Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Tiểu luận cao học LS TTCT phật giáo và sự du nhập phật giáo vào việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.38 KB, 31 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................4
CHƯƠNG I SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO........4
1.1. Nguồn gốc ra đời........................................................................................4
1.2. Sự phát triển của Phật giáo.........................................................................5
CHƯƠNG II TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA PHẬT GIÁO...........................8
2.1. Tư tưởng Nhân quả.....................................................................................8
2.2. Tư tưởng Luân hồi....................................................................................10
CHƯƠNG III SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT
GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA- TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT.....15
3.1. Những ảnh hưởng tích cực của tư tưởng triết học Phật giáo đến xã hội và
con người Việt Nam........................................................................................15
3.2. Ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng triết học Phật giáo...............................24
KẾT LUẬN....................................................................................................28
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................30


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đạo Phật là một trong những học thuyết Triết học - tôn giáo lớn
nhất trên thế giới, tồn tại rất lâu đời. Hệ thống giáo lý của nó rất đồ sộ và
số lượng phật tử đông đảo được phân bố rộng khắp. Đạo phật được truyền
bá vào nước ta khoảng thế kỷ II sau Cơng ngun và đã nhanh chóng trở
thành một tơn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của con
người Việt Nam, bên cạnh đó đạo Nho, đạo Lão, đạo Thiên chúa. Tùy
từng giai đoạn lịch sử dân tộc ta đều có một học thuyết tư tưởng hoặc một
tơn giáo nắm vai trị chủ đạo, có tác động mạnh nhất đến nếp sống, thói
quen, suy nghĩ của con người, như Phật giáo ở thế kỷ thứ X - XIV, Nho
giáo thế kỷ thứ XV - XIX, học thuyết Mác - Lênin từ giữa thập kỷ 40 của
thế kỷ XX cho đến nay. Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên


Chủ Nghĩa Xã Hội (CNXH), chủ nghĩa Mác - Lênin là tư tưởng chủ đạo,
là vũ khí lý luận của chúng ta nhưng bên cạnh đó, bộ phận kiến trúc
thượng tầng của xã hội cũ vẫn có sức sống dai dẳng, trong đó giáo lý nhà
Phật đã ít nhiều in sâu vào tư tưởng tình cảm của một số bộ phận lớn dân
cư Việt Nam. Khi đề cập đến sự tín ngưỡng tâm linh của người Việt thì
khơng thể khơng nói đến Phật giáo. Đa phần người dân Việt Nam điều tơn
sùng đạo phật. vì lẽ đó mà Phật giáp trở thành quốc đạo ở các thời Đinh,
Lý, Trần… hiện nay Phật giáo giữ vai trò quan trọng trong công cuộc đổi
mới và phát triển đất nước. đảng và nhà nước ta đã công nhận những
thành quả tốt đẹp và những cống hiến to lớn của Phật giáo Việt Nam cho
toàn dân, toàn xã hội và đang khuyến khích phát huy những giá trị tốt đẹp
ấy. Trong cuộc sống hằng ngày chúng ta gặp biết bao áp lực, trở ngại của
cuộc sống cũng như hiểm họa thiên tai từ thiên nhiên… nếu tâm hồn
chúng ta khơng có nơi nào để giải tỏa, để nương tựa để tin tưởng thì có lẽ
khơng một ai có thể vượt qua. phật giáo như là chỗ vựa tinh thần vững
chắc mỗi người Việt, như là người mẹ hiền, là cho những người con lầm
1


lỡ, là ánh sáng, là sự sống cho người chết và là trái tim lương thiện trong
mỗi con người. Vậy Phật giáo do ai sáng lập, khi nào, ở đâu, giá trị của nó
là gì. Phật giáo Việt Nam hình thành và phát triển như thế nào. Để trả lời
những câu hỏi này thì việc nghiên cứu “Phật giáo và sự du nhập Phật giáo
vào Việt Nam” là một điều vô cùng cần thiết, để giúp cho chúng ta biết
được triết lý Phật giáo và vận dụng lý tưởng Phật giáo vào cuộc sống
hàng ngày.
Việc xóa bỏ hồn tồn ảnh hưởng của nó là khơng thể thực hiện
được nên chúng ta cần vận dụng nó một cách hợp lý để góp phần đạt được
mục đích của thời kỳ q độ cũng như sau này. Vi vậy, việc nghiên cứu
lịch sử, giáo lý, và sự tác động của đạo Phật nói chung và tư tưởng triết

học của Phật giáo nói riêng đối với thế giới quan, nhân sinh quan của con
người là hết sức cần thiết. Theo đạo để làm điều thiện, tránh cái ác, hình
thành nhân cách con người tốt hơn chứ khơng trở nên mê tín dị đoan,
cúng bái, lên đồng, gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ, niềm tin của quần
chúng nhân dân. Chính vì vậy, chúng ta cùng tìm hiểu Tư tưởng triết học
của Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần của
người Việt.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích nghiên cứu
Làm rõ tư tưởng Phật giáo, qua đó chỉ rõ sự ảnh hưởng của Phật
giáo tới đời sống xã hội Việt Nam hiện nay.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, cần làm tốt các nhiệm vụ
sau:
- Làm rõ sự hình thành và phát triển của Phật giáo
- Làm rõ những nội dung tư tưởng triết học của Phật giáo
- Chỉ ra những ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo tới đời sống xã
hội Việt Nam hiện nay.


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu tư tưởng của Phật giáo.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Tư tưởng Phật giáo hiện nay
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1 Cơ sở lý luận
Dựa trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác- Leenin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về

tơn giáo, chính sách tơn giáo nói chung và chính sách tơn giáo ở Việt Nam
nói riêng.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Sử dựng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát
hóa- hệ thống hóa, quy nạp- diễn dịch, logic, lịch sử,...
5. Kết cấu đề tài
Tiểu luận gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Sự hình thành và phát triển của Phật giáo
Chương 2: Tư tưởng triết học của Phật giáo
Chương 3: Sự ảnh hưởng của tư tưởng triết học Phật giáo đến đời
sống văn hóa, tinh thần của người Việt


NỘI DUNG
CHƯƠNG I
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO
1.1. Nguồn gốc ra đời
Theo truyền thuyết, người sáng lập Phật giáo là thái tử Tất Đạt Đa
(Siddharta Gautama) con vua Tịnh Phạn, một nước nhỏ thuộc Bắc Ấn Độ
(ngày nay thuộc Nêpan) vào khoảng thế kỉ VI tr.CN. Thái tử có một thời
niên thiếu cao sang sống trong nhung lụa, kết hơn với cơng chúa Da-duđà-la (Yasodhara), và có một người con trai là La-hầu-la (Rahula). Một
lần nọ, khi dạo chơi trên đường phố, Ngài thấy được bốn cảnh vật làm
thay đổi tư duy của mình. Ngài thấy một một cụ già run rẩy, một người
bệnh rên siết, và một tử thi sình thối. Ba cảnh nầy khiến Ngài suy nghĩ rất
nhiều và quyết tâm tìm một phương cách để giúp nhân loại và để tìm một
ý nghĩa chân thật của đời sống. Cảnh vật thứ tư là cảnh của một vị du tăng
bình an tĩnh lặng đã khiến cho Ngài có một niềm hy vọng là đó có thể là
một con đường để tìm ra Chân lý, thốt khỏi hoạn khổ. Vốn khơng thích
làm vua, năm 29 tuổi, Tất Đạt Đa rời bỏ hoàng cung theo các nhà tư
tưởng học tập, gia nhập đời sống của một đạo sĩ khất thực trong 6 năm, đi

tìm con đường diệt khổ. Vào đêm trăng rằm tháng Tư, khi ngồi thiền dưới
cội cây Bồ đề ở Gaya, Ngài tìm được lời giải đáp và giác ngộ. Lúc đó,
Ngài được 35 tuổi, lấy hiệu là Buddha (phiên âm tiếng Việt là Bụt, Hán
Việt là Phật đà, gọi tắt là Phật, có nghĩa là giác ngộ). Sáng tạo ra giáo lý
đạo Phật, Ngài đi đến Sa-nặc (Sarnath) gần thành phố Ba-na-lại (Benares)
và thuyết giảng bài pháp đầu tiên - Chuyển Pháp Luân - tại khu vườn nai
(Lộc Uyển). Trong 45 năm tiếp theo, Ngài thu nhận đồ đệ và đi chu du
khắp đất nước Ấn Độ để truyền bá học thuyết của mình, giảng dạy về con
đường giác ngộ cho những ai hữu duyên và sẵn 2 sàng tu học, và Ngài
thành lập một giáo đoàn các vị tỳ kheo (nam tu sĩ) và tỳ kheo ni (nữ tu sĩ)
thường được gọi là Tăng đồn (Sangha). Trong suốt cuộc đời hoằng hóa,


dù phải đối phó với nhiều trở ngại, Đức Phật lúc nào cũng giữ một phong
thái an nhiên tự tại, và ngay cả trong giờ phút lâm chung, Ngài vẫn bình
thản cho dù thân xác đã suy yếu. Ngay trong giờ phút cuối cùng đó, Ngài
vẫn tiếp tục giảng dạy và khuyên bảo các đệ tử để họ tiếp tục tu tập theo
giáo pháp của Ngài: "Này các tỳ kheo, Như Lai khuyên quý vị rằng mọi
pháp hữu vi đều vô thường, quý vị hãy tinh tấn với chánh niệm". Đó là
những lời cuối cùng của đức Phật, và Ngài nhập diệt vào năm 80 tuổi,
trong năm 543 trước Công Nguyên. Sau khi Phật qua đời, các đồ đệ tổ
chức Hội nghị kết tập để tổng kết, ghi lại những lời Phật dạy. Khoảng 100
năm sau, Hội nghị kết tập lần thứ hai được tổ chức để hoàn thiện kinh
Phật.
1.2. Sự phát triển của Phật giáo
Sau khi Buddha qua đời, đạo Phật chia thành hai giáo phái: Thượng
tọa bộ (Theravada) gồm các tu sĩ già có khuynh hướng bảo thủ và Đại
chúng bộ (Mahasanghika) gồm các tu sĩ trẻ có khuynh hướng cải cách
việc tu luyện để thu hút được nhiều tín đồ hơn. Về sau từ hai bộ lớn này
Phật giáo tiếp tục phân chia thành 18 tông phái nhỏ. Đầu Công nguyên,

trong Phật giáo xuất hiện giáo phái Đại thừa (Mahayana: cỗ xe lớn) chủ
trương đại chúng hóa đạo Phật để thu hút được đông đảo quần chúng, đối
lập với phái nguyên thủy Theravada chủ trương duy trì việc tu luyện với
những luật lệ khắt khe nên ít người có thể theo được gọi là phái Tiểu thừa
(Hinayana: cỗ xe nhỏ). Phật giáo Đại thừa thịnh hành ở Tây Tạng, Mông
Cổ, Trung Hoa, Triều Tiên và Nhật Bản. Trong khi đó, Phật giáo Tiểu
thừa được lưu truyền rộng rãi ở Sri Lanka, Mianma, Thái Lan, Lào và
Campuchia. Riêng Việt Nam, cả hai giáo phái lớn này đều có mặt từ rất
sớm. Giáo phái Đại thừa có một truyền thống lâu đời và 3 đã có mặt tại
Việt Nam do các tu sĩ Ấn Độ truyền sang vào cuối thế kỉ thứ II. Giáo phái
nguyên thủy Theravada cũng có mặt tại vùng đất này qua nhiều thế kỉ


trong các cộng đồng người Khơme tại Nam Bộ và được truyền bá đến các
phât tử người Kinh trong thập niên 1940.
Phật giáo hiện diện trong nền văn hóa Việt Nam đã hai nghìn năm.
Ngay từ buổi mới du nhập, Phật giáo đã nhanh chóng được cha ơng chúng
ta tiếp nhận, bản địa hóa và trở nên một tơn giáo của dân tộc. Với xu
hướng đó, ngồi những giáo lý nền tảng, Phật giáo Việt Nam có những nét
đặc thù, được thể hiện rõ nhất là trong quan niệm về Ðức Phật. Cũng nên
lưu ý rằng, trước khi Phật giáo du nhập Việt Nam, tại nước ta đã có một
nền văn hóa phát triển phong phú, với nền tảng vững chắc mà tiêu biểu là
có hệ thống lịch pháp, ngơn ngữ, âm nhạc, luật pháp độc lập. Trong tín
ngưỡng tại đây đã có mặt các vị thần biểu tượng cho những yếu tố tự
nhiên có ý nghĩa sống cịn đối với một nền văn minh nông nghiệp mà
trồng lúa nước là chủ yếu, như thần Mây, Mưa, Sấm, Sét. Khi Phật giáo
đến, những tín ngưỡng này vẫn được duy trì, nhưng kết hợp với quan
niệm Phật của Ấn Ðộ, và kết quả là sự ra đời của tín ngưỡng theo mơ hình
mới: tín ngưỡng Phật điện, hay cịn gọi là tín ngưỡng Tứ Pháp, có thể xuất
hiện vào thế kỷ thứ II. Các vị thần Mây, Mưa, Sấm, Sét được Phật hóa để

trở thành Phật Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Ðiện, mà Phật Pháp
Vân là biểu trưng và là hình tượng trung tâm. Tín ngưỡng này là một
trong những nét đặc thù của Phật giáo Việt Nam. Ngay từ rất sớm, với sự
ra đời của tín ngưỡng Phật Pháp Vân, Phật giáo Ấn Ðộ đã rủ bỏ lớp áo
của mình để đâm rễ vào nền văn hóa Việt Nam. Nói khác đi, nền văn hóa
của nước ta thời bấy giờ là một nền văn hóa độc lập và đủ sức mạnh để
tiếp nhận và bản địa hóa Phật giáo, làm cho Phật giáo khơng cịn là một
yếu tố văn hóa ngoại lai. Với tín ngưỡng Phật Pháp Vân, chúng ta khơng
thể tìm ra hình ảnh của Ðức Phật Ấn Ðộ, đồng thời nội dung của tín
ngưỡng cũ cũng khơng cịn ngun vẹn mà được bổ sung một nội dung
mới. Do thế, Ðức Phật của 4 người Việt cổ xưa không phải là Ðức Phật
theo nguyên mẫu đến từ Ấn Ðộ, mà đã được khúc xạ qua nền văn hóa bản


địa để trở thành một Ðức Phật đầy quyền năng, phị trợ cho nhân dân và
cả dân tộc Tín ngưỡng Phật Pháp Vân nói riêng và tín ngưỡng Tứ Pháp
nói chung là một trong những chỗ dựa về tâm linh của người Việt qua
nhiều thời đại, và tồn tại cho đến ngay nay. Tín ngưỡng này vẫn được tồn
tại cho đến hôm nay, đặc biệt thể hiện đậm nét ở miền Bắc nước ta, chiếc
nôi của Phật giáo Việt Nam.


