Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Một số đề xuất để phát triển bảo hiểm nông nghiệp từ thực tiễn kinh doanh của công ty bảo hiểm Agribank

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.86 KB, 6 trang )

MỘT SỐ ĐỀ XUẤT ĐỂ PHÁT TRIỂN BẢO HIỂM NÔNG NGHIỆP
TỪ THỰC TIỄN KINH DOANH CỦA CÔNG TY BẢO HIỂM AGRIBANK
Phạm Trần Oánh
Phòng Nghiên cứu phát triển và Truyền thông
Công ty Cổ phần Bảo hiểm Agribank
Tóm tắt
Từ năm 2011, với Quyết định số 315/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, việc triển
khai thí điểm bảo hiểm nông nghiệp (BHNN) đã được thực hiện tại nhiều địa phương trong
cả nước. Để động viên, khuyến khích nhiều nguồn lực trong xã hội tham gia kinh doanh
BHNN, đồng thời tiếp tục thực hiện chính sách BHNN, năm 2018, Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 58/2018/NĐ-CP về BHNN; năm 2019, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành
Quyết định số 22/2019/QĐ-TTg về thực hiện chính sách BHNN, cá nhân sản xuất nông
nghiệp thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo sẽ được hỗ trợ 90% phí BHNN. Tuy nhiên, đến nay,
BHNN vẫn chưa thực sự phát huy hiệu quả, việc triển khai thực hiện BHNN vẫn gặp nhiều
khó khăn, thách thức. Trong nội dung xây dựng Chiến lược phát triển nông thôn bền vững
đến năm 2030, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan nhấn
mạnh đến vai trò của Hợp tác - Liên kết - Thị trường giữa các chủ thể tham gia sản xuất
nông nghiệp trong khu vực Nông nghiệp - Nông thôn - Nông dân. Thực tế, BHNN đóng góp
phần quan trọng vào chuỗi liên kết Nhà nước, nhà ngân hàng, nhà doanh nghiệp và nhà
nơng, hình thành nên các gói sản phẩm, dịch vụ trong chuỗi liên kết sản xuất theo chuỗi giá
trị sản xuất hàng hóa đem lại giá trị gia tăng cao và tăng thu nhập cho người nông dân. Từ
nghiên cứu thực tiễn kinh doanh của Công ty Cổ phần Bảo hiểm Agribank, bài viết đề xuất
giải pháp phát triển BHNN ở Việt Nam.
Từ khóa: Bảo hiểm nơng nghiệp, chuỗi liên kết, tín dụng
1. Mở đầu
Từ năm 2011, với Quyết định số 315/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ7, việc triển
khai thí điểm bảo hiểm nơng nghiệp đã được thực hiện tại nhiều địa phương trong cả nước.
Để động viên, khuyến khích nhiều nguồn lực trong xã hội tham gia kinh doanh bảo hiểm
nông nghiệp, đồng thời tiếp tục thực hiện chính sách bảo hiểm nơng nghiệp, ngày 18/4/2018,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 58/2018/NĐ-CP về BHNN; ngày 22/6/2019, Thủ tướng
Chính phủ tiếp tục ban hành Quyết định số 22/2019/QĐ-TTg về thực hiện chính sách BHNN.


Theo đó, cá nhân sản xuất nơng nghiệp thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo sẽ được hỗ trợ 90%
Quyết định số 315/QĐ-TTg ngày 01/3/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện thí điểm bảo hiểm nơng nghiệp
giai đoạn 2011 - 2013.
7

