Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

PHÂN TÍCH VỤ ĐIỀU TRA TỰ VỆ ĐỐI VỚI TÔN LẠNH XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM VÀO INDONESIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (493.16 KB, 29 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
----------o0o----------

BÀI THẢO LUẬN
CHÍNH SÁCH KINH TẾ QUỐC TẾ
Đề tài:
PHÂN TÍCH VỤ ĐIỀU TRA TỰ VỆ ĐỐI VỚI TÔN LẠNH XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
VÀO INDONESIA

Giảng viên hướng dẫn

:

Lê Hải Hà

Mã lớp học phần

:

2302FECO2051

Nhóm thực hiện

:

Nhóm 8


Hà Nội, 2023

2




Mục lục
A. LỜI MỞ ĐẦU

2

B. NỘI DUNG

3

Chương 1: Cơ sở lý luận

3

1.1. Khái niệm về biện pháp tự vệ .................................................................................. 3
1.2. Phân loại biện pháp tự vệ .........................................................................................3
1.3. Nguyên tắc trong sử dụng biện pháp tự vệ ............................................................ 3
1.4. Điều kiện để áp dụng biện pháp tự vệ .................................................................... 4
1.5. Tác động của biện pháp tự vệ ................................................................................. 4
Chương 2: Liên hệ thực tiễn vụ điều tra tự vệ đối với tơn lạnh của Việt Nam
5
vào Indonesia
2.1. Tình hình xuất khẩu tôn lạnh của Việt Nam vào Indonesia ....................................5
2.2. Bối cảnh vụ điều tra ................................................................................................. 6
2.3. Quy trình điều tra ..................................................................................................... 8
2.4. Tác động của vụ điều tra ........................................................................................18
Chương 3: Kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam từ vụ điều tra tự vệ
C. KẾT LUẬN


20
23

A. LỜI MỞ ĐẦU
1


Trong thời gian gần đây, tôn lạnh xuất khẩu của Việt Nam đã gặp phải nhiều khó
khăn và bị các quốc gia đối thủ áp đặt các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp,
chống trốn thuế, trong đó có Indonesia. Trong bối cảnh này, việc điều tra tự vệ là một
trong những biện pháp quan trọng nhằm bảo vệ ngành sản xuất tôn lạnh trước sự cạnh
tranh không lành mạnh của các đối thủ nước ngoài.
Vụ điều tra tự vệ đối với tôn lạnh xuất khẩu của Việt Nam đã gây ra nhiều tranh
cãi trong cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu tôn lạnh. Một số người cho rằng việc điều tra tự vệ sẽ
làm tăng giá thành sản phẩm, ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của ngành tôn lạnh
Việt Nam trên thị trường quốc tế. Trong khi đó, một số người khác lại cho rằng điều
tra tự vệ là cần thiết để bảo vệ ngành sản xuất tôn lạnh Việt Nam, đảm bảo lợi ích của
các nhà sản xuất trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu tôn lạnh của Việt Nam trên thị
trường quốc tế.
Với những lợi ích và hạn chế của việc điều tra tự vệ đối với tôn lạnh xuất khẩu của
Việt Nam vào Indonesia, việc phân tích và đánh giá chính xác các yếu tố liên quan đến
vụ điều tra tự vệ là rất cần thiết. Vì vậy nhóm 8 xin thực hiện đề tài “Phân tích vụ điều
tra tự vệ đối với tôn lạnh xuất khẩu của Việt Nam vào Indonesia”.
Bài thảo luận này sẽ phân tích và đánh giá cụ thể vụ điều tra tự vệ đối với tôn lạnh
xuất khẩu của Việt Nam vào Indonesia. Từ đó, đưa ra những giải pháp khả thi và hiệu
quả nhằm đảm bảo lợi ích của các nhà sản xuất tơn lạnh trong nước và phát triển
ngành tôn lạnh xuất khẩu của Việt Nam.

2



B. NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lý luận
1.1. Khái niệm về biện pháp tự vệ
Biện pháp tự vệ (safeguard) là việc tạm thời hạn chế nhập khẩu đối với một hoặc
một số loại hàng hóa khi việc nhập khẩu chúng tăng nhanh gây ra hoặc đe dọa gây
thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước.
Mỗi nước nhập khẩu là thành viên WTO đều có quyền áp dụng biện pháp tự vệ,
nhưng khi áp dụng thì họ phải bảo đảm tuân theo các quy định của WTO (về điều kiện,
thủ tục, cách thức áp dụng biện pháp tự vệ). Doanh nghiệp cần chú ý đến cơng cụ này
để có thể yêu cầu Chính phủ sử dụng nhằm bảo vệ lợi ích của mình trước hàng hố
nhập khẩu nước ngồi khi cần thiết.
Các biện pháp tự vệ là các biện pháp mà căn cứ vào các điều khoản tự vệ hay miễn
trách, cho phép một bên trong hiệp định thương mại tạm ngừng thực hiện nghĩa vụ đã
được quy định trong hiệp định nhằm chống lại những diễn biến bất ngờ có hại cho nền
kinh tế nước mình hoặc cho một ngành kinh tế và có những nguyên nhân gốc rễ nêu
trong hiệp định. Trong hầu hết các trường hợp, những diễn biến xấu này là sự gia tăng
hàng nhập do các biện pháp mở cửa hoặc tự do hóa theo hiệp định, với số lượng tới
mức mà ngành hàng tương ứng trong nước bị đe dọa thiệt hại nghiêm trọng. Các biện
pháp tự vệ này có thể bao gồm việc tái áp dụng thuế quan hay các biện pháp hạn chế
nhập khẩu khác.
Biện pháp tự vệ chỉ được áp dụng đối với hàng hố, khơng áp dụng đối với dịch vụ,
đầu tư hay sở hữu trí tuệ.
1.2. Phân loại biện pháp tự vệ
a. Áp dụng thuế tự vệ: Biện pháp này áp dụng thuế đặc biệt vào một số mặt hàng nhập
khẩu để bảo vệ sản xuất trong nước khỏi sự cạnh tranh không lành mạnh từ sản phẩm
nhập khẩu.
b. Áp dụng hạn ngạch nhập khẩu: Biện pháp này giới hạn số lượng hàng hóa nhập
khẩu vào nước trong một khoảng thời gian nhất định để bảo vệ sản xuất trong nước

khỏi sự cạnh tranh.
c. Áp dụng hạn ngạch thuế quan: Biện pháp này áp dụng hạn ngạch thuế quan trên một
số mặt hàng nhập khẩu để giới hạn lượng hàng hóa nhập khẩu vào nước.
3


d. Cấp giấy phép nhập khẩu: Biện pháp này yêu cầu các doanh nghiệp muốn nhập
khẩu sản phẩm phải có giấy phép nhập khẩu để giới hạn số lượng hàng hóa nhập khẩu.
e. Các biện pháp tự vệ khác: Ngồi các biện pháp trên, cịn có các biện pháp khác như
áp dụng quy định chất lượng hàng hóa nhập khẩu, kiểm sốt giá cả, quy định xuất xứ
hàng hóa, tăng cường đối thoại với đối tác thương mại trước khi áp dụng biện pháp tự
vệ,...
1.3. Nguyên tắc trong sử dụng biện pháp tự vệ
● Biện pháp tự vệ chỉ được áp dụng đối với hàng hóa, khơng áp dụng đối với dịch
vụ, đầu tư hay sở hữu trí tuệ.
● Biện pháp tự vệ là một công cụ “phải trả tiền”. Nước áp dụng biện pháp tự vệ
phải bồi thường thương mại cho các nước có hàng hóa bị áp dụng biện pháp tự vệ theo
các điều kiện nhất định.

1.4. Điều kiện để áp dụng biện pháp tự vệ
● Hàng hoá liên quan được nhập khẩu tăng đột biến về số lượng đến từ những
nguyên nhân không lường trước được.

Ngành sản xuất sản phẩm tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp với hàng hố đó bị
thiệt hại hoặc đe dọa thiệt hại nghiêm trọng .


Có mối quan hệ nhân quả giữa hiện tượng nhập khẩu tăng đột biến và thiệt hại
hoặc đe dọa thiệt hại nói trên.