CHƯƠNG II
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA PHẬT GIÁO
2.1. Tư tưởng Nhân quả
Tam tạng kinh điển của Phật giáo rất đồ sộ có tới trên 5000 quyển
được chia thành ba loại gồm: Kinh tạng – Luật tạng – Luận tạng (gọi là
Tam tạng tức “ba kho kinh điển”). Về mặt triết học thì quan trọng nhất là
“Kinh” và “Luận”. - Kinh tạng: Chép lời Đức Phật giảng về giáo lý.
- Luật tạng: Ghi lại việc tu tập và toàn bộ những giới luật của Phật

giáo quy định
- Luận tạng: Luận tạng do các bậc cao tăng viết ra nhằm giới thiệu
giáo lý của Phật giáo một cách có hệ thống, đó là những bài bình chú, giải
thích gồm bảy bộ thể hiện một cách toàn diện các quan điểm về giáo pháp
của Phật giáo. Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo gồm mấy
vấn đề lớn sau:
- Thế giới quan Phật giáo là một thế giới quan có nhiều yếu tố duy
vật và biện chứng nhưng về cơ bản triết học Phật giáo vẫn là triết học duy
tâm chủ quan. Đặc điểm:
+ Thế giới là vô tạo giả:
Đây là nét độc đáo của Phật giáo, không thừa nhận tồn tại Brahman
sáng tạo ra thế giới và Atman – linh hồn bất tử. Phật giáo cho rằng thế
giới tồn tại khách quan không phụ thuộc vào thần thánh, không do thần
thánh sáng tạo ra, mặc dù Đạo Phật thừa nhận có thần tiên là đẳng cấp cao
hơn con người, nhưng thần tiên lại khơng có vai trị đặc biệt, khơng sáng
tạo thế giới. Theo Phật giáo, mọi sự vật hiện tượng đều có ngun nhân
của nó nhưng khơng có gì xác 5 định được nguyên nhân của mọi nguyên
nhân, tức khơng thể tìm ra một ngun nhân đầu tiên (nghĩa là khơng có
một Đấng tối cao nào sáng tạo ra vũ trụ). Phật giáo thừa nhận thế giới tồn
tại cả vật chất và tinh thần: Thế giới do các yếu tố vật chất và tinh thần kết
hợp với nhau tạo nên. Vật chất gồm sắc là những yếu tố có hình thù như


địa (đất), thủy (nước), hỏa (lửa), phong (gió) và khơng là những yếu tố
khơng có hình thù. Các yếu tố tinh thần gọi là danh gồm thụ (cảm giác),
tưởng (suy nghĩ, tư tưởng), hành (suy lí), thức (ý thức). Tính biện chứng
sâu sắc của triết học Phật giáo đặc biệt thể hiện rõ qua việc luận chứng về
tính chất vơ ngã và vô thường của vạn vật.
+ Thuyết vô thường: Vơ thường có nghĩa là khơng có gì ổn định,
bất biến. Phật giáo cho rằng thế giới khơng có gì là vĩnh hằng mà thế giới

là một dòng chuyển biến liên tục, tuyệt đối. Luật vô thường chi phối vũ
trụ, vạn vật, và con người. Thế giới biến đổi không ngừng, sự biến đổi
diễn ra trong khoảnh khắc gọi là niệm vô thường và sự biến đổi diễn ra
theo những chu kì nhất định gọi là nhất kì vơ thường, mỗi chu kì có 4 giai
đoạn, ở thế giới vật thể nói chung là sinh, trụ, dị, diệt và ở thế giới sinh
vật nói riêng là sinh, lão, bệnh, tử. Thuyết vô thường là một trong những
thuyết cơ bản trong giáo lý Phật, là cơ sở của lý luận cho phương thức
sống, cho triết lý sống của những con người tu dưỡng theo giáo lý phật.
Phật giáo trong quá trình giải thích sự biến hố vơ thường của vạn vật, đã
xây dựng nên thuyết nhân duyên.Nhân duyên là tư tưởng, giáo lý cơ thể
hiện quan điểm của Phật giáo đối với đời người, với tồn tại và sinh mệnh,
là cơ sở triết học của giáo thuyết cụ thể và tư tưởng quan trọng của Phật
giáo, như nhân quả, không hữu, trung đạo, bình đẳng, từ bi, giải thốt
v.v… Nó là một luận thuyết tương đối hợp lý về sự sinh thành diễn biến
và về bộ mặt vốn có của thế giới; là thế giới quan độc đáo của Phật giáo
và là đặc trưng cơ bản để phân biệt Đạo Phật với các tơn giáo khác.
Trong thuyết nhân dun có ba khái niệm chủ yếu là Nhân, Quả và
Duyên.
- Cái gì phát động ra ở vật gây ra một hay nhiều kết quả nào đó,
được gọi là Nhân (nguyên nhân). - Cái gì tập lại từ Nhân được gọi là Quả.
- Duyên: là điều kiện, mối liên hệ, giúp Nhân tạo ra Quả. Dun
khơng phải là một cái gì đó cụ thể, xác định mà nó là sự tương hợp, điều


kiện để giúp cho sự biến chuyển của vạn Pháp. Phật giáo dùng thuyết
nhân duyên để giải thích nguồn gốc của tất cả các sự vật, hiện tượng. Tất
cả mọi sự vật, hiện tượng đều có nguyên nhân. Nhân kết hợp với duyên
thì sinh ra quả. Quả lại kết hợp với duyên lại biến thành nhân và sinh ra
quả khác… Như vậy mối quan hệ nhân duyên bao trùm toàn bộ thế giới,
thế giới đa dạng, phong phú, nhiều hình vẻ cũng chỉ là một dịng biến hóa

hư ảo vơ cùng khơng có gì là thường định, là thực và là khơng thực. Tất
cả đều nằm trong một dịng sinh diệt bất tận. Ở quan điểm này cho thấy
một hạn chế của Phật giáo là chỉ thấy sự vận động, tuyện đối hóa sự vận
động mà khơng nhìn thấy sự đứng yên tương đối.
2.2. Tư tưởng Luân hồi
+ Thuyết vô ngã: phủ nhận sự tồn tại vĩnh viễn của linh hồn cá thể,
phủ nhận sự tồn tại thực sự của con người, coi sự tồn tại của con người
chỉ là giả hợp của các yếu tố danh và sắc. Vì vậy khơng có cái tơi thường
định, cái tơi hơm nay khác cái tôi hôm qua và cái tôi ngày mai. Con người
chỉ là sự hội tụ tạm thời giây lát của các yếu tố vật chất và tinh thần rồi lại
tan ra trong dịng chảy biến hóa tan hợp hợp tan một cách vô tận.
Nghiệp và luân hồi không những chỉ là những khái niệm của Triết
học Phật giáo mà có từ trong Upanishad. Nghiệp chữ phạn và Karma là
cái do những hoạt động của ta, do hậu quả việc làm của ta, do hành động
của thân thể ta. Được gọi là “Thân nghiệp”, cịn hậu quả của những lời
nói của ta, phát ngơn của ta thì được gọi là “khẩu Nghiệp”. Hay những cái
do ý nghĩ của ta, do tâm trí của ta gây nên được gọi là ”ý Nghiệp”. Tất cả
những Thân nghiệp, Khẩu nghiệp, Ý nghiệp là do ta tham dục mà thành,
do ta muốn thỏa mãn tham vọng của mình gây nên. Sở dĩ ta tham dục vì ta
chưa hiểu đươc chân bản vốn có của ta cũng như vạn vật là luôn luôn biến
đổi không có gì là thường định và vĩnh viễn cả. Cuộc đời con người là sự
ghánh chịu hậu quả của nghiệp đương thời và các kiếp sống trước rồi nó
tiếp tục chi phối cả đời sau. Nghiệp báo trong một đời là sự tổng hợp của


