Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Phân tích vụ điều tra chống trợ cấp đối với xuất khẩu mặt hàng ghế bọc đệm của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.92 MB, 59 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ

BÀI THẢO LUẬN
CHÍNH SÁCH KINH TẾ QUỐC TẾ
ĐỀ TÀI
Phân tích vụ điều tra chống trợ cấp đối với xuất khẩu mặt hàng ghế bọc đệm
của Việt Nam sang Canada
Nhóm thực hiện: Nhóm 1
Mã lớp học phần: 2302FECO2051
Giảng viên hướng dẫn: TS. Lê Hải Hà

Hà Nội, 2023


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................................................................. 4
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT ................................................................................................................................ 6
1.1.

Trợ cấp trong thương mại quốc tế................................................................................................................... 6

1.1.1.

Khái niệm trợ cấp.................................................................................................................................... 6

1.1.2.

Phân loại và cơ chế áp dụng.................................................................................................................... 8


(ii)

Trợ cấp không bị khiếu kiện (Trợ cấp đèn xanh) ........................................................................................ 8

(iii)

Trợ cấp khơng bị cấm nhưng có thể bị khiếu kiện (Trợ cấp đèn vàng) ...................................................... 9

1.1.3.
1.2.

Tác động của trợ cấp trong thương mại quốc tế ..................................................................................... 9

Biện pháp chống trợ cấp ............................................................................................................................... 10

1.2.1.

Khái niệm biện pháp chống trợ cấp ...................................................................................................... 10

1.2.2.

Điều kiện áp dụng các biện pháp chống trợ cấp ................................................................................... 11

1.2.3.

Quy trình điều tra chống trợ cấp của WTO........................................................................................... 11

1.2.4.

Tác động của biện pháp chống trợ cấp.................................................................................................. 13


1.3.

Các cam kết của Việt Nam về trợ cấp trong khuôn khổ WTO ..................................................................... 14

1.3.1.

Nội dung các cam kết ............................................................................................................................ 14

Trợ cấp đèn đỏ ...................................................................................................................................................... 14
1.3.2.

Những quy định của Việt Nam về chống trợ cấp.................................................................................. 16
Tổng quan các vụ kiện chống trợ cấp đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam........................................... 17

1.4.

CHƯƠNG II. PHÂN TÍCH VỤ ĐIỀU TRA CHỐNG TRỢ CẤP ĐỐI VỚI XUẤT KHẨU GHẾ BỌC ĐỆM CỦA
VIỆT NAM SANG CANADA ..................................................................................................................................... 19
2.1.

Tình hình xuất khẩu ghế bọc đệm của Việt Nam sang Canada .................................................................... 19

2.2.

Bối cảnh vụ điều tra ...................................................................................................................................... 20

2.2.1.

Thực trạng dẫn đến vụ điều tra ............................................................................................................. 20


2.2.2.

Một số thơng tin chung ......................................................................................................................... 21

2.3.

Q trình điều tra chống trợ cấp của Canada với mặt hàng ghế bọc đệm của Việt Nam ............................. 22

2.3.1.

Tóm tắt diễn biến q trình điều tra ...................................................................................................... 22

2.3.2.

Nộp đơn điều tra ................................................................................................................................... 24

2.3.3.

Khởi xướng điều tra .............................................................................................................................. 26

Bảng 2.2. Lượng ghế bọc nệm nhập khẩu của Canada (01/06/2019 đến 30/11/2020) ............................................. 27
Bảng 2.3. Các ước tính của CBSA về nhập khẩu ghế bọc trong nước (được biểu thị bằng % dựa trên giá trị) ....... 27
Bảng 2.4. Ước tính của CBSA về nhập khẩu ghế bọc trong nước (được biểu thị bằng % dựa trên khối lượng
(chiếc)) ...................................................................................................................................................................... 28
Kết luận của CBSA:.................................................................................................................................................. 28
2.3.4.

Điều tra sơ bộ ........................................................................................................................................ 29


Hình 2.1. RFI – Request for information – Dumping ............................................................................................... 30
Nguồn: Cơ quan dịch vụ biên giới Canada – CBSA................................................................................................. 30
2.3.5.

Kết luận sơ bộ ....................................................................................................................................... 32

Bảng 2.6. Tóm tắt kết quả sơ bộ - Giai đoạn điều tra trợ cấp (1/6/2019 – 30/11/2020) ........................................... 33
2.3.6.

Tiếp tục điều tra .................................................................................................................................... 34
2


2.3.7.

Kết luận cuối cùng ................................................................................................................................ 35

Bảng 2.7. Tóm tắt kết quả— ..................................................................................................................................... 36
Tác động của vụ điều tra ............................................................................................................................... 37

2.4.

2.4.1.

Đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam .......................................................................................... 37

Biểu đồ 2.1. Kim ngạch xuất khẩu ghế bọc đệm của Việt Nam sang Canada khi tiến hành điều tra (Đơn vị: Nghìn
CAD)......................................................................................................................................................................... 37



Khi có biện pháp sơ bộ ..................................................................................................................................... 38



Khi có biện pháp chính thức ............................................................................................................................. 40

Biểu đồ 2.3. Kim ngạch xuất khẩu ghế bọc đệm của Việt Nam sang Canada (Nghìn đơ la Canada) ...................... 40
2.4.2.

Đối với thị trường Canada .................................................................................................................... 41

2.4.3.

Tác động khác ....................................................................................................................................... 42

CHƯƠNG III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT .................................................................... 43
3.1.

Bài học kinh nghiệm ..................................................................................................................................... 43

3.2.

Một số giải pháp đề xuất ............................................................................................................................... 45

3.2.2.

Đề xuất với doanh nghiệp ......................................................................................................................... 46

KẾT LUẬN .................................................................................................................................................................. 48
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................................................................ 49

PHỤ LỤC ..................................................................................................................................................................... 51
Phụ lục I. Kết luận sơ bộ........................................................................................................................................... 51
Phụ lục II. Kết luận cuối cùng .................................................................................................................................. 54

3


LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh tồn cầu hố nền kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá
kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, mang lại nhiều lợi ích và sự thúc đẩy phát triển kinh tế
của nhiều quốc gia trên cơ sở một nền kinh tế thương mại và đầu tư công bằng. Hội nhập
và tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế là một xu hướng không thể đảo ngược đối với
mỗi quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế của mình. Cùng với việc thực hiện đường
lối chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã đạt được những thành tựu khá ngoạn
mục trong việc thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá. Trong khi những mặt hàng xuất khẩu của
Việt Nam ngày càng có uy tín trên thị trường thế giới đã xuất hiện một số trường hợp
hàng xuất khẩu của nước ta bị nước nhập khẩu điều tra và áp dụng chống bán phá giá,
chống trợ cấp để tạo ra hàng rào bảo hộ.
Theo VCCI, nếu so với nguy cơ bị kiện chống bán phá giá, nguy cơ hàng Việt
Nam xuất khẩu bị kiện chống trợ cấp ở nước ngoài thấp hơn. Xét trên bình diện chung,
số vụ kiện chống trợ cấp ở tất cả các nước thành viên WTO cũng thấp hơn nhiều so với
số vụ kiện chống bán phá giá. Tuy nhiên, doanh nghiệp Việt Nam vẫn cần thận trọng
trước nguy cơ này bởi nền kinh tế được chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa trước
kia, hàng hóa Việt Nam rất dễ bị quy chụp là được trợ cấp bởi nhiều lý do. Nguy cơ này
càng tăng lên sự tăng trưởng tương đối lớn về xuất khẩu và lợi thế cạnh tranh chủ yếu
về giá của hàng hóa Việt Nam hiện nay.
Theo báo cáo của Hội đồng tư vấn về Phịng vệ Thương mại-VCCI, tính đến
31/12/2021, Việt Nam đã bị kiện 23 vụ điều tra chống trợ cấp đối với hàng hóa Việt
Nam tại thị trường nước ngồi. Trong số đó, chủ yếu các nước kiện là Australia, Ấn Độ,
Canada và Mỹ. Cùng với đó là những biện pháp chống trợ cấp đã và đang được áp dụng