1.5. Tác động của biện pháp tự vệ
Tác
động

Đối với quốc gia sử dụng BPTV

Tích
cực

- Giúp bảo vệ ngành sản xuất nội địa
trước sức ép cạnh tranh của hàng nhập
khẩu

Đối với quốc gia bị áp dụng BPTV

- Tạo điều kiện thúc đẩy ngành sản
xuất trong nước phát triển và lấy
lại khả năng cạnh tranh
- Giups duy trì sự tồn tại của ngành
4


sản xuất trong nước và đảm bảo việc
làm của người lao động

Tiêu
cực

- Các doanh nghiệp trong nước có thể - Hạn chế khối lượng và kim ngạch hàng

có tâm lý ỉ lại vào sự bảo vệ của Nhà nhập khẩu
nước bằng biện pháp tự vệ
- Ảnh hưởng ngành sản xuất trong nước,
- Có thể tạo nên sức ép cạnh tranh đối người lao động tại các doanh nghiệp sản
với ngành hàng được hưởng điều kiện xuất hàng hóa bị áp dụng BPTV
bồi thường khi sử dụng BPTV

a. Tác động tích cực
Các biện pháp tự vệ trong phòng vệ thương mại có tác động tích cực đến doanh
nghiệp và nền kinh tế như sau:
Bảo vệ sản phẩm và thị trường của doanh nghiệp khỏi các hành vi phi pháp của
đối thủ, giúp đảm bảo sự cạnh tranh công bằng và tạo điều kiện để doanh nghiệp phát
triển.


Tăng cường sự đa dạng và tính cạnh tranh của thị trường, khi các doanh nghiệp
có thể bảo vệ sản phẩm của mình khỏi các sản phẩm giả mạo hoặc kém chất lượng
của đối thủ, đảm bảo khách hàng có nhiều sự lựa chọn.



Tạo ra các sản phẩm và dịch vụ chất lượng cao, khi các doanh nghiệp cần phải
cải thiện chất lượng sản phẩm và dịch vụ của mình để cạnh tranh trên thị trường quốc
tế.

Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, khi các doanh nghiệp cần phải
nghiên cứu và áp dụng các biện pháp tự vệ để bảo vệ sản phẩm và thị trường của mình,
đồng thời phải tìm cách cải thiện năng lực sản xuất và năng lực quản lý để cạnh tranh
trên thị trường quốc tế.



Đóng góp vào sự phát triển kinh tế của quốc gia, khi các doanh nghiệp có thể
tăng sản xuất và xuất khẩu sản phẩm, tạo ra các cơ hội việc làm và thu nhập cho người
dân, đóng góp vào sự phát triển kinh tế và nâng cao đời sống của người dân.


Tóm lại, các biện pháp tự vệ trong phịng vệ thương mại có tác động tích cực đến
doanh nghiệp và nền kinh tế, giúp tạo ra một môi trường kinh doanh công bằng và
cạnh tranh, đồng thời đóng góp vào sự phát triển kinh tế của quốc gia.
5


b. Tác động tiêu cực
Mặc dù biện pháp tự vệ trong phịng vệ thương mại có thể có tác động tích cực đến
doanh nghiệp và nền kinh tế, nhưng cũng có thể gây ra những tác động tiêu cực như
sau:

Tạo ra sự bất ổn và mất cân đối trên thị trường, khi một số doanh nghiệp sử
dụng các biện pháp tự vệ để cạnh tranh không lành mạnh với các đối thủ, dẫn đến sự
bất ổn và mất cân đối trên thị trường.

Dẫn đến giá cả cao hơn cho người tiêu dùng, khi các biện pháp tự vệ có thể làm
tăng giá cả của sản phẩm và dịch vụ.

Gây ra tranh cãi và bất đồng quan điểm giữa các quốc gia, khi một quốc gia áp
dụng các biện pháp tự vệ để bảo vệ sản phẩm của mình, có thể làm gia tăng căng thẳng
trong quan hệ thương mại giữa các quốc gia.

Ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa các quốc gia, khi các biện pháp tự vệ có thể
làm giảm sự tin tưởng và tăng căng thẳng trong mối quan hệ giữa các quốc gia.



Gây ra tác động tiêu cực đến các doanh nghiệp bên ngoài quốc gia áp dụng các
biện pháp tự vệ, khi các doanh nghiệp này có thể bị hạn chế truy cập vào thị trường
của quốc gia đó.


Chương 2: Liên hệ thực tiễn vụ điều tra tự vệ đối với tôn lạnh của Việt Nam vào
Indonesia
2.1. Tình hình xuất khẩu tơn lạnh của Việt Nam vào Indonesia
Việt Nam là một trong những quốc gia sản xuất và xuất khẩu tôn lạnh hàng đầu ở
khu vực Đông Nam Á. Trước năm 2012, xuất khẩu tôn lạnh của Việt Nam vào
Indonesia đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ và có nhiều triển vọng trong tương
lai.
Tuy nhiên, trong giai đoạn này, các doanh nghiệp Việt Nam đang gặp nhiều khó
khăn khi nhập khẩu tơn lạnh vào Indonesia do các quy định về chất lượng và kiểm tra
an toàn của sản phẩm này ở Indonesia rất nghiêm ngặt. Ngồi ra, thị trường này cịn
đang đối mặt với nhiều thách thức khác như sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các nhà sản
xuất tôn lạnh địa phương và các quy định về nhập khẩu của Indonesia.
Xuất khẩu tôn lạnh của Việt Nam vào Indonesia giai đoạn 2008-2012 tăng trưởng
khá ổn định và đáng kể. Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê Việt Nam, tổng giá trị xuất
khẩu tôn lạnh của Việt Nam vào Indonesia trong giai đoạn này đã tăng từ khoảng 10
triệu USD vào năm 2008 lên khoảng 40 triệu USD vào năm 2012. Tuy nhiên, năm
2012 này cũng đánh dấu một sự giảm nhẹ so với năm trước đó, khi giá trị xuất khẩu
6


đạt hơn 46 triệu USD. Có thể thấy rằng, xuất khẩu tôn lạnh của Việt Nam vào
Indonesia trong giai đoạn này khơng có sự thăng trầm đáng kể và giá trị xuất khẩu
cũng không quá lớn.

Các sản phẩm tôn lạnh xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam vào Indonesia bao gồm
các loại tôn mạ, tôn lạnh mạ kẽm, tôn lạnh mạ màu và các sản phẩm tơn khác. Trong
đó, tơn lạnh mạ kẽm chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng giá trị xuất khẩu tôn lạnh của Việt
Nam vào Indonesia.
Việc tăng trưởng xuất khẩu tôn lạnh của Việt Nam vào Indonesia trong giai đoạn
này có thể được giải thích bởi nhu cầu tăng cao của Indonesia trong việc phát triển cơ
sở hạ tầng và ngành công nghiệp. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng trong những năm
đầu thập kỷ 2010, Việt Nam cũng đã gặp phải nhiều khó khăn trong việc đối phó với
khủng hoảng tài chính tồn cầu, ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của nhiều ngành
sản xuất, bao gồm cả ngành tôn lạnh.
2.2. Bối cảnh vụ điều tra
2.2.1. Thực trạng dẫn đến vụ điều tra
Từ những năm 2010, các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng ở Việt Nam mà
đi đầu là Tập đoàn Hoa Sen, Công ty cổ phần Tôn Đông Á bắt đầu xuất khẩu các mặt
hàng sắt, thép cán mỏng, thép không hợp kim (gọi tắt là tôn lạnh, tên quốc tế là
galvalume) sang quốc đảo Indonesia, dần chiếm vị trí quan trọng trên thị trường của
nước này. Loại sản phẩm này được đặt tiêu chuẩn chung có chiều rộng từ 600mm trở
lên, được phủ, mạ hoặc tráng bằng hợp kim nhôm kẽm (aluminium-zinc), tỷ lệ dưới
0,6% carbon, có độ dày khơng q 0,7 mm, thuộc mã HS 7210.61.11.00.
Ngày 19 tháng 12 năm 2012, Indonesia lệnh cho các cơ quan điều tra mà đứng đầu
là Ủy ban Tự vệ thương mại Indonesia (Komite Pengamanan Perdagangan Indonesia –
KPPI) khởi xướng điều tra đối với thị trường sản phẩm tôn lạnh.
Ngày 31 tháng 12 cuối năm 2012, cơ quan điều tra đã kết luận số lượng tôn lạnh
nhập khẩu của Indonesia gia tăng từ 79.279 tấn (năm 2008) lên 251.315 tấn (năm
2012), gây thiệt hại lớn cho ngành sản xuất vật liệu của Indonesia.
Ngày 15 tháng 7 năm 2014, Bộ trưởng Bộ Tài chính Indonesia ban hành Quyết
định số 137.1/PMK.011/2014, công bố trên công báo Berita Negara, theo đó áp dụng
các biện pháp tự vệ, áp thuế cho mặt hàng tôn lạnh nhập khẩu, đặc biệt áp dụng cho
các bên xuất khẩu chiếm thị phần nhập khẩu lớn nhất ở Indonesia năm 2012 gồm Việt
Nam (60,04%), Đài Loan (21%), và Hàn Quốc (15,22%). Biện pháp này được

Indonesia gửi thông báo tới Tổ chức Thương mại Thế giới vào ngày 28 tháng 7 cùng
năm.