các nghiệp gây ra trong hiện tại cộng với các nghiệp gây ra trong quá khứ,
nó quyết định đời sau xấu hay tốt, thiện hay ác. Luân hồi: Chữ phạn là
Samsara. Có nghĩa là bánh xe quay trịn. Đạo phật cho rằng, sau khi một
thể xác sinh vật nào đó chết thì linh hồn sẽ tách ra khỏi thể xác và đầu thai
vào một sinh vật khác nhập vào một thể xác khác (có thể là con người,

lồi vật thậm chí cỏ cây). Cứ thế mãi do kết quả, quả báo hành động của
những kiếp trước gây ra. Đó cũng là cách lý giải căn nguyên nỗi khổ ở đời
con người. Sau khi lý giải được nỗi khổ ở cuộc đời con người là do “thập
nhị nhân duyên” làm cho con người rơi vào bể trầm luân. Đạo Phật đã chủ
chương tìm con đường diệt khổ. Con đường giải thốt đó khơng những
địi hỏi ta nhận thức được nó mà cao hơn ta phải hành động, phải thấm
nhuần tứ diệu đế.
2.3. Nhân sinh quan Phật giáo:
+ Triết lí nhân sinh và con đường giải thốt: Con người khơng phải
do Thượng đế sinh ra mà chỉ là sự kết hợp của ngũ uẩn bao gồm sắc (vật
chất: đất, nước, lửa, gió) và danh (tinh thần: hành, tưởng, thụ, thức).
Thuyết luân hồi, nghiệp báo: Phật giáo tuy bác bỏ Brahman và atman
nhưng lại kế thừa thuyết luân hồi, nghiệp báo trong đạo Balamôn. Con
người sau khi chết 7 sẽ chịu sự luân hồi qua 6 kiếp: địa ngục, ác quỷ,
attula, súc vật, người, thần tiên. Muốn chuyển nghiệp thốt khỏi vịng
ln hồi sinh tử con người sẽ phải tu luyện, tu hành, tu nhân tích đức. Cái
chi phối luân hồi là nghiệp lực (ý nghiệp, khẩu nghiệp, thân nghiệp) tức là
hành vi, suy nghĩ của con người gây ra ở kiếp trước quy định kiếp sau là
gì, từ đó Phật giáo đưa ra con đường giải thoát luân hồi sinh tử.
2.4. Tứ diệu đế
Tứ diệu đế: là bốn chân lí cao cả về sự đau khổ của con người và
con đường giải thốt. Đó là:
1/ Khổ đế: Theo Phật giáo, đời là bể khổ. Ở đời có vạn sự khổ, vạn
sự có thể biến thành cái khổ mà khái quát lại có 8 cái khổ phổ biến là:


sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tăng hội khổ, sở
cầu bất đắc khổ, ngũ uẩn khổ.
- Sinh khổ: Sự sinh sống của con người khổ (khổ trong lúc sanh và
khổ trong đời sống).

- Lão khổ: Con người đến lúc già, thân thể hao mịn, suy kém, trí
huệ lu mờ, khổ cả thể xác lẫn tinh thần.
- Bệnh khổ: Hành hạ xác thân con người, làm cho nó khổ sở, khơng
gì hơn là đau bệnh. - Tử khổ: Khổ của sự chết. Con người sợ nhất là cái
chết vì phải xa lìa vĩnh viễn tất cả bà con, của cải.
- Ái biệt ly khổ: Khổ của sự chia ly với những gì thân yêu.
- Oán tăng hội khổ: Ðây là cái khổ gây ra do sự thù ghét, hiềm
khích nhau mà cứ phải gần gũi, chung đụng.
- Sở cầu bất đắc khổ: Khổ của sự mong cầu, hy vọng mà không toại
nguyện.
- Ngũ uẩn thủ khổ: Nỗi khổ của sự tồn tại của con người. Khổ do sự
bám víu, ái nhiễm của ngũ uẩn.
2/ Tập đế (còn gọi là Nhân đế): Phật giáo xác định 12 nguyên nhân
của cái khổ: vô minh (ngu tối), hành (suy nghĩ dẫn tới hành động), thức
(hành động tác động đến ý thức), danh sắc, lục nhập (6 giác quan của con
người), xúc (tiếp xúc), 8 thụ (cảm thụ), ái (yêu thích), thủ (chiếm đoạt),
hữu (sở hữu), sinh (xuất hiện), lão (già) và tử (chết). Phật giáo nói đau
khổ là vô tận (nước mắt chúng sinh nhiều hơn biển), chết vẫn chưa hết
khổ vì kiếp luân hồi.
3/ Diệt đế: Theo Phật giáo, ta có thể tiêu diệt được khổ do đã biết
được nguyên nhân dẫn đến khổ; có thể đoạn hết kiếp nghiệp, thốt khỏi
vịng sinh tử và đến được cõi Niết bàn.
4/ Đạo đế: Con đường diệt khổ Phật giáo đưa ra bát chính đạo (8
con đường đúng đắn để diệt khổ):


- Chính kiến: thấy, xem xét sự vật một cách đúng đắn. Chính kiến
cũng có nghĩa là hiểu biết đúng đắn.
- Chính tư duy: suy nghĩ đúng đắn.
- Chính ngữ: lời nói đúng đắn (khơng nói dối, khơng nói lời ác,

khơng nói chia rẽ; phải nói lời có ích, nói đúng chỗ, đúng lúc).
- Chính nghiệp: hành vi đúng, ứng xử đúng, làm điều thiện.
- Chính mệnh: sinh sống lương thiện, tiết chế dục vọng và giữ giới
luật.
- Chính tinh tiến: cố gắng, nỗ lực phấn đấu một cách đúng đắn;
siêng năng học tập, tu luyện, tìm kiếm và truyền bá chân lí của Đức Phật.
- Chính niệm: thường xuyên tâm niệm chính pháp, nhớ Phật, niệm
Phật.
- Chính định: tập trung tư tưởng cao độ để suy nghĩ về tứ đế, về vô
ngã, vô thường để kiên định theo con đường chân chính của Đức Phật.
Tám con đường này được gộp lại thành 3 điều: Giới gồm chính
ngữ, chính nghiệp, chính mệnh, Định gồm chính tinh tiến, chính niệm,
chính định; Tuệ gồm chính kiến, chính tư duy. Muốn thực hiện được Bát
chính đạo thì phải có phương pháp để thực hiện nhằm ngăn ngừa những
điều gian ác gây thiệt hại cho mình và khuyến khích những người làm
điều thiện có lợi ích cho mình và cho người. Nội dung của các phương
pháp đó là thực hiện Ngũ giới (Năm điều răn) và Lục độ (Sáu phép tu).
Muốn thực hiện được “Bát chính đạo” thì phải có phương pháp để
thực hiện nhằm ngăn ngừa những điều gian ác gây thiệt hại cho mình và
những người làm điều thiện có lợi ích cho mình và cho người. Nội dung
của các phương pháp đó là thực hiện “Ngũ giới” (năm điều răn ) và “Lục
độ” (sáu phép tu ).
- “Ngũ giới” gồm: Bất sát: Không sát sinh; Bất đạo: Không làm
điều phi nghĩa; Bất dâm: Không dâm dục; Bất vọng ngữ: Không bịa đặt,
khơng vu oan giáo họa cho kẻ khác, khơng nói dối.