ngày càng nhiều đối với hàng hóa Việt Nam, khi những rào cản này được dựng lên, hoạt
động xuất khẩu có thể bị ảnh hưởng rất nghiêm trọng: những mức thuế bổ sung có thể
làm triệt tiêu khả năng cạnh tranh, chi phí tuân thủ cao khiến giá bán hàng tăng, những
hạn ngạch khắt khe, thậm chí là những lệnh cấm nhập khẩu có thể dẫn tới nguy cơ mất
hẳn thị trường. Song, thực tế chỉ ra rằng rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam đang bị nghi
ngờ được trợ cấp các sản phẩm của mình trên thị trường quốc tế trong khi họ chưa thật
sự quan tâm, tìm hiểu để biết các quy định, cam kết của Việt Nam và quốc tế về vấn đề
trợ cấp, chính vì vậy, khi hàng hóa bị kiện chống trợ cấp ở nước ngồi, hầu hết các doanh
nghiệp Việt Nam cịn lúng túng, không biết liên lạc với cơ quan nào để nhận được sự
4


hướng dẫn và hỗ trợ.
Canada là một trong những nước khởi kiện nhiều nhất đối với hàng hóa Việt
Nam, từ năm 2009 đến 31/12/2021, tổng số vụ điều tra chống trợ cấp do nước này khởi
xướng là 5 vụ với các mặt hàng lần lượt là Ống thép dẫn dầu OCTG (2014), Khớp nối
ống bằng đồng (2017), Thép cuộn cán nguội (2018), Thép chống ăn mòn (2019) và gần
đây nhất là mặt hàng Ghế bọc đệm (2020). Nhận biết được tình hình đó nhóm 1 đã quyết
định lựa chọn đề tài : ―Phân tích vụ điều tra chống trợ cấp đối với xuất khẩu mặt hàng
ghế bọc đệm của Việt Nam sang Canada‖. Qua đó phân tích quy trình điều tra chống bán
phá giá của Canada đối với mặt hàng ghế bọc đệm của Việt Nam, những thiệt hại mà vụ
điều tra gây ra cho nước xuất khẩu và nước nhập khẩu, đồng thời đưa ra một số lưu ý
đối với chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam để khắc phục tình trạng này.

5


CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Trợ cấp trong thương mại quốc tế
1.1.1. Khái niệm trợ cấp

Theo bài giảng môn Chính sách kinh tế quốc tế, trợ cấp là việc Chính phủ dành
cho doanh nghiệp những lợi ích mà trong điều kiện thường doanh nghiệp khơng thể có
được.
Theo Pháp lệnh Chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam số 22/2004/PLUBTVQH11, ―Trợ cấp là sự hỗ trợ về tài chính của Chính phủ hoặc cơ quan Chính
phủ dành cho tổ chức, cá nhân khi sản xuất, xuất khẩu hàng hóa vào Việt Nam và đem
lại lợi ích cho tổ chức, cá nhân đó‖.
Theo Luật Quản lý Ngoại thương 2017, trợ cấp là sự đóng góp của Chính phủ
hoặc bất kỳ tổ chức cơng nào ở quốc gia có hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam dưới các
hình thức sau đây đem lại lợi ích cho tổ chức, cá nhân nhận trợ cấp:
-

Chính phủ thực tế chuyển vốn trực tiếp cho tổ chức, cá nhân hoặc nhận nợ trực
tiếp cho tổ chức, cá nhân;

-

Chính phủ bỏ qua hoặc khơng thu các khoản mà tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ
phải nộp cho Chính phủ;

-

Chính phủ cung cấp cho tổ chức, cá nhân tài sản, hàng hóa hoặc dịch vụ khơng
phải là cơ sở hạ tầng chung;

-

Chính phủ mua tài sản, hàng hóa hoặc dịch vụ của tổ chức, cá nhân với giá cao
hơn giá thị trường;

-


Chính phủ bán tài sản, hàng hóa hoặc dịch vụ cho tổ chức, cá nhân với giá thấp
hơn giá thị trường;

-

Chính phủ góp tiền vào một cơ chế tài trợ, ủy thác, giao hoặc chỉ đạo, yêu cầu tổ
chức tư nhân thực hiện một hoặc một số hoạt động được quy định tại các khoản
1,2,3,4 và 5 của Điều này;

-

Bất kỳ hình thức hỗ trợ về thu nhập hoặc giá;
Bất kỳ hình thức trợ cấp nào khác không thuộc quy định tại các khoản

1,2,3,4,5,6 và 7 của Điều này được xác định dựa trên nguyên tắc công bằng, hợp lý,
không trái với điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên.
Theo WTO, trợ cấp được hiểu là bất kỳ hỗ trợ tài chính nào của Nhà nước hoặc
6


của một tổ chức công (trung ương hoặc địa phương) dưới một trong các hình thức
sau mang lại lợi ích cho doanh nghiệp/ngành sản xuất:
(i) Hỗ trợ trực tiếp bằng tiền chuyển ngay (ví dụ như cấp vốn, cho vay, góp cổ phần)
hoặc hứa chuyển (ví dụ như bảo lãnh cho các khoản vay);
(ii) Miễn hoặc cho qua những khoản thu lẽ ra phải đóng (ví dụ như ưu đãi về thuế,
tín dụng)
(iii) Mua hàng, cung cấp các dịch vụ hoặc hàng hóa (trừ cơ sở hạ tầng chung)
(iv) Thanh toán tiền cho một nhà tài trợ hoặc giao cho một đơn vị tư nhân tiến hành

các hoạt động (i), (ii), (iii) nêu trên theo các hình thức Chính phủ vẫn làm.
Theo Hiệp định 217/WTO/VB về trợ cấp và các biện pháp đối kháng, trợ cấp
được định nghĩa là (1) có sự đóng góp về tài chính của Chính phủ hoặc một cơ quan
công cộng trên lãnh thổ của một thành viên; hoặc (2) có bất kỳ một hình thức hỗ trợ thu
nhập hoặc trợ giá nào theo nội dung Điều XVI của Hiệp định GATT 1994; và một lợi
ích được cấp bởi điều đó.
Cụ thể, theo điều 1 Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng - SCM của
WTO quy định trợ cấp trong thương mại quốc tế tồn tại nếu:
Thứ nhất, có sự đóng góp về tài chính của chính phủ hoặc một cơ quan công
cộng trên lãnh thổ của một Thành viên ( theo Hiệp định này sau đây gọi chung là
―chính phủ‖) khi:
– Chính phủ thực tế có chuyển trực tiếp các khoản vốn (ví dụ như cấp phát, cho
vay, hay góp cổ phần), có khả năng chuyển hoặc nhận nợ trực tiếp (như bảo lãnh
tiền vay)
– Các khoản thu phải nộp cho chính phủ đã được bỏ qua hay khơng thu (ví dụ: ưu
đãi tài chính như miễn thuế );
– Chính phủ cung cấp hàng hóa hay dịch vụ khơng phải là hạ tầng cơ sở chung,
hoặc mua hàng ;
– Chính phủ góp tiền vào một cơ chế tài trợ, hay giao hoặc lệnh cho một tổ chức tư
nhân thực thi một hay nhiều chức năng đã nêu từ ba điểm trên đây, là những chức
năng thơng thường được trao cho chính phủ và công việc của tổ chức tư

7


nhân này trong thực tế không khác với những hoạt động thơng thường của chính
phủ.
Thứ hai, có bất kỳ một hình thức hỗ trợ thu nhập hoặc trợ giá nào theo nội dung
Điều XVI của Hiệp định GATT 1994; Và lợi ích được cấp bởi điều đó.
Các khoản hỗ trợ này được hiểu là mang lại lợi ích cho đối tượng được hưởng hỗ

trợ nếu nó được thực hiện theo cách mà một nhà đầu tư tư nhân, một ngân hàng thương
mại… bình thường sẽ khơng khi nào làm như vậy (vì đi ngược lại những tính tốn
thương mại thơng thường).
Trong khuôn khổ WTO, trợ cấp không phải là hiện tượng bị cấm, nó là hình thức
được phép, nhưng là trong các giới hạn và điều kiện nhất định. Trong WTO, có 2 hệ
thống quy định riêng về trợ cấp, áp dụng cho 2 nhóm sản phẩm:
-

Đối với hàng cơng nghiệp: Các loại trợ cấp, các quy tắc và điều kiện cho từng
loại cùng với các biện pháp xử lý nếu có vi phạm hoặc trợ cấp gây ra thiệt hại
được quy định trong Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng (Agreement
on Subsidies and Countervailing Measures – Hiệp định SCM).

