Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Phát triển bảo hiểm xã hội nhằm góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.53 KB, 6 trang )

PHÁT TRIỂN BẢO HIỂM XÃ HỘI NHẰM GÓP PHẦN
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
ThS. Bùi Quỳnh Anh
Khoa Bảo hiểm - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Tóm tắt
Ngành Bảo hiểm xã hội (BHXH) ngày càng chứng minh vai trị quan trọng trong cơng
tác an sinh xã hội (ASXH) cũng như đảm bảo quyền lợi cho người lao động (NLĐ) và doanh
nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh dịch bệnh. Thời gian qua, ngành BHXH Việt Nam đã nỗ lực
đồng hành cùng các bộ, ngành, địa phương thực hiện hiệu quả chính sách BHXH, bảo hiểm y
tế (BHYT) theo mục tiêu đã định, đồng thời góp phần không nhỏ làm bức tranh kinh tế - xã
hội khởi sắc trở lại. Trong thời gian tới, ngành BHXH cần có những thay đổi để thực hiện
nhiều chính sách và mục tiêu mới; triển khai các chính sách hỗ trợ NLĐ theo Nghị quyết số
68/NQQ-CP20 và Nghị quyết số 116/NQ-CP21. Nhận thức được trách nhiệm nặng nề của
ngành BHXH, bài viết tập trung vào tìm hiểu và phân tích cơ hợi - thách thức để phát triển
BHXH ở Việt Nam trong điều kiện bình thường mới của đại dịch COVID-19.
Từ khóa: An sinh xã hội, phát triển bảo hiểm xã hội, cơ hội, thách thức
1. Vai trò trụ cột của bảo hiểm xã hội trong hệ thống an sinh xã hội và phát triển
kinh tế - xã hội quốc gia
Tùy theo hồn cảnh lịch sử, trình độ kinh tế - xã hội cụ thể mà mỗi quốc gia sẽ xây
dựng một hệ thống ASXH có phạm vi và mức độ bảo vệ khác nhau. Mặc dù vậy, xét trên cơ
sở về mặt học thuật, hệ thống ASXH là một hệ thống gồm nhiều chế độ, chính sách mà trong
đó, mỗi chế độ, chính sách đều có vai trị, chức năng và phạm vi hoạt động riêng nhưng
mang tính kết hợp nhằm tạo ra một mạng lưới xã hội rộng khắp, bao trùm lên các thành viên
của một quốc gia. Mục tiêu tối cao của hệ thống ASXH là bảo vệ mọi thành viên trước những
rủi ro, biến cố, khó khăn, bất hạnh và giữ gìn cuộc sống của họ bằng những biện pháp thích
hợp. Trong hệ thống ASXH, chính sách BHXH ln giữ vai trị trụ cột, xương sống, điều
chỉnh hoạt động của các chính sách khác. Phát triển BHXH sẽ tạo ra tiền đề và điều kiện để
thực hiện tốt các chính sách ASXH, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Sự vững chắc của hệ thống ASXH ở một quốc gia được phản ánh qua chính sách
BHXH của quốc gia đó. Chính sách BHXH có đối tượng người lao động tham gia rất lớn, khi
Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng


lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19.
21
Nghị quyết số 116/NQ-CP ngày 24/9/2021 của Chính phủ về hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động bị ảnh
hưởng bởi đại dịch COVID-19 từ Quỹ bảo hiểm thất nghiệp.
20

377


rủi ro ốm đau, tai nạn, mất việc làm hay già yếu… xảy ra sẽ đe dọa đến cuộc sống của bản
thân người lao động và gia đình họ, ảnh hưởng xấu tới tâm lý của người lao động, từ đó ảnh
hưởng tới tồn xã hội. Xét trên phương diện kinh tế học và xã hội học, nhu cầu xã hội làm
cho con người luôn phải suy nghĩ, luôn phải lo lắng về những rủi ro, biến cố, làm cản trở
không nhỏ đến khả năng phát huy nội lực của mỗi người. Như vậy, BHXH ra đời và phát
triển sẽ tạo tâm lý yên tâm cho NLĐ, giúp họ an tâm cơng tác, góp phần làm tăng năng suất
lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội, tạo thêm nhiều sản phẩm hàng hóa cho xã
hội. Bên cạnh đó, người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng góp BHXH cho NLĐ mà
mình sử dụng. Việc đóng góp BHXH cho NLĐ có thể sẽ làm tăng chi phí sản xuất, giảm lợi
nhuận của doanh nghiệp, nhưng thực chất, tham gia BHXH đã chuyển giao trách nhiệm bảo
vệ NLĐ về phía xã hội, san sẻ rủi ro trên phạm vi tồn xã hội. Điều đó giúp cho chủ sử
dụng lao động bớt những khó khăn, lo lắng về nguồn lao động của doanh nghiệp, yên tâm
tổ chức sản xuất, kinh doanh lâu dài và bền vững. Chính vì vậy, BHXH gián tiếp kích thích
và làm tăng trưởng nền kinh tế.
BHXH, cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội là những bộ phận của hệ thống ASXH, là
những chính sách xã hội quan trọng của mỗi quốc gia. Các chính sách này có quan hệ chặt
chẽ, bổ sung và hỗ trợ cho nhau, từ đó góp phần ổn định cuộc sống cho mọi thành viên trong
cộng đồng xã hội, góp phần ổn định xã hội. Khi BHXH phát triển, số đối tượng tham gia và
hưởng BHXH được mở rộng sẽ góp phần nâng cao đời sống của NLĐ nói riêng và dân cư
nói chung. Từ đó sẽ góp phần làm giảm số đối tượng được hưởng và nâng cao mức hưởng
của các chính sách khác trong hệ thống ASXH, đồng thời làm giảm gánh nặng cho ngân sách

nhà nước. Như vậy, khi kinh tế - xã hội phát triển thì hệ thống BHXH sẽ được mở rộng, lúc
này, những hình thức trợ giúp khác của xã hội chỉ là cái “lưới” cuối cùng cung cấp các điều
kiện tối thiểu cho những người gặp hồn cảnh khó khăn, bất lợi trong cuộc sống.
Ở Việt Nam, trong thời kỳ chiến tranh, chính sách BHXH được thực hiện đối với cơng
nhân viên chức nhà nước và lực lượng vũ trang. Các chế độ trợ cấp BHXH đã góp phần đảm
bảo đời sống cho người thụ hưởng chính sách BHXH, góp phần động viên sức người, sức
của cho tiền tuyến, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của dân tộc. Khi đất nước đã hồn
tồn độc lập, BHXH cũng góp phần giải quyết hậu quả chiến tranh, hàng vạn công nhân viên
chức nhà nước, lực lượng vũ trang đã nghỉ việc được hưởng các chế độ BHXH. Trong giai
đoạn thực hiện cải cách kinh tế (năm 1986), việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đã dẫn đến sự cải cách và phát triển không ngừng về BHXH, BHYT,
bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), góp phần tích cực vào việc ổn định xã hội, thực hiện xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Ở thời điểm hiện tại, một trong những biện pháp quan trọng
đã được Việt Nam tích cực triển khai nhằm thích ứng linh hoạt với đại dịch chính là tổ chức
thực hiện ASXH với trọng tâm là BHXH, nhằm thực hiện “mục tiêu kép”: phòng, chống dịch
COVID-19 và phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội quốc gia, ASXH chủ động và bền vững nhất.
378


2. Kết quả đạt được trong thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội ở Việt Nam
Ngày 16/02/1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 19-CP thành lập BHXH Việt
Nam trên cơ sở thống nhