Tải bản đầy đủ (.docx) (71 trang)

Đánh giá hiện trạng môi trường nước sông cầu đoạn từ sơn cẩm đến công ty cổ phần gang thép thái nguyên TP thái nguyên tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (401.83 KB, 71 trang )

MỤC LỤC
Trang
2
PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Nước là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá mà tự nhiên ban tặng cho loài
người, không có nước thì không có sự sống và cũng không có một hoạt động
kinh tế nào có thể tồn tại được. Nước là khởi đầu và là nhu cầu thiết yếu của
sự sống; là yếu tố quan trọng của sản xuất; là nhân tố chính để bảo đảm môi
trường.Tuy vậy, nguồn tài nguyên nước đang ngày càng khan hiếm, khối
lượng và chất lượng nước ngày càng suy giảm, hạn hán và lũ lụt xảy ra gay
gắt ở cả quy mô, mức độ và thời gian trong khi nhu cầu sử dụng nước ngày
càng tăng và đó chính là nguyên nhân đã gây ra khủng hoảng về nước ở nhiều
nơi trên thế giới.
Trong những năm qua Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể về
kinh tế, tốc độ phát triển kinh tế cao vì thế nhu cầu khai thác sử dụng nguồn
nước phục vụ cho sản xuất, sinh hoạt cũng ngày càng tăng. Tuy nhiên, việc
khai thác, sử dụng không đi kèm với công tác bảo vệ, phát triển bền vững thì
trong tương lai tình trạng suy thoái cạn kiện nguồn nước là hậu quả không thể
tránh khỏi. Để phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững thì công tác bảo
vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên nước cần được chú trọng. Bảo vệ môi
trường lưu vực sông hiện nay là vấn đề đang nhận được sự quan tâm của cả
cộng đồng, trong đó có lưu vực sông Cầu. Từ năm 1997 tỉnh Thái Nguyên đã
khởi xướng cùng với 5 tỉnh trong lưu vực (Bắc Kạn, Vĩnh Phúc, Bắc Giang,
Bắc Ninh, Hải Dương) xây dựng “Đề án tổng thể bảo vệ và phát triển bền
vững môi trường sinh thái, cảnh quan lưu vực sông Cầu”. Đề án đã được
chính phủ phê duyệt tại quyết định số 174/2006/QĐ - TTg ngày 28/07/2006.
Giai đoạn đầu tỉnh Thái Nguyên được giao nhiệm vụ làm chủ tịch Ủy ban lưu
vực sông Cầu.
Tỉnh Thái Nguyên và các tỉnh trong lưu vực đã xác định được tầm quan


trọng của vấn đề này và có nhiều biện pháp bảo vệ môi trường lưu vực sông
Cầu. Chính vì vậy tình hình ô nhiễm môi trường nước đã từng bước được
kiểm soát trên toàn lưu vực và kết quả đạt được trong khu vực thành phố Thái
2
3
Nguyên là khá khả quan. Tuy nhiên, do tốc phát triển kinh tế - xã hội của
thành phố khá nhanh, công tác quản lý, bảo vệ môi trường chưa đáp ứng kịp
yêu cầu thì nguy cơ gây ô nhiễm là rất lớn.
Để khắc phục, giảm thiểu được tình trạng ô nhiễm môi trường nước sông
Cầu, một trong những việc quan trọng của công tác quản lý và bảo vệ môi
trường đó là đánh giá chính xác mức độ và nguyên nhân gây ô nhiễm môi
trường nước sông Cầu trên địa bàn tỉnh, để đưa ra biện pháp khắc phục giảm
thiểu một cách hữu hiệu và phù hợp. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đó được
sự đồng ý của ban giám hiệu nhà trường, Khoa Tài Nguyên và Môi trường -
Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, dưới sự hướng dẫn của TS. Hoàng
Văn Hùng, em đã thực hiện đề tài: “Đánh giá hiện trạng môi trường nước
sông Cầu đoạn từ Sơn Cẩm đến Công ty cổ phần Gang thép Thái Nguyên -
TP. Thái Nguyên - tỉnh Thái Nguyên”.
1.2. Mục đích của đề tài
Đánh giá hiện trạng môi trường nước sông Cầu đoạn từ Sơn Cẩm đến
Công ty cổ phần Gang thép Thái Nguyên giúp các cấp quản lý môi trường
theo dõi diễn biến chất lượng nước của đoạn sông này.
Xác định nguyên nhân gây suy thoái môi trường nước sông và các sự cố
môi trường tác động đến ô nhiễm môi trường nước sông Cầu.
Đề xuất các biện pháp quản lý môi trường phù hợp nhằm giảm thiểu ô
nhiễm môi trường nước sông Cầu đoạn từ Sơn Cẩm đến Công ty cổ phần
Gang thép Thái Nguyên.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
Giúp sinh viên có cơ hội tiếp cận với cách thức thực hiện một đề tài

nghiên cứu khoa học, vận dụng kiến thức đã học vào thực tế sau khi ra trường.
Ý nghĩa trong thực tiễn
Đề tài trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về ô nhiễm môi
trường nước, làm cơ sở cho đánh giá về tài nguyên nước mặt nói riêng và tài
nguyên nước nói chung.
3
4
1.4. Yêu cầu của đề tài
Đánh giá hiện trạng chất lượng môi trường nước mặt sông Cầu đoạn từ
Sơn Cẩm đến Công ty cổ phần Gang thép Thái Nguyên.
Kết quả và số liệu đánh giá chính xác, trung thực, khách
Kết quả phân tích thông số hiện trạng chất lượng môi trường nước mặt
sông Cầu so sánh với QCVN 08:2008/BTNMT.
Những kiến nghị, đề xuất đưa ra phải có tính khả thi và phù hợp với điều
kiện thực tiễn.
4
5
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
2.1.1. Cơ sở lý luận
2.1.1.1. Một số khái niệm có liên quan
- Khái niệm môi trường:
Theo điều 1 khoản 3 Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam (2005) [15], môi
trường được định nghĩa như sau: “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và
vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống sản xuất,
sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật”.
- Khái niệm ô nhiễm môi trường:
Theo khoản 6 điều 3 Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam (2005) [15]: “Ô
nhiễm môi trường là sự biến đổi của thành phần môi trường không phù hợp

với tiêu chuẩn môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con người, sinh vật”.
- Khái niệm tài nguyên nước:
“Nước là tài nguyên đặc biệt quan trọng, là thành phần thiết yếu của sự
sống và môi trường, quyết định sự tồn tại và phát triển bền vững của đất
nước, là điều kiện để khai thác, sử dụng tài nguyên khác và là tư liệu sản xuất
không thể thay thế được của các ngành kinh tế” (Trần Yêm và Trịnh Thị
Thanh, 1998) [24].
- Khái niệm ô nhiễm môi trường nước:
“Ô nhiễm nước là sự thay đổi theo chiều xấu đi các tính chất vật lý - hóa
học - sinh học của nước, với sự xuất hiện của các chất lạ ở thể lỏng, rắn làm
cho nguồn nước trở nên độc hại với con người và sinh vật, làm giảm độ đa
dạng sinh vật trong nước. Xét về tốc độ lan truyền và quy mô ảnh hưởng thì ô
nhiễm nước là vấn đề đáng lo ngại hơn ô nhiễm đất” (Hoàng Văn Hùng,
2008) [9].
- Khái niệm lưu vực sông:
“Là vùng địa lý mà trong phạm vi đó nước mặt, nước dưới đất chảy tự
nhiên vào sông” (Dư Ngọc Thành, 2009) [18].
5
6
- Khái niệm tiêu chuẩn môi trường:
Theo khoản 5 điều 3 Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam (2005) [15]:
“Tiêu chuẩn môi trường là giới hạn cho phép các thông số về chất lượng môi
trường xung quanh, về hàm lượng các chất gây ô nhiễm trong chất thải được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định làm căn cứ để quản lý và bảo vệ
môi trường”.
2.1.1.2. Đánh giá chất lượng nước
Chất lượng nước được đánh giá bởi các chỉ tiêu:
- Chỉ tiêu vật lý
+ Nhiệt độ: Nhiệt độ tác động tới các quá trình sinh hoá diễn ra trong
nguồn nước tự nhiên sự thay đổi về nhiệt độ sẽ kéo theo các thay đổi về chất

lượng nước, tốc độ, dạng phân huỷ các hợp chất hữu cơ, nồng độ oxy hoà tan.
+ pH: Là một trong những chỉ tiêu cần kiểm tra đối với chất lượng nước
cấp và nước thải. Giá trị pH cho phép xác định xử lý nước theo phương pháp
thích hợp hoặc điều chỉnh lượng hóa chất trong quá trình xử lý thải bằng
phương pháp sinh học. Sự thay đổi giá trị pH trong nước có thể dẫn tới những
thay đổi về thành phần các chất trong nước do quá trình hòa tan hoặc kết tủa,
hoặc thúc đẩy hay ngăn chặn những phản ứng hóa học, sinh học xảy ra trong nước.
+ Màu sắc: Màu sắc của nước là do các chất bẩn trong nước gây nên.
Màu sắc của nước có ảnh hưởng nhiều tới giá trị cảm quan khi sử dụng nước.
Màu sắc gây nên bởi các tạp chất trong nước thường là do chất hữu cơ, một số
ion vô cơ, một số loài thủy sinh vật…
+ Độ đục: Độ đục của nước là mức độ ngăn cản ánh sáng xuyên qua
nước. Độ đục của nước có thể do nhiều loại chất lơ lửng bao gồm các loại có
kích thước hạt keo đến những hệ phân tán thô gây nên như các chất huyền
phù, các hạt cặn đất cát, các vi sinh vật. Nó cũng chứa nhiều thành phần hoá
học: vô cơ, hữu cơ Độ đục cao biểu thị nồng độ nhiễm bẩn trong nước cao.
+ Hàm lượng chất rắn: Chất rắn ảnh hưởng tới chất lượng nước khi sử
dụng cho sinh hoạt, sản xuất, cản trở hoặc tiêu tốn thêm nhiều hóa chất trong
quá trình sử lý. Chất rắn có trong nước là do các chất vô cơ ở dạng hòa tan
hoặc không tan như đất đá ở dạng huyền phù và các chất hữu cơ, chất hữu cơ
tổng hợp như vi sinh vật, phân bón, chất thải công nghiệp.
6
7
- Chỉ tiêu hóa học
+ Hàm lượng oxy hòa tan trong nước (DO: Dissolved oxygen): Là lượng
oxy không khí có thể hòa tan vào nước trong điều kiện nhiệt độ, áp suất xác
định. Hàm lượng oxy hòa tan trong nước giúp ta đánh giá chất lượng nước.
Khi chỉ số DO thấp, có nghĩa là nước có nhiếu chất hữu cơ, nhu cầu oxy hóa
tăng nên tiêu thụ nhiều oxy trong nước. Khi chỉ số DO cao chứng tỏ nước có
nhiều rong tảo tham gia quá trình quang hợp giải phóng O

2
.
+ Nhu cầu oxy sinh hóa (BOD: Biochemical oxygene demand): Là
lượng oxy cần thiết để vi sinh vật tiêu thụ trong quá trình oxy hóa các chất
hữu cơ trong nước.
+ Nhu cầu oxy hóa học (COD: Chemical oxygen demand): Là lượng oxy
cần thiết cho quá trình oxy hóa các hợp chất hữu cơ trong nước thành CO
2

H
2
O. COD biểu thị lượng chất hữu cơ có thể oxy hóa bằng hóa học.
+ Kim loại nặng: Một số kim loại nặng đi vào nước do nước thải công
nghiệp hoặc đô thị. Những kim loại này ở điều kiện pH khác nhau sẽ tồn tại
những hình thái khác nhau gây ô nhiễm nước.
- Chỉ tiêu vi sinh
+ Coliform: Là nhóm vi sinh vật quan trọng trong chỉ thị môi trường, xác
định mức độ ô nhiễm bẩn về mặt sinh học của nguồn nước.
2.1.1.3. Tài nguyên nước và tầm quan trọng của nước đối với sự phát triển
của con người
Tài nguyên nước là các nguồn nước mà con người sử dụng hoặc có thể
sử dụng vào những mục đích khác nhau. Nước được dùng trong các hoạt
động nông nghiệp, công nghiệp, dân dụng, giải trí và môi trường. Hầu hết các
hoạt động trên đều cần nước ngọt, trong khi đó hơn 97% nước trên Trái Đất là
nước muối, chỉ chưa tới 3% còn lại là nước ngọt nhưng hơn 2/3 lượng nước
này tồn tại ở dạng sông băng và các mũ băng ở các cực. Phần còn lại không
đóng băng được tìm thấy chủ yếu ở dạng nước ngầm, chỉ một tỷ lệ nhỏ tồn tại
trên mặt đất và trong không khí.
7
8

Bảng 2.1. Trữ lượng nước trên trái đất
Thủy phần
Diện tích
(1000 km
2
)
Thể tích
(1000 km
3
)
Tỷ lệ %
tổng lượng
1. Đại dương 361.300 1.370.323 97,9668
2. Tổng nước ngầm 134.800 60 0,0043
3. Nước ngầm ở vùng trao đổi 82.000 4.000 0,286
4. Băng hà 16.227 24.000 1,7158
5. Nước hồ 2.059 280 0,02
6. Nước trong tầng thổ nhưỡng 82.000 85 0,006
7. Hơi nước trong khí quyển 510.000 14 0,001
8. Nước sông 148.800 1,2 0,0001
Tổng cộng 1.337.186 1.398.763,2 100
(Nguồn: Nguồn nước và tính toán thủy lợi - Trịnh Trọng Hàn - 1993) [6].
Nước đóng vai trò rất quan trọng gắn liền với sự phát sinh và phát triển
của sinh vật và đặc biệt không thể thiếu được trong sự phát triển nền kinh tế
của mọi quốc gia. Triết học cổ đại đã cho rằng 4 yếu tố khởi nguyên cấu tạo
nên mọi vật là khí trời, nước, lửa và đất (Emerpadocles - 490 - 439 trước công
nguyên). Lịch sử văn minh nhân loại chứng minh điều đó với các nền văn
minh lớn đã hình thành rất sớm trên lưu vực các con sông. Đó là văn minh
Lưỡng Hà ở Tây Á, nền văn minh Ai Cập ở hạ lưu sông Nil, văn minh sông
Hằng ở Ấn Độ, văn minh Hoàng Hà ở Trung Quốc, văn minh sông Hồng ở

Việt Nam… Một số thành phố và nền văn minh đã từng biến mất trong quá
khứ chỉ vì thiếu nước do sự biến đổi khí hậu gây nên. Nước là nguồn vật chất
cung nguyên liệu, vật liệu cho sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, có tiềm
năng về năng lượng rất lớn phục vụ cho nhu cầu của con người. Đối với mỗi
quốc gia, nước cũng tương tự như đất đai, hầm mỏ, rừng, biển,… đều là tài
nguyên vô cùng quý báu. Trong điều kiện phát triển mới của nền kinh tế hiện
nay, không có một hoạt động nào của con người mà không có liên quan đến
8
9
việc khai thác nguồn nước. Con người đã dùng 8% trong tổng lượng nước
ngọt khai thác được để phục vụ cho sinh hoạt, 23% cho công nghiệp và 63%
cho nông nghiệp. Các hoạt động sản xuất của nghành công nghiệp đều cần
đến nước theo nhu cầu ngày một tăng như một số ngành chế biến thực phẩm,
hoá chất, giấy, dầu mỏ, luyện kim. Riêng đối với ngành nông nghiệp thì nhu cầu
nước trở thành tất yếu và theo chiều hướng tăng (Speaphico, 2002) [26].
2.1.2. Cơ sở pháp lý
Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam thông qua ngày 29/11/2005 của Bộ
Tài nguyên và Môi trường.
Luật Tài nguyên nước 1998 ngày 20/05/1998.
Nghị định 179/1999/NĐ - CP ngày 30/12/1999 của chính phủ quy định
việc thi hành luật tài nguyên nước.
Nghị định 80/2006/NĐ - CP ngày 09/08/2006 của chính phủ về việc quy
định chi tiết hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường.
Nghị định 21/2008/NĐ - CP ngày 28/02/2008 về việc sửa đổi, bổ sung
một số điều của nghị định 80/2006/NĐ - CP ngày 09/08/2006 của chính phủ
về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ
môi trường.
Nghị định số 120/2008/NĐ - CP ngày 01/12/2008 của Chính phủ về
quản lý lưu vực sông.
Quyết định số 16/2008/QĐ - BTNMT ngày 31/12/2008 của Bộ Tài

nguyên và Môi trường ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường.
Quyết định số 22/2006/QĐ - BTNMT ngày 18/08/2006 của Chính phủ
về việc bắt buộc áp dụng tiêu chuẩn Việt Nam về môi trường.
Quy chuẩn kỹ thuật Việt Nam QCVN 08:2008/BTNMT, quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia về chất lượng nước mặt.
Quy chuẩn kỹ thuật Việt Nam QCVN 40:2011/BTNMT, quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia về chất lượng nước thải.
Quy chuẩn kỹ thuật Việt Nam QCVN 28:2010/BTNMT, quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia về nước thải y tế.
9
10
Quy chuẩn kỹ thuật Việt Nam QCVN 12:2008/BTNMT, quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia về nước thải công nghiệp giấy và bột giấy.
2.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
2.2.1. Vấn đề ô nhiễm môi trường nước trên thế giới
Tài nguyên nước trên thế giới có trữ lượng khoảng 1,399 tỷ km
3
, trong
đó trữ lượng nước sông là 1,2.10
3
km
3
với diện tích 148800.10
3
km
2
chiếm
0,0001% tổng lượng nước (Dư Ngọc Thành, 2009) [18]. Đây là nguồn nước
chính phục vụ cho nhu cầu của con người, do vậy nó đóng vai trò vô cùng
quan trọng đối với sự phát triển của mọi quốc gia trên thế giới. Nhưng đi đôi

với sự phát triển của kinh tế - xã hội một cách nhanh chóng đó thì ô nhiễm
môi trường nước cũng ngày càng tăng, ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống, sức
khỏe, sự phát triển của nhân loại.
Trong thập niên 60, ô nhiễm nước lục địa và đại dương gia tăng với nhịp
độ đáng lo ngại. Nhiều dòng sông tuyệt đẹp, với khung cảnh như trên thiên
đường trước kia thì nay đều bị ô nhiễm, thậm chí trở thành những dòng sông
chết do chính con người hủy hoại. Sau đây là một vài ví dụ tiêu biểu:
Sông Citarum rộng 13.000 km
2
, là một trong những dòng sông lớn nhất
của Indonesia. Theo số liệu của Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), sông
Citarum cung cấp 80% lượng nước sinh hoạt cho 14 triệu dân thủ đô Jakarta,
tưới cho những cánh đồng cung cấp 5% sản lượng lúa gạo và là nguồn nước
cho hơn 2.000 nhà máy - nơi làm ra 20% sản lượng công nghiệp của đảo quốc
này. Dòng sông này là một phần không thể thay thế trong cuộc sống của
người dân vùng Tây đảo Java. Nó chảy qua những cánh đồng lúa và những
thành phố lớn nhất Indonesia. Tuy nhiên, hiện tại nó là một trong những dòng
sông ô nhiễm nhất thế giới. Citarum như một bãi rác di động, nơi chứa các
hóa chất độc hại do các nhà máy xả ra, thuốc trừ sâu trôi theo dòng nước từ
các cánh đồng và cả chất thải do con người đổ xuống. Ô nhiễm nghiêm trọng
khiến cá chết hàng loạt, người dân sử dụng nước cũng bị lây nhiễm nhiều loại
bệnh tật. Điều kinh hoàng hơn cả là nhiều hộ dân sống quanh dòng sông này
hàng ngày vẫn sử dụng nước sông để giặt giũ, tắm rửa, thậm chí cả đun
nấu. Các thành phố hai bên bờ sông Citarum thường xuyên bị ngập lụt do
dòng chảy của con sông bị tắc nghẽn bởi núi rác (Thái Bình, 2009) [3].
10
11
Sông Hằng là con sông nổi tiếng nhất Ấn Độ, dài 2.510 km bắt nguồn từ
dãy Hymalaya, chảy theo hướng Đông Nam qua Bangladesh và chảy vào vịnh
Bengal. Sông Hằng có lưu vực rộng 907.000 km

2
, một trong những khu vực
phì nhiêu và có mật độ dân cao nhất thế giới. Sông Hằng được người Hindu
rất coi trọng và sùng kính, là trung tâm của những truyền thống xã hội và tôn
giáo của đất nước Ấn Độ. Lưu vực sông Hằng gần như tạo ra một vùng đất
liền thứ ba của Ấn Độ và là một trong 12 vùng dân cư trên thế giới phụ thuộc
vào con sông. Hiện nay, sông Hằng là một trong những con sông bị ô nhiễm
nhất trên thế giới vì bị ảnh hưởng nặng nề bởi nền công nghiệp hóa chất, rác
thải công nghiệp và rác thải sinh hoạt chưa qua xử lý tới mức những người
mộ đạo trước kia tôn thờ nguồn nước sông này giờ đây lại trở nên khiếp sợ
chính nguồn nước đó. Chất lượng nước đang trở nên xấu đi nghiêm
trọng. Cùng với sự mất đi khoảng 30 - 40% lượng nước do những đập nước
đang làm cho sông Hằng trở nên khô cạn và có nguy cơ biến mất. Theo ước
tính, có hơn 400 triệu người sống dọc hai bờ sông Hằng và mỗi ngày có 2
triệu người tới bờ sông làm các nghi thức tắm rửa tại đây. Ngoài ra, do phong
tục hỏa táng một phần thi thể rồi thả trôi sông nên những thi thể người trôi
lững lờ trên dòng sông này, rồi rác thải trực tiếp từ các bệnh viện do thiếu lò
đốt cũng là một nguyên nhân làm tăng ô nhiễm sông. Nước sông giờ không
những không thể dùng ăn uống, tắm giặt mà còn không thể dùng cho sản xuất
nông nghiệp. Các nghiên cứu cũng phát hiện tỷ lệ các kim loại độc trong nước
sông khá cao như thủy ngân (nồng độ từ 65 - 520 ppb), chì (10 - 800 ppm),
crom (10 - 200 ppm) và nickel (10 - 130 ppm).
Sông Hoàng Hà là con sông dài thứ 2 ở Trung Quốc, có vai trò rất quan
trọng đối với người dân nước này. Đây chính là nguồn cung cấp nước lớn
nhất cho hàng triệu người dân ở phía bắc Trung Quốc nhưng hiện giờ đã bị ô
nhiễm nặng nề bởi sự cố tràn dầu và các chất thải công nghiệp. Một báo cáo
của ủy ban bảo vệ sông Hoàng Hà cho biết 33,8% mẫu nước lấy từ con sông
này không đạt tiêu chuẩn để trồng trọt, nuôi trồng thủy sản cũng như sử dụng
cho công nghiệp. Năm 1994, Hoàng Hà được đánh giá bị ô nhiễm chất thải
công nghiệp cấp 5 là cấp nhiễm độc cao nhất, sản sinh nhiều làng ung thư.