-

Đối với hàng nông sản: Tuân thủ Hiệp định Nông nghiệp của WTO.

1.1.2. Phân loại và cơ chế áp dụng
Do mặt hàng ghế bọc đệm là mặt hàng phi nông nghiệp, nên trong phạm vi bài thảo luận,
chúng tôi chỉ đề cập đến các phân loại của mặt hàng phi nông nghiệp theo WTO. Cụ thể,
cách phân loại của loại mặt hàng này như sau:
(i) Trợ cấp bị cấm (Trợ cấp đèn đỏ)
Bao gồm:
-

Trợ cấp xuất khẩu (trợ cấp căn cứ vào kết quả xuất khẩu, ví dụ thưởng xuất khẩu,
trợ cấp nguyên liệu đầu vào để xuất khẩu, miễn thuế/giảm thuế cao hơn mức mà
sản phẩm tương tự bán trong nước được hưởng, ưu đãi bảo hiểm xuất
khẩu, ưu đãi tín dụng xuất khẩu…); hoặc


-

Trợ cấp nhằm ưu tiên sử dụng hàng nội địa so với hàng nhập khẩu
Đây là những hình thức trợ cấp mà hiện tất cả các thành viên WTO đều bị cấm

áp dụng.
(ii) Trợ cấp không bị khiếu kiện (Trợ cấp đèn xanh)
Bao gồm:
8


-

Trợ cấp không cá biệt: Tức là các loại trợ cấp khơng hướng tới một (một nhóm)
doanh nghiệp/ngành/khu vực địa lý nào. Tiêu chí để hưởng trợ cấp là khách quan;
khơng cho cơ quan có thẩm quyền cấp khả năng tùy tiện xem xét và

không tạo ra hệ quả ưu đãi riêng đối với bất kỳ đối tượng nào; hoặc
- Các trợ cấp sau (dù cá biệt hay không cá biệt):
⮚ Trợ cấp cho hoạt động nghiên cứu do các công ty, tổ chức nghiên cứu
tiến hành (với một số điều kiện về loại trợ cấp và mức trợ cấp cụ thể);
⮚ Trợ cấp cho các khu vực khó khăn (với các tiêu chí xác định cụ thể về
mức thu nhập bình quân hoặc tỷ lệ thất nghiệp).
⮚ Trợ cấp để hỗ trợ điều chỉnh các điều kiện sản xuất cho phù hợp với môi
trường kinh doanh mới.
Các nước thành viên có thể áp dụng các hình thức này mà không bị thành viên
khác khiếu kiện (tức là loại trợ cấp được phép vô điều kiện).
(iii) Trợ cấp không bị cấm nhưng có thể bị khiếu kiện (Trợ cấp đèn vàng)
Bao gồm tất cả các loại trợ cấp có tính cá biệt (trừ các loại trợ cấp đèn xanh). Các
nước thành viên có thể áp dụng các hình thức trợ cấp này nhưng nếu gây thiệt hại cho

nước thành viên khác hoặc ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước thành viên khác
thì có thể bị kiện ra WTO.
1.1.3. Tác động của trợ cấp trong thương mại quốc tế
Trợ cấp trong thương mại quốc tế có những tác động tích cực và tiêu cực
Về mặt tích cực: Trợ cấp góp phần:
-

Phát triển hạ tầng cơ sở: nhờ có các khoản trợ cấp mà cơ sở hạ tầng của xã hội
tăng lên.

-

Tăng doanh thu, lợi nhuận cho doanh nghiệp: Khi có trợ cấp, Chính phủ có thể
thu mua sản phẩm của doanh nghiệp hoặc đảm bảo đầu ra cho sản phẩm của họ
từ đó tạo ra doanh thu, lợi nhuận cho doanh nghiệp.

-

Tạo việc làm và đảm bảo thu nhập: khi có trợ cấp, doanh nghiệp sẽ mở rộng sản
xuất, từ đó tạo thêm cơng ăn việc làm cho người lao động.

-

Bảo vệ mơi trường: Thơng qua các gói trợ cấp của Nhà nước, các doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh được khích lệ sản xuất và phát triển theo hướng phát triển
bền vững, bảo vệ mơi trường. Ví dụ như để khích lệ người dân chuyển sang sử
dụng các loại túi eco như túi bằng giấy, túi tự phân hủy,…Nhà nước thực hiện
giảm thuế từ đó giúp hạ giá thành mặt hàng này, và nó có thể tiếp cận với đông
9



đảo người tiêu dùng hơn….
Về mặt tiêu cực: Bên cạnh những tác động tích cực, trợ cấp cũng mang lại một
số tác động tiêu cực như sau
-

Tạo tâm lý ỷ lại cho doanh nghiệp: Khi doanh nghiệp được nhận trợ cấp, họ sẽ
trở nên ỷ lại vào những khoản trợ cấp từ Chính phủ. Họ có tâm lý rằng cứ sản
xuất ra là sẽ được Nhà nước trợ cấp nên không cần phải cải tiến sản xuất cũng
như sản phẩm. Từ đó, triệt tiêu mất động lực phát triển của các doanh nghiệp.

- Tăng tỷ lệ nợ cơng: Để có các khoản trợ cấp, nếu nguồn vốn huy động của
Chính phủ khơng đủ thì sẽ đi vay nước ngồi (có thể là viện trợ,…), dẫn đến sự
gia tăng nợ công, tăng nợ cho thế hệ mai sau.
- Bóp méo thương mại, cạnh tranh không lành mạnh: Việc lợi dụng những trợ
cấp có thể gây bóp méo thương mại, dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh, nhất
là trong cạnh tranh về giá.
- Không đảm bảo phát triển bền vững: Việc nhận được trợ cấp về một hàng hóa
nào đó có thể dẫn đến việc doanh nghiệp khai thác quá mức nguyên vật liệu (nhất
là đối với những hàng hóa thâm dụng tài nguyên) hay tăng cường sản xuất quá
mức gây ra ngoại ứng tiêu cực đến môi trường và sức khỏe con người.
1.2. Biện pháp chống trợ cấp
1.2.1. Khái niệm biện pháp chống trợ cấp
Theo Pháp lệnh Chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam số 22/2004/PLUBTVQH11, “Trợ cấp là sự hỗ trợ về tài chính của Chính phủ hoặc cơ quan của Chính
phủ dành cho tổ chức, cá nhân khi sản xuất, xuất khẩu hàng hóa vào Việt Nam và đem
lại lợi ích cho cá nhân, tổ chức đó.”
Theo Luật Quản lý ngoại thương 2017, biện pháp chống trợ cấp đối với hàng hóa
nhập khẩu vào Việt Nam (sau đây gọi là biện pháp chống trợ cấp) là biện pháp được áp
dụng trong trường hợp hàng hóa được trợ cấp khi nhập khẩu vào Việt Nam gây ra thiệt
hại đáng kể hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể của ngành sản xuất trong nước hoặc

ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong nước.
Các biện pháp chống trợ cấp bao gồm:
-

Áp dụng thuế chống trợ cấp;

-

Cam kết của tổ chức, cá nhân hoặc của Chính phủ nước sản xuất, xuất khẩu với
10


cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam về việc tự nguyện chấm dứt trợ
cấp, giảm mức trợ cấp, cam kết điều chỉnh giá xuất khẩu;
-

Các biện pháp chống trợ cấp khác.

