙ HỢP CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT VỚI
TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
1.1. Khái niệm, kết cấu của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
1.1.1. Khái niệm, kết cấu của lực lượng sản xuất

Khái niệm của lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, tạo ra sức
sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu
cầu nhất định của con người và xã hội. LLSX biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên. Nghĩa là, trong quá trình sản xuất xã hội, con người chinh phục tự nhiên bằng cách

tổng hợp các sức mạnh hiện thực của mình. LLSX nói lên năng lực thực tiễn của con người
trong quá trình sản xuất tạo ra của cải xã hội. LLSX là biểu hiện mối quan hệ giữa con người
và tự nhiên. Nhưng không phải mọi mối quan hệ giữa con người với tự nhiên đều là LLSX.
Vì con người cịn có nhiều mối quan hệ khác với tự nhiên như quan hệ thẩm mỹ, quan hệ
tình cảm, quan hệ nhận thức, quan hệ thích nghi và cải tạo. Chỉ có mối quan hệ nào mà trong
đó con người cải tạo những vật phẩm của tự nhiên thành những sản phẩm vật chất cho xã hội
mới là biểu hiện của LLSX.2
Ví dụ: Người lao động có sức khỏe, được đào tạo, sử dụng các công cụ lao động như
tàu cá, lưới đánh bắt,... nhằm khai thác nguồn tài nguyên hải sản trong tự nhiên hoặc nuôi
trồng thủy sản phục vụ cho nhu cầu con người.
Kết cấu của lực lượng sản xuất :
6

2 Giáo trình triết học MÁC – LENIN, trang 132


Lực lượng sản xuất là một hệ thống gồm các yếu tố (người lao động và tư liệu sản
xuất) cùng mối quan hệ (phương thức kết hợp), tạo ra thuộc tính đặc biệt (sức sản xuất) để
cải biến giới tự nhiên, sáng tạo ra của cải vật chất theo mục đích của con người.
Trong đó, tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất, bao gồm
tư liệu lao động và đối tượng lao động. Đối tượng lao động là những yếu tố vật chất của sản
xuất mà con người dùng tư liệu lao động tác động lên, nhằm biến đổi chúng cho phù hợp với
mục đích sử dụng của con người. Tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà
con người dựa vào đó để tác động lên đối tượng lao động nhằm biến đổi đối tượng lao động
thành sản phẩm đáp ứng yêu cầu sản xuất của con người. Tư liệu lao động gồm công cụ lao
động và phương tiện lao động. Phương tiện lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất,
cùng với công cụ lao động mà con người sử dụng để tác động lên đối tượng lao động trong
quá trình sản xuất vật chất. Công cụ lao động là những phương tiện vật chất mà con người
trực tiếp sử dụng để tác động vào đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng, tạo ra của cải vật
chất phục vụ nhu cầu của con người và xã hội.

Người lao động là con người có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động và năng lực
sáng tạo nhất định trong quá trình sản xuất của xã hội. Người lao động là chủ thể sáng tạo,
đồng thời là chủ thể tiêu dùng mọi của cải vật chất xã hội. Đây là nguồn lực cơ bản, vô tận
và đặc biệt của sản xuất. Ngày nay, trong nền sản xuất xã hội, tỷ trọng lao động cơ bắp đang
có xu thế giảm, trong đó lao động có trí tuệ và lao động trí tuệ ngày càng tăng lên.
Từ đó ta thấy được vai trị quyết định của người lao động liệu lao động Đặc trưng chủ
yếu của lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa người lao động và công cụ lao động. Trong
lực lượng sản xuất, người lao động là nhân tố hàng đầu giữ vai trị quyết định, bởi vì người
lao động là chủ thể sáng tạo và sử dụng công cụ lao động. Suy đến cùng, các tư liệu sản xuất
chỉ là sản phẩm lao động của con người, đồng thời giá trị và hiệu quả thực tế của các tư liệu
sản xuất phụ thuộc vào trình độ sử dụng của người lao động. Con người bằng sức lực và trí
7

tuệ của mình chế tạo ra công cụ lao động và dùng công cụ đó tác động vào tự nhiên để tạo ra
những sản phẩm vật chất nhằm thoả mãn nhu cầu của bản thân và xã hội. Trong quá trình
sản xuất, bản thân con người đối diện với thực tế của tự nhiên với tư cách là một lực lượng


của tự nhiên. Để chiếm hữu được thực thể tự nhiên, cải tạo tự nhiên bắt chúng phục vụ
những mục đích, nhu cầu của mình, con người đã vận dụng đến sức mạnh tự nhiên của bản
thân họ như tay, chân, đầu và hai bàn tay. Chính vì thế, trong khi tác động vào tự nhiên, con
người cũng làm thay đổi chính bản thân mình.3
Sự phát triển của lực lượng sản xuất là phát triển ở cả tính chất và trình độ. Tính chất
của lực lượng sản xuất nói lên tính chất cá nhân hoặc tính chất xã hội hóa trong việc sử dụng
tư liệu sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất là sự phát triển của người lao động và cơng
cụ lao động. Trình độ của lực lượng sản xuất được thể hiện ở trình độ của cơng cụ lao động;
trình độ tổ chức lao động xã hội; trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất; trình độ, kinh
nghiệm, kỹ năng của người lao động và đặc biệt là trình độ phân cơng lao động xã hội.
Trong thực tế, tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất không tách rời nhau.
Không những thế, trong thời đại ngày nay khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất

trực tiếp bởi cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển, cả người lao động và
cơng cụ lao động được trí tuệ hóa, nền kinh tế của nhiều quốc gia phát triển đang trở thành
nền kinh tế tri thức. Đó là nền kinh tế mà trong đó sự sản sinh, phổ cập và sử dụng tri thức
của con người đóng vai trị quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, từ đó tạo ra của cải
vật chất và nâng cao chất lượng cuộc sống con người. Đặc trưng của kinh tế tri thức là cơng
nghệ cao, cơng nghệ thơng tin, trí tuệ nhân tạo được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất và
trong đời sống xã hội. Lực lượng sản xuất phát triển trong mối quan hệ biện chứng với quan
hệ sản xuất
Tóm lại, qua việc phân tích khái niệm và kết cấu của LLSX, ta có thể thấy được tầm
quan trọng của LLSX trong công cuộc xây dựng nền kinh tế định hướng XHCN ở Việt Nam
hiện nay. Đồng thời thấy được sự phát triển của khoa học cũng đóng góp một phần khơng
nhỏ giúp cho nền kinh tế đất nước ngày càng đi lên, hội nhập với quốc tế .
1.1.2. Khái niệm, kết cấu của quan hệ sản xuất

Khái niệm của quan hệ sản xuất:
8

3 Luận văn “VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG
SẢN XUẤT TRONG VIỆC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM”,
Tác giả : Nguyễn Thị Thu Thuỷ , bảo vệ ở Đại học KHXH và NV (ĐHQGHN ) ,trang 15


Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với người trong q
trình sản xuất vật chất. Đây chính là một quan hệ vật chất quan trọng nhất - quan hệ kinh tế,
trong các mối quan hệ vật chất giữa người với người. Q trình sản xuất vật chất chính là
tổng thể các yếu tố trong một quá trình thống nhất, gồm sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu
dùng của cải vật chất4
Ví dụ: Trong sản xuất, mối quan hệ giữa con người với tự nhiên thể hiện thành những
trình độ khác nhau của LLSX. Tuy nhiên, mối quan hệ đó được xây dựng và thông qua
những quan hệ khác nhau giữa người và người, tức là trong QHSX. Mác đã viết “Trong sản

xuất, người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu
khơng kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động
với nhau; Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối quan hệ nhất định với nhau; và
quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất”.5
Kết cấu của quan hệ sản xuất :
Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong
tổ chức quản lý và trao đổi hoạt động với nhau, quan hệ về phân phối sản phẩm lao động.
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc chiếm hữu,
sử dụng các tư liệu sản xuất xã hội. Đây là quan hệ quy định địa vị kinh tế - xã hội của các
tập đoàn người trong sản xuất, từ đó quy định quan hệ quản lý và phân phối. Quan hệ sở hữu
về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, cơ bản, trung tâm của quan hệ sản xuất, ln có vai
trị quyết định các quan hệ khác bởi vì, lực lượng xã hội nào nắm phương tiện vật chất chủ
yếu của quá trình sản xuất thì sẽ quyết định việc quản lý quá trình sản xuất và phân phối sản
phẩm .
Quan hệ về tổ chức và quản lý sản xuất là quan hệ giữa các tập đoàn người trong việc
tổ chức sản xuất và phân cơng lao động. Quan hệ này có vai trị quyết định trực tiếp đến quy
mơ, tốc độ, hiệu quả của nền sản9 xuất; có khả năng đẩy nhanh hoặc kìm hãm sự phát triển

4 Giáo trình triết học MÁC -LENIN (không chuyên ) , trang 134
5 1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.14-15.


của nền sản xuất xã hội. Ngày nay, khoa học tổ chức quản lý sản xuất hiện đại có tầm quan
trọng đặc biệt trong nâng cao hiệu quả quá trình sản xuất.
Quan hệ về phân phối sản phẩm lao động là quan hệ giữa các tập đoàn người trong
việc phân phối sản phẩm lao động xã hội, nói lên cách thức và quy mô của cải vật chất mà
các tập đồn người được hưởng. Quan hệ này có vai trị đặc biệt quan trọng, kích thích trực
tiếp lợi ích con người; là “chất xúc tác” kinh tế thúc đẩy tốc độ, nhịp điệu sản xuất, làm năng
động hóa tồn bộ đời sống kinh tế - xã hội. Hoặc ngược lại, có thể làm trì trệ, kìm hãm q
trình sản xuất.

Các mặt trong quan hệ sản xuất có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại, chi phối,
ảnh hưởng lẫn nhau; trong đó quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất giữ vai trị quyết định bản
chất và tính chất của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất hình thành một cách khách quan, là
quan hệ đầu tiên, cơ bản chủ yếu, quyết định mọi quan hệ xã hội.
Ví dụ: QHSX quy định các quan hệ xã hội khác của con người, nhưng bản thân lại
chịu ảnh hưởng của chúng. Vì vậy, việc thực hiện QHSX phải đi cả bằng con đường xã hội
chứ không phải chỉ đi bằng con đường kinh tế. Chúng ta có thể chứng minh một cách dễ
dàng rằng: quan hệ phân phối không chỉ là quan hệ kinh tế mà nó cịn là quan hệ mang tính
xã hội sâu sắc giữa những con người. Nếu khơng có cơng bằng xã hội trong quan hệ phân
phối thì cũng khơng thể hồn thiện được cả mặt kinh tế của QHSX và do đó cũng khơng thể
hoàn thiện được toàn xã hội 6
* Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
LLSX và QHSX luôn luôn tác động qua lại lẫn nhau để hình thành nên phương thức
sản xuất. Trong mối quan hệ đó, LLSX là yếu tố động, là nội dung quyết định QHSX, còn
QHSX là yếu tố tương đối ổn định, là hình thức biểu hiện và có tác động trở lại LLSX. Sự
tác động lẫn nhau giữa QHSX và10 LLSX biểu hiện mối quan hệ mang tính chất biện chứng.
6 Luận văn “VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG
SẢN XUẤT TRONG VIỆC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM”,
Tác giả : Nguyễn Thị Thu Thuỷ , bảo vệ ở Đại học KHXH và NV (ĐHQGHN ) ,trang 21