Các cuộc khảo sát sau đó cho thấy mức độ trên sông Hoàng Hà chẳng những
11
12
không giảm mà còn tăng lên. Các chỉ số quan trọng về ô nhiễm đều đạt hoặc
vượt kỷ lục lịch sử. Các chất ô nhiễm đã trực tiếp thấm vào đất và hiện nay
ngay các mạch nước ngầm ở độ sâu 40 m cũng bị nhiễm bẩn.Tình trạng ô
nhiễm đã ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống 150 triệu dân (Văn Anh, 2008) [1].
Sông Tùng Hoa có chiều dài gần 2.000 km, chảy qua thành phố lớn Cáp
Nhĩ Tân với gần 4 triệu dân và hơn 30 thành phố khác, nối tiếp với các vùng
thôn quê mà đa số cư dân sống nhờ vào nguồn nước của con sông này. Sông
Tùng Hoa đã bị ô nhiễm nặng nề bởi một sự cố bất thường ngày 13/01/2005
liên quan đến các nhà máy hóa chất dầu hỏa lớn trong tỉnh Cát Lâm phía Bắc
Trung Quốc đã bất ngờ bị nổ và hậu quả là hơn 100 tấn benzene và những
chất độc khác từ nhà máy đã đổ xuống sông (Sơn Nguyễn, 2005) [12].
Sông Marilao: Nằm trong hệ thống các sông gần vùng ngoại ô tỉnh
Bulacan ở Philippines, sông Marilao đang bị ô nhiễm nặng nề với đủ thứ rác
thải sinh hoạt hàng ngày. Đây còn là nơi lưu thông hàng hóa cho các khu vực
thuộc da, tinh chế kim loại, đúc chì. Chính vì vậy, nguồn nước của sông
Marilao chứa rất nhiều hóa chất gây độc hại cho sức khỏe con người như
đồng, thạch tín. Các chất ô nhiễm này gây ra các vấn đề về sức khoẻ cho cư
dân trong vùng và xa hơn nó còn gây hại tới ngành đánh bắt hải sản tại vịnh
Manila. Trước nguy cơ bị xóa sổ, chính quyền địa phương đã có những biện
pháp can thiệp, nhưng sông Marilao vẫn hàng ngày hàng giờ hứng chịu rác
thải của các hộ dân ven sông và các chất thải từ khu chế xuất vẫn xả trộm ra sông.
Sông Buriganga là một trong những con sông lớn chạy qua thủ đô
Dhaka của Bangladesh. Tuy nhiên, từ năm 1995 - 1999, mức ô nhiễm của
sông rất cao. Sông bị ô nhiễm bởi các hóa chất từ các nhà máy ximăng, xà
phòng, nhuộm, da và giấy. Hầu hết những loại hóa chất được xác định có
trong nước sông đều thuộc nhóm 12 chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy, rất
độc hại đối với con người. Các chất ô nhiễm này liên tục thâm nhập vào cơ

thể con người thông qua thực phẩm, đồ uống và phá hủy các bộ phận của cơ thể.
Sông Mississipi con sông dài thứ 2 ở Mỹ, với 3.782 km, bắt nguồn từ hồ
Itasca, chảy qua hai bang Minnesota và Louisiana. Mực nước sông
Mississippi giảm tới 22% trong giai đoạn từ năm 1960 đến năm 2004. Sự sụt
giảm này liên quan tới tình trạng biến đổi khí hậu và gây ảnh hưởng lớn đối
12
13
với hàng trăm triệu người trên thế giới. Theo Quỹ bảo vệ thiên nhiên toàn cầu,
con sông này đang trở nên cạn kiệt, khô cằn, ảnh hưởng đến hàng trăm triệu
người và phá hủy sự sống ở những vùng lưu vực con sông. Nếu con sông này
“chết” thì hàng triệu người sẽ mất đi những nguồn sống của họ, sự đa dạng
sinh học bị phá hủy trên diện rộng, nước ngọt sẽ thiếu trầm trọng và đe doạ
tới an ninh lương thực.
Riachuelo là con sông lớn chảy qua thủ đô Buenos Aires của Argentina.
Thay vì trở thành nguồn cung cấp nước tưới tiêu và điều hòa khí quyển cho
thành phố, sông Riachuelo giờ đây nổi tiếng là con sông bẩn và ô nhiễm nhất
châu Mĩ, gây nhức nhối cho dân cư cũng như chính phủ nước này. Nước sông
Riachuelo không còn một chút oxy nào mà bị ô nhiễm nặng bởi nước thải
sinh hoạt, chất độc hóa học từ các nhà máy ven sông đổ ra kèm theo lượng rác
thải trong thành phố dồn về. Dọc triền sông Riachuelo hiện đang có tới hơn 2
triệu người dân Argentina sinh sống, đa số dân cư trong khu vực này đều là
lao động nghèo, người nhập cư bất hợp pháp và một phần không nhỏ tầng lớp
xã hội da đen sinh sống. Họ điềm nhiên vứt rác và đổ bất cứ thứ gì không cần
thiết xuống sông như một tiền lệ và thói quen đã được mọi người chấp nhận
từ lâu. Nạn ô nhiễm môi trường xung quanh khu vực Riachuelo kéo theo nguy
cơ bùng phát của những ổ dịch bệnh nguy hiểm do thiếu vệ sinh như: Tiêu
chảy, lao, hen suyễn, sốt rét và thậm chí cả bệnh ung thư, đe dọa nghiêm
trọng sức khỏe người dân thủ đô Buenos Aires của Argentina (Hoài Thư,
2007) [19].
Hiện nay, tình trạng ô nhiễm nguồn nước nói chung và ô nhiễm nước