83


phí BHNN. Tuy nhiên, đến nay, BHNN vẫn chưa thực sự phát huy hiệu quả, việc triển khai
thực hiện BHNN vẫn gặp nhiều khó khăn, thách thức.
Trong nội dung xây dựng Chiến lược phát triển nông thôn bền vững đến năm 2030, Bộ
trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thơn Lê Minh Hoan nhấn mạnh đến vai trị của
phương thức “Hợp tác - Liên kết - Thị trường” giữa các chủ thể tham gia sản xuất nông
nghiệp trong khu vực nông nghiệp - nông thôn - nông dân. Thực tế, BHNN đóng góp phần
quan trọng vào chuỗi liên kết Nhà nước, nhà ngân hàng, nhà doanh nghiệp và nhà nơng, hình
thành nên các gói sản phẩm, dịch vụ trong chuỗi liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị sản xuất
hàng hóa, đem lại giá trị gia tăng cao và tăng thu nhập cho người nơng dân.
2. Vị trí của bảo hiểm nông nghiệp trong chuỗi liên kết của Nhà nước, Ngân hàng
và Nhà nông trong sản xuất nông nghiệp
Nông nghiệp là lĩnh vực có độ rủi ro cao. Là một nước nông nghiệp, Việt Nam phải
chịu những đợt thiên tai, dịch bệnh gây tổn thất lớn. Hàng năm, thiên tai, dịch bệnh đã cướp
đi của người nông dân lượng tài sản ước tính 1,5% - 2% GDP. Các thiệt hại đó khơng chỉ ảnh
hưởng nghiêm trọng tới sản xuất nơng nghiệp mà cịn ảnh hưởng tới đời sống người nơng
dân, tới chính sách an sinh xã hội của Chính phủ ở khu vực tam nông (Nông nghiệp - Nông
thôn - Nơng dân). Thơng thường, lợi ích của bảo hiểm được nhìn nhận ở góc độ bảo vệ đối
tượng tham gia mua bảo hiểm nhưng trên thực tế, ở khu vực nông nghiệp - nông thôn - nông
dân, BHNN không chỉ bảo vệ cho đối tượng tham gia mua bảo hiểm, trong đó chủ yếu là bà
con nơng dân, BHNN cịn đóng góp vai trị quan trọng trong nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội, đóng góp vào chính sách an sinh xã hội của Nhà nước, giúp Nhà nước, trực tiếp là các
chính quyền địa phương, giảm bớt gánh nặng chi tiêu của ngân sách, giảm bớt các khoản
kinh phí cứu trợ nơng dân chịu thiệt hại ở các vùng bị thiên tai, dịch bệnh.

Với nhiệm vụ chính là cơng cụ để phân tán, chia sẻ rủi ro, dùng kỹ thuật bảo hiểm,
thông qua các sản phẩm bảo hiểm cho tính mạng, sức khỏe người vay hay tài sản hình thành
từ vốn vay, tài sản thế chấp tiền vay để bảo vệ nguồn vốn ngân hàng khi cấp vốn cho khu vực
nông nghiệp - nông thôn - nơng dân, trong những năm qua, bảo hiểm đã có được những bước
tăng trưởng ấn tượng. Thực tế, song song với những con số tăng trưởng về doanh thu, quỹ dự
phịng, lợi nhuận, nộp ngân sách... là chiều sâu đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội trong
lĩnh vực nơng nghiệp và địa bàn nơng thơn.
Về phía ngân hàng, trong thực tế, để có thể xuất vốn cho người nơng dân vay, người
nơng dân phải có tài sản thế chấp, điều này khiến nhiều hộ dù có nhu cầu mở rộng sản xuất
nhưng không thể vay được tiền. Bằng hợp đồng bảo hiểm, ngân hàng có thể yên tâm cho
nông dân vay mà không cần thế chấp tài sản. Khi đó, người nơng dân có khả năng trả nợ vì
đã có hợp đồng bảo hiểm là biện pháp thế chấp hữu hiệu, đảm bảo cho nông dân vay tiền
ngay cả khi gặp thiên tai, dịch bệnh. Do đó, với ngân hàng, tín dụng nơng nghiệp có cơ hội
thuận lợi để phát triển. Mặt khác, hàng năm, rủi ro thiên tai, dịch bệnh trong khu vực nông
nghiệp - nông thơn gây tổn thất lớn đến vốn tín dụng nơng nghiệp của ngân hàng, do vậy,
84