- “Lục độ” gồm: Bố thí: Đêm cơng sức, tài trí, của cải để giúp
người một cách thành thực chứ khơng để cầu lợi hoặc ban ơn; Trí giới:
Trung thành với điều răn, kiên trì tu luyện; Nhẫn nhục: Phải biết kiên

nhẫn, nhường nhịn, chịu đựng để làm chủ được mình; Tịnh tiến: Cố gắng
nỗ lực vươn lên; Thiền định: Tư tưởng phải tập trung vào điều ngay, chính
khơng để cho cái xấu cho lấp; Bát nhã: Trí tuệ thấy rõ hết, hiểu thấu hết
mọi chuyện trên thế gian. Tóm lại: Phật giáo cho rằng chỉ có bằng sự kiên
định để thực hiện “Bát chính đạo”, “Ngũ giới”, “Lục độ” thì chúng sinh
mới có thể giải thốt chính mình ra khỏi nỗi khổ. Phật giáo khơng chủ
trương giải phóng bằng Cách mạng xã hội. Mặc dù Phật giáo lên án rất
gay gắt chế độ người bóc lột người, chống lại chủ nghĩa duy tâm cua
Bàlamơn giáo. Đó là một trong những nhược điểm đồng thời cũng là ưu
điểm nửa vời của Đạo phật. Đứng trước bể khổ của chúng sinh Phật giáo
chủ trương cải tạo tâm linh chứ không phải cải tạo thế giới hiện thực. Như
vậy Phật giáo nguyên thủy có tư tưởng vơ thần, phủ nhận đấng sáng tạo
(vơ ngã, vơ tạo giả) và có tư tưởng biện chứng (vô thường, lý thuyết
Duyên khởi). Tuy nhiên, Triết học Phật giáo cũng thể hiện tính duy tâm
chủ quan khi coi thế giới hiện thực là ảo giả và do cái tâm vô minh của
con người tạo ra.


CHƯƠNG III
SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA- TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT
Đạo phật truyền vào nước ta khoảng thế kỷ II sau công nguyên và
đã trở thành một trong những hệ tư tưởng, tơn giáo có sức sống lâu dài,
tồn tại cho đến mãi ngày nay, đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội
và tinh thần của người Việt Nam. Phật giáo là một tơn giáo hồ bình, bác
ái vì thế nên ảnh hưởng của Phật giáo chủ yếu là tích cực.
3.1. Những ảnh hưởng tích cực của tư tưởng triết học Phật giáo
đến xã hội và con người Việt Nam
3.1.1. Phật giáo góp phần kiến tạo một xã hội bình đẳng, bác ái
Đức Phật dạy rằng hạnh phúc tối thượng là an lạc, và khơng thể có

hạnh phúc chân thật nếu khơng có an lạc.
Đức Phật khơng hề chia cấp bậc mà có cái nhìn ngang bằng với tất
cả chúng sinh. Đạo Phật chủ trương bình đẳng, Phật là đức Phật đã thành,
chúng sinh là Đức Phật sẽ thành, chúng sinh đều có Phật tính, đều bình
đẳng trước Phật. Với Phật, không ai tiểu nhân, không ai quân tử, cũng
khơng có qn, khơng có dân, chia cắt nhau bằng các hàng rào cấp bậc
giai cấp; chỉ có một niềm từ bi bác ái, khơng có hằn học, ốn ghét, phục
thù. Đó cũng là điều phù hợp với bản chất dân tộc Việt Nam. Tiếp đó Phật
kêu gọi sự tự giác, vị tha không những để giải quyết nỗi khổ của mình mà
cịn phải cứu nhân độ thế. Người ta chỉ thấy ở đây một chủ nghĩa nhân
đạo lớn lao và có phần tích cực. Có thực hiện được hay không là vấn đề
khác mà chúng ta cần xem xét, để phê phán giá trị của học thuyết này
nhưng ở đây thì rõ ràng đó là những điểm chính yếu làm cho Phật giáo
gắn bó được với quần chúng.
Phật giáo khuyến khích mọi người sống chan hồ, cảm thơng và
thân ái dù khác nhau sắc tộc, tôn giáo, màu da… Có tơn giáo đã truyền bá
bằng gươm đao và chiếm đoạt. So với điều này, Đạo Phật là một tôn giáo


khơng có lực lượng vũ trang, cũng khơng có thánh chiến trong việc truyền
bá giáo lý. Đạo Phật đã lan rộng một cách từ từ nhưng vững vàng chắc
chắn đến nhiều nước, nhiều vùng đất: Tây Tạng, Trung Quốc, Hàn Quốc,
Nhật Bản, Trung tâm Thổ Nhĩ Kỳ, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Việt Nam,
Cam-pu-chia… Do đó thơng điệp của Đức Phật đã được lan truyền khắp
nơi trên thế giới: Không làm các điều ác, Vâng giữ các điều lành, Làm
thanh tịnh tâm ý Đó lời chư Phật dạy
3.1.2. Phật giáo góp phần tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Phật giáo có ảnh hưởng sâu đậm
và lâu dài. Trong quá trình phát triển, Phật giáo với tư cách là một tơn
giáo, đã có nhiều đóng góp cho văn hóa Việt Nam. Phật giáo lại biết bám

lấy làng xã bằng nhiều hoạt động cụ thể có tổ chức, kết hợp với tín
ngưỡng bản địa, hội hè. Nhà sư và ngơi chùa có vai trị quan trọng trong
đời sống dân gian cổ truyền. Ở Bắc Bộ trước đây hầu như làng nào cũng
có chùa. Ngồi thờ Phật, chùa cịn thêm tín ngưỡng dân gian thờ thần tiên,
thờ các vị tướng có cơng với nước. Ngơi chùa trở thành một trung tâm
văn hố ở nơng thơn. Có thể nói Phật giáo đã góp phần làm phong phú
thêm nền văn hoá dân tộc. Nho giáo về mặt nào đó làm cho tư tưởng văn
hố khơ cứng thì Phật giáo có phần làm mền hơn, phong phú và sinh động
hơn. Hội chùa cũng như hội làng là tiêu biểu cho sự hồ hởi của công xã, là
một dịp để con người được giải phóng tình cảm, hồ cái ta của mình vào
cái ta của làng xã, khơng bị giáo lý khn phép gị bó và toả chiết tâm
hồn. Dưới mái nhà chùa mà vẫn được phép giao lưu tình cảm, bao nhiêu
câu chuyện tình duyên đằm thắm đã xảy ra bên cạnh cửa thiền. Thế ra cửa
từ bi khơng hề nghiêm ngặt như chốn sân Trình cửa Khổng. Phật chứng
nhận cho cuộc sống hồn nhiên, bình yên của làng xã. Đạo phật có thể mất
đi, như mọi hiện tượng vơ thường. Song cái tinh t của văn hố Phật
giáo đã được dân tộc hoá và dân gian hoá thì mãi mãi trường tồn.