sông nói riêng đang là vấn đề quan trọng, cấp bách không chỉ là vấn đề của
một nước mà là vấn đề chung của toàn thế giới. Con người đang đứng trước
nguy cơ thiếu nước ngọt trầm trọng, nhiều sông hồ trên thế giới đang bị ô
nhiễm nặng gây ảnh hưởng xấu tới đời sống và phát triển của con người. Vì
vậy vấn đề quản lý, giảm thiểu ô nhiễm môi trường nước sông là một trong
những vấn đề cần được quan tâm hàng đầu để phát triển kinh tế và bảo vệ môi
trường mỗi quốc gia.
13
14
2.2.2. Vấn đề ô nhiễm môi trường nước tại Việt Nam
Năm 1993, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường đã đánh giá tài
nguyên nước trên hệ thống sông ngòi nước ta thật phong phú. Nếu tính các
con sông có chiều dài từ 10 km trở lên và có dòng chảy thường xuyên trên
nước ta thì có tới 2369 con sông, trong đó 9 hệ thống sông có diện tích lưu
vực từ 10.000 km
2
trở lên như sông Bằng Giang, sông Kỳ Cùng, sông Thái
Bình, sông Hồng, sông Mã, sông Cả, sông Thu Bồn, sông Đồng Nai, sông Mê
Kông (Dư Ngọc Thành, 2009) [18]. Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa
ở nước ta tuy chưa phát triển mạnh nhưng nhiều vùng đô thị và khu công
nghiệp đã bị ô nhiễm nước.
2.2.2.1. Ô nhiễm ở thành thị và các khu sản xuất
Hiện nay ở nước ta, mặc dù các cấp, các ngành đã có nhiều cố gắng
trong việc thực hiện chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường, nhưng tình
trạng ô nhiễm nước vẫn là vấn đề rất đáng lo ngại.
Tốc độ công nghiệp hóa, đô thị hóa khá nhanh cùng với sự gia tăng dân
số gây áp lực ngày càng nặng nề đối với tài nguyên nước trong lãnh thổ. Môi
trường nước ở nhiều đô thị, khu công nghiệp và làng nghề ngày càng bị ô
nhiễm bởi nước thải, khí thải và chất thải rắn. Ở các thành phố lớn, hàng trăm
cơ sở sản xuất công nghiệp đang gây ô nhiễm môi trường nước do không có

công trình, thiết bị xử lý chất thải. Ô nhiễm nước do sản xuất công nghiệp là
rất nặng, cụ thể: Ở ngành công nghiệp dệt may, ngành công nghiệp giấy và
bột giấy, nước thải thường có độ pH trung bình từ 9 - 11; chỉ số nhu cầu oxy
sinh hóa (BOD), nhu cầu oxy hóa học (COD) có thể lên đến 700 mg/l và 2500
mg/l; hàm lượng chất rắn lơ lửng… cao gấp nhiều lần giới hạn cho phép.
Mức độ ô nhiễm nước ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công
nghiệp tập trung là rất lớn. Tại cụm công nghiệp Tham Lương, thành phố Hồ
Chí Minh, nguồn nước bị nhiễm bẩn bởi nước thải công nghiệp với tổng
lượng nước thải ước tính 500.000 m
3
/ngày từ các nhà máy giấy, bột giặt,
nhuộm, dệt. Ở thành phố Thái Nguyên, nước thải công nghiệp thải ra từ các
nhà máy giấy, luyện gang thép, luyện kim màu, khai thác than; về mùa cạn
tổng lượng nước thải khu vực thành phố Thái Nguyên chiếm khoảng 15% lưu
vực sông Cầu; nước thải từ sản xuất giấy có pH trung bình 8,4 - 9 và hàm
14
15
lượng NH
4
là 4 mg/l, hàm lượng chất hữu cơ cao, nước thải có màu nâu, mùi
khó chịu…
Tình trạng ô nhiễm nước ở các đô thị rõ nhất là ở thành phố Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh. Ở các thành phố này, nước thải sinh hoạt không có
hệ thống xử lý tập trung mà trực tiếp xả ra nguồn tiếp nhận. Mặt khác, còn rất
nhiều cơ sở sản xuất không xử lý nước thải, phần lớn các cơ sở y tế, bệnh viện
chưa có hệ thống xử lý nước thải; một lượng lớn rác thải rắn trong thành phố
không được thu gom… là những nguồn quan trọng gây ô nhiễm nước. Hiện
nay, mức độ ô nhiễm trong các kênh, sông hồ ở các thành phố lớn là rất nặng.
2.2.2.2. Ô nhiễm ở nông thôn và khu vực sản xuất nông nghiệp
Hiện nay, Việt Nam có gần 76% dân số sinh sống ở nông thôn là nơi cơ

sở hạ tầng còn lạc hậu, phần lớn các chất thải của con người và gia súc không
được xử lý nên thấm xuống đất hoặc bị rửa trôi, làm cho tình trạng ô nhiễm
nguồn nước về mặt hữu cơ và vi sinh vật ngày càng cao. Theo báo cáo của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, một số vi khuẩn Feca coliform trung
bình biến đổi từ 1.500 - 3.500 MNP/100 ml ở các vùng ven sông Tiền và sông
Hậu, tăng lên tới 3.800 - 12.500 MNP/100 ml ở các kênh tưới tiêu.
Trong sản xuất nông nghiệp do lạm dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật,
các nguồn nước ở sông, hồ, kênh, mương bị ô nhiễm, ảnh hưởng đến môi
trường nước và sức khỏe nhân dân.
Theo Tổng cục Thủy sản, đến năm 2011 tổng diện tích nuôi trồng thủy
sản của cả nước đạt 1.099.000 ha. Do nuôi trồng thủy sản ồ ạt, thiếu quy
hoạch, không tuân theo quy trình kỹ thuật nên đã gây nhiều tác động tiêu cực
tới môi trường nước. Cùng với việc sử dụng nhiều và không đúng cách các
loại hóa chất trong nuôi trồng thủy sản, thì các thức ăn dư lắng xuống đáy ao,
hồ, lòng sông làm cho môi trường nước bị ô nhiễm các chất hữu cơ, phát triển
một số loài vi sinh vật gây bệnh và xuất hiện một số tảo độc.
2.2.2.3. Ô nhiễm nước ở một số sông lớn ở nước ta
Theo kết quả nghiên cứu của Cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi
trường thì hiện nay tình trạng ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước (cả về số
lượng và chất lượng) đã trở lên khá phổ biến với toàn bộ lưu vực các con
15
16
sông. Tại lưu vực sông Cầu (đoạn hồ Núi Cốc), một số đã vượt quá tiêu chuẩn
cho phép: Lượng NO
2
vượt quá 20 lần, thủy ngân 3 lần, dầu mỡ 7 lần, thuốc
trừ sâu 2 lần. Một số đoạn sông có chứa chất thải thuộc khu công nghiệp Thái
Nguyên có màu đen. Chất lượng nước sông Nhuệ - sông Đáy chảy qua địa
bàn tỉnh Hà Nam đang bị ô nhiễm ở mức báo động, hàm lượng các chất độc
hại trong nước ở đây đều cao hơn rất nhiều lần tiêu chuẩn cho phép. Có đợt ô