ngân hàng đều phải trích lập dự phịng rủi ro từ chi phí hoạt động. Thực chất đây là phương
thức tự bảo hiểm của ngân hàng, chưa phải là phân tán rủi ro hoặc chia sẻ rủi ro cho các định
chế tài chính khác, đặc biệt chi phí rủi ro hồn tồn do ngân hàng ứng trước, sau đó phân bổ
vào chi phí vay vốn cho người vay. Thơng qua BHNN, quá trình phân tán hay chia sẻ rủi ro
mới được thực hiện.
Về phía người nơng dân, bảo hiểm góp phần khắc phục các rủi ro, tổn thất do thiên tai,
dịch bệnh, giúp người nơng dân có khả năng thanh toán khoản vay, đủ điều kiện để tiếp cận
được khoản vay mới từ ngân hàng, giúp người nơng dân có cơ hội tái đầu tư, sớm khôi phục
sản xuất và ổn định đời sống. Với dịch vụ bảo hiểm, người nơng dân có một điểm tựa để n
tâm mở rộng sản xuất, phát triển ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất lớn, góp phần giúp
nơng nghiệp, nơng thơn phát triển, giúp nông dân giảm thiểu rủi ro. Mặt khác, khi tham gia
bảo hiểm rủi ro, đòi hỏi người nông dân phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện bảo hiểm liên

quan đến quản lý, giám sát rủi ro được bảo hiểm như: thiên tai, dịch bệnh, kể từ trước khi ký
kết cho đến cả quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm. Quá trình này sẽ từng bước góp phần
nâng cao nhận thức, năng lực quản lý, giám sát rủi ro cho các hộ nông dân.
3. Thực tiễn hoạt động của Bảo hiểm Agribank và những khó khăn khi triển khai
bảo hiểm nông nghiệp
Bảo hiểm Agribank (Công ty Cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng nông nghiệp – ABIC) đã
đào tạo hơn 30.000 khai thác viên được Bộ Tài chính cấp chứng chỉ hành nghề, qua đó xây
dựng được hệ thống kênh phân phối bán lẻ đến thơn, xóm, bản làng. Đối với bảo hiểm tính
mạng, sức khỏe cho các hộ sản xuất và cá nhân vay vốn, hàng năm, Bảo hiểm Agribank đã
bảo hiểm trên 2.500.000 lượt người vay, đạt trên 65% hộ nơng dân có quan hệ tín dụng với
Agribank. Đối với bảo hiểm tài sản hình thành từ vốn vay hay tài sản thế chấp tiền vay, từ
năm 2010, Bảo hiểm Agribank đã bắt đầu triển khai bảo hiểm đàn bò sữa cho TH True Milk
tại địa bàn tỉnh Nghệ An, bảo hiểm cây cao su ở các tỉnh: Lâm Đồng, Bình Định, Bình
Thuận. Hiện nay, đối tượng bảo hiểm được mở rộng nhanh chóng bao gồm: bò sữa, bò thịt,
dê, cây cao su, cây keo và cây bạch đàn. Đến nay, Bảo hiểm Agribank là đơn vị tiên phong
triển khai kinh doanh các sản phẩm bảo hiểm bán lẻ vào khu vực nông nghiệp - nơng thơn nơng dân dưới phương thức cung cấp Gói sản phẩm Tín dụng nơng nghiệp và BHNN. Các
sản phẩm bán lẻ đã mang lại thành công của Bảo hiểm Agribank và đạt tiêu chuẩn xếp loại
1A trong nhiều năm.
Tuy nhiên, mặc dù số lượng khách hàng ở khu vực này đơng đảo, song trình độ dân trí,
nhất là hiểu biết về bảo hiểm, chưa cao. Khó khăn lớn mà doanh nghiệp bảo hiểm gặp phải là
thuyết phục khách hàng tham gia bảo hiểm. Nếu phí bảo hiểm quá cao thì khách hàng khơng
đủ khả năng tài chính. Hoặc nếu năm thứ nhất không xảy ra tổn thất, không được bồi thường
thì đến năm thứ hai, có khả năng khách hàng sẽ không tiếp tục tham gia bảo hiểm.
Qua thực tiễn triển khai các dịch vụ bảo hiểm vào khu vực nông nghiệp - nông thôn và
nông dân, Bảo hiểm Agribank mới thành cơng về nhóm các sản phẩm bảo hiểm tính mạng và
85