Quan hệ này biểu hiện thành quy luật cơ bản nhất của sự vận động của đời sống xã hội - quy
luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.7
1.2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là đòi
hỏi khách quan của nền sản xuất. Lực lượng sản xuất vận động, phát triển khơng ngừng sẽ
mâu thuẫn với tính “đứng im” tương đối của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất từ chỗ là
“hình thức phù hợp”, “tạo địa bàn” phát triển của lực lượng sản xuất trở thành “xiềng xích”
kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đòi hỏi tất yếu của nền sản xuất xã hội là phải
xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển

của lực lượng sản xuất đã phát triển. C. Mác đã nêu tư tưởng về vai trò của sự phát triển lực
lượng sản xuất đối với việc thay đổi các quan hệ xã hội: “Những quan hệ xã hội đều gắn liền
mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do có những lực lượng sản xuất mới, lồi người
thay đổi phương thức sản xuất của mình, và do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm
sống của mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay
bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, các cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư
bản cơng nghiệp”8
1.2.1. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất

Lực lượng sản xuất quyết định sự ra đời của một kiểu quan hệ sản xuất mới trong lịch
sử, quyết định nội dung và tính chất của quan hệ sản xuất. Bằng năng lực nhận thức và thực
tiễn, con người phát hiện và giải quyết mâu thuẫn, thiết lập sự phù hợp mới làm cho quá
trình sản xuất phát triển đạt tới một nấc thang cao hơn.
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất
biện chứng (phụ thuộc, ràng buộc nhau, tác động lẫn nhau) tạo thành quá trình sản xuất hiện
thực của xã hội.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản, tất yếu của q trình sản
xuất, trong đó lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản xuất cịn quan hệ sản
11

xuất là hình thức kinh tế của q trình đó. Trong đời sống hiện thực, khơng thể có sự kết hợp
7 Luận văn “VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG
SẢN XUẤT TRONG VIỆC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM”,
Tác giả : Nguyễn Thị Thu Thuỷ , bảo vệ ở Đại học KHXH và NV (ĐHQGHN ) ,trang 20,21
8 C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.187


các nhân tố của quá trình sản xuất để tạo ra năng lực thực tiễn cải biến các đối tượng vật chất
tự nhiên lại có thể diễn ra bên ngồi những hình thức kinh tế nhất định. Ngược lại, cũng
khơng có một q trình sản xuất nào có thể diễn ra trong đời sống hiện thực chỉ với những

quan hệ sản xuất khơng có nội dung vật chất của nó.
Như vậy, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong tính quy định lẫn nhau,
thống nhất với nhau. Đây là yêu cầu tất yếu, phổ biến diễn ra trong mọi quá trình sản xuất
hiện thực của xã hội. Tương ứng với thực trạng phát triển nhất định của lực lượng sản xuất
cũng tất yếu phải đòi hỏi phải có quan hệ sản xuất phù hợp với thực trạng đó trên cả ba
phương diện: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức - quản lý và phân phối. Chỉ có như vậy, lực
lượng sản xuất mới có thể được duy trì, khai thác - sử dụng và khơng ngừng phát triển.
Ngược lại, lực lượng sản xuất của một xã hội chỉ có thể được duy trì, khai thác - sử dụng và
phát triển trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
1.2.2. Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất

Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là đòi
hỏi khách quan của nền sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất là
một trạng thái trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất và
“tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển. Sự phù hợp bao gồm sự kết hợp đúng
đắn giữa các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất; giữa các yếu tố cấu thành quan hệ sản
xuất; giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất. Sự phù hợp bao gồm cả việc tạo điều
kiện tối ưu cho việc sử dụng và kết hợp giữa người lao động và tư liệu sản xuất; tạo điều
kiện hợp lý cho người lao động sáng tạo trong sản xuất và hưởng thụ thành quả vật chất, tinh
thần của lao động.
Sự tác động của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất diễn ra theo hai chiều
hướng, đó là thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản
xuất phù hợp với lực lượng sản xuất thì nền sản xuất phát triển đúng hướng, quy mơ sản xuất
được mở rộng; những thành tựu khoa học và cơng nghệ được áp dụng nhanh chóng; người
lao động nhiệt tình, hăng hái sản12xuất, lợi ích của người lao động được đảm bảo và thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển. Nếu quan hệ sản xuất không phù hợp sẽ kìm hãm, thậm chí
phá hoại lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, sự kìm hãm đó chỉ diễn ra trong những giới hạn, với
những điều kiện nhất định.