nhiễm nặng, hàm lượng amoniac trong nước cao gấp 150 - 300 lần so với tiêu
chuẩn châu Á. Tại lưu vực sông Đồng Nai - Sài Gòn, phần hạ lưu của nhiều
sông trong lưu vực đã bị ô nhiễm chất hữu cơ, vi sinh vật và nhiễm kim loại
nặng nghiêm trọng, trong đó sông Thị Vải có đoạn dài 10 km đã trở thành
“sông chết” (Huyền Thanh, 2007) [17].
Sau đây là một số lưu vực sông đã bị ô nhiễm ở mức đáng báo động:
Lưu vực sông Cầu: Đây không còn là lưu vực có nguy cơ ô nhiễm nữa
mà đã hoàn toàn ô nhiễm. Dân số sống trong lưu vực này chiếm khoảng 7
triệu người trên một diện tích độ 10.000 km
2
. Trong lưu vực này, ngoài khu
sản xuất công nghiệp lớn nhất Thái Nguyên, qua việc khai thác mỏ và hóa
chất, còn có trên 800 cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp và các khu công
nghiệp nhỏ như các làng nghề tập trung. Lượng chất thải lỏng thải hồi vào lưu
vực sông Cầu ước tính khoảng 24 triệu m
3
trong đó có nhiều kim loại độc hại
như: Selenium, mangan, chì, thiếc, thủy ngân và các hợp chất hữu cơ từ các
nhà máy sản xuất hóa chất bảo vệ thực vật, thuốc sát trùng,…
Lưu vực sông Nhuệ - Đáy: Sông Nhuệ - Đáy thuộc phần Tây Nam của
vùng đồng bằng Bắc bộ, ở phía hữu ngạn của sông Hồng, với diện tích tự
nhiên của lưu vực 7.665 km
2
, dân số 10.186.000 người, mật độ dân số 874
người/ km
2
(cao hơn 3,5 lần mật độ trung bình cả nước), có trên 4.000 cơ sở
sản xuất công nghiệp (năm 2005). Vì vậy, ngoài nước thải công nghiệp, còn
phải kể đến nước thải sinh hoạt, tất cả đều đổ thẳng ra sông hồ. Lượng nước
thải sinh hoạt được ước tính là 140 triệu m

3
/năm (năm 2004). Còn các nguồn
nước thải của trên 120 cơ sở sản xuất công nghiệp ở vùng này, trừ Hà Nội ước
tính khoảng trên 120 triệu m
3
/năm. Riêng tại Hà Nội, có 400 xí nghiệp và
khoảng 11 nghìn cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp thải hồi trung bình 20
triệu m
3
/năm. Hai hạ lưu ô nhiễm trầm trọng nhất là sông Nhuệ và sông Tô
16
17
Lịch với hàm lượng DO gần như triệt tiêu, nghĩa là không có điều kiện cho
tôm cá sông được và vào mùa khô, nhiều đoạn sông trên hai con sông này chỉ
là những bãi bùn.
Lưu vực sông Đồng Nai: Lưu vực hệ thống sông Đồng Nai có diện tích
phần lưu vực thuộc lãnh thổ Việt Nam khoảng 37.400 km
2
(chiếm 84,8% tổng
diện tích toàn lưu vực), dân số trong lưu vực này là 16.431.000 người (năm
2005). Hàng năm, sông ngòi trong lưu vực này tiếp nhận khoảng 40 triệu
m
3
/năm nước thải công nghiệp, chưa kể một số lượng không nhỏ của trên 30
nghìn cơ sở sản xuất hóa chất rác thải trong thành phố Hồ Chí Minh. Nước thải
sinh hoạt ước tính khoảng 360 triệu m
3
/năm. Ngoài những chất thải công
nghiệp như hợp chất hữu cơ, kim loại độc hại như: Đồng, chì, sắt, cadmium,
các loại thuốc bảo vệ thực vật. Nơi đây còn xảy ra hiện tượng nước sông bị axit

hóa như đoạn sông từ cầu Bình Long đến Bến Than, có khi độ pH xuống đến
4,0 và trọng điểm là sông Rạch Tra, nơi tất cả nước rỉ từ các bãi rác thành phố
và hệ thông nhà máy dệt nhuộm ở khu Tham Lương đổ vào. Lưu vực này hiện
đang bị khai thác quá mức, nước sông hoàn toàn bị ô nhiễm và hệ sinh thái bị
tàn phá và đây cũng là một yếu tố sống còn cho sự phát triển cho cả nước.
Lưu vực sông Tiền Giang và Hậu Giang: Đây là một vùng hết sức đặc
biệt và cũng là một lưu vực lớn nhất, đông dân nhất, với diện tích 39 nghìn
km
2
với gần 30 triệu dân. Phát triển kinh tế nơi đây đặt trọng tâm là nông
nghiệp và chăn nuôi thủy sản. Vì không phải là một trọng điểm công nghiệp
cho nên những vấn đề môi trường không giống như tình trạng 3 lưu vực trên.
Nhưng việc khai thác nông nghiệp và thủy sản đã trở thành một vấn đề cần
lưu tâm. Việc ô nhiễm hóa chất do dư lượng phân bón và thuốc bảo vệ thực
vật là kết quả của việc khai thác tối đa nguồn đất nông nghiệp. Đã có nhiều
dấu hiệu cho thấy các hóa chất độc hại như: DDT, nitrate, hóa chất bảo vệ
thực vật thuộc nhóm Organophosphate, nguyên nhân của nhưng mầm bệnh
gây ung thu đã hiện diện trong nước. Thêm nữa, viễn cảnh nguồn nước ở lưu
vực này bị ô nhiễm asen do việc đào trên 300 nghìn giếng để dùng cho sinh
17
18
hoạt và tưới tiêu cũng sẽ là một quốc nạn trong tương lai không xa. Việc khai
thác, chăn nuôi thủy sản trên sông không những làm cản trở dòng chảy của
sông, việc di chuyển trên sông sẽ khó khăn hơn mà còn là một vấn nạn môi
trường không thể tránh khỏi. Từ thượng nguồn Châu Đốc, An Giang, cho đến
tận Mỹ Tho, cá bè có thể bị chết hàng loạt do nguồn nước bị ô nhiễm từ
thượng nguồn do cá chết lây lan xuống hạ lưu (Mai Thanh Tuyết, 2005) [22].
Phát triển kinh tế không đi đôi với bảo vệ môi trường, kết quả tất yếu là
tình trạng môi trường ngày càng xấu đi và cường độ ô nhiễm ngày càng tăng
lên. Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đã kêu gọi các địa phương

cứu lấy những con sông trước khi quá muộn, không để như trường hợp của
sông Đáy và sông Tô Lịch. Nếu như chúng ta không có các biện pháp thích
đáng thì tương lai những dòng sông Việt Nam trở thành dòng sông chết cũng
như việc phát triển sẽ bị ảnh hưởng. Những việc cần làm để có thể cứu vãn
tình hình cần được triển khai nhanh chóng, một trong những nhiệm vụ đó là
việc đánh giá chính xác mức độ ô nhiễm môi trường nước sông là rất cần thiết
để phục vụ cho công tác quản lý và bảo vệ môi trường.
2.3. Tài nguyên nước của Thái Nguyên và chất lượng nước sông Cầu
2.3.1. Tài nguyên nước của Thái Nguyên
Với lượng mưa khá lớn, trung bình 1500 - 2500 mm, tổng lượng nước
mưa tự nhiên của tỉnh Thái Nguyên dự tính lên tới 6,4 tỷ m
3
/năm. Tuy nhiên,
lượng mưa phân bố không đều theo không gian và thời gian. Theo không
gian, do sự chi phối của địa hình nên lượng mưa có sự khác nhau giữa các
khu vực, lượng mưa tập trung nhiều ở thành phố Thái Nguyên, huyện Đại Từ,
trong khi đó tại huyện Võ Nhai, Phú Lương lượng mưa tập trung ít hơn. Theo
thời gian, lượng mưa tập trung khoảng 87% vào mùa mưa (từ tháng 5 đến
tháng 10) trong đó riêng lượng mưa tháng 8 chiếm đến gần 30% tổng lượng
mưa cả năm và vì vậy thường gây ra những trận lũ lụt lớn. Vào mùa khô (từ
tháng 11 đến tháng 4 năm sau), đặc biệt là tháng 12, tháng 1, lượng mưa trong
tháng chỉ bằng 0,5% lượng mưa cả năm.
18
19
Bảng 2.2. Tổng lượng mưa các tháng trong năm (mm)
Năm
Tháng
2005 2006 2007 2008 2009
Tháng 1 18,7 2,3 2,1 12,3 14,1
Tháng 2 39,6 24,4 39,1 18,4 14,1