sức khỏe cho người vay, cịn nhóm các sản phẩm bảo hiểm cho tài sản hình thành từ vốn vay,
tài sản đảm bảo tiền vay, tài sản thế chấp tiền vay chưa đạt được kỳ vọng, trong khi tiềm

năng khai thác rất lớn.
Nguyên nhân là do Bảo hiểm Agribank gặp phải một số khó khăn khi triển khai thực tế
như sau:
- Cung cấp gói sản phẩm nhiều tính năng cho một đối tượng khách hàng là xu thế của
kinh tế hàng hóa, phân cơng lao động và xã hội hóa cao nhằm thỏa mãn cao nhất cho như cầu
tiêu dùng cũng như nhu cầu tự bảo vệ, Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của
Chính phủ về chính sách tín dụng nông nghiệp cũng quy định lãi suất cho vay giảm khi bán
gói bảo hiểm. Tuy nhiên, việc bán Gói sản phẩm Tín dụng nơng nghiệp cùng BHNN dễ bị
hiểu là hành vi ép buộc khách hàng (Công văn số: 7928/NHNN-TTGSNH ngày 30/10/2002
của Ngân hàng Nhà nước). Mặc dù trong suốt q trình triển khai, Agribank và Bảo hiểm
Agribank ln tích cực vận động, tuyên truyền, giải thích, tư vấn cho khách hàng cũng như
các tổ, hội và các cấp chính quyền địa phương hiểu mục đích, lợi ích của sản phẩm bảo hiểm
và tính tự nguyện khi tham gia.
- Đơn bảo hiểm chưa được bổ sung là một trong các biện pháp bảo đảm tiền vay, các
hộ vay vốn vẫn phải thế chấp bằng tài sản đảm bảo hoặc Giấy chứng nhận quyền sở dụng đất
gây lãng phí trong nguồn lực xã hội. Ví dụ, một khoản vay tín dụng để ni trâu, bị thì ngồi
đàn trâu bị hình thành từ vốn vay, hộ nông dân vẫn phải thế chấp bằng Giấy chứng nhận
quyền sở hữu đất.
- Số lượng đơn BHNN đã cấp tại thị trường Việt Nam chưa đáp ứng được nguyên tắc
số đông, xác suất rủi ro chưa được thống kê đầy đủ. Mặt khác, phương thức chăn nuôi của
các hộ chủ yếu là nhỏ lẻ, manh mún, phân tán, chưa tuân thủ quy trình chuẩn nên mức độ rủi
ro cao, do vậy, thị trường tái bảo hiểm hiện đang tính phí BHNN tại Việt Nam rất cao. Phí
bảo hiểm làm tăng chi phí cho khoản vay và làm giảm tính hấp dẫn của sản phẩm BHNN.
4. Một số đề xuất
Để BHNN thực sự phát huy hiệu quả, đi vào cuộc sống, phát triển kinh tế - xã hội khu
vực tam nơng, chúng tơi có một số đề xuất như sau:
(i) Cần cơ chế đặc thù phát triển bảo hiểm nông nghiệp
Năm 2018, Ngân hàng Thế giới (WB) đã phát hành Báo cáo “Thực trạng tài chính
nơng nghiệp Việt Nam” có nhiều lưu ý về sử dụng cơng cụ quản lý rủi ro trong khu vực tam
nông, trong đó, BHNN cần phân biệt hai nhóm rủi ro, rủi ro thảm họa cần được Nhà nước

tham gia 100%, các hộ và doanh nghiệp tham gia rủi ro đơn lẻ.
Ví dụ về đầu tư bảo hiểm trong nông nghiệp của Israel, đất nước có ngành khoa học kỹ
thuật nơng nghiệp hàng đầu thế giới, hầu hết vốn đầu tư là từ Chính phủ, gồm cả đầu tư từ
ngân sách và kêu gọi vốn đầu tư qua quỹ đầu tư mạo hiểm. Nguồn vốn đầu tư mạo hiểm cũng
có thể đổ vào các quỹ đầu tư mạo hiểm tư nhân song cơ cấu quỹ đầu tư mạo hiểm của Chính
phủ Israel chiếm quy mơ lớn. Do Chính phủ trực tiếp đi kêu gọi vốn nên nguồn vốn đầu tư
86