Trạng thái vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất diễn ra là từ phù hợp đến không phù hợp, rồi đến sự phù hợp mới ở trình độ cao
hơn. C. Mác khẳng định: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản
xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có... trong đó từ trước
đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực
lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất.
Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”9
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ có bao hàm
khả năng chuyển hóa thành các mặt đối lập làm phát sinh mâu thuẫn cần giải quyết để thúc
đẩy sự tiếp tục phát triển của lực lượng sản xuất .
Trong phạm vi tương đối ổn định của một hình thức kinh tế xác định , lực lượng sản
xuất của xã hội được bảo tồn , không ngừng được khai thác -sử dụng và phát triển trong quá
trình sản xuất và tái sản xuất của xã hội.
Tính ổn định, phù hợp của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất càng cao thì
lực lượng sản xuất càng có khả năng phát triển ,nhưng chính sự phát triển của lực lượng sản
xuất lại luôn luôn tạo ra khả năng phá vỡ sự thống nhất của những quan hệ sản xuất từ trước
đến nay đóng vai trị là hình thức kinh tế cho sự phát triển của nó. Những quan hệ sản xuất
này, từ chỗ là những hình thức phù hợp và cần thiết cho sự phát triển của các lực lượng sản
xuất đã trở thành những hình thức kì hãm cho sự phát triển đó, nó đã tạo ra một mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ,từ đó xuất hiện nhu cầu khách quan phải thiết
lập lại mối quan hệ thống nhất giữa chúng theo nguyên tắc quan hệ sản xuất phải phù hợp
với nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất .
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất vẫn
luôn là điều kiện tất yếu cho sự phát triển kinh tế - xã hội. “Khi nghiên cứu về xã hội loài
người, C. Mác khẳng định mọi sự thay đổi của đời sống xã hội, xét đến cùng, đều bắt nguồn
từ sự biến đổi của lực lượng sản 13
xuất. Trong bối cảnh tồn cầu hóa và cuộc Cách mạng cơng
nghiệp lần thứ tư hiện nay, trình độ của lực lượng sản xuất đã có những bước phát triển nhảy
vọt so với trước kia. Sự phát triển đó cung cấp thêm cho chúng ta những chứng cứ thực tiễn

9 C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.15.


thuyết phục để tiếp tục khẳng định quan điểm đúng đắn của C. Mác về lực lượng sản xuất,
đồng thời cũng đặt ra yêu cầu cần phải bổ sung, phát triển quan điểm của C. Mác về vấn đề
này cho phù hợp với thực tiễn.”10
1.3.1. Muốn phát triển kinh tế phải tuân theo nguyên tắc khách quan, phải bắt đầu từ
phát triển lực lượng sản xuất
Phát triển kinh tế là quá trình lớn lên, tăng tiến mọi mặt của nền kinh tế. Nó bao gồm
sự tăng trưởng kinh tế và đồng thời có sự hồn chỉnh về mặt cơ cấu, thể chế kinh tế, chất
lượng cuộc sống và công bằng xã hội
Tuân theo nguyên tắc khách quan là phải xem xét sự vật, hiện tượng như chính sự tồn
tại của nó, khơng bị những tếu tố chủ quan chi phối để nhận thức sai lệch, tô hồng hay bôi
đen cho sự vật, cần phải có phương pháp nhận thức thức khoa học và tuân thủ theo các
nguyên tắc phương pháp luận trong triết học.
Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực thực tiễn dùng trong sản xuất của xã
hội ở các thời kỳ nhất định, lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất và sức lao động mà
người ta dùng cho sản xuất. Tư liệu sản xuất bao gồm công cụ lao động và đối tượng lao
động. Trong đó, trình độ phát triển của cơng cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự
nhiên của con người, là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử.
VD: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất diễn ra ở nước Anh sau đó lan ra tồn
thế giới từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Trong thời kỳ này, nền kinh tế giản đơn, quy mô
nhỏ, dựa trên lao động chân tay được thay thế bằng chế tạo máy móc quy mô lớn. Tác động
của cách mạng công nghiệp là vô cùng sâu rộng. Không chỉ làm thay đổi đời sống con
người, các cuộc cách mạng cơng nghiệp cịn dẫn tới sự thay đổi tồn diện hình thái kinh tế –
xã hội.
Qua đó ta thấy được tầm quan trọng của lực lượng sản xuất trong quá trình phát triển
kinh tế.

14


10 TS. Lê Thị Chiên(2021), Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai
đoạn hiện nay. Truy cập từ Muốn xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới phải căn cứ vào trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.


1.3.2. Muốn xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới phải căn cứ vào trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Quan hệ sản xuất là một khái niệm được Karl Marx và Friedrich Engels sử dụng
trong lý thuyết của họ về chủ nghĩa duy vật lịch sử để chỉ mối quan hệ giữa người với người
trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Đây là một trong những biểu hiện
của quan hệ xã hội, giữ vai trò xuyên suốt trong quan hệ xã hội vì quan hệ sản xuất là quan
hệ đầu tiên, quyết định những quan hệ khác.11
Trong mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thì lực lượng sản xuất
đóng vai trị quyết định sự hình thành, phát triển và biến đổi của quan hệ sản xuất. Và chỉ
làm biến đổi cục bộ chứ khơng thể thay đổi tồn diện. Lực lượng sản xuất được xem là nội
dung của quá trình sản xuất có xu hướng phát triển và biến đổi thường xun, cịn quan hệ
sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất có yếu tố tương đối ổn định và bảo thủ, khi nội
dung thay đổi làm hình thức thay đổi theo. Sự phù hợp giữa chúng tạo động lực giúp cho sản
xuất phát triển cân đối, có hiệu quả giữa các yếu tố, làm tăng năng suất lao động đồng thời
giảm chi phí và thời gian sản xuất
Ví dụ: Sau kháng chiến thắng lợi, nước ta phải đối mặt với rất nhiều khó khăn trong
kinh tế, nước ta là Nước nông nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu, lực lượng sản xuất thấp kém, con
trâu đi trước cái cày đi sau, trình độ quản lý thấp cùng với nền sản xuất nhỏ tự cấp, tự túc là
chủ yếu. Mặt khác Nước ta là nước thuộc địa nửa phong kiến lại phải trải qua hai cuộc chiến
tranh, nhiều năm bị đế quốc Mỹ bao vây cấm vận nhiều mặt, nhất là về kinh tế.
Do vậy lực lượng sản xuất chưa có điều kiện phát triển. Sau khi giành được chính
quyền, trước yêu cầu xây dựng CNXH trong điều kiện nền kinh tế kém phát triển, Nhà nước
ta đã dùng sức mạnh chí trị tư tưởng để xóa bỏ nhanh chế độ tư hữu, chuyển sang chế độ