3.1.3. Phật giáo khuyên mọi người sống lương thiện, tu tâm
dưỡng tính
Đức Phật dạy các điều thiết yếu khơng chỉ cho việc tu tập nội tâm
của từng cá nhân vì hạnh phúc của nhân loại mà còn cho sự cải thiện đời
sống xã hội. Vì vậy, Ngài thuyết giảng về đặc tính chung nhất của nhân
loại, bất kể màu da chủng tộc hoặc các đặc tính sinh lý và tạo ra một cuộc
cách mạng loại bỏ các hệ thống giai cấp mà rất thịnh hành tại Ấn Độ thời
bấy giờ. Để biểu lộ khái niệm đồng nhất của nhân loại, Đức Phật đã khơi
dậy mối đồng cảm không những của giai cấp vua chúa, quý tộc, thương
gia, mà còn với giai cấp cùng đinh, người xin ăn, kẻ cướp…
Lối sống mà Đức Phật đã dạy rất đơn giản, đối với người tại gia,

chỉ áp dụng năm nguyên tắc sống: không sát sinh, khơng trộm cắp, khơng
tà dâm, khơng nói dối và không uống rượu, đây là một bảng nguyên tắc
thật sự rất đơn giản. Nhưng lối sống của Phật giáo, con đường mà Đức
Phật đã mô tả không ngừng lại ở nguyên tắc này. Lời dạy đó được đơn
giản hóa theo một cách mà ai cũng có thể hiểu được và làm được là bố thí
(dàna), trì giới (sila) và thiền định (bhàvana).
Giáo lý nghiệp báo hay nghiệp nhân quả báo của Đạo Phật đã trở
thành nếp sống tín ngưỡng hết sức sáng tỏ đối với người Việt Nam có
hiểu biết, có suy nghĩ. Người ta biết lựa chọn ăn ở hiền lành, dù tối thiểu
thì đó cũng là kết quả tự nhiên âm thầm của lý nghiệp báo, nó chẳng
những thích hợp với giới bình dân mà cịn ảnh huởng đến giới trí thức. Có
thể nói mọi người dân Việt điều ảnh hưởng ít nhiều qua giáo lý này. Vì
thế, lý nghiệp báo luân hồi đã in dấu đậm nét trong văn chương bình dân,
trong văn học chữ nơm, chữ hán, từ xưa cho đến nay để dẫn dắt từng thế
hệ con người biết soi sáng tâm trí mình vào lý nhân quả nghiệp báo mà
hành động sao cho tốt đẹp đem lại hịa bình an vui cho con người.
Tâm lý dân gian Việt Nam ta thiên về sự cân bằng, sự bù đắp. Nỗi
khổ hôm nay phải được đền bù bằng sự sung sướng ngày mai. Cô Tấm


trong cổ tích trải qua bao gian nan cuối cùng được hưởng hạnh phúc. Phật
giáo cũng hứa hẹn với con người sự đền bù không do quyền phép nào,
chỗ dựa nào của Nho giáo, cũng không do cán cân phúc tội của Đạo gia,
Pháp gia mà do chính nỗ lực của bản thân mình. Người dân bình thường ở
xứ ta ở phần bản chất cũng có quan niệm nhận thức như vậy. Tinh thần ấy
là sự cố gắng tu dưỡng, vun thêm cho bản thân mình. Và họ cũng mong
mỏi, tin tưởng sự đền bù này, khi thấy Phật tổ vạch ra cho họ và khẳng
định điều tất nhiên sẽ đến.
Hơn lúc nào hết trong mấy chục năm lại đây người Phật tử Việt
Nam rất chăm lo đến việc thực hiện các nghi lễ của đạo mình. Họ hay lên

chùa trong các ngày sóc, cọng, họ trân trọng thành kính trong khi thi hành
lễ, họ siêng năng trong việc thiền định, giữ giới, làm việc thiện. Việc ăn
chay hàng tháng trở thành thói quen khơng thể thiếu của người theo Đạo
phật. Mặt khác nhà chùa sẵn sàng thực hiện các yêu cầu của họ như cầu
siêu, giải oan,... Tất cả những điều này củng cố niềm tin vào giáo lý, vừa
qui định tư duy và hành động của họ, tạo cơ sở để hình thành những nhân
cách riêng biệt.
3.1.4. Giáo lý của Đạo Phật góp phần giáo dục đạo đức con
người
Đạo lý ảnh hưởng nhất là giáo lý từ bi, tinh thần hiếu hòa, hiếu sinh
của phật giáo đã ảnh hưởng và thấm nhuần sâu sắc trong tâm hồn của
người Việt. Như vậy, có thể nói rằng Phật giáo là một trong những tôn
giáo của thế giới bao hàm nhiều phương pháp tốt đẹp có thể cải thiện và
giáo dục tâm tính cho con người. Nó đánh thức nơi con người đức tính tự
trọng và tinh thần trách nhiệm bản thân, phổ biến trong nhân loại đức tính
khoan dung, từ bi, tình huynh đệ, cùng dứt trừ được nơi con người lòng
sân hận và bạo tàn. Cho nên, tự trọng, tự tín, khoan dung, từ bi, trí tuệ là
những đức tánh tốt đẹp có thể tạo được cho nhân loại nhờ ảnh hưởng của
Phật giáo.


Có thể thấy rằng những tư tưởng Phật giáo cũng có ảnh hưởng ít
nhiều đến đời sống của thanh thiếu niên hiện nay. Như ở các trường phổ
thông, các tổ chức đồn, đội ln phát động các phong trào nhân đạo như
Lá lành đùm lá rách, quỹ Giúp bạn nghèo vượt khó , quỹ Viên gạch
hồng ... Chính vì vậy ngay từ nhỏ các em học sinh đã được giáo dục tư
tưởng nhân đạo, bác ái, giúp đỡ người khác mà cơ sở của nền tảng ấy là tư
tưởng giáo lý nhà Phật đã hoà tan với giá trị truyền thống của con người
Việt Nam. Sự đồng cảm với những con người gặp khó khăn, những số
phận bất hạnh cơ đơn, cộng với truyền thống từ bi, bác ái đã giúp chúng