1.2.2. Điều kiện áp dụng các biện pháp chống trợ cấp
Theo Điều 86, Luật Quản lý Ngoại thương 2017, điều kiện áp dụng các biện pháp
chống trợ cấp được quy định như sau:
-

Biện pháp chống trợ cấp được áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu khi có đủ
các điều kiện:
➢ Hàng hóa được xác định có trợ cấp theo quy định; và mức trợ cấp được xác định

cụ thể; trừ trường hợp khác quy định;
⮚ Ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại đáng kể; hoặc bị đe dọa gây ra thiệt
hại đáng kể; hoặc ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong nước;

⮚ Tồn tại mối quan hệ nhân quả giữa việc nhập khẩu hàng hóa được trợ cấp
quy định với thiệt hại của ngành sản xuất trong nước quy định trên.
-

Không áp dụng biện pháp chống trợ cấp đối với nhà sản xuất, xuất khẩu ở các
nước phát triển có mức trợ cấp khơng vượt q 1% giá xuất khẩu hàng hóa vào
Việt Nam, nhà sản xuất hoặc xuất khẩu ở các nước đang phát triển có mức trợ
cấp khơng vượt q 2% giá xuất khẩu hàng hóa vào Việt Nam và nhà sản xuất
hoặc xuất khẩu ở các nước kém phát triển có mức trợ cấp khơng vượt q 3% giá
xuất khẩu hàng hóa vào Việt Nam.

-

Trong trường hợp hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ một nước đang phát triển
có khối lượng hoặc số lượng khơng vượt q 4% tổng khối lượng; hoặc số lượng
hàng hóa tương tự nhập khẩu vào Việt Nam và tổng khối lượng hoặc số lượng
hàng hóa có xuất xứ từ các nước đang phát triển đáp ứng điều kiện trên không
vượt quá 9% tổng khối lượng hoặc số lượng hàng hóa tương tự nhập khẩu vào
Việt Nam thì các nước này được loại khỏi phạm vi áp dụng biện pháp chống trợ
cấp.

1.2.3. Quy trình điều tra chống trợ cấp của WTO
Theo WTO, một ―Vụ kiện‖ chống trợ cấp là một quy trình Kiện – Điều tra – Kết
luận – Áp dụng biện pháp chống trợ cấp (còn gọi là biện pháp đối kháng) mà nước nhập
khẩu tiến hành đối với một loại hàng hóa nhập khẩu từ một nước nhất định khi có những
nghi ngờ rằng hàng hóa được trợ cấp (trừ trợ cấp đèn xanh) và gây thiệt hại đáng kể
11


cho ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu.

Như vậy, một vụ kiện chống trợ cấp thực chất là tổng hợp các bước điều tra xác
minh các yêu cầu trong đơn kiện để kết luận có đủ điều kiện áp dụng các biện pháp
chống trợ cấp đối với hàng hố bị kiện hay khơng.
Mặc dù thường được gọi là ―vụ kiện‖ (theo cách gọi ở Việt Nam), nhưng đây
khơng phải thủ tục tố tụng tại Tịa án mà là một Thủ tục hành chính và do cơ quan hành
chính nước nhập khẩu thực hiện. Thủ tục này liên quan đến một bên là ngành sản xuất
nội địa và một bên là các nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài. Khác với thủ tục kiện
chống bán phá giá, kiện chống trợ cấp liên quan đến cả Chính phủ nước xuất khẩu (vì
liên quan đến khoản trợ cấp).
Thủ tục, trình tự kiện chống trợ cấp gần tương tự với thủ tục, trình tự kiện chống
bán phá giá. Cần lưu ý là thủ tục này được quy định gần giống thủ tục tố tụng tại tịa án
(vì thế nên thường được gọi là ―vụ kiện‖). Khi cơ quan hành chính ra quyết định cuối
cùng về việc áp dụng hay không áp dụng biện pháp chống trợ cấp, các bên không đồng
ý với quyết định này có thể kiện cơ quan này ra Tịa án có thẩm quyền của nước nhập
khẩu.
Có thể tóm tắt các bước cơ bản của ―vụ kiện chống trợ cấp‖ như sau:
Bước 1 : Ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu nộp đơn kiện (kèm theo chứng
cứ ban đầu);
Bước 2 : Cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi xướng điều tra (hoặc từ
chối đơn kiện, không điều tra);
Bước 3 : Điều tra sơ bộ về việc trợ cấp và về thiệt hại (qua bảng câu hỏi gửi cho
các bên liên quan, thu thập, xác minh thông tin, thông tin do các bên tự cung cấp);
Bước 4 : Kết luận sơ bộ (có thể kèm theo quyết định áp dung biện pháp tạm
thời như buộc đặt cọc, ký quỹ...);
Bước 5 : Tiếp tục điều tra về việc trợ cấp và thiệt hại (có thể bao gồm điều tra
thực địa tại nước xuất khẩu);
Bước 6 : Kết luận cuối cùng;
Bước 7 : Quyết định áp dụng biện pháp chống trợ cấp (nếu kết luận cuối cùng
khẳng định có việc trợ cấp gây thiệt hại);
Bước 8 : Rà soát lại biện pháp chống trợ cấp (hàng năm cơ quan điều tra có thể

sẽ điều tra lại biên độ trợ cấp thực tế của từng nhà xuất khẩu và điều chỉnh mức thuế);
12


Bước 9 : Rà sốt hồng hơn (5 năm kể từ ngày có quyết định áp thuế đối kháng
hoặc rà soát lại, cơ quan điều tra sẽ tiến hành điều tra lại để xem xét chấm dứt việc áp
thuế hay tiếp tục áp thuế thêm 5 năm nữa).
1.2.4. Tác động của biện pháp chống trợ cấp
Biện pháp chống trợ cấp là một trong những biện pháp phòng vệ thương mại. Do
đó, các tác động của biện pháp chống trợ cấp cũng tương tự như tác động của các biện
pháp phòng vệ thương mại nói chung. Cụ thể như sau:
Về mặt tích cực:
-

Biện pháp chống trợ cấp góp phần điều chỉnh hoạt động thương mại giữa các
quốc gia trên thế giới cạnh tranh lành mạnh, tuân thủ đúng nguyên tắc đối xử
quốc gia (National Treatment) theo cam kết trong khuôn khổ WTO. Nhờ đó,
thơng qua việc thực hiện các biện pháp chống trợ cấp, sản phẩm hàng hóa trong
và ngồi nước được đối xử như nhau, từ đó tạo ra một môi trường cạnh tranh
lành mạnh, công bằng cho các doanh nghiệp trong thị trường thế giới.

-

Thứ hai, góp phần đảm bảo phát triển bền vững (đặc biệt đối với các sản phẩm
hàng hóa có tính thâm dụng tài ngun cao, hàng nơng, lâm thủy hải sản). Nhờ
có các biện pháp chống trợ cấp, các tiêu chuẩn về độ tuổi khai thác của các loại
tài nguyên thiên nhiên được quy định cụ thể trong các văn bản pháp lý của các
quốc gia, nhất là các nước phát triển. Vì thế, nếu muốn xuất khẩu hàng hóa vào
các thị trường này, các doanh nghiệp cần khai thác theo đúng quy định, từ đó
thúc đẩy phát triển bền vững. Ngồi ra, đối với các tiêu chuẩn, quy chuẩn về mơi

trường trong q trình sản xuất cũng góp phần khơng nhỏ đến việc hạn chế ô
nhiễm môi trường, tiến tới phát triển bền vững.

-

Thứ ba, góp phần bảo hộ ngành sản xuất trong nước. Khi một nước áp dụng các
biện pháp chống trợ cấp đối với hàng nhập khẩu vào quốc gia mình thì hàng hóa
nước ngồi khi nhập khẩu vào quốc gia đó sẽ phải chịu mức thuế chống trợ cấp,
do đó giá của hàng hóa đó sau khi nhập khẩu vào sẽ tăng cao, dẫn đến giảm khả
năng cạnh tranh về giá của hàng nhập khẩu so với hàng hóa được sản xuất nội
địa. Trong một số trường hợp nghiêm trọng hơn, hàng hóa từ nước xuất khẩu
cịn có thể bị cấm nhập khẩu vào quốc gia này, do đó ngành sản xuất trong nước
của quốc gia được bảo hộ.
13


Về mặt tiêu cực:
-

Thứ nhất, tạo thành rào cản thương mại đối với hàng nhập khẩu. Quả là như vậy,
khi một hàng hóa bị áp các biện pháp chống trợ cấp thì ngay lập tức mức thuế
nhập khẩu của hàng hóa đó vào một thị trường sẽ tăng cao, từ đó làm giảm khả
năng thâm nhập thị trường của hàng hóa đó, gây cản trở cho hoạt động tự do hóa
thương mại giữa các nước.