Tháng 3 58,6 41 85,7 24,6 33,0
Tháng 4 40,5 19,6 135,4 129,7 137,8
Tháng 5 181,2 391,3 160,2 120,8 567,8
Tháng 6 224,5 233,5 238,1 238,8 318,7
Tháng 7 328,2 262,7 317,2 523,3 248,2
Tháng 8 410,9 328,5 120,8 395,7 187,8
Tháng 9 292,3 215,9 273,3 207,1 221,0
Tháng 10 9 83,1 45,7 154,1 66,1
Tháng 11 93 87,3 9,9 200,1 0,5
Tháng 12 47,9 6,3 23,8 5,3 2,9
Trung bình 145,4 141,3 120,9 169,2 152,9
Tổng 1744,4 1695,9 1451,3 2030,2 1808,7
(Nguồn: Trạm khí tượng Thái Nguyên)
Tại tỉnh có 02 con sông lớn là sông Cầu và sông Công cùng rất nhiều hệ
thống sông ngòi nhỏ khác:
Sông Cầu: Đi vào địa phận Thái Nguyên tại xã Văn Lăng - Đồng Hỷ và
ra khỏi địa phận Thái Nguyên ở huyện Phổ Yên, theo hướng chảy từ bắc
xuống nam, phân lãnh thổ tỉnh thành hai khu vực có hướng dòng chảy khác
nhau. Phía tây là các phụ lưu thuộc hữu ngạn sông Cầu có hướng dòng chảy
Tây Bắc - Đông Nam phù hợp với hướng địa hình, gồm các sông: sông Chợ
Chu, sông Đu, sông Cầu, sông Công. Phía Đông là phụ lưu tả ngạn sông Cầu
có sông Nghinh Tường với hướng dòng chảy Đông Nam - Tây Bắc.
19
20
Sông Công: Bắt nguồn từ độ cao 275 m ở xã Thanh Định (huyện Định
Hoá), chảy theo hướng Tây Nam đến xã Phú Cường huyện Đại Từ thì chuyển
hướng Tây Bắc - Đông Nam đổ vào sông Cầu ở phía bờ phải tại Hương Ninh
xã Hợp Thịnh huyện Hiệp Hoà tỉnh Bắc Giang. Sông Công dài 96 km, độ cao
trung bình lưu vực 224 m, độ dốc 27,3%, mật độ lưới sông 1,2 km/km
2

, diện
tích lưu vực 957 km
2
. Tổng lượng nước sông Công vào khoảng 0,794.10
6
m
3
,
lưu lượng trung bình năm 25 m
3
/s và modul dòng chảy năm vào khoảng 26 l/s.km
2
.
Sông Đu: Bắt nguồn từ vùng Lương Can ở độ cao 275 m, sông Đu chảy
theo hướng Tây Bắc - Đông Nam và nhập vào sông Cầu ở Sơn Cẩm - Phú
Lương - Thái Nguyên. Sông Đu chảy chủ yếu trong vùng trung du là chính,
với độ dài 44 km, diện tích lưu vực 361 km
2
, độ cao trung bình của lưu vực là
129 m, độ dốc 13,3%. Tổng lượng nước sông Đu khoảng 264.10
6
m
3
, lưu
lượng trung bình là 8,37 m
3
/s, mật độ lưới sông 0,94 km/km
2

Sông Chu: Bắt nguồn từ xã Bảo Linh huyện Định Hoá, chảy theo hướng

Tây Bắc - Đông Nam đến xã Linh Thông lại chuyển hướng Tây Nam - Đông
Bắc chảy qua thị trấn chợ Chu, sau đó từ Tân Dương lại chuyển hướng Tây
Bắc - Đông Nam để chảy vào sông Cầu tại Chợ Mới. Ở hạ lưu thị trấn chợ
Chu có thêm sông nhánh tương đối lớn đổ vào sông Khương với diện tích 108
km
2
, sông Chu có diện tích lưu vực 437 km
2
. Sông Chu có có độ dài khoảng
36 km, độ cao trung bình 206 m, độ dốc 16,2%, mật độ lưới sông 1,30
km/km
2
.
Sông Nghinh Tường: Bắt nguồn từ độ cao 550 m tại xã Yên Cư huyện
Phú Lương, chảy theo hương Tây Bắc - Đông Nam đến xã Cúc Đường huyện
Võ Nhai rồi chuyển hướng Đông Nam - Tây Bắc và đổ vào bờ trái sông Cầu
tại thượng lưu Lang Hít. Sông Nghinh Tường dài 46 km, độ cao trung bình
lưu vực 290 m, độ dốc 12,9%, mật độ lưới sông 1,05 km/km
2
, diện tích lưu
vực 465 km
2
.
Ngoài các sông trên, Thái Nguyên còn có trên 4.000 ha hồ ao, trong đó
có rất nhiều hồ nhân tạo do đắp đập ngăn dòng chảy, lấy nước làm thuỷ lợi để
phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Hồ Núi Cốc trên sông Công là hồ lớn và
quan trọng nhất trên địa bàn tỉnh. Hồ có diện tích mặt nước rộng khoảng rộng
khoảng 25 km
2
với sức chứa lên tới 175 triệu m

3
nước. Hồ này có thể chủ
20
21
động điều hoà dòng chảy, chủ động tưới tiêu cho 12 nghìn ha lúa hai vụ màu,
cây công nghiệp và cung cấp nước sinh hoạt cho thành phố Thái Nguyên và
thị xã Sông Công.
2.3.2. Hiện trạng chất lượng nước sông Cầu
Nhìn chung chất lượng nước sông Cầu đã bị suy giảm, nhiều nơi đã bị ô
nhiễm nghiêm trọng, nhất là các đoạn sông chảy qua các đô thị, khu công
nghiệp và các làng nghề. Lưu vực sông Cầu được chia làm thượng lưu, trung
lưu và hạ lưu.
Đoạn thượng lưu: Từ thượng nguồn sông đến Chợ Mới, nước sông Cầu
ở đoạn này đã bắt đầu ô nhiễm ở một vài vị trí, cụ thể là các sông suối chảy
qua các khu khai thác mỏ, nhất là các khu tuyển quặng, đào đãi khoáng sản tự
do… Tuy nhiên quan trắc tại một số điểm khác vẫn cho kết quả tương đối
tốt,các chỉ tiêu chất lượng nước còn đảm bảo giới hạn cho phép đối với nguồn
nước mặt loại A (QCVN 08:2008/BTNMT) do chảy qua vùng dân cư thưa
thớt và công nghiệp chưa phát triển.
Đoạn trung lưu: Từ Chợ Mới đến thành phố Thái Nguyên. Đây là khu
vực đã có mức độ phát triển kinh tế khá cao. Đoạn sông này đã tiếp nhận một
lượng lớn nước thải (gần 300 triệu m
3
/năm) từ các hoạt động công nghiệp,
nông nghiệp, sinh hoạt, dịch vụ. Chất lượng nước của đoạn này đã suy giảm
nhiều. Hầu hết các chỉ tiêu chất lượng nước đều không đạt tiêu chuẩn chất
lượng nguồn loại A (QCVN 08:2008/BTNMT). Nhiều nơi, nhiều chỉ tiêu
không đạt nguồn loại B, nhất là vào những tháng mùa kiệt, khi nước ở thượng
nguồn ít. Nước sông Cầu đoạn trung lưu không dùng sinh hoạt được, nguồn
lợi thủy sản cạn kiệt.