ta, những học sinh, sinh viên còn ngồi trên ghế nhà trường có đủ nghị lực
và tâm huyết để lập ra những kế hoạch, tham gia vào những hoạt động
thiết thực như hội chữ thập đỏ, hội tình thương, các chương trình phổ cập
văn hố cho trẻ em nghèo, chăm nom các cụ già neo đơn... Hình ảnh hàng
đồn thanh niên, sinh viên hàng ngày vẫn lăn lội trên mọi nẻo đường tổ
quốc góp phần xây dựng đất nước, tổ quốc ngày càng giàu mạnh thật đáng
xúc động và tự hào. Tất cả những điều đó chứng tỏ thanh niên, sinh viên
ngày nay không chỉ năng động, sáng tạo đầy tham vọng trong cuộc sống
mà còn thừa hưởng những giá trị đạo đức tốt đẹp của ơng cha, đó là sự
thương yêu, đùm bọc lẫn nhau giữa mọi người, lòng thương yêu giúp đỡ
mọi người qua cơn hoạn nạn mà khơng chút nghĩ suy, tính tốn. Và ta
khơng thể phủ nhận Phật giáo đã góp phần tạo nên những giá trị tốt đẹp
ấy. Và ta càng phải nhắc đến giá trị đó trong khi cuộc sống ngày nay ngày
càng xuất hiện những hiện tượng tiêu cực. Trong khi có những sinh viên
cịn khó khăn đã dồn hết sức mình để học tập cống hiến cho đất nước thì
vẫn cịn một số bộ phận thanh niên ăn chơi, đua đòi, làm tiêu tốn tiền bạc
của cha mẹ và đất nước. Tối đến, người ta bắt gặp ở các quán Bar, sàn
nhảy những cô chiêu, cậu ấm đang đốt tiền của bố mẹ vào những thú vui
vô bổ. Rồi những học sinh, sinh viên lầm đường lỡ bước vào ma tuý,
khiến cho bao gia đình tan nát, biết bao ơng bố bà mẹ cay đắng nhìn


những đứa con của mình bị chịu hình phạt trước pháp luật. Thế hệ trẻ
ngày nay nhiều người chỉ biết chạy theo vật chất, bị cuốn hút bởi những
thứ ăn chơi sau đoạ làm hại đến gia đình và cộng đồng. Hơn bao giờ hết
việc giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ trở nên rất quan trọng và một trong
những phương pháp hữu ích là nêu cao truyền bá tinh thần cũng như tư
tưởng nhà Phật trong thế hệ trẻ. Đó thực sự là cơng việc cần thiết để giáo
dục lớp trẻ hiện nay.
3.1.5. Phật giáo có ảnh hưởng tích cực đến các mối quan hệ gia

đình, xã hội
Những mối quan hệ trong gia đình và xã hội như cha mẹ, anh em,
vợ chồng, con cái, bạn bè, họ hàng, láng giềng,… Phật giáo xem là thiêng
liêng đáng được tơn kính và lễ lạy, tơn thờ. Nhưng người ta phải lễ lạy,
tôn thờ những mối quan hệ ấy 16 như thế nào? Đức Phật dạy rằng người
ta có thể lễ lạy và tôn thờ những điều ấy chỉ thông qua việc thực thi trách
nhiệm và bổn phận của anh ta đối với những điều ấy. Trước tiên, cha mẹ
là thiêng liêng đối với con cái, nhắc đến công lao dưỡng dục của cha mẹ,
Phật dạy: "muôn việc ở thế gian, khơng gì hơn cơng ơn ni dưỡng lớn
lao của cha mẹ" (Kinh Thai Cốt), hay kinh Nhẫn Nhục dạy: "cùng tốt điều
thiện khơng gì hơn hiếu, cùng tốt điều ác khơng gì hơn bất hiếu". Bởi Phật
giáo đặc biệt chú trọng chữ hiếu như thế nên thích hợp với nếp sống đạo
lý truyền thống của dân tộc Việt. Đức Phật dạy: phải quan tâm chăm sóc
bố mẹ của mình ở độ tuổi xế chiều, phải làm bất cứ những gì mình phải
làm vì nhu cầu của bố mẹ, phải duy trì danh dự của gia đình và tiếp tục
phát huy truyền thống của gia đình, phải bảo vệ tài sản, của cải do bố mẹ
kiếm được, và lo tổ chức tang đám khi bố mẹ qua đời. Bố mẹ, ngược lại,
phải có một số trách nhiệm đối với con cái của mình: phải giáo dục con
cái tránh xa những việc làm xấu xa, tội lỗi; hướng chúng vào những nghề
nghiệp lành mạnh và có lợi lạc; cho con cái ăn học đến nơi, đến chốn;


dựng vợ, gả chồng cho chúng ở những nơi gia đình tốt, và giao của cải tài
sản cho chúng đúng lúc.
Thứ hai, mối quan hệ giữa thầy và trò: học trị phải cung kính và
vâng lời thầy, phải hỗ trợ thầy lúc cần thiết, phải siêng năng học tập. Và
ngược lại thầy đối với trò: phải rèn luyện và dạy dỗ học trò nên người tốt;
giới thiệu học trò cho bạn bè của chúng, và cố gắng tạo việc làm đảm bảo
sau khi học trò học xong.
Thứ ba, mối tương quan giữa vợ và chồng: tình yêu giữa vợ và

chồng được xem như rất là tôn giáo và thiêng liêng. Nó được gọi là
Sadara – Brahmacariya (đời sống gia đình thiêng liêng). Vợ và chồng phải
chân thành tin tưởng lẫn nhau, tơn trọng và hết mình vì nhau, và họ có
một số trách nhiệm đối với nhau: người chồng phải tôn trọng vợ và không
bao giờ thiếu sự tôn trọng đối với vợ; phải yêu thương vợ và chung thủy,
chân thành với vợ; đảm bảo vị trí và tiện nghi của vợ, và làm cho vợ vui
lòng bằng cách thường mua áo quần và nữ trang cho cô ta. (Sự kiện Đức
Phật đề cập những món quà như thế do người chồng tặng cho vợ, chứng
tỏ 17 Ngài hiểu và thơng cảm những cảm xúc và tình cảm thế gian của
Ngài đối với tình cảm bình thường của con gnười). Ngược lại, người vợ
nên giám sát và chăm lo công việc nội trợ nhà cửa; đón tiếp khách khứa,
bạn bè, bà con, họ hàng, và người làm thuê; thương yêu và trung thành
với chồng mình; bảo vệ của cải do chồng kiếm được, và phải sáng suốt và
nhiệt tâm trong tất cả các công việc.
Thứ tư, mối quan hệ giữa bạn bè, họ hàng quyến thuộc và hàng
xóm: họ phải hiếu khách và nhân từ đối với nhau, nói lời vui vẻ và dễ
chịu, làm việc lợi lạc cho nhau, đối xử bình đẳng với nhau, giúp đỡ nhau
trong những lúc cần thiết, và cưu mang lẫn nhau khi gặp khó khăn, hoạn
nạn.
3.1.6 Ảnh hưởng Phật giáo qua các tác phẩm văn học