-

Thứ hai, các doanh nghiệp trong nước khơng có động lực để phát triển do được
Nhà nước bảo hộ. Khi nhận được sự bảo hộ của Nhà nước, bản thân doanh
nghiệp sẽ không chủ động cải tiến sản phẩm hay quá trình sản xuất của mình,

dẫn đến sản xuất khơng hiệu quả, từ đó làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp.

Như vậy có thể thấy, các biện pháp chống trợ cấp khi được áp dụng sẽ đem lại cả những
tác động tích cực và tiêu cực, vì thế các quốc gia cần phải cân nhắc kỹ trước khi áp
dụng các biện pháp này, nhất là khi hầu hết các quốc gia trên thế giới hiện nay đã và
đang là thành viên của WTO, và phải tn thủ đúng theo những cam kết của mình trong
khn khổ WTO nói chung và trong các FTAs nói riêng.
1.3. Các cam kết của Việt Nam về trợ cấp trong khuôn khổ WTO
1.3.1. Nội dung các cam kết
Việt Nam là một thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) từ năm
2007 và đã cam kết thực hiện các quy định của Tổ chức này về trợ cấp, trong đó cần
phải tuân thủ các nguyên tắc và quy định của WTO về vấn đề này, trong đó có Hiệp định
SCM. Tuy nhiên, trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, các nước có thể đàm phán
để điều chỉnh một số nội dung so với qui định chung về trợ cấp tại Hiệp định SCM. Đối
với Việt Nam, những điều chỉnh này bao gồm:
Trợ cấp đèn đỏ
-

Việt Nam cam kết bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp này (bao gồm trợ cấp xuất
khẩu và trợ cấp khuyến khích thay thế hàng nhập khẩu) từ thời điểm gia nhập.
-

Riêng đối với các ưu đãi đầu tư (ưu đãi về thuế) dựa trên tiêu chí thành

tích xuất khẩu và tỷ lệ nội địa hóa mà cơ quan Nhà nước đã cho phép doanh nghiệp được
hưởng từ trước ngày gia nhập WTO thì sẽ được tiếp tục thực hiện cho đến hết 5 năm kể
từ ngày gia nhập.
14



Các loại trợ cấp khác và các hình thức xử lý vi phạm hoặc biện pháp đối kháng:
Tuân thủ Hiệp định SCM.
Như vậy, các doanh nghiệp nội địa và FDI đã thành lập và được hưởng ưu đãi
thuế dựa trên tiêu chí xuất khẩu hoặc tỷ lệ nội địa hóa sẽ tiếp tục được hưởng ưu đãi đến
hết 11/1/2012. Trừ ngoại lệ này, tất cả các hình thức trợ cấp khác mà doanh nghiệp được
hưởng hưởng lợi sẽ tuân thủ các quy định tại Hiệp định SCM.
Dưới đây là một số cam kết cụ thể của Việt Nam về trợ cấp trong khuôn khổ
WTO:
– Không cho phép trợ cấp xuất khẩu:
Việt Nam cam kết không sử dụng các biện pháp trợ cấp trực tiếp hoặc gián tiếp
để hỗ trợ cho xuất khẩu sản phẩm. Điều này bao gồm các biện pháp như chính sách giá,
thuế và hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Việc sử dụng các biện pháp
này có thể dẫn đến sự tăng cường cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường quốc tế
và ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế quốc gia.
– Giới hạn trợ cấp nhập khẩu:
Việt Nam cam kết không sử dụng các biện pháp trợ cấp nhập khẩu để giảm giá
thành cho sản phẩm nhập khẩu. Nếu sử dụng các biện pháp trợ cấp này, Việt Nam sẽ
phải thực hiện các biện pháp bù đắp để đảm bảo sự cân bằng trong thương mại. Các biện
pháp bù đắp này có thể bao gồm việc tăng cường cạnh tranh bên trong nước, thúc đẩy
các hoạt động nghiên cứu và phát triển, và hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong các lĩnh
vực khác để cân bằng lại tác động của các biện pháp trợ cấp nhập khẩu.
– Giới hạn trợ cấp nội địa:
Việt Nam cam kết sử dụng các biện pháp trợ cấp nội địa một cách hợp lý và
không gây ảnh hưởng đến sự cạnh tranh. Các biện pháp này phải được thực hiện một
cách minh bạch và theo quy định của WTO. Các biện pháp trợ cấp nội địa có thể bao
gồm việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong các lĩnh vực như nông nghiệp, công nghiệp,
và các ngành sản xuất khác. Tuy nhiên, các biện pháp này phải được thực hiện một cách
minh bạch và không gây ảnh hưởng đến sự cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trên
thị trường.

– Thực hiện báo cáo về trợ cấp:
Việt Nam cam kết thực hiện báo cáo định kỳ về các biện pháp trợ cấp nội địa của
mình tới Ủy ban Trợ cấp và Phát triển của WTO. Báo cáo này cần cung cấp thông
15


tin chi tiết về các biện pháp trợ cấp được áp dụng và cách thức thực hiện, để đảm bảo sự
minh bạch và tuân thủ quy định của WTO.
– Tuân thủ các quy định của WTO về trợ cấp:
Việt Nam cam kết tuân thủ các quy định của WTO về trợ cấp và đảm bảo rằng
các biện pháp trợ cấp của mình khơng vi phạm các quy định này. Các quy định này bao
gồm các tiêu chuẩn về minh bạch, cạnh tranh, tác động đối với thị trường và các biện
pháp bù đắp.
Tóm lại, các cam kết của Việt Nam về trợ cấp trong khuôn khổ WTO bao gồm
việc không cho phép trợ cấp xuất khẩu, giới hạn trợ cấp nhập khẩu và sử dụng các biện
pháp trợ cấp nội địa một cách hợp lý và tuân thủ các quy định của WTO. Việc tuân thủ
các cam kết này sẽ giúp Việt Nam đảm bảo sự phát triển bền vững và cạnh tranh trên thị
trường quốc tế.
1.3.2. Những quy định của Việt Nam về chống trợ cấp
Việt Nam đã ban hành các quy định, văn bản quy phạm pháp luật về chống trợ
cấp nhằm đảm bảo sự cạnh tranh công bằng trên thị trường và thực thi các cam kết về
trợ cấp trong khuôn khổ WTO. Dưới đây là một số quy định chính của Việt Nam về
chống trợ cấp:
-

Pháp lệnh về việc Chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004;

-

Nghị định 89/2005/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh

chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam.

-

Nghị định 04/2006/NĐ-CP về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Hội đồng xử lý vụ việc chống bán phá giá, chống
trợ cấp và tự vệ;

-

Nghị định 06/2006/NĐ-CP về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
cơ cấu tổ chức của Cục quản lý cạnh tranh;

-

Thơng tư 106/2005/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn thu, nộp, hoàn trả thuế
chống bán phá giá, chống trợ cấp và các khoản bảo đảm thanh toán thuế chống
bán phá giá, thuế chống trợ cấp.