công hữu với hai hình thức tồn dân và tập thể, lúc đó được coi là điều kiện chủ yếu, quyết
định, tính chất, trình độ xã hội hóa sản xuất cũng như sự thắng lợi của CNXH ở nước ta.
Song trong thực tế cách làm này đã không mang lại kết quả như mong muốn.
Thứ nhất: Đối với những người sản xuất nhỏ thì tư hữu về tư liệu sản xuất là phương
15

thức kết hợp tốt nhất giữa sức lao động và tư liệu sản xuất. Việc tiến hành tập thể nhanh
chóng tư liệu sản xuất dưới hình thức cá nhân bị tập trung dưới hình thức sở hữu cơng cộng,
11 Wikipedia – Quan hê sản xuất. Truy cập từ />%A5t


người lao động bị tách khỏi tư liệu sản xuất, khơng làm chủ được q trình sản xuất, phụ
thuộc vào lãnh đạo Hợp tác xã, họ cũng không phải là chủ thể sở hữu thực sự dấn đến tư liệu
sản xuất trở thành vô chủ, gây thiệt hại cho tập thể.
Thứ hai: Kinh tế quốc doanh thiết lập tràn lan trong tất cả các ngành. Về pháp lý tư
liệu sản xuất cũng thuộc sở hữu toàn dân, người lao động là chủ sở hữu có quyền sở hữu chi
phối, định đoạt tư liệu sản xuất và sản phẩm làm ra nhưng thực tế thì người lao động chỉ là
người làm công ăn lương, chế độ lương lại không hợp lý không phản ánh đúng số lượng và
chất lượng lao động của từng cá nhân đã đóng góp. Do đó chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất cùng với ông chủ của nó trở thành hình thức, vơ chủ, chính quyền là đại diện của chủ sở
hữu là người có quyền chi phối, đơn vị kinh tế mất dần tính chủ động, sáng tạo, mất động
lực lợi ích, sản xuất kinh doanh kém hiệu quả nhưng lại không ai chịu trách nhiệm, khơng có
cơ chế ràng buộc trách nhiệm, nên người lao động thờ ơ với kết quả hoạt động của mình.
1.3.3. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy
luật cơ bản của mọi nền kinh tế

Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được xem là hai mặt của phương thức sản
xuất, giữa chúng tồn tại mối quan hệ biện chứng chặt chẽ với nhau. Chúng phụ thuộc và tác
động lẫn nhau tạo thành quy luật xã hội cơ bản của lịch sử loài người. Quy luật thể hiện
động lực và xu thế phát triển của lịchsử

Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành biến đổi của quan hệ sản xuất: lực lượng
sản xuất là cái biến đổi đầu tiên và luôn biến đổi trong sản xuất con người muốn giảm nhẹ
lao động nặng nhọc tạo ra năng suất cao phải ln tìm cách cải tiến công cụ lao động. Chế
tạo ra công cụ lao động mới. Lực lượng lao động quy định sự hình thành và biến đổi quan hệ
sản xuất ki quan hệ sản xuất khơng thích ứng với trình độ, tính chất của lực lượng sản xuất
thì nó kìm hãm thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất thì nó kìm hãm thậm chí phá hoại lực
lượng sản xuất và ngược lại.
Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất
khi đã được xác lập thì nó độc lập16 tương đối với lực lượng sản xuất và trở thành những cơ sở
và những thể chế xã hội và nó khơng thể biến đổi đồng thời đối với lực lượng sản xuất.
Thường lạc hậu so với lực lượng sản xuất và nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ sản
xuất, tính chất của lực lượng sản xuất thì nó thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.


Nếu lạc hậu so với lực lượng sản xuất dù tạm thời thì nó kìm hãm sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng
sản xuất vì nó quy định mục đích của sản xuất quy định hệ thống tổ chức quản lý sản xuất và
quản lý xã hội, quy định phương thức phân phối và phần của cải ít hay nhiều mà người lao
động được hưởng. Do đó nó ảnh hưởng tới thái độ tất cả quần chúng lao động. Nó tạo ra
những điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế sự phát triển công cụ sản xuất, áp dụng thành
tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất hợp tác phân công lao động quốc tế.
Ví dụ : Nhà nước ta đã biết áp dụng đúng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với sự
phát triển của lực lượng sản xuất đã đem lại nhiều tín hiệu tích cực cho nền kinh tế nước
nhà, đó là sự tăng nhanh về năng suất, chất lượng sản phẩm, khiến cho Tổng sản phẩm trong
nước mỗi năm tăng cao, Việt Nam từ một nước thiếu ăn với nền kinh tế chậm phát triển đã
vươn lên thành một nước xuất khẩu lương thực hàng đầu thế giới cũng như là một nước có
nền kinh tế đang phát triển.
Các quan hệ sản xuất ở trình độ khác nhau được thiết lập đa dạng hóa các hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế đã từng bước tạo nên sự phù hợp với trình độ phát triển
khơng đồng đều về mọi yếu tố trong kết cấu của lực lượng sản xuất.