Bên cạnh ca dao bình dân, trong các tác phẩm văn học của các nhà
thơ, nhà văn chúng ta cũng thấy có nhiều bài thơ, tác phẩm chịu ảnh
hưởng nhiều hay ít của phật giáo. Ở đây chúng ta khơng đề cập đến dịng
văn học chính thống của phật giáo, tức là tác phẩm do các thiền sư sáng
tác trong q trình tu tập của mình, mà chỉ nói đến các thơ văn Việt Nam
chịu sự ảnh hưởng của triết lý phật giáo mà thơi. Cái ảnh hưởng đó có
ngay từ khi phật giáo du nhập vào nước Việt, nghĩa là khi chữ Hán còn
thịnh hành, nhưng để thấy rõ ràng hơn, ta chỉ đề cập đến sự ảnh hưởng

của phật giáo trong thơ văn từ khi người Việt Nam đã viết chữ Nôm, chữ
Việt thành thạo nghĩa là bắt đầu thừ thế kỷ thứ 18 trở về sau. Tác phẩm
chữ nôm nổi tiếng trong thế kỷ thứ mười tám là Cung Oán Ngâm Khúc
của nhà thơ Việt Nam Nguyễn Gia thiều (1741-1798), tác phẩm viết bằng
thơ nôm. Thể song thất lục bát, dài 356 câu, là khúc ngâm của người cung
nữ bị vua ruồng bỏ, oán than về thân phận mình. Nội dung tác phẩm chịu
nhiều ảnh hưởng của phật giáo, nhất là triết lý ba pháp ấn Vô Thường,
Khổ, Vơ Ngã. Theo cái nhìn của phật giáo, khi mô tả nỗi khổ chúng sanh
thường được dùng ẩn dụ như khỗ ải (bể khổ). Cái khổ ấy từ đâu mà có,
vốn từ chỗ lầm chấp, vơ minh của con người mà có, từ chỗ mê lầm ấy mà
được hình dung bằng mê tân (bến mê), Như thế danh từ bể khổ của phật
giáo đã giúp ông Nguyễn Gia Thiều diễn tả thấu đáo nỗi khổ đau của kiếp
người, cái khổ đau ấy, cái vô thường ấy không những chi phối ở con
người mà còn ở cả cây cỏ, hoa, lá, thế giới vơ tình, tất cả chịu chung qui
luật khắc nghiệt ấy. Qua thế kỷ thứ mười chín, với thi hào Nguyễn Du
(2765-1820) ta có được một án văn bất hủ là Truyện Kiều, là một truyện
thơ nôm viết bằng thể lục bát dựa theo tác phẩm Kim Vân Truyện Kiều
của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc), gồm 3254 câu thơ. Đây là một
truyện thơ chịu nhiều ảnh hưởng của Phật Giáo, trong đó ta thấy nổi bật
nhất là thuyết về Khổ Đế, một phần quan trọng của giáo lý Tứ Diệu Đế,
kế đó là tinh thần về hiếu đạo và thuyết về nhân quả và nghiệp báo. Điều


đó có lý, vì lẽ chính Nguyễn Du đã tự nhận mình là một phật tử và từng
đọc Kinh Kim Cang Bát Nhã đến cả ngàn lần. Thật vậy, Đoạn Trường Tân
Thanh dường như chỉ là để chứng minh cho triết lý nhân quả của Phật
Giáo. Theo thuyết này, những điều họa phúc mà con người phải gánh chịu
ở kiếp này điều có nghiệp nhân ở kiếp trước, khi mới sinh ra ở đời ta phải
mang lấy cái nghiệp tức là cái kết quả của những vô minh ái dục mà ta đã
gây tạo từ trước, và cuộc đời của chúng ta sẽ hạnh phúc hay đau khổ, tai

họa hay may mắn đều tùy thuộc vào cái nghiệp thiện hay ác, tốt hay xấu,
nặng hay nhẹ mà chính mình đã gây tạo. Trong đoạn trường tân thanh
nàng Kiều phải mang một cái nghiệp rất nặng. Vì cái nghiệp ấy mà người
con gái đầu xanh chưa tội tình gì mới bước chân vào cuộc đời đã gặp biết
bao khổ lụy: cha và em trai bị tù tội, mối tình đầu tan vỡ, và bắt đầu từ đó
nàng lăn lóc từ nơi này qua nơi khác, có khi tưởng ra khỏi vịng nhưng rồi
lại bị lôi cuốn đày đọa, mãi cho đến khi tự vẫn ở sông Tiền Đường, Đạm
Tiên mới cho biết rằng nàng đã qua khỏi bước đoạn trường và sắp được
sống một cuộc đời vui tươi sáng lạn. Qua ý tưởng phước đức, duyên
nghiệp trên của Đoạn Trường Tân Thanh ta thấy cụ Nguyễn Du rõ ràng đã
chịu ảnh hưởng sâu xa của Phật Giáo.
3.1.7 Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hịa với các tín ngưỡng
truyền thống Khi được truyền vào Việt Nam, Phật Giáo đã tiếp xúc ngay
với các tín ngưỡng bản địa, do vậy đã kết hợp chặt chẽ với các tín ngưỡng
này. Biểu tượng chùa Tứ Pháp thực ra vẫn chỉ là những đền miếu dân gian
thờ các vị thần tự nhiên Mây, Mưa, Sấm, Chớp và thờ Đá. Lối kiến trúc
của chùa chiền Việt Nam là tiền Phật hậu Thần cùng với việc thờ trong
chùa các vị thần, các vị thánh, các vị thành hoàng thổ địa và vị anh hùng
dân tộc.
3.1.8 Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hịa với các tơn giáo
khác


Đó là kết quả của sự phối hợp và kết tinh của Đạo Phật với đạo
Nho và đạo Lão, được các nhà vua thời Lý cơng khai hóa và hợp pháp hóa
Chính vì đặc tính dung hịa và điều hợp này mà Phật Giáo Việt Nam đã
trở thành tín ngưởng truyền thống của dân tộc Việt. Nó chẳng phải Phật
giáo Ấn Độ hay Trung Hoa, Tiểu Thừa hay Đại Thừa, mà nó là tất cả
những khuynh hướng tâm linh của người dân Việt. Nó thực ra là cái
"Đồng Qui Nhi Thù Đồ", cùng về một đích mà đường lối khác nhau,

chính tinh thần khai phóng của Phật Giáo Việt Nam đã kết tinh lấy Chân,
Thiện, Mỹ làm cứu cánh để thực hiện. Nho giáo thực hiện cứu cánh ấy
bằng con đường Thiện, tức là hành vi đạo đức để tới chỗ nhất quán với
Mỹ và Chân. Đạo giáo thực hiện cứu cánh ấy bằng con đường Mỹ, tức là
tâm lý nghệ thuật để tới chỗ nhất quán với Thiện và Chân. Phật giáo thực
hiện cứu cánh ấy bằng con đường trí tuệ giác ngộ để đạt tới chỗ nhất quán
Chân, Thiện, Mỹ. Đó là thực tại Tam Vi Nhất của tinh thần tam Giáo Việt
Nam. Trong nhiều thế kỷ hình ảnh tam giáo tổ sư với Phật Thích Ca ở
giữa, Lão Tử bên trái và Khổng Tử bên phái đã in sâu vào tâm thức của
người dân Việt.
3.2. Ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng triết học Phật giáo
Bên cạnh những mặt tích cực thì Phật giáo cũng có những ảnh
hưởng tiêu cực đến xã hội ngày nay. Nhưng cần phải nhận thức một điều
là những ảnh hưởng tiêu cực này không phải xuất phát từ bản chất, lý luận
của đạo Phật mà do những người thừa hành. Có thể Kinh Phật qua nhiều
nước, nhiều xã hội với nhiều nền văn hố khác nhau khiến có nhiều cách
giải thích và cách hiểu khác nhau về đạo Phật. Hơn nữa từng cá nhân tiếp
thu đạo Phật cũng theo nhiều cách khác nhau, có thể làm thay đổi ý nghĩa
tốt đẹp của đạo Phật.
Thời đại ngày nay là thời đại phát triển. Nước ta vừa trải qua mấy
chục năm chiến tranh và hàng chục năm sống dưới chế độ bao cấp, đời
sống còn nghèo nàn, lạc hậu rất cần đến sự phát triển. Phát triển có nghĩa


×