Đoạn hạ lưu: Từ thác Huống (Thái Nguyên) đến Phả Lại (Hải Dương).
Nước sông Cầu đoạn hạ lưu bị ô nhiễm nghiêm trọng và nguyên nhân chủ yếu
là do hoạt động sản xuất của thượng lưu, trung lưu và các làng nghề hai bên
bờ sông. Một điều đáng lưu ý là khu vực này có canh tác ruộng lúa và hoa
mầu nằm ngoài đê, hàng năm nhân dân sử dụng rất nhiều thuốc bảo vệ thực
vật, phân tươi… Một phần lượng thuốc này còn lưu lại trong đất, khi mưa
nước cuốn trôi đưa thẳng vào sông, gây ô nhiễm. Hàm lượng coliform của tất
21
22
cả các điểm đều vượt hàng chục lần, thậm chí gấp hàng trăm lần tiêu chuẩn
cho phép đối với nguồn loại B, đây là điều đang báo động.
Sông Cầu qua tỉnh Thái Nguyên bị ô nhiễm rõ rệt, đặc biệt là đoạn sông
chảy qua thành phố Thái Nguyên. Đoạn sông Cầu trước khi chảy vào thành
phố Thái Nguyên bắt đầu bị ô nhiễm do chịu tác động của các hoạt động sản
xuất công nghiệp, khai thác khoáng sản, sản xuất nông nghiệp. Đoạn sông
Cầu chảy qua thành phố Thái Nguyên, nước bị ô nhiễm chứa nhiều các hợp
chất hữu cơ và dầu mỡ. Đoạn sông Cầu chảy qua khu công nghiệp gang thép
Thái Nguyên, giá trị các thông số TSS, BOD
5
, COD đều vượt QCVN
08:2008/BTNMT loại A, B.
22
23
PHẦN 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Chất lượng môi trường nước sông Cầu.
Phạm vi nghiên cứu: Môi trường nước sông Cầu đoạn từ Sơn Cẩm đến
Công ty cổ phần Gang thép Thái Nguyên.
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu

Địa điểm: Quá trình lấy mẫu được tiến hành tại các điểm: Sơn Cẩm, cầu
Gia Bẩy, đập Thác Huống, cửa xả Công ty cổ phần Gang thép Thái Nguyên,
sau điểm xả suối Cam Giá 300 m; mẫu được phân tích tại phòng thí nghiệm
của Trung tâm Quan trắc và Công nghệ môi trường Thái Nguyên.
Thời gian: Tháng 01/2012 đến tháng 04/2012.
3.3. Nội dung nghiên cứu
3.3.1. Khái quát về hệ thống sông Cầu
3.3.1.1. Điều kiện tự nhiên
- Vị trí địa lý
- Địa hình
- Khí hậu
- Chế độ thủy văn
- Mạng lưới sông suối
- Một số tài nguyên chính
3.3.1.2. Điều kiện kinh tế và xã hội
- Quy mô dân số và nguồn nhân lực
- Hệ thống kết cấu hạ tầng
- Văn hóa, y tế, giáo dục
- Quốc phòng an ninh
23
24
3.3.2. Đánh giá hiện trạng môi trường nước sông Cầu đoạn từ Sơn Cẩm
đến Công ty cổ phần Gang thép Thái Nguyên.
3.3.2.1. Đánh giá hiện trạng môi trường nước sông Cầu tại một số vị trí trên
đoạn từ Sơn Cẩm đến Công ty cổ phần Gang thép Thái Nguyên.
3.3.2.2. Hiện trạng chất lượng nước sông Cầu giữa mùa mưa và mùa khô.
3.3.2.3. So sánh mức độ ô nhiễm của môi trường nước sông Cầu đoạn từ Sơn
Cẩm đến Công ty cổ phần Gang thép Thái Nguyên trong một vài năm gần
đây qua một số chỉ tiêu.
3.3.3. Các nguồn gây ô nhiễm môi trường nước sông

3.3.3.1. Nguồn thải sinh hoạt
3.3.3.2. Nguồn thải công nghiệp
3.3.3.3. Nguồn thải nông nghiệp
3.3.3.4. Nguồn nước thải bệnh viện
3.3.4. Đề xuất một số giải pháp giảm thiểu, khắc phục ô
nhiễm môi trường nước sông Cầu trên đoạn từ Sơn Cẩm
đến Công ty cổ phần Gang thép Thái Nguyên
3.3.4.1. Biện pháp liên quan đến thể chế chính sách
3.3.4.2. Biện pháp giảm thiểu ô nhiễm nước thải
3.3.4.3. Biện pháp tuyên truyền, giáo dục và xã hội hoá công tác bảo vệ môi
trường
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Phương pháp thu thập, phân tích và tổng hợp tài liệu thứ cấp
Phương pháp thu thập, phân tích và tổng hợp số liệu thứ cấp là phương
pháp phổ biến thường được dùng khi nghiên cứu một đề tài. Đây là phương
pháp tham khảo tài liệu có sẵn liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Phương pháp
này là phương pháp truyền thống nhanh và có hiệu quả. Với phương pháp này
ta có thể áp dụng nghiên cứu các nội dung sau:
- Thu thập các số liệu, tài liệu, văn bản pháp luật có liên quan tới vấn đề
môi trường nước sông.
24
25
- Thu thập các số liệu thứ cấp ở Chi cục Bảo vệ Môi trường tỉnh Thái
Nguyên, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thái Nguyên.
- Thu thập thông tin liên quan tới đề tài qua thực địa, sách báo, internet
3.4.2. Phương pháp xử lý số liệu
Xử lý số liệu trên máy tính bằng phần mềm word, phần mềm Excel.
3.4.3. Phương pháp tổng hợp so sánh, đối chiếu với
QCVN 08:2008/ BTNMT
Dựa trên các số liệu thứ cấp, số liệu đo đạc, khảo sát thực tế, kết quả

phân tích trong phòng thí nghiệm, tính toán được tải lượng ô nhiễm và so
sánh với QCVN để đưa ra được mức độ ô nhiễm, từ đó dự báo được những
ảnh hưởng xấu tới môi trường nước đồng thời đưa ra các giải pháp quản lý và
bảo vệ môi trường khu vực, nhằm thúc đẩy nền kinh tế của tỉnh phát triển một
cách bền vững.
3.4.4. Phương pháp khảo sát thực tế, lấy mẫu và
phân tích trong phòng thí nghiệm
* Việc quan trắc, lấy mẫu được tiến hành theo kế hoạch quan trắc hiện
trạng môi trường tỉnh Thái Nguyên hàng năm của Sở Tài nguyên và Môi
trường. Việc lấy mẫu được tiến hành tại các điểm cầu, cửa xả đoạn từ Sơn
Cẩm đến Công ty cổ phần Gang thép Thái Nguyên. Các điểm lấy mẫu:
- Sơn Cẩm
- Cầu Gia Bẩy
- Đập Thác Huống
- Cửa xả Nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ
- Cửa xả Công ty cổ phần Gang thép Thái Nguyên
- Sau điểm xả suối Cam Giá 300 m
* Thời gian lấy mẫu được tiến hành định kỳ 2 tháng/lần, vào các tháng 2,
tháng 4, tháng 6, tháng 8, tháng 10, tháng 12. Tuy nhiên, trong quá trình thực
tập do thời gian có hạn em chỉ lấy mẫu nước trong tháng 2 năm 2012.
25

×