7


Tại Việt Nam, trước thiệt hại do thuế được áp dụng theo dạng tự vệ từ Indonesia,
các doanh nghiệp tôn lạnh đã thống nhất với Hiệp hội Thép Việt Nam, phối hợp với
Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam kiến nghị Chính phủ Việt Nam kiện
Chính phủ Indonesia ra WTO.
2.2.2. Một số thông tin chung
Về thỏa thuận thương mại, biểu cam kết của Indonesia tại WTO không đề cập tới
ràng buộc thuế quan đối với tôn lạnh. Đầu năm 2015, thuế suất mà Indonesia áp dụng
đối với hàng nhập khẩu tôn lạnh trên cơ sở tối huệ quốc (MFN) là 12,5%, được tăng
lên 20% vào tháng 5 năm 2015. Indonesia áp dụng thuế suất khoản ​ ​ 0–12,5% đối
với tôn lạnh nhập khẩu từ các đối tác thương mại của mình theo bốn hiệp định thương
mại khu vực là: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc (12,5%), Hiệp định
thương mại tự do ASEAN – Hàn Quốc (10%), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện
ASEAN – Nhật Bản (10%), và Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (0%).
Việt Nam là nhà xuất khẩu bị ảnh hưởng nhất vì có thị phần xuất khẩu vào
Indonesia đạt khoảng 50-60% tổng lượng nhập khẩu mặt hàng tôn lạnh của nước này.
Sau quyết định trên, Tập đoàn Hoa Sen - doanh nghiệp xuất khẩu tôn lớn nhất của Việt
Nam vào thị trường Indonesia, đã không thể tiếp tục xuất khẩu được mặt hàng này.
Ngồi ra, theo phân tích của các chun gia Phịng Thương mại và Cơng nghiệp
Việt Nam và Luật sư của Tập đồn Tơn Hoa Sen, Ủy ban Tự vệ thương mại Indonesia
(KPPI) có một số dấu hiệu vi phạm các điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ thương mại
được quy định trong Hiệp định SafeGuard như: như không chứng minh được đe dọa
gây ra thiệt hại nghiêm trọng, khơng có sự phân tích đầy đủ về những diễn tiến không
lường trước được, mối đe dọa nhân quả giữa việc nhập khẩu sản phẩm tôn lạnh và
thiệt hại của ngành cơng nghiệp nội địa, khơng có sự phân tích đầy đủ về tác động của

các yếu tố khác gây thiệt hại ngoài sự gia tăng nhập khẩu.
VSA cho rằng vụ kiện sẽ giúp ngăn chặn nguy cơ các vụ điều tra sắp tới từ chính
thị trường Indonesia, cũng như các thị trường khác như: Malaysia, Thái Lan,
Philippines,... Nhờ đó, các doanh nghiệp sản xuất thép Việt Nam tránh bị áp mức thuế
rất cao trong 3 năm đầu tiên, thậm chí 150% so với giá bán trong năm đầu tiên
(khoảng 430 USD/tấn), giảm xuống gần 139% trong năm thứ 3 (gần 312 USD/tấn)..
Việc khởi kiện ra WTO như một thông điệp của Việt Nam sẵn sàng ủng hộ tích
cực quyền lợi của các nhà xuất khẩu của Việt Nam trước các vi phạm trong hoạt động
tự vệ thương mại của các nước nhập khẩu.
2.3. Quy trình điều tra


Bước 1: Đơn yêu cầu điều tra

8


Ngày 12-12-2012, Công ty Bluescope Steel (Indonesia) và Công ty Sunrise Steel
(Indonesia) đã gửi đơn lên Ủy ban Tự vệ thương mại Indonesia (KPPI) tuyên bố rằng
họ bị tổn hại nghiêm trọng hoặc bị đe dọa gây thiệt hại nghiêm trọng do các sản phẩm
sắt hoặc thép không hợp kim nhập khẩu vào Indonesia mã số HS 7210.61.11.00 gây
nên và đề nghị chính phủ Indonesia áp dụng biện pháp tự vệ thương mại.


Bước 2: Khởi xướng điều tra

Hai công ty Bluescope và Sunrise Steel mang tính đại diện cho ngành hàng được
đưa ra điều ra của Indonesia do chiếm tỷ trọng chính trong tổng sản lượng nội địa của
nước này, là 77%.
Nhận được đơn đề nghị của 2 công ty, KPPI đã khởi xướng điều tra tự vệ với mặt

hàng các sản phẩm sắt hoặc thép không hợp kim được cán phẳng, có chiều rộng từ
600mm trở lên, đã phủ, mạ hoặc tráng hợp kim nhơm kẽm, có hàm lượng carbon dưới
0,6% tính theo trọng lượng, với độ dày khơng q 1,2mm (hay cịn gọi là tơn lạnh).
Việc khởi xướng nói trên đã được thơng báo trong tài liệu WTO G/SG/N/6/IDN/22,
được lưu hành vào ngày 08 tháng 1 năm 2013.
Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tạo cơ hội cho các bên liên quan đưa
ra quan điểm, bằng chứng, nhận xét và phản hồi liên quan đến cuộc điều tra. Do đó,
một phiên điều trần cơng khai cũng đã được tiến hành vào ngày 23 tháng 4 năm 2013 ,
nhằm đáp ứng yêu cầu minh bạch và đúng thủ tục tố tụng. Trong phiên điều trần công
khai, các bên quan tâm, như được mời, đều có cơ hội như nhau để trình bày các bằng
chứng và quan điểm của họ .
Thời gian điều tra: 2008 - 2012


Bước 3: Điều tra và công bố kết quả điều tra

1. Mức tăng tuyệt đối của hàng nhập khẩu
Bảng 1: Lượng nhập khẩu tôn lạnh vào Indonesia giai đoạn 2008-2012
Nội dung

Đơn vị

2008

2009

2010

2011


2012

Sản lượng nhập khẩu

Tấn

79,279

50,482

123,794

161,756

251,315

Mức tăng

%

(36)

145

31

55

9



Nguồn: Indonesia Statistics/Badan Pusat Statistik (BPS)

Theo số liệu bảng 1, khối lượng nhập khẩu tơn lạnh vào Indonesia đã có sự tăng
lên nhanh chóng về sản lượng với mức tăng trung bình là 42% trong giai đoạn từ 2008
- 2012. Mặc dù vào năm 2009, sản lượng nhập khẩu mặt hàng này vào Indonesia có
mức giảm 36% nhưng bước sang năm 2010 lại ghi nhận mức tăng đột biến từ 50, 482
tấn lên 123,794 tấn (tăng 145%). Xu hướng tăng này được Indonesia ghi nhận vẫn tiếp
tục trong các năm tiếp theo lần lượt là 31% và 55%.
2. Diễn biến khơng lường trước
Cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu năm 2008 đã khiến tăng trưởng kinh tế thế
giới bị chậm lại, sức mua tương đương nói chung ngày càng giảm. Sự sụt giảm này
dẫn đến sự sụt giảm nhu cầu của tất cả các sản phẩm nói chung, bao gồm cả nhu cầu
về mặt hàng tôn lạnh. Tuy nhiên, sự suy giảm không xảy ra ở Indonesia do tốc độ tăng
trưởng kinh tế của nước này cao hơn mức trung bình của tăng trưởng kinh tế thế giới .
Do đó, Indonesia trở thành một thị trường hấp dẫn đối với các nhà xuất khẩu tôn lạnh
trên thế giới. Hơn nữa, sự gia tăng trong việc thành lập ngành công nghiệp tạo hình
cuộn, sản xuất sản phẩm cuối cùng của sản phẩm tôn lạnh do những thay đổi ưu đãi từ
việc sử dụng gỗ sang sử dụng thép trong xây dựng tài sản đã làm tăng nhu cầu của mặt
hàng này.
Nhiều quốc gia trên thế giới đẩy mạnh xuất khẩu tôn lạnh vào Indonesia với mức
tăng trưởng lớn.
Bảng 2: Thị phần của các nhà xuất khẩu tơn lạnh chính vào Indonesia