-

Mục 3, Luật Quản lý Ngoại thương, Luật số 05/2017/QH14 của Quốc hội quy
định về Chống trợ cấp đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam
Như vậy, các quy định về chống trợ cấp của Việt Nam nhằm đảm bảo sự cạnh

tranh công bằng và tuân thủ các quy định của WTO về trợ cấp. Những quy định này
16


cũng nhằm tăng cường sự phát triển của các ngành cơng nghiệp trong nước, đồng thời

đẩy mạnh q trình đổi mới cơng nghệ và cải tiến sản phẩm.
Ngồi ra, Việt Nam cũng tham gia vào các đối thoại với các nước thành viên khác
trong WTO để thảo luận và đưa ra các giải pháp chung để giải quyết các vấn đề liên
quan đến trợ cấp. Việt Nam luôn coi trọng việc đảm bảo sự tuân thủ các quy định của
WTO, đồng thời đang nỗ lực để thích ứng với các yêu cầu và thách thức của thị trường
quốc tế. Trong thời gian tới, Việt Nam sẽ tiếp tục nghiên cứu, hồn thiện và triển khai
các chính sách và cơ chế chống trợ cấp một cách hiệu quả và minh bạch nhằm tăng
cường sự cạnh tranh và phát triển kinh tế bền vững.
1.4. Tổng quan các vụ kiện chống trợ cấp đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam
Theo báo cáo của Hội đồng tư vấn về Phòng vệ Thương mại-VCCI, tính đến
31/12/2021, Việt Nam đã bị kiện 23 vụ điều tra chống trợ cấp đối với hàng hóa Việt
Nam tại thị trường nước ngồi. Như vậy, có thể thấy Việt Nam đã phải đối mặt với nhiều
vụ kiện chống trợ cấp đối với hàng xuất khẩu của mình trong vài năm qua. Sau đây là
một số vụ kiện đáng chú ý:
Vào ngày 8/11/2019, Cơ quan Dịch vụ Biên giới Canada (CBSA) khởi xướng
điều tra chống trợ cấp đối với sản phẩm thép chống ăn mòn nhập khẩu từ Thổ Nhĩ Kỳ,
UAE, Việt Nam. Theo kết luận sơ bộ (ngày 20/03/2020): Canada áp thuế chống trợ cấp
với Việt Nam là 0% - 0,12%. Theo kết luận cuối cùng vào ngày 16/10/2020, Canada đã
ban hành quyết định là không áp thuế chống trợ cấp đối với Việt Nam.
Vào ngày 31/3/2020, Ủy ban chống bán phá giá Australia (ADC) đã chính thức
khởi xướng vụ việc điều tra chống trợ cấp đối với ống thép chính xác có xuất xứ từ Việt
Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc và Đài Loan. Theo kết luận sơ bộ, Australia xác định tất
cả các doanh nghiệp không nhận trợ cấp hoặc nhận trợ cấp khơng đáng kể từ Chính phủ,
với biên độ trợ cấp từ 0% tới 0,01%, do đó, các nhà sản xuất Việt Nam khơng phải chịu
thuế chống trợ cấp và đây cũng là kết luận cuối cùng của ADC.
Vào ngày 10/6/2022, Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) thông báo khởi xướng điều
tra lẩn tránh thuế chống trợ cấp đối với tủ gỗ nhập khẩu từ Việt Nam. Trước đó, ngày
24/5/2022, DOC đã khởi xướng điều tra xem xét tủ gỗ nhập khẩu từ Việt Nam vào Hoa
Kỳ sử dụng các bộ phận nhập khẩu từ Trung Quốc có thuộc phạm vi áp dụng của biện
pháp phịng vệ thương mại mà Hoa Kỳ đang áp dụng với sản phẩm tương tự của Trung

Quốc không. Như vậy, DOC đã khởi xướng cả 2 nội dung trong đơn đề nghị của Nguyên
17


đơn về xem xét phạm vi sản phẩm và lẩn tránh thuế phòng vệ thương mại với sản phẩm
tủ gỗ. Vụ việc vẫn chưa có kết luận.
Gần đây, mặt hàng ống thép của Việt Nam bị DOC khởi xướng điều tra vào
ngày 28/7/2022.

18


CHƯƠNG II. PHÂN TÍCH VỤ ĐIỀU TRA CHỐNG TRỢ CẤP ĐỐI VỚI XUẤT
KHẨU GHẾ BỌC ĐỆM CỦA VIỆT NAM SANG CANADA
2.1. Tình hình xuất khẩu ghế bọc đệm của Việt Nam sang Canada
Việt Nam là thị trường cung cấp đồ nội thất bằng gỗ lớn thứ 4 cho Canada, tuy
nhiên tỷ trọng nhập khẩu từ Việt Nam chỉ chiếm 15,3% tổng trị giá nhập khẩu. Trước
năm 2019, khi Việt Nam chưa tham gia ký kết hiệp định CPTPP, xuất khẩu gỗ sang
Canada trước đây rất ít, chưa đến 100 triệu USD/năm, nhưng hiện các doanh nghiệp
ngành gỗ đã ký hợp đồng xuất khẩu sang Canada giá trị khoảng 200-300 triệu USD trong
năm 2019. Theo số liệu của Canada, trong giai đoạn điều tra của vụ việc chống trợ cấp
(từ tháng 6/2019 đến hết tháng 9/2020), kim ngạch xuất khẩu ghế bọc đệm từ Việt Nam
sang nước này đạt xấp xỉ 135,6 triệu USD, chiếm 10,08% tổng nhập khẩu mặt hàng này
của Canada.
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, ước tính, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản
phẩm gỗ tới thị trường Canada trong tháng 2/2023 đạt 10,6 triệu USD, giảm 24% so với
tháng 02/2022. Tính chung, 2 tháng đầu năm 2023, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm
gỗ tới thị trường Canada ước đạt 21,6 triệu USD, giảm 46,8% so với cùng kỳ năm 2022.
Riêng trong tháng 1/2023, đồ nội thất bằng gỗ xuất khẩu tới thị trường Canada
giảm mạnh, đây là mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong cơ cấu mặt hàng gỗ và sản phẩm

gỗ xuất khẩu tới thị trường Canada. Trong đó, dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu là mặt
hàng ghế khung gỗ và bộ phận ghế đạt 2,8 triệu USD, giảm 27,2% so với tháng 12/2022,
giảm 62,8% so với tháng 1/2022; tiếp theo là mặt hàng đồ nội thất phòng khách và phòng
ăn, đạt 2,6 triệu, giảm 39% so với tháng 12/2022, giảm 73,4% so với tháng 1/2022.
Bảng 2.1. Bảng giá trị xuất khẩu mặt hàng đồ gỗ và mặt hàng ghế bọc đệm của
Việt Nam vào thị trường Canada giai đoạn 2017 – 2020
Đơn vị: USD
Mặt hàng đồ

2017

2018

2019

2020

203.332.596

224.543.176

297.546.143

327.380.561

61.422.809

75.398.171

95.836.834


95.156.736

gỗ
Mặt hàng ghế
bọc đệm
Nguồn: Cơ quan dịch vụ biên giới Canada – CBSA

19


Từ bảng 2.1 ta thấy, trong giai đoạn 2017-2020, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng
đồ gỗ và ghế bọc đệm của Việt Nam vào thị trường Canada liên tục tăng. Trong đó, xuất
khẩu mặt hàng đồ gỗ tăng từ 203.332.596 USD lên 327.380.561 USD; xuất khẩu mặt
hàng ghế bọc đệm tăng từ 61.422.809 USD lên 95.156.736 USD.
Canada nhập khẩu mặt hàng đồ gỗ từ Việt Nam trong năm 2020 đạt 327,38 triệu
USD, tăng 16,3% so với năm 2019. Tỷ trọng nhập khẩu từ Việt Nam tăng 3 điểm phần
trăm so với năm 2019. Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng ghế bọc đệm của Việt Nam vào
Canada năm 2020 gấp 1,5 lần so với năm 2017.
Trong giai đoạn này, Canada nhập khẩu đồ nội thất bằng gỗ nói chung, mặt hàng
ghế bọc đệm chủ yếu từ ba thị trường chính là Trung Quốc, Mỹ và Việt Nam. Xét 4
tháng đầu năm 2020, trị giá nhập khẩu từ ba thị trường này chiếm tới 68,1% tổng trị giá.
Trong đó, tỷ trọng nhập khẩu đồ nội thất bằng gỗ từ Việt Nam trong 4 tháng đầu năm
2020, đạt 93,64 triệu USD, tăng 9,5% so với cùng kỳ năm 2019. Trong cơ cấu đồ nội
thất bằng gỗ Canada nhập khẩu năm 2020, mặt hàng ghế khung gỗ chiếm tỷ trọng lớn
nhất, đạt 757,63 triệu USD, giảm 9,2% so với năm 2019. Tiếp theo là mặt hàng đồ nội
thất phòng khách và phòng ăn nhập khẩu đạt 624,72 triệu USD, giảm 0,6% so với năm
2019.
Với tốc độ tăng trưởng cao và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nhập khẩu đồ gỗ của
Canada, hồn tồn có thể tồn tại khả năng Canada khởi xướng điều tra phòng vệ thương