thu được sẽ cao hơn, bởi nhà đầu tư tin tưởng và an tâm hơn về tính chắc chắn khi Chính phủ
trực tiếp quản lý quỹ.
(ii) Về phương án triển khai bảo hiểm nơng nghiệp gắn với tín dụng
Nghị định số 55/2015/NĐ-CP về chính sách tín dụng nơng nghiệp cũng quy định lãi
suất cho vay giảm khi bán gói bảo hiểm; Công văn số 477/KTHT-GN về việc cung cấp thông
tin triển khai BHNN, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã gợi ý phương án “Ngân
hàng giảm một phần lãi suất để trả phí bảo hiểm, khi người vay vốn được nhận thêm thẻ Bảo
hiểm. Khi đó, ngân hàng được đảm bảo vốn vay vì trường hợp rủi ro xảy ra trong sản xuất có
thiên tai dịch bệnh, người vay đã có bảo hiểm, khơng bị nợ xấu. Người vay được lợi vì được
giảm lãi suất để mua bảo hiểm, được hỗ trợ từ bảo hiểm nếu có sự kiện bảo hiểm xảy ra.
Ngoài ra, khi tham gia bảo hiểm, người sản xuất phải tuân thủ các quy định về kỹ thuật của
cơ quan chuyên ngành nên sẽ giúp sản xuất có chất lượng, đảm bảo tính bền vững”.
Bảo hiểm Agribank đã có Cơng văn số 6184/2020/CV-ABIC-TSKT ngày 25/12/2020
trình Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kế hoạch phối hợp triển khai bán Gói sản
phẩm Tín dụng nơng nghiệp và BHNN. Trong đó, Cơng văn đã báo cáo thể hiện nhu cầu
tham gia bảo hiểm, tính khả thi của phương án qua thực tế khảo sát và triển khai của Bảo
hiểm Agribank tại một số địa bàn, những thuận lợi, khó khăn và đề xuất kiến nghị. Phương
thức triển khai BHNN gắn với tín dụng nơng nghiệp qua kênh phân phối Agribank là mơ
hình chứng minh đạt nhiều kết quả khả quan trong thực tiễn triển khai của Bảo hiểm
Agribank 13 năm qua. Bảo hiểm Agribank đã phối hợp chặt chẽ với Agribank tuyên truyền,
giải thích, tư vấn về sản phẩm bảo hiểm cũng như áp dụng các chính sách hỗ trợ khách hàng

vay vốn tín dụng tại Agribank có tham gia bảo hiểm tại Bảo hiểm Agribank (Agribank có gói
lãi suất ưu đãi một số địa bàn giảm lãi suất đến 1% so với các ngân hàng thương mại khác,
Bảo hiểm Agribank giảm phí bảo hiểm 20%). Ngồi những nỗ lực từ chính sách, cần có sự
liên kết các nhà: Nhà nước, nhà ngân hàng, nhà doanh nghiệp, nhà bảo hiểm và nhà nông,
trong chuỗi liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị sản xuất hàng hóa đem lại giá trị gia tăng cao
và tăng thu nhập cho người nơng dân. Do đó, Bảo hiểm Agribank đề xuất kế hoạch phối hợp
triển khai BHNN gắn với tín dụng nông nghiệp thông qua hoạt động của Agribank. Bảo hiểm
Agribank kiến nghị coi phương thức triển khai bảo hiểm dưới hình thức gói tín dụng nơng
nghiệp của Agribank với các sản phẩm bảo hiểm của Bảo hiểm Agribank là mơ hình để triển
khai thành cơng bảo hiểm rủi ro trong khu vực nông nghiệp - nông thôn - nông dân bằng hình
thức thương mại (khơng có hỗ trợ phí bảo hiểm từ ngân sách nhà nước.)
(iii) Về phương án triển khai bảo hiểm nông nghiệp gắn với chuỗi liên kết
Cũng theo Công văn số 477/KTHT-GN, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nơng thơn đã
gợi ý phương án “Phí bảo hiểm được lấy từ giá trị gia tăng khi tham gia chuỗi (khi đó, hộ
nơng dân ký hợp đồng sản xuất theo chuỗi với hợp tác xã, hoặc doanh nghiệp tiêu thụ thì
nhận được thẻ Bảo hiểm). Phí bảo hiểm được tính ở một phần giá bán sản phẩm theo hợp
đồng thỏa thuận giữa 2 bên (doanh nghiệp có thể ứng ra để mua bảo hiểm hoặc người sản
xuất ứng ra mua)”. Hiện nay, mơ hình này đã được triển khai phổ biến và thành công ở các
87