Quốc gia

Thị phần nhập khẩu năm 2008
(%)

Thị phần nhập khẩu năm 2012

(%)

Việt Nam

48,59

60,04

Đài Loan

6,66

21,00

10


Hàn
Quốc

11,67

15,22

Tổng

66,92

92,26


Nguồn: Indonesia Statistics/Badan Pusat Statistik (BPS)
Sự gia tăng nhập khẩu này đã gây ra tác động ép giá và kìm hàm giá của mặt
hàng tôn lạnh trong nước của Indonesia.
Bảng 3: Giá bán mặt hàng tôn lạnh tại Indonesia giai đoạn 2008 - 2012

STT

Nội dung

2008 2009 2010 2011 2012

1

Giá nhập khẩu trung bình

100

58

60

66

66

2

Giá bán của doanh nghiệp

82


76

77

70

68

3

Giảm giá

18

(18)

(17)

(4)

(2)

Nguồn: Indonesia Statistics/Badan Pusat Statistik (BPS)
Trong giai đoạn 2009-2012, giá nhập khẩu trung bình liên tục thấp hơn giá bán của
doanh nghiệp ở Indonesia ngoại trừ năm 2008. Vì vậy, trong giai đoạn nói trên, giá
bán tơn lạnh của doanh nghiệp Bluescope Steel (Indonesia) và Sunrise Steel Indonesia
đã tồn tại tình trạng hạ giá với xu hướng giảm 4,5% giai đoạn 2008-2012.
Ngoài ra trong giai đoạn 2009-2012, giá bán của sản phẩm tôn lạnh của doanh
nghiệp liên tục chịu áp lực của giá nhập khẩu, dẫn đến xu hướng giảm 4,5 %. Do đó,

cơ quan điều tra suy ra rằng doanh nghiệp nộp đơn đã trải qua tình trạng giảm giá
trong thời gian điều tra.
11


3. Thiệt hại của ngành sản xuất trong nước
Bảng 4: Các chỉ số kinh tế của ngành sản xuất trong nước - Index 100

STT

Chỉ số

2008 2009 2010 2011 2012

1

Thị phần tôn lạnh trong nước của doanh nghiệp

100

92

56

76

91

2


Tổng cầu trong nước

100

82

157

201

257

3

Tổng lượng bán hàng của ngành sản xuất trong
nước

100

75

88

153

251

4

Công suất thiết kế của doanh nghiệp


100

100

100

270

360

5

Tổng sản lượng sản xuất trong nước

100

90

86

247

304

6

Năng suất kỳ vọng

100


87

80

145

184

7

Tổng số lao động sản xuất tôn lạnh

100

104

108

171

165

8

Hàng tồn kho

100

28


118

356

460

9

Tổng lợi nhuận

301

115

(30)

(100) (33)

12


10

Giá bán

97

90


92

83

80

11

Chi phí sản xuất

100

91

83

81

81

Nguồn: Indonesia Statistics/Badan Pusat Statistik (BPS)



Thị phần

Thị phần tơn lạnh của doanh nghiệp có sự sụt giảm trong 2 năm liên tiếp là 2009 2010, với mức giảm thấp nhất vào năm 2010 (từ 92 điểm xuống 56 điểm). Mặc dù có
sự tăng trở lại vào các năm 2011, 2012 nhưng thị phần của 2 doanh nghiệp này vẫn
thấp hơn so với các nước nhập khẩu củng mặt hàng.
Bảng 4: Thị phần tôn lạnh của doanh nghiệp Indonesia và tôn lạnh nhập khẩu

STT

Chỉ số

2008 2009 2010 2011 2012

1

Thị phần tôn lạnh trong nước của doanh nghiệp

100

92

56

76

91

2

Thị phần tơn lạnh nhập khẩu

100

78

100


102

115

Nguồn: Indonesia Statistics/Badan Pusat Statistik (BPS)
Nhìn chung, thị phần của tơn lạnh nhập khẩu có mức tăng trung bình là 6%, trong
khi thị phần của doanh nghiệp trong nước Indonesia lại có xu hướng giảm 4% trong
giai đoạn 2008-2012.


Thiệt hại của ngành sản xuất trong nước
Từ bảng 4 ta có:

13


Trong giai đoạn 2008 - 2012, tổng cầu trong nước đối với mặt hàng tơn lạnh của
Indonesia có xu hướng tăng 34%. Mặc dù có thể thấy được sự suy giảm tổng cầu trong
năm 2009 với 75 điểm. Tuy nhiên, chỉ số này đã tăng khi bước sang năm 2010 với 157
điểm và tiếp tục tăng 44 điểm vào năm 2011 và 56 điểm vào năm 2012.
Tổng cầu trong nước gia tăng nhưng lại không phải là dấu hiệu sáng của thị trường
tôn nội địa khi khối lượng nhập khẩu giai đoạn này có xu hướng tăng 42%. Sự gia tăng
nhập khẩu trong giai đoạn 2008-2012 đã làm xói mịn mức tăng tiêu dùng quốc gia.
Đồng thời, thị phần tôn lạnh nhập khẩu có xu hướng tăng 6%, trong khi thị phần của
doanh nghiệp trong nước giảm 4%.
Doanh số bán hàng trong nước của doanh nghiệp Bluescope Steel (Indonesia) và
Sunrise Steel Indonesia cho thấy xu hướng gia tăng trong thời gian giai đoạn 2008 2012 với mức 29%. Tuy nhiên, mức tăng nói trên là ít so với xu hướng tăng của tiêu
dùng cả nước là 34%. Mức tiêu thụ tôn lạnh trong nước gia tăng chủ yếu đến từ sự tiêu
thụ tôn lạnh nhập khẩu.
Tổng lượng sản xuất cùng với số lượng lao động của doanh nghiệp Bluescope

Steel (Indonesia) và Sunrise Steel Indonesia đều có xu hướng tăng. Doanh nghiệp đã
lắp đặt máy móc mới và tăng cường lao động lành nghề để đạt được mục tiêu sản xuất.
Việc tăng sản lượng được doanh nghiệp thực hiện là nhằm mục đích tăng doanh số bán
hàng trong nước đồng thời tăng thị phần để hưởng lợi từ việc tăng tiêu dùng trong
nước. Tuy nhiên, mức tăng này không đáp ứng được mục tiêu sản xuất và không tận
dụng được công suất thiết kế. Mức tăng của tổng sản lượng sản xuất là 38% trong khi
mức tăng của công suất thiết kế là 43%.
Cùng với đó, hàng tồn kho của doanh nghiệp có xu hướng tăng 75% trong giai
đoạn 2008 - 2012. Khoảng tăng nói trên là kết quả của việc không thể bán được hàng.
Kết quả, doanh nghiêp bị tổn thất trong năm 2008, 2009 và 2012, do giá bán thấp
hơn giá thành sản xuất. Năm 2009, tổng lượng bán hàng trong nước của doanh nghiệp
giảm và bị lỗ cùng kỳ. Mặc dù doanh số bán hàng trong nước của doanh nghiệp
Bluescope Steel (Indonesia) và Sunrise Steel Indonesia tăng trong năm 2010-2012
nhưng bị giảm lợi nhuận vào năm 2011 và bị lỗ vào năm 2012.
4. Mối quan hệ nhân quả
Theo kết quả điều tra, Cơ quan Điều tra kết luận rằng có bằng chứng chắc chắn về
mối liên hệ nhân quả giữa khối lượng nhập khẩu tôn lạnh tăng lên và nguy cơ gây
thương tích nghiêm trọng mà doanh nghiệp Bluescope Steel (Indonesia) và Sunrise
Steel Indonesia phải chịu .
Xu hướng tiêu dùng toàn quốc gia tăng trong giai đoạn điều tra, nhưng doanh
nghiệp đã khơng thể tối ưu hóa được. Mức tiêu thụ tôn lạnh trong nước tăng lên trong
thời kỳ điều tra. Nó khuyến khích ngành cơng nghiệp trong nước tăng năng lực sản
14