mại hoặc lẩn tránh thuế đối với mặt hàng ghế bọc đệm nhập khẩu từ Việt Nam.
2.2. Bối cảnh vụ điều tra
2.2.1. Thực trạng dẫn đến vụ điều tra
Do có nghi ngờ rằng sản phẩm này được chính phủ Việt Nam cung cấp trợ cấp
không công bằng, dẫn đến việc xuất khẩu sang Canada với giá cả cạnh tranh không hợp
lý.
Điều này đã gây ảnh hưởng đến các nhà sản xuất ghế bọc đệm khác trên thị trường
Canada, khiến họ phải đối mặt với sự cạnh tranh không cơng bằng từ Việt Nam và gặp
khó khăn trong việc tiếp cận thị trường Canada.

20


2.2.2. Một số thông tin chung

Ngày khởi xướng: Ngày 21/12/2020, Cơ quan Biên phịng Canada
(CBSA) đã chính thức khởi xướng điều tra CBPG, CTC ghế bọc đệm đối với Việt Nam
và Trung Quốc. Tương tự như vụ việc với Australia, đây là vụ việc đầu tiên Canada điều
tra cả chống bán phá giá, chống trợ cấp và vấn đề thị trường đặc biệt đối với hàng hóa
xuất khẩu của Việt Nam trong cùng một vụ để xem xét giá trị thơng thường và giá xuất
khẩu khi tính tốn biên độ bán phá giá.
– Nguyên đơn
Palliser Nội Thất được thành lập vào năm 1944. Palliser sản xuất, phân phối và
bán UDS cho các nhà bán lẻ trên khắp Canada. Palliser sản xuất UDS tại cơ sở Canada
đặt tại Winnipeg, Manitoba.
– Bị đơn
Khi bắt đầu điều tra, CBSA đã xác định 671 nhà xuất khẩu / sản xuất tiềm năng
của hàng hóa đối tượng có xuất xứ hoặc xuất khẩu từ Trung Quốc và Việt Nam từ tài
liệu nhập khẩu CBSA và từ thông tin được gửi trong đơn khiếu nại. Tất cả các nhà xuất
khẩu tiềm năng đã được gửi RFI bán phá giá của CBSA và RFI trợ cấp của CBSA

– Phạm vi sản phẩm bị điều tra
Hàng hóa bị điều tra: Các loại ghế bọc đệm dùng trong sinh hoạt có mã HS
9401.40; 9401.61 và 9401.71.
– Kết luận sơ bộ:
Canada quyết định áp dụng thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp tạm thời đối
với ghế bọc đệm kể từ ngày 05 tháng 05 năm 2021. Mức thuế chống trợ cấp đối với các
doanh nghiệp Việt Nam là từ 0% tới 11,73%. Mức thuế bán phá giá được xác định từ
17,44% tới 89,77%.
– Kết luận cuối cùng:
Ngày 02/09/2022, Cơ quan Dịch vụ biên giới Canada (CBSA) đã ban hành kết
luận cuối cùng, quyết định áp thuế CBPG, CTC chính với mức thuế chống trợ cấp đối
với các doanh nghiệp Việt Nam là từ 0% tới 5,5%. Mức thuế bán phá giá được xác định
từ 9,9% đến 179,5%.
- Mô tả cụ thể:
Ghế ngồi bọc đệm dung cho mục đích nội địa có xuất xứ hoặc xuất khẩu từ Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, loại ghế được bọc, ở
21


dạng chuyển động (bao gồm ngả, xoay và các tính năng chuyển động khác) hoặc ở dạng
tĩnh, được bọc bằng da (1 phần hoặc toàn bộ), vải hoặc cả hai, không giới hạn chỗ ngồi
như ghế sofa, ghế đôn, giường sofa, nệm futon, ghế ottoman, ghế đẩu, ghế ngồi rạp phim
trong nhà.
Không bao gồm:
⮚ Ghế ngồi tĩnh (tức là không chuyển động) chỉ được bọc bằng vải (thay vì da),
ngay cả khi vải là chất thay thế da (chẳng hạn như da hoặc da trông như
polyurethane hoặc vinyl).
⮚ Ghế bàn ăn hoặc ghế dài (có hoặc khơng có tay) được sản xuất cho mục đích sử
dụng cuối cùng trong phịng ăn, thường được ghép nối với bộ bàn ăn.
⮚ Ghế đẩu bọc nệm có chiều cao chỗ ngồi lớn hơn 24 inch (thường được gọi là "ghế

đẩu" hoặc "ghế đẩu đặt tại quầy"), có hoặc khơng có lưng, hoặc có thể gập lại.
⮚ Ghế ngồi được sản xuất để sử dụng ngồi trời (ví dụ như ghế ngồi trong sân hoặc
xích đu).
⮚ Ghế túi đậu (ghế beanbag).
⮚ Ghế có thể gấp lại hoặc xếp chồng lên nhau.
Để rõ ràng hơn, định nghĩa sản phẩm bao gồm:
⮚ Ghế chuyển động được bọc nệm với các chức năng ngả, xoay, bập bênh, khơng
trọng lực, trượt, tựa đầu có thể điều chỉnh, chức năng massage hoặc các chức
năng tương tự.
⮚ Ghế có khung được làm từ kim loại, gỗ hoặc cả hai.
⮚ Ghế được sản xuất dưới dạng các phần có thể sắp xếp theo nhiều cách khác
nhau hoặc 1 vài phần trong các phần.
⮚ Ghế có hoặc khơng có tay, dù là một phần của các phần có thể sắp xếp khác
nhau hay khơng.
⮚ Ghế để chân và ghế đẩu (có hoặc khơng có ngăn chứa).
2.3. Q trình điều tra chống trợ cấp của Canada với mặt hàng ghế bọc đệm của
Việt Nam
2.3.1. Tóm tắt diễn biến q trình điều tra
[1] Vào ngày 16 tháng 10 năm 2020, Cơ quan Dịch vụ Biên giới Canada
(CBSA) đã nhận được một văn bản khiếu nại từ Palliser Furniture Ltd. (Winnipeg,
22


MB) (người khiếu nại), cáo buộc rằng việc nhập khẩu một số loại ghế bọc trong nước
(UDS)) từ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) và Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam (Việt Nam) đang được trợ cấp. Người khiếu nại cáo buộc rằng việc trợ
cấp đã gây ra thiệt hại và đang đe dọa gây ra thiệt hại cho các nhà sản xuất ghế bọc
đệm trong nước của Canada.
[2] Vào ngày 6 tháng 11 năm 2020, theo đoạn 32(1)(a) của Đạo luật về các
biện pháp nhập khẩu đặc biệt (SIMA), CBSA đã thông báo cho người khiếu nại rằng