nước phát triển có nền nơng nghiệp tiên tiến, hiện đại, áp dụng hình thức sản xuất chun
mơn hóa - đại nông trường. Ở nước ta, sản xuất nông nghiệp đặc biệt tại khu vực nơng thơn
chủ yếu là hình thức nhỏ lẻ, manh mún, tự phát, khơng có nguồn cung ổn định, trồng trọt
chăn nuôi theo tập quán, không theo quy chuẩn. Do vậy, việc áp dụng phương án triển khai
BHNN gắn với chuỗi liên kết phù hợp hơn với mơ hình trang trại trồng trọt, chăn ni theo
quy chuẩn. Đối với các mơ hình sản xuất cá thể, hộ gia đình, việc đưa phí bảo hiểm tính vào
giá sản phẩm sẽ làm tăng giá thành sản phẩm, giảm sức cạnh tranh của sản phẩm nông
nghiệp trên thị trường. Để áp dụng được phương án này, cần phải áp dụng đồng bộ, có sự
giám sát, hỗ trợ từ các chính sách và cơ chế của Nhà nước như:

- Chuẩn hóa quy trình sản xuất, chăn ni trong khu vực nông nghiệp, đặc biệt chú
trọng ứng dụng công nghệ cao, tiếp cận trình độ sản xuất của các nước có nền nông nghiệp
phát triển;
- Hỗ trợ bao tiêu sản phẩm đầu ra và cung ứng nguyên liệu đầu vào;
- Hỗ trợ một phần chi phí quản lý rủi ro (trong đó có chi phí bảo hiểm);
- Quy định rõ vai trò của từng thành viên trong chuỗi sản xuất: nhà cung ứng nguyên
liệu đầu vào, người nông dân, nhà bảo hiểm và nhà bao tiêu sản phẩm.
5. Kết luận
Nông nghiệp đóng vai trị là trụ đỡ của nền kinh tế thông qua việc bảo đảm vững chắc
an ninh lương thực quốc gia, tạo sinh kế, việc làm và thu nhập ổn định cho người dân nơng
thơn, góp phần quan trọng ổn định chính trị - xã hội và phát triển đất nước. Với sự quan tâm
của cả hệ thống chính trị, thị trường cho BHNN ở Việt Nam là rất rộng lớn và đầy tiềm năng
phát triển. Hy vọng rằng, mơ hình cung cấp Gói sản phẩm Tín dụng nơng nghiệp và BHNN
trong phương thức “Hợp tác - Liên kết - Thị trường” sẽ là một trong những giải pháp hữu
hiệu để BHNN Việt Nam thực sự đi vào cuộc sống tại khu vực nông nghiệp - nông thôn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thủ tướng Chính phủ (2011), Qút định sớ 315/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ về việc thực hiện thí điểm bảo hiểm nông nghiệp giai đoạn 2011 - 2013, ban
hành ngày 01/3/2011.
2. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định sớ 358/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 315/QĐ-TTg ngày
01/3/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện thí điểm bảo hiểm nông
nghiệp giai đoạn 2011 - 2013, ban hành ngày 27/02/2013.
3. Chính phủ (2015), Nghị định sớ 55/2015/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ về
chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn., ban hành ngày
09/6/2015.

88




×