xuất, đáp ứng nhu cầu tại Indonesia. Năng lực sản xuất trong nước ngày càng tăng
trong giai đoạn 2010-2012 đủ cho tiêu dùng trong nước. Các doanh nghiệp đưa ra cải
tiến năng lực sản xuất của ngành công nghiệp trong nước phù hợp với sự gia tăng tiêu
dùng quốc gia. Do đó, năng lực sản xuất của ngành cơng nghiệp trong nước không gây
thiệt hại cho doanh nghiệp nộp đơn. Nhập khẩu tăng đột biến không phải do thiếu hàng

nội địa sản xuất đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Và việc gia tăng nhập khẩu đã
khiến thị phần của doanh nghiệp trong nước bị suy giảm. Việc giảm thị phần của
doanh nghiệp làm tăng tồn kho và tổn thất.
Mặt hàng tôn lạnh được sản xuất bởi doanh nghiệp nội địa đã đáp ứng Tiêu chuẩn
Quốc gia Indonesia (SNI) và Tiêu chuẩn hóa Quốc tế cho Tổ chức (ISO). Vì vậy, chất
lượng của mặt hàng tơn lạnh trong nước có thể cạnh tranh với tơn lạnh nhập khẩu
Thơng qua điều tra, Cơ quan có thẩm quyền cho rằng khơng có yếu tố nào khác
góp phần vào nguy cơ gây ra thương tích nghiêm trọng mà doanh nghiệp nộp đơn phải
chịu, ngoài việc tăng khối lượng nhập khẩu mặt hàng tôn lạnh bị điều tra.


Bước 4: Ra quyết định

Xét kết luận về mối liên hệ nhân quả nêu trên, Cơ quan điều tra đã kiến ​ ​ nghị
với Chính phủ Cộng hòa Indonesia một Biện pháp Tự vệ sẽ được áp dụng đối với việc
nhập khẩu tôn lạnh trong thời hạn ba năm.
Việc áp dụng Biện pháp tự vệ sẽ được thực hiện theo Điều 2.2 và Điều 9 của WTO
- Hiệp định về các biện pháp tự vệ.
Theo Điều 12.3 của Hiệp định về các biện pháp tự vệ của WTO, Indonesia sẵn
sàng tham vấn với các Thành viên có lợi ích đáng kể với tư cách là nhà xuất khẩu các
sản phẩm liên quan.
Ngày 28 tháng 7 năm 2014, các Thành viên WTO đã được thông báo về việc áp
dụng biện pháp tự vệ trên thực tế theo Quy định số 137.1/PML.011/2014 của Bộ
trưởng Bộ Tài chính Indonesia ngày 7 tháng 7 năm 2014 và được ban hành vào ngày
15 tháng 7 năm 2014, tại Berita Negara của Indonesia. Thông báo cũng nêu danh sách
120 quốc gia không được áp dụng biện pháp tự vệ.
Biện pháp tự vệ bao gồm một mức thuế cụ thể sẽ được áp dụng từ ngày 22 tháng 7
năm 2014 và sau đó được cắt giảm theo lộ trình sau:

Giai đoạn


Nhiệm vụ tự vệ

15


22 tháng bảy 2014 - 21 tháng bảy 2015

4.998.784 Rp mỗi tấn

22 tháng bảy 2015 - 21 tháng bảy 2016

4.314.161 Rp mỗi tấn

22 Tháng bảy 2016 - 21 Tháng bảy 2017

3.629.538 Rp mỗi tấn

Tỷ giá trung bình 2017: 1 rp = 1,6982 đ

Mức thuế Indonesia áp dụng đã gây thiệt hại nặng nề cho ngành sản xuất của Việt
Nam. Việt Nam là nhà xuất khẩu bị ảnh hưởng nhất vì có thị phần xuất khẩu vào
Indonesia đạt khoảng 50-60% tổng lượng nhập khẩu mặt hàng tôn lạnh của nước này.
Sau quyết định trên, Tập đoàn Hoa Sen - doanh nghiệp xuất khẩu tôn lớn nhất của Việt
Nam vào thị trường Indonesia, đã không thể tiếp tục xuất khẩu được mặt hàng này.
Trước tình hình đó, Việt Nam đã chính thức đệ đơn kiện Indonesia lên tòa án của
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) về việc nước này áp đặt tự vệ thương mại với
mặt hàng thép cán không hợp kim (tôn lạnh) nhập khẩu của nhiều quốc gia, trong đó
có Việt Nam.



Tham vấn

Ngày 1 tháng 6 năm 2015, Việt Nam gửi yêu cầu tham vấn, chính thức khởi kiện
Indonesia lên Cơ quan Giải quyết Tranh chấp của Tổ chức Thương mại Thế giới liên
quan đến việc Indonesia đã áp dụng các biện pháp tự vệ đối với mặt hàng tôn lạnh
nhập khẩu từ Việt Nam.
Lập luận của Việt Nam tập trung vào hai vấn đề chính:
Thứ nhất, các biện pháp tự vệ mà Indonesia áp dụng vi phạm các quy định về tự vệ
trong Hiệp ước chung về Thuế quan và Mậu dịch (GATT 1994) và Hiệp định về Tự vệ
(ASG). Theo đó,
(i) Indonesia đã khơng đưa ra được những phát hiện và kết luận hợp lý và đầy đủ
về những diễn biến được cho là không lường trước được và ảnh hưởng của các nghĩa
vụ GATT dẫn đến tình trạng thiệt hại nghiêm trọng (hoặc đe dọa thiệt hại) do nhập
khẩu gia tăng;

16


(ii) Indonesia đã khơng đưa ra lời giải thích hợp lý và đầy đủ về việc hàng nhập
khẩu bị điều tra đã tăng lên như thế nào do phân tích của nước này dựa trên dữ liệu
nhập khẩu đã lỗi thời (tức là dữ liệu của khoảng thời gian kết thúc 17 tháng trước khi
Indonesia quyết định áp dụng biện pháp và 19 tháng trước khi áp đặt của biện pháp);
(iii) Indonesia đã khơng đưa ra lời giải thích hợp lý và đầy đủ về việc hàng nhập
khẩu bị điều tra đã gây ra thiệt hại nghiêm trọng như thế nào đối với ngành sản xuất
trong nước;
(iv) Indonesia đã không đảm bảo tính nhất quán cần thiết giữa các sản phẩm nhập
khẩu được kiểm tra vì mục đích điều tra cơ bản và phạm vi của các sản phẩm bị áp
dụng biện pháp tự vệ;
(v) Mức thuế cụ thể do Indonesia áp đặt không phù hợp với Điều I:1 của GATT

1994 ở chỗ nó chỉ áp dụng cho các sản phẩm có xuất xứ từ một số quốc gia nhất định
và điều này tạo thành một lợi thế không được dành ngay lập tức và vô điều kiện cho
các sản phẩm tương tự có xuất xứ từ tất cả các nước thành viên WTO;
Thứ hai, các biện pháp tự vệ này vi phạm nguyên tắc tối huệ quốc nêu tại Điều I:1,
GATT 1994. Trước đó, ngày 12 tháng 2 năm 2015, Đài Loan đã khiếu kiện Indonesia
với nội dung khiếu kiện tương tự, khởi xướng vụ DS490, do đó, hai vụ kiện được hợp
nhất về mặt pháp lý quá trình giải quyết tranh chấp tại WTO.
Về phía Indonesia, trong những lập luận về biện pháp đã áp dụng, cho rằng biện
pháp của mình là biện pháp tự vệ. Cơ sở mà Indonesia đưa ra để khẳng định tính chất
tự vệ của biện pháp này là: việc áp thuế lên các sản phẩm bị điều tra được nhập khẩu
từ các nước, trong đó có Việt Nam và Đài Loan đều là thành viên của WTO, là việc
tạm ngừng thực hiện ngoại lệ về hội nhập kinh tế khu vực theo Điều XXIV, GATT
1994; Indonesia đã tạm ngừng thực hiện nghĩa vụ đối xử tối huệ quốc bởi nước này đã
đưa ra danh sách 120 quốc gia được loại trừ không bị áp thuế đặc biệt. Từ cách lập
luận này, với biện pháp thuế đặc biệt mà Indonesia áp dụng, dù nước này không đưa ra
ràng buộc thuế quan đối với sản phẩm bị điều tra, thì cũng đã dẫn đến việc tạm ngừng
thực hiện một số nghĩa vụ của thành viên WTO, do đó đáp ứng yếu tố cấu thành biện
pháp tự vệ dựa theo Điều XIX, GATT 1995, và Điều I, ASG. Ngoài ra, Indonesia cũng
khẳng định biện pháp thuế đặc biệt này đã được thông báo lên Ủy ban Các biện pháp
tự vệ của WTO theo đúng thủ tục quy định.
Khi thông báo về việc áp dụng biện pháp tự vệ, Indonesia đã không tạo cơ hội
tham vấn về thông tin liên quan đến biện pháp tự vệ, bao gồm cả biện pháp được đề
xuất và ngày áp dụng biện pháp này trước khi biện pháp được áp dụng trên thực tế.