khiếu nại đã được lập thành văn bản hợp lệ. CBSA cũng đã thơng báo cho Chính phủ
Trung Quốc (GOC) và Chính phủ Việt Nam (GOV) rằng đã nhận được khiếu nại được
ghi chép đầy đủ. Chính phủ và Chính phủ Việt Nam cũng được cung cấp phiên bản
khơng bí mật của đơn khiếu nại trợ cấp và được mời tham vấn trước khi bắt đầu điều
tra trợ cấp, theo Điều 13.1 của Hiệp định về Trợ cấp và Các biện pháp
đối kháng. CBSA không nhận được yêu cầu tham vấn.
[3] SIMA quy định rằng, trong những trường hợp bình thường, quyết định có
bắt đầu điều tra hay khơng sẽ được đưa ra trong vòng 30 ngày kể từ ngày có văn bản
khiếu nại hợp lệ. Tuy nhiên, vào ngày 30 tháng 11 năm 2020, CBSA đã thông báo cho
người khiếu nại, GOC và GOV rằng họ đã đưa ra quyết định kéo dài thời hạn này lên
45 ngày, theo tiểu mục 31(6) của SIMA.
[4] Người khiếu nại đã cung cấp bằng chứng để hỗ trợ cho cáo buộc rằng UDS
từ Trung Quốc và Việt Nam đã bị bán phá giá và được trợ cấp. Bằng chứng cũng cho
thấy dấu hiệu hợp lý rằng việc bán phá giá và trợ cấp đã gây ra thiệt hại và đang đe
dọa gây ra thiệt hại cho ngành sản xuất hàng hóa tương tự của Canada.
[5] Vào ngày 21 tháng 12 năm 2020, theo tiểu mục 31(1) của SIMA, CBSA đã
khởi xướng các cuộc điều tra liên quan đến việc trợ cấp mặt hàng ghế bọc đệm từ
Trung Quốc và Việt Nam.
[6] Sau khi nhận được thông báo về việc bắt đầu điều tra, Toà án Thương mại
Quốc tế Canada (CITT) đã bắt đầu điều tra sơ bộ về thiệt hại, theo tiểu mục 34(2) của
SIMA, về việc liệu bằng chứng có tiết lộ dấu hiệu hợp lý cho thấy việc trợ cấp hay
khơng trong số hàng hóa nêu trên đã gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho ngành
sản xuất hàng hóa tương tự của Canada.
[7] Vào ngày 19 tháng 2 năm 2021, theo tiểu mục 37.1(1) của SIMA, CITT đã
đưa ra quyết định sơ bộ rằng có bằng chứng cho thấy dấu hiệu hợp lý rằng việc trợ cấp
23


của mặt hàng ghế bọc trong nước UDS từ Trung Quốc và Việt Nam đã gây ra hoặc đe
dọa gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước.

[8] Vào ngày 15 tháng 3 năm 2021, CBSA đã thông báo cho các bên quan tâm
rằng giai đoạn điều tra sơ bộ sẽ được gia hạn theo tiểu mục 39(1) của SIMA.
[9] Vào ngày 5 tháng 5 năm 2021, theo kết quả điều tra sơ bộ của CBSA và theo
tiểu mục 38(1) của SIMA, CBSA đã đưa ra quyết định sơ bộ về việc trợ cấp đối với
UDS có xuất xứ hoặc xuất khẩu từ Trung Quốc và Việt Nam.
[10] Vào ngày 5 tháng 5 năm 2021, theo tiểu mục 8(1) của SIMA, thuế tạm thời
được áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu được trợ cấp có cùng mơ tả với bất kỳ hàng
hóa nào bị áp dụng quyết định sơ bộ và được giải phóng trong khoảng thời gian bắt đầu
vào ngày các quyết định sơ bộ được đưa ra và kết thúc vào ngày sớm hơn của ngày
CBSA ra lệnh chấm dứt điều tra đối với bất kỳ hàng hóa nào theo tiểu mục 41(1) của
SIMA hoặc ngày CITT đưa ra quyết định lệnh hoặc phát hiện theo tiểu mục 43(1) của
SIMA. Trong trường hợp biên độ mức trợ cấp ước tính của nhà xuất khẩu là khơng đáng
kể, thuế chống chống trợ tạm thời sẽ không được áp dụng.
[11] Ngày 6/5/2021, CITT đã bắt đầu một cuộc điều tra để xác định xem việc
trợ cấp giá đối với hàng hóa nêu trên có gây ra thiệt hại hoặc chậm phát triển hoặc đe
dọa gây ra thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước hay không.
[12] Ngày 3/8/2021, CBSA đã đưa ra quyết định cuối cùng rằng có thiệt hại.
[13] Ngày 2/9/2021, CITT sẽ ban hành quyết định cuối cùng của mình:
Ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại bởi hành vi trợ cấp giá mặt hàng ghế bọc
đệm có xuất xứ từ Việt Nam và Trung Quốc.
2.3.2. Nộp đơn điều tra
Vào ngày 16 tháng 10 năm 2020, Cơ quan Dịch vụ biên giới Canada (CBSA) nhận
được đơn khiếu nại từ Palliser Furniture Ltd. (Winnipeg, Manitoba) cáo buộc rằng việc
nhập khẩu một số mặt hàng ghế nội địa bọc đệm (UDS) có xuất xứ hoặc xuất khẩu từ
Cộng hịa Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(Việt Nam) đã được trợ cấp giá. Bên khiếu nại đã cáo buộc rằng việc trợ cấp giá đã gây
thiệt hại và đe dọa gây ra thiệt hại cho các nhà sản xuất ghế bọc đệm của Canada.
Bên khiếu nại là công ty Palliser Furniture Ltd. - công ty sản xuất, phân phối và bán
ghế bọc đệm cho các nhà bán lẻ trên khắp Canada được thành lập năm 1944. Ngồi ra,
bên khiếu nại có xác định được thêm 14 nhà sản xuất ghế bọc đệm trong nước. Fornirama

24


Ltd., El Ran và Jaymar Furniture, EQ3 Ltd. cũng ủng hộ đơn khiếu nại này.
Bên khiếu nại đã chỉ ra hàng hóa ghế bọc đệm bị cáo buộc trợ cấp giá được nhập
khẩu theo mã số thuế:
9401.40.00.00
9401.61.10.10
9401.61.10.90
9401.71.10.10
9401.71.10.90
Bên khiếu nại cho rằng ghế bọc đệm nhập khẩu và ghế bọc đệm được sản xuất trong
nước giống nhau về các đặc điểm vật lý (chất liệu, khung, vỏ bọc,...), giống về các kênh
phân phối và mục đích sử dụng cuối cùng.
Đơn khiếu nại bao gồm việc sản xuất trong nước hàng năm hàng hóa tương tự cho
người khiếu nại từ ngày 1 tháng 1 năm 2017 đến ngày 30 tháng 6 năm 2020 cũng như
sản xuất hàng năm hàng hóa tương tự cho các nhà sản xuất trong nước cung cấp thư hỗ
trợ trong năm 2019. Căn cứ vào ước tính này, bên khiếu nại ước tính rằng ghế bọc đệm
nhập khẩu chiếm hơn 60% sản lượng nội địa của các mặt hàng tương tự ở Canada. Hơn
nữa, đơn khiếu nại đã bao gồm các bằng chứng liên quan đến việc trợ cấp giá và bằng
chứng chi tiết về thiệt hại đến sản xuất ghế bọc đệm ở Canada.
Vào ngày 6 tháng 11 năm 2020, theo Đoạn 32 (1)(a) Đạo luật về Các biện pháp
nhập khẩu đặc biệt (SIMA), CBSA đã thông báo cho bên bị khiếu nại chính phủ Việt
Nam là một khiếu nại được lập thành văn bản hợp lệ đã được nhận.
SIMA quy định rằng, trong các trường hợp bình thường, quyết định có bắt đầu điều
tra hay khơng sẽ được đưa ra trong 30 ngày kể từ ngày có khiếu nại được lập thành văn
bản hợp lệ. Tuy nhiên, vào ngày 30 tháng 11 năm 2020, CBSA thông báo cho bên khiếu
nại, chính phủ Việt Nam rằng họ đã đưa ra quyết định kéo dài thời gian lên 45 ngày để
kiểm tra mức độ hỗ trợ giữa các nhà sản xuất Canada.
Dựa trên đơn khiếu nại cũng như thông tin nhận được trong các phản hồi thường

trực của RFI (Request for Information - Yêu cầu thường trực về thông tin), trong khoảng
thời gian từ ngày 1 tháng 8 năm 2019 đến ngày 31 tháng 7 năm 2020, bên khiếu nại và
các nhà sản xuất hỗ trợ chiếm 97% sản lượng ghế bọc nệm ở Canada. Đồng thời, việc
khiếu nại được ủng hộ bởi các nhà sản xuất trong nước có sản lượng chiếm 100% tổng
sản lượng hàng hóa tương tự.
25


×