Tiểu kết chương 1
Tóm lại qua chương 1 ta đã trình bày , phân tích rõ về các cơ sở lí luận và thực tiễn
của việc vận dụng quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong việc đề ra
và phát triển nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay với những nội
dung chủ yếu sau :
Thứ nhất, làm rõ nội dung của quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của
LLSX trong các quy luật phát triển của xã hội . Không những thế quy luật QHSX phù hợp
với trình độ phát triển của LLSX.17
Thứ hai, chỉ ra vai trò của quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX
đối với việc xây dựng và chỉ đạo đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta.


Thứ ba, chỉ ra sự vận dụng quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX
của Đảng ta trước khi đổi mới (1986) là chưa tuân thủ và tôn trọng quy luật khách quan, áp
dụng quy luật một cách chủ quan, duy ý chí, rập khn, máy móc vào điều kiện cụ thể của
nước ta.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ dựa trên cơ sở phân tích tình hình thực tế,
đánh giá đúng những thành tựu đã đạt được, những tồn tại khuyết điểm cùng nguyên nhân
của nó, Đảng đã đề ra đường lối đổi mới tư duy mà trước hết là tư duy kinh tế - xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.

18


Chương 2
VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ
QUAN HỆ SẢN XUẤT VÀO VIỆC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Tính tất yếu và nội dung của việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà ở đó tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại
hình sở hữu khác nhau cùng tham gia, cùng vận động và phát triển trên cơ sở cạnh tranh,
bình đẳng và ổn định. Kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế vận hành theo các
quy luật của thị trường đồng thời góp phần hướng tới từng bước xác lập một xã hội mà ở đó
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh, có sự điều tiết của Nhà nước do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Có thể nói, việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta hiện nay mang tính tất yếu khách quan.
Thứ nhất, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là phù hợp với quy luật
phát triển khách quan. Kinh tế thị trường bản chất là giai đoạn phát triển cao của kinh tế
hàng hóa. Việt Nam đã sẵn có những điều kiện cho sự hình thành và phát triển của kinh tế
hàng hóa, như thị trường cung – cầu, thị trường lao động, vị trí địa lý và tài nguyên thiên
nhiên,... Với nền tảng kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, sự hình thành kinh tế thị trường là
một vấn đề tất yếu. Như vậy, sự lựa chọn mơ hình kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
Việt Nam là phù hợp với xu thế của thời đại và quá trình phát triển của dân tộc.
Thứ hai, kinh tế thị trường mang rất nhiều ưu việt, là động lực quan trọng thúc đẩy
sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Kinh tế thị trường là một thành tựu phát triển văn
minh của nhân loại trong sản xuất và trao đổi sản phẩm. Kinh tế thị trường, dưới tác động
của quy luật cung cầu và quy luật
19 cạnh tranh, là phương thức phân bổ nguồn lực một cách
hiệu quả. Là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh và hiệu quả cao, giúp
nền kinh tế luôn phát triển theo hướng năng động, kích thích những tiến bộ khoa học kĩ
thuật, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và hạ giá thành sản phẩm. Chẳng


hạn, đối với sản xuất Laptop (máy tính xách tay), với tác động của cơ chế thị trường, các
công ty sản xuất Laptop phải liên tục cải tiến mẫu mã, đổi mới công nghệ nhằm nâng cao
năng suất và chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh với các cơng ty đối thủ. Từ đó,
lượng sản phẩm được tạo ra rất đa dạng, phong phú và chất lượng ngày càng tốt hơn, góp

phần phát triển vượt bậc kinh tế nước nhà khi so sánh với mơ hình phát triển kinh tế tập
trung bao cấp đã kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội nước ta giai đoạn những năm 1975 –
1986. Vì vậy, có thể nói kinh tế thị trường mang nhiều ưu việt và là công cụ để thúc đẩy lực
lượng sản xuất, thực hiện mục tiêu XHCN.
Thứ ba, mơ hình kinh tế thị trường định hướng XHCN phù hợp với nguyện vọng của
nhân dân mong muốn một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Sự
tồn tại của kinh tế thị trường ở nước ta tạo ra một động lực quan trọng cho sự phát triển của
lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho XHCN, là bước quá độ để đi đến
XHCN. Với đặc điểm lịch sử của dân tộc, Nhà nước Việt Nam được hình thành từ cuộc cách
mạng do giai cấp vô sản thực hiện, là một Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Do đó, nước
ta khơng thể lựa chọn mơ hình kinh tế thị trường TBCN mà chỉ có lựa chọn mơ hình kinh tế
thị trường định hướng XHCN mới phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân dân về một
xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh – một đặc trưng XHCN mà nước
ta muốn hướng đến.
2.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa
Ở Việt Nam, tư tưởng phát triển kinh tế thị trường trong xây dựng XHCN bắt đầu
được thể hiện chính thức trong Văn kiện Đại hội VI của Đảng, khi Đảng thừa nhận có sản
xuất hàng hóa trong CNXH, ‘‘phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành
phần đi lên chủ nghĩa xã hội, coi chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược
lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH’’.
Qua các kỳ Đại hội VII và VIII, vai trò khách quan của kinh tế thị trường từng bước
được nhận thức rõ hơn. Tại đại hội
20 VII, lần đầu tiên Đảng đưa ra khái niệm ‘‘định hướng xã
hội chủ nghĩa’’ để nhấn mạnh đặc trưng của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị tường ở
Việt Nam trong thời kỳ quá độ. Tiếp tục đường lối trên, Đại hội VIII của Đảng (tháng
6/1996) đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh cơng cuộc đổi mới tồn diện và đồng bộ, tiếp tục phát


triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà

nước theo định hướng XHCN. Tại Đại hội VIII, Đảng nêu rõ: ‘‘Vận dụng các hình thức kinh
tế thị trường là để sử dụng mặt tích cực của nó phụ vụ mục đích xây dựng CNXH chứ khơng
đi theo con đường TBCN’’. Đánh giá về cơ chế thị trường, văn kiện đại hội VIII chỉ rõ: ‘‘Cơ
chế thị trường đã phát huy tác dụng to lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Nó chẳng những
khơng đối lập mà còn là một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây dựng và phát triển
đất nước theo con đường XHCN’’.
Đến năm 2001, khái niệm “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” được
khẳng định và công nhận là mơ hình kinh tế tổng qt trong suốt thời kỳ quá độ ở nước ta tại
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Đây là kết quả của quá trình 15 năm đổi mới tư duy và
thực tiễn ở Việt Nam, được đúc kết và cải tiến qua các bài học lớn từ thực tiễn các kỳ Đại
hội Đảng trước đây, đặc biệt là Đại hội VII, VIII. Đại hội IX khẳng định phát triển kinh tế thị
trường định hướng XHCN là đường lối chiến lược nhất quán, ‘‘là mơ hình kinh tế tổng qt
của nước ra trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH’’.
Tại Đại hội X, trên sơ sở tổng kết 20 năm đổi mới (1986-2006), Đảng khẳng định:
‘‘Để đi lên CNXH, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa,... chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế’’. Đại
hội X cũng nêu rõ những yêu cầu cần thực hiện để nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý nhà
nước, phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị tường cơ bản theo
cơ chế cạnh tranh lạnh mạnh, phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất
kinh doanh. Năm thành phần kinh tế gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân,
kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi đã được xác lập trong nền kinh
tế nước ta. Vị trí, vai trị của từng thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân đã được
nhận thức rõ ràng và xác định cụ thể. Đại hội Đảng lần thứ X đã khẳng định hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng XHCN là một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách để phát
huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới.
Đến Đại hội XI của Đảng21(năm 2011) đã phát triển và hoàn thiện thêm một bước đặc
trưng kinh tế của XHCN, giữ vững định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường. Theo Văn
kiện Đại hội XI, Đảng đã làm rõ mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN:
“Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành



phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản. Đây là một hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật của
kinh tế thị trường, vừa dựa trên những cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và
bản chất của CHXH’’ và xác định: “Nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế
hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng
trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước
giữ vai trị chủ đạo. Kinh tế tập thể khơng ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà
nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước
ngồi được khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình
thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển”.
Trên cơ sở kế thừa nhận thức từ các Đại hội trước, Đại hội XII của Đảng đã có những
bổ sung đáng kể, tồn diện và cụ thể các thành phần cấu thành nền kinh tế, thể hiện bước
tiến trong nhận thức lý luận của Đảng về mơ hình kinh tế Việt Nam. Văn kiện Đại hội XII
của Đảng nêu rõ: “Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế vận
hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định
hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị
trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế có nhiều
hình thức sở hữu nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo,
kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; thị trường đóng vai trị chủ yếu
trong phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức
sản xuất. Các nguồn lực nhà nước được phân bố theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù
hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trị định hướng và hồn thiện thể chế kinh tế,
tạo mơi trường cạnh tranh bình đẳng,
minh bạch và lành mạnh; sử dụng các cơng cụ, chính
22

sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng, điều tiết nền kinh tế; thực tiễn tiến bộ
và công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển’’. Theo đó, định hướng
XHCN thể hiện ở năm điểm: Có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN; với sự lãnh


đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong việc phát
triển kinh tế - xã hội; xác lập quan hệ sản xuất tiến bộ, thúc đẩy phát triển mạnh lực lượng
sản xuất; thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã hội trong chính sách phát triển… Đại hội XII của
Đảng đã nêu phương hướng hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN trong nhiệm kỳ tới và chỉ rõ: “Đến 2020, phấn đấu cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ
thống thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền
kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; đảm bảo đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể
chế chính trị, giữa Nhà nước và thị trường; bảo đảm sự hài hòa giữa phát triển kinh tế với
phát triển văn hóa, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã hội, đảm bảo an
sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững.”
Sau hơn 30 năm đổi mới, sáng tạo và hồn thiện khơng ngừng nghỉ, nhận thức của
Đảng về kinh tế thị trường định hướng XHCN đã có những phát triển đáng kể. Các vấn đề
về bản chất và phương hướng phát triển của kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở
Việt Nam đã được xác định rõ ràng và triển khai một cách hợp lí.
2.3. Đánh giá thực trạng việc vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất ở Việt Nam hiện nay
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất quy định sự vận
động, phát triển của các phương thức sản xuất trong lịch sử. Lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất là hai mặt của một phương thức sản xuất có tác động biện chứng, trong đó lực
lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, còn quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực
lượng sản xuất. C.Mác viết: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có
những quan hệ nhất định, tất yếu, khơng phụ thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ
sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng
sản xuất vật chất của họ”.
Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì thúc

đẩy lực lượng sản xuất phát triển, ngược lại, nếu khơng phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Đây là quy
23 luật cơ bản nhất của sự vận động và phát triển xã hội. Sự
tác động của nó trong lịch sử làm cho xã hội chuyển từ hình thái kinh tế xã hội thấp lên hình
thái kinh tế xã hội cao hơn.