Hội thẩm

Ngày 17 tháng 9 năm 2015, Việt Nam yêu cầu thành lập ban hội thẩm, đến ngày
28 tháng 10, Cơ quan Giải quyết Tranh chấp quyết định thành lập một ban hội thẩm
17



duy nhất để giải quyết tranh chấp hai vụ việc giữa Việt Nam, Đài Loan và Indonesia.
Ban Hội thẩm DS490 và DS496 chính thức thành lập ngày 9 tháng 12, với chủ tịch
Luz Elena Reyes de la Torre, hai thành viên José Pérez Gabilondo và Guillermo Valles.
Vào ngày 18 tháng 8 năm 2017, báo cáo của ban hội thẩm đã được chuyển đến các
thành viên.
Biện pháp tự vệ
Trong tranh chấp, cả Việt Nam, Đài Loan và Indonesia đều nhận định các biện
pháp mà Indonesia áp dụng là biện pháp tự vệ, khơng có tranh chấp về khái niệm này.
Song, ban hội thẩm đã phân tích lại khái niệm của biện pháp tự vệ (safeguard measure)
theo luật định, và đây cũng là vụ tranh chấp đầu tiên mà cơ quan tài phán WTO xem
xét tính chất tự vệ của biện pháp bị khiếu kiện. Ban hội thẩm định nghĩa biện pháp tự
vệ là biện pháp phải thỏa mãn các yêu cầu nêu tại Điều XIX.1.a, GATT 1994, theo đó,
biện pháp này phải làm ngừng, rút lại hay điều chỉnh một số cam kết, một nhượng bộ
trong khuôn khổ hiệp định này. Đồng thời, biện pháp đó phải có mục đích nhằm ngăn
chặn hoặc khắc phục các thiệt hại mà ngành công nghiệp trong nước phải gánh chịu vì
sự gia tăng đột biến của hàng hóa nhập khẩu. Theo ban hội thẩm, biện pháp tự vệ phải
là một biện pháp được áp dụng trong một chừng mực cần thiết để khắc phục các thiệt
hại cũng như trong bối cảnh mà tất cả các điều kiện để áp dụng biện pháp tự vệ được
đáp ứng.
Ban hội thẩm xem xét thấy rằng trong biểu cam kết của Indonesia tại WTO, không
đưa ra ràng buộc thuế quan đối với mặt hàng tôn lạnh, tức nghĩa là, theo phương pháp
chọn – cho, Indonesia có quyền áp dụng bất kỳ mức thuế nào đối với sản phẩm tôn
lạnh nhập khẩu, kể cả tăng thuế trở lại đối với mặt hàng này. Từ đây, ban hội thẩm
khẳng định biện pháp thuế tự vệ bị khởi kiện không bị coi là dẫn đến ngừng, rút bỏ hay
điều chỉnh các nghĩa vụ của Indonesia ở WTO. Tuy không phải là biện pháp tự vệ, ban
hội thẩm phân tích thêm và nhấn mạnh rằng các thành viên WTO có quyền thực hiện
biện pháp để ngăn ngừa hoặc khắc phục tổn thương nghiêm trọng cho ngành sản xuất
trong nước của mình tương tự với biện pháp tự vệ trong trường hợp tương đương, tức

loại hàng hóa khơng trong biểu cam kết, với điều kiện là phải chứng minh được là
hành động khắc phục hậu quả đã chọn sẽ đình chỉ, rút lại hoặc sửa đổi nghĩa vụ hoặc
nhượng bộ liên quan của GATT 1994 cho mục đích đó.
Tối huệ quốc
Khi phân tích biện pháp thuế tự vệ, ban hội thẩm cho rằng biện pháp này của
Indonesia không dẫn đến việc tạm ngừng thực hiện ngoại lệ về hội nhập kinh tế khu
vực, các cam kết về thuế của Indonesia trong khuôn khổ các hiệp định thương mại tự
do khu vực là nghĩa vụ của Indonesia theo các điều ước quốc tế đó, và đây không phải
là nghĩa vụ theo quy định của Điều XXIV, GATT 1994 nói riêng hay cả Tổ chức
Thương mại Thế giới nói chung. Do đó, ban hội thẩm kết luận rằng khơng có cơ sở
pháp lý nào cho phép khẳng định biện pháp bị khiếu kiện của Indonesia sẽ dẫn đến
việc tạm ngừng thực hiện ngoại lệ về tối huệ quốc, tức nghĩa là Indonesia vẫn phải
18


thực hiện nghĩa vụ về tối huệ quốc, khuyến nghị bị đơn điều chỉnh lại biện pháp đặc
biệt cho phù hợp nghĩa vụ tối huệ quốc theo Điều X:1, GATT 1994.
Bên cạnh đó, ban hội thẩm cũng cho rằng, thuế đặc biệt của Indonesia cũng không
phải là một biện pháp dẫn đến việc tạm ngừng, đình chỉ nghĩa vụ của thành viên WTO
theo nguyên tắc tối huệ quốc. Việc Indonesia loại trừ một số thành viên đang phát triển
ra khỏi phạm vi áp dụng thuế đặc biệt của Indonesia và được nước này viện dẫn Điều
9.1, ASG là khơng có cơ sở pháp lý. Vì, biện pháp bị khiếu kiện của bị đơn Indonesia
không được coi là biện pháp tự vệ nên không thuộc phạm vi điều chỉnh của ASG; việc
Indonesia loại trừ 120 quốc gia khỏi danh sách áp thuế đặc biệt cũng không phù hợp
với mục tiêu "ngăn chặn hoặc khắc phục các thiệt hại" gây ra cho ngành sản xuất trong
nước vì có sự gia tăng q mức của hàng hóa nhập khẩu, nêu tại Điều XIX.1, GATT
1994. Từ đây, ban hội thẩm viện dẫn ghi chú 1A, Hiệp định Marrakesh, nhấn mạnh
việc khi có sự khác nhau giữa GATT 1994 với một hiệp định thương mại đa biên về
thương mại hàng hóa thì quy định của hiệp định thương mại đa biên được sử dụng.



Kháng cáo

Ngày 28 tháng 9 năm 2017, Indonesia đã thông báo cho Cơ quan Giải quyết Tranh
chấp về quyết định kháng cáo một số vấn đề về luật định và giải thích pháp lý trong
báo cáo của ban hội thẩm, và Việt Nam cũng gửi thông báo kháng cáo ngày 3 tháng 10.
Về phía Indonesia, bị đơn tiếp tục khẳng định: để xác định một biện pháp có phải là
biện pháp tự vệ hay khơng, cần phải xem xét mục đích và bối cảnh của biện pháp đó.
Indonesia cho rằng, một biện pháp được thơng qua với mục đích để phịng ngừa hoặc
khắc phục thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt hại nghiêm trọng mà một
ngành công nghiệp nội địa phải gánh chịu vì có sự chuyển biến khơng dự đoán được
của bối cảnh là một biện pháp tự vệ, và biện pháp đặc biệt của họ đáp ứng điều XIX,
GATT 1994. Đồng thời nhấn mạnh rằng, nếu Cơ quan Phúc thẩm đồng ý với nhận
định của ban hội thẩm thì cũng đồng ý với việc ban hội thẩm đã bỏ qua tính chất và
mục đích đã tuyên bố của biện pháp khi ban hội thẩm kết luận đó khơng phải là biện
pháp tự vệ. Phía nguyên đơn là Việt Nam và Đài Loan kháng cáo cũng đều có chung
quan điểm với bị đơn về biện pháp tự vệ. Việt Nam cho rằng, một biện pháp đã được
thông qua theo các thủ tục được quy định tại Điều XIX, GATT 1994, ASG, và đã được
thơng báo theo đúng trình tự thì có căn cứ để xác định biện pháp bị khiếu kiện của
Indonesia là một biện pháp tự vệ.


Phúc thẩm

Ngày 27 tháng 11 năm 2017, Cơ quan Phúc thẩm thông báo về việc hoãn thời gian
ban hành phán quyết DS490 và DS496 bởi số lượng các vụ việc được tăng cường đáng
kể mà cơ quan này phải đối mặt trong năm 2017, sự tồn tại của một số kháng cáo tiến
hành song song và vấn đề về thiếu nguồn nhân lực trong Cơ quan Phúc thẩm. Cơ quan
Phúc thẩm phân công các thành viên xử lý kháng cáo với chủ tịch Triệu Hồng, hai
thành viên là Shree Baboo Chekitan Servansing và Peter Van Den Bossche. Đến ngày

15 tháng 8 năm 2018, báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm đã được gửi đến các thành viên.
19


AB tiến hành diễn giải Điều XIX.1.a, GATT 1994 để làm rõ nghĩa của những yếu
tố cấu thành biện pháp tự vệ, khẳng định rằng điều khoản này điều chỉnh các biện pháp
ngừng toàn bộ hoặc một phần, một cam kết trong GATT, hoặc việc rút bỏ, điều chỉnh
nhượng bộ trong GATT, và việc xác định thế nào là biện pháp tự vệ phải cân nhắc
theo từng vụ việc. Theo Cơ quan Phúc thẩm, nhận định của ban hội thẩm về tiêu chí
"trong chừng mực", ''theo thời gian" của biện pháp đặc biệt mà Indonesia tiến hành
đều chỉ được sử dụng để xác định xem biện pháp đó có được áp dụng một cách tương
thích với Điều XIX.1.a, GATT 1994 hay không, mà không phải để xác định yếu tố cấu
thành biện pháp tự vệ; và việc ban hội thẩm cho rằng cần phải xem xét liệu biện pháp
đặc biệt có được thơng qua trong bối cảnh mà "tất cả các điều kiện để áp dụng biện
pháp tự vệ được đáp ứng hay khơng" là khơng chính xác. Tuy phủ nhận lập luận định
nghĩa biện pháp tự vệ của ban hội thẩm, AB vẫn nhất trí với khẳng định biện pháp đặc
biệt của Indonesia không phải là biện pháp tự vệ vì khơng đáp ứng lẫn khơng chứng
minh được yếu tố cấu thành. Cụ thể là, việc áp thuế đặc biệt cho nhập khẩu tôn lạnh
không đáp ứng yếu tố "ngừng, rút bỏ, điều chỉnh nghĩa vụ" vì mặt hàng này không
thuộc biểu cam kết; việc loại trừ 120 nước khỏi danh sách áp thuế đặc biệt không đáp
ứng yếu tố "khắc phục thiệt hại ngành nội địa". Từ đây, Cơ quan Phúc thẩm bác toàn
bộ kháng cáo của Việt Nam, Đài Loan, và Indonesia, giữ nội chung chính về khuyến
nghị chung của ban hội thẩm.


Hậu tranh chấp

Sau tranh chấp pháp lý ở Tổ chức Thương mại Thế giới, lập luận khiếu kiện của
Việt Nam và Đài Loan đều không thành công, biện pháp thuế đặc biệt cho tôn lạnh
nhập khẩu của Indonesia không phải là biện pháp tự vệ, chủ yếu là do mặt hàng này

không được Indonesia liệt kê trong biểu cam kết WTO. Với yêu cầu của khuyến nghị
chung về việc điều chỉnh biện pháp cho đúng với nguyên tắc tối huệ quốc, trước nguy
cơ xuất hiện tranh chấp pháp lý mới ở các hiệp định thương mại tự do khác, đặc biệt là
Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN, Indonesia có liệt kê mặt hàng tơn lạnh
không phải chịu thuế, Indonesia đã dừng áp thuế đặc biệt từ ngày 15 tháng 4 năm 2019,
chuyển sang lệnh Ủy ban Chống bán phá giá Indonesia (KADI) điều tra chống bán phá
giá, tiến hành áp thuế chống bán phá giá cho tôn lạnh với Việt Nam ở mức thuế 12,3–
27,8%, tiếp tục tăng lên mức 3,01– 49,2% từ 2020. Trong q trình Indonesia tiến
hành điều tra, Bộ Cơng Thương Việt Nam cử Cục Phòng vệ thương mại theo dõi diễn
biến vụ việc và hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu của Việt Nam, ba lần gửi
thư tới Bộ Thương mại Indonesia, Ủy ban Chống bán phá giá và một số cơ quan liên
quan để đề nghị Indonesia xem xét lại một số nội dung trong phương pháp tính tốn,
xác định biên độ phá giá chưa phù hợp với quy định của WTO và thông lệ quốc tế. Sau
đó, ngày 3 tháng 7 năm 2021, Chính phủ Indonesia quyết định không áp thuế chống
bán phá giá với tôn lạnh xuất khẩu từ Việt Nam, kết thúc gần 7 năm chịu các loại thuế
nhập khẩu nhằm mục đích bảo vệ ngành sản xuất nội địa của Indonesia.
2.4. Tác động của vụ điều tra
2.4.1. Đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam
20


Có thể thấy, kết luận của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm có ý nghĩa tích cực
đối với việc diễn giải và áp dụng các quy định của WTO và cả những hậu quả tiêu cực
đối với Việt Nam. Cụ thể:
Về ý nghĩa tích cực:
Thứ nhất, vụ tranh chấp đã góp phần làm rõ các quy định của Điều XIX của
GATT và của Hiệp định tự vệ trong việc xác định một biện pháp có phải là biện pháp
tự vệ không. VSA (Hiệp hội Thép Việt Nam) cho rằng vụ kiện sẽ giúp ngăn chặn nguy
cơ các vụ điều tra sắp tới từ chính thị trường Indonesia, cũng như các thị trường khác
như: Malaysia, Thái Lan, Philippines,... Nhờ đó, các doanh nghiệp sản xuất thép Việt

Nam tránh bị áp mức thuế rất cao trong 3 năm đầu tiên, thậm chí 150% so với giá bán
trong năm đầu tiên (khoảng 430 USD/tấn), giảm xuống gần 139% trong năm thứ 3
(gần 312 USD/tấn)..
Thứ hai, việc khởi kiện ra WTO như một thơng điệp của Việt Nam sẵn sàng ủng
hộ tích cực quyền lợi của các nhà xuất khẩu của Việt Nam trước các vi phạm trong
hoạt động tự vệ thương mại của các nước nhập khẩu.
Về hậu quả tiêu cực, có thể thấy hai hậu quả tiêu cực đối với Việt Nam là:
Thứ nhất, vì biện pháp của Indonesia khơng bị kết luận là vi phạm Điều XIX của
GATT năm 1994 và Hiệp định tự vệ, Indonesia khơng có nghĩa vụ phải làm cho biện
pháp bị khiếu kiện trở nên tương thích với các quy định có liên quan, nên mức thuế
đặc biệt đánh lên tôn lạnh nhập khẩu từ Việt Nam hay Đài Loan vẫn được giữ nguyên,
thậm chí, Indonesia tiếp tục có quyền nâng lên. Hậu quả của điều này là các doanh
nghiệp Việt Nam tiếp tục gặp bất lợi khi xuất khẩu tôn lạnh vào thị trường Indonesia.
Thứ hai, vì biện pháp bị khiếu kiện khơng được coi là biện pháp tự vệ, Việt Nam
không thể yêu cầu Indonesia phải thực hiện nghĩa vụ đền bù theo Điều 8 của Hiệp định
tự vệ.
Cả hai tác động bất lợi này đều ảnh hưởng đến các lợi ích của Việt Nam, từ góc độ
vi mơ hay vĩ mơ. Thực tế cho thấy, Việt Nam là nhà xuất khẩu bị ảnh hưởng nhất vì có
thị phần xuất khẩu vào Indonesia đạt khoảng 50-60% tổng lượng nhập khẩu mặt hàng
tôn lạnh của nước này. Sau quyết định trên, Tập đoàn Hoa Sen - doanh nghiệp xuất
khẩu tôn lớn nhất của Việt Nam vào thị trường Indonesia, đã không thể tiếp tục xuất
khẩu được mặt hàng này.
2.4.2. Đối với thị trường Indonesia
Indonesia ban hành Quyết định 82/M-DAG/PER/12/2016 buộc các đơn vị nhập
khẩu cắt giảm việc mua hàng nhập khẩu để chuyển sang mua sản phẩm nội địa. Quyết
định này được áp dụng cho tất cả các sản phẩm tôn lạnh, sắt kẽm, thép. Nó gây ra
những bất hợp lý và ảnh hưởng không nhỏ tới cả hoạt động xuất khẩu vào Indonesia.
21