2.3.1 Những kết quả đạt được và nguyên nhân

Nhận thức được sai lầm trong thời kỳ trước, Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã
thẳng thắn thừa nhận khuyết điểm, chủ trương Đổi mới phương thức quản lý kinh tế và cho
đến nay đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Dân số trung bình năm 2008 ước tính 86,16 triệu
người, bao gồm nam 42,35 triệu người, chiếm 49,1% tổng dân số; nữ 43,81 triệu người,
chiếm 50,9%. Trong tổng dân số cả nước, dân số khu vực thành thị là 24 triệu người, tăng
2,85% so với năm trước, chiếm 27,9% tổng dân số; dân số khu vực nông thôn là 62,1 triệu
người, tăng 0,55% và chiếm 72,1%. Tổng số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế
năm 2008 ước tính 45 triệu người, tăng 2% so với năm 2007, trong đó lao động khu vực nhà
nước 4,1 triệu người, tăng 2,5%, lao động ngoài nhà nước 39,1 triệu người, tăng 1,2%, lao
động khu vực đầu tư nước ngoài 1,8 triệu người, tăng 18,9%. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động
trong độ tuổi khu vực thành thị ước tính 4,65%. (trích Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý
IV và năm 2008).
Thứ nhất, năm 2008, nước ta có 160 trường đại học, 209 trường cao đẳng và 275
trường trung cấp chuyên nghiệp, đáp ứng được phần nào nhu cầu đào tạo lao động cho đất
nước.
Thứ hai, Máy móc và các trang thiết bị hiện đại ngày càng được sử dụng rộng rãi
trong các ngành kinh tế. Trong nông nghiệp là máy cày, máy bừa,…các giống cây trồng mới
cũng được tìm ra và phổ biến. Trong cơng nghiệp, kỹ thuật hạt nhân bắt đầu phát triển, đẩy
mạnh sản xuất.
Thứ ba, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đa dạng các mối quan hệ xã hội đã bước
đầu vận dụng đúng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản

xuất và được đạt nhiều thành tựu đáng kể. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng GDP của nước ta là
8,4 %, cao nhất khu vực Đông Nam Á. Trong bối cảnh nhiều nước rơi vào khủng hoảng thì
vốn đầu tư nước ngồi vào Việt Nam vẫn cao,cụ thể là 45 tỷ USD vốn FDI từ 2005-2010,
GDP trên người khoảng 1168 USD/người/năm.
24

Nguyên nhân của những thành tựu:
Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức kinh doanh đa dạng, phát


huy mọi năng lực sản xuất, mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, các quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa, quan hệ sản xuất tư bản, manh mún của quan hệ sản xuất phong kiến được
công nhận.
Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát huy cao độ nội lực, tranh thủ ngoại lực,
tiếp thu những thành tựu về khoa học - công nghệ, về kinh tế tri thức, văn minh của thế giới;
kinh nghiệm quốc tế... để phát triển, hiện đại hóa lực lượng sản xuất và củng cố, hoàn thiện
quan hệ sản xuất mới. Trong những năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ
trương, chính sách, biện pháp để tăng cường, mở rộng hợp tác quốc tế, tham gia các quan hệ
song phương và tổ chức đa phương, như ASEAN, APEC, ASEM, WTO..., thu hút mạnh mẽ
vốn đầu tư nước ngoài (FDI, ODA...), xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, mở rộng thị
trường xuất nhập khẩu, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn,
khoa học - cơng nghệ, trình độ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Việt Nam đã thiết lập quan
hệ ngoại giao với 187 nước, quan hệ kinh tế thương mại và đầu tư với hơn 220 quốc gia và
vùng lãnh thổ, ký trên 90 hiệp định thương mại, đầu tư….
2.3.2 Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế

Thứ nhất, thị trường lao động vẫn bị phân mảng, tồn tại tình trạng mất cân đối giữa
cung và cầu lao động, nhất là thiếu thợ”. Nền kinh tế đang thiếu đi nguồn nhân lực có tay
nghề, chất lượng nhân lực của Việt Nam còn thấp so với các nước lân cận.

Thứ hai, nhìn chung so với nhiều quốc gia trên thế giới thì tư liệu sản xuất nước ta
còn nghèo nàn, chậm cải tiến, hiệu quả chưa thật sự cao và cịn phân hóa giữa các vùng
trong cả nước.
Thứ ba, Mặc dù đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nước có thu
nhập trung bình thấp, song thực chất vẫn là nước nghèo, kinh tế còn lạc hậu, nguy cơ tụt hậu
xa hơn về kinh tế so với thế giới và khu vực ngày càng lớn.
Thứ tư, Vẫn còn xu hướng nặng về thay đổi chế độ sở hữu hơn là cải tiến, đổi mới
25

quan hệ quản lý và quan hệ phân phối sản phẩm.
Nguyên nhân của những hạn chế:


×