Thứ nhất, nó gây ảnh hưởng đến doanh nghiệp Indonesia và nguồn cung cấp tôn
lạnh. Theo quyết định, mỗi đơn vị sản xuất tại Indonesia chỉ nhận được 1 hạn mức
nhập khẩu do bộ công nghiệp Indonesia cung cấp. Nhưng trên thực tế, các nhà nhập
khẩu tôn lạnh chỉ nhận được hạn mức 20-30% so với lượng hàng hóa mong muốn.
Việc chấp hành các thủ tục này sẽ khiến các nhà nhập khẩu thương mại từ Indonesia
gặp khó khăn khi xin hạn mức nhập khẩu. Quá trình thực hiện các thủ tục cũng gây
mất thời gian, gây khó khăn đối với nhiều doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Quyết định 82
cũng yêu cầu, các doanh nghiệp phải dùng hết 80% lượng hàng hố nhập khẩu mới có
thể tiếp tục xin nhập khẩu hạn mức mới. Điều này khiến cho các doanh nghiệp tại
Indonesia thiếu hụt nguồn hàng trầm trọng, sản lượng tiêu thụ tại Việt Nam cũng giảm
sút đáng kể do 60% thị trường tiêu thụ mặt hàng tôn lạnh của Việt Nam là Indonesia.
Bên cạnh đó, thực thi Quyết định 82 của Chính phủ, các doanh nghiệp Indonesia
phải tìm kiếm các nguồn cung ứng khác để đáp ứng nhu cầu sản xuất của mình. Đồng
thời giá tơn lạnh tại thị trường Indonesia tăng mạnh. Nguyên nhân là do Chính phủ
Indonesia yêu cầu bên phía Doanh nghiệp Việt Nam phải kiểm định chất lượng tại
Việt Nam trước khi nhập khẩu sang Indonesia, điều đó khiến cho chi phí mua và bán
từ đối tác Indonesia cũng tăng cao.
Ngồi ra, phía Indonesia có thêm hệ thống quản lý chất lượng( rào cản kỹ thuật)
SNI của riêng họ và các nhà sản xuất tại Việt Nam đều phải trả thêm chi phí mời các
đơn vị từ Indonesia về nhà máy kiểm soát chất lượng hàng năm. Cơng đoạn này làm
cho việc đóng hàng mất thời gian và lãng phí bởi những đơn vị giám định cũng khơng
nắm rõ là cần kiểm tra những gì. Điều đó càng trở nên phức tạp và chi phí bán hàng
tăng cao do phát sinh các công đoạn không cần thiết. Quyết định 82 cũng đưa thêm
một số sản phẩm vào sản phẩm sắt, thép, tôn lạnh cấm nhập khẩu vào indonesia.
Nhưng cho đến nay vẫn chưa rõ mặt hàng thép nào cấm nhập khẩu.

Thứ hai, việc áp dụng biện pháp tự vệ của Indonesia đã làm giảm đáng kể lượng
tôn lạnh nhập khẩu từ Việt Nam vào Indonesia, từ đó gây ra sự căng thẳng trong quan
hệ thương mại giữa hai quốc gia. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã phải chuyển sang
thị trường khác để bán hàng, trong khi đó các doanh nghiệp Indonesia có lợi thế cạnh

tranh. Bên cạnh đó, việc giảm lượng tơn lạnh nhập khẩu từ Việt Nam cũng có thể làm
giảm hàng hóa khác được xuất khẩu từ Indonesia đến Việt Nam. Tuy nhiên, Indonesia
cũng phải trả giá vì việc áp dụng biện pháp tự vệ này. Các sản phẩm của Indonesia có
thể bị áp đặt các biện pháp tự vệ tương tự khi nhập khẩu vào các thị trường khác, và
điều này có thể gây ra sự phản đối từ các đối tác thương mại của Indonesia. Vì vậy,
việc áp dụng biện pháp tự vệ trong vụ điều tra này đã gây ra sự tranh cãi và ảnh hưởng
đến các mối quan hệ thương mại giữa hai quốc gia, và cả hai đều phải trả giá cho quyết
định của mình.
Thứ ba, việc áp dụng biện pháp tự vệ có thể làm giảm uy tín của Indonesia trong
cộng đồng kinh tế quốc tế. Điều này có thể gây ra sự phản đối và sự lo ngại từ các đối
22


tác thương mại khác của Indonesia, đặc biệt là khi các biện pháp tự vệ được áp dụng
không được coi là hợp lý hoặc công bằng.
Chương 3: Kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam từ vụ điều tra tự vệ
Thứ nhất, cần nghiên cứu và hiểu đầy đủ về các quy định của WTO trong
quá trình vận dụng để khởi kiện ra Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO
Có thể thấy từ khi khởi kiện đến khi có báo cáo của Ban hội thẩm, Việt Nam luôn
cho rằng biện pháp của Indonesia là biện pháp tự vệ, nên đã khởi kiện Indonesia áp
dụng biện pháp tự vệ không tương thích với Điều XIX của GATT và của Hiệp định tự
vệ. Việt Nam đã bỏ qua việc xác định liệu biện pháp đó có chứa đựng đầy đủ các yếu
tố cấu thành biện pháp tự vệ hay khơng, nói cách khác, là có làm ngừng, rút bỏ hay
điều chỉnh các nghĩa vụ của Indonesia theo các hiệp định có liên quan của WTO hay
không. Thực tế, Việt Nam không kiểm tra xem Indonesia có đưa ra ràng buộc thuế
quan đối với tôn lạnh nhập khẩu trong WTO không, để khẳng định biện pháp thuế đặc
biệt có làm điều chỉnh nhượng bộ thuế quan của Indonesia theo Biểu cảm kết thúc
quan của thành viên này khơng. Vì vậy, vụ tranh chấp này trở thành bài học quý giá
cho Việt Nam trong việc xác định tính chất biện pháp khi khởi kiện thành viên WTO
khác, tránh việc thất bại trước DSB trong q trình bảo vệ các quyền và lợi ích hợp

pháp của doanh nghiệp hay Nhà nước.
Thứ hai, Việt Nam cần sửa đổi một số quy định trong Luật Quản lý ngoại
thương năm 2017 nhằm đảm bảo sự tương thích với Điều XIX.1.a của GATT
năm 1994 và của Hiệp định tự vệ
Các quy định trong Luật Quản lý ngoại thường năm 2017 mà Việt Nam cần xem
xét để sửa đổi liên quan chủ yếu đến khái niệm biến pháp tự vệ và các biện pháp tự vệ
có thể áp dụng. Cụ thể:
Về khái niệm biện pháp tự vệ, Luật Quản lý ngoại thương năm 2017 quy định:
“Hiện pháp tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngồi vào Việt Nam (sau đây gọi là
biện pháp tự vệ) là biện pháp được áp dụng trong trường hợp hàng hóa được nhập
khẩu quá mức vào Việt Nam gây ra thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây ra thiệt hại
nghiêm trọng của ngành tái xuất trong nước”.
Có thể thấy, quy định này nhắc lại một số yếu tố được nêu trong Điều XIX.1.a của
GATT năm 1994 và các điều kiện để áp dụng biện pháp tự vệ theo Điều 2 của Hiệp
định tự vệ. Tuy nhiên, khái niệm này chưa thể hiện được đặc điểm quan trọng nhất của
biện pháp tự vệ là ngừng toàn bộ hoặc một phần cam kết, hoặc rút bớt, điều chỉnh một
nhượng bộ trong GATT. Do đó, khái niệm về biện pháp tự vệ nêu tại khoản 1 Điều 91
Luật quản lý ngoại thương năm 2017 cần được sửa đổi lại để bao hàm tất cả các yếu tố
cấu thành biện pháp tự vệ được thể hiện trong Điều XIX.1 của GATT năm 1994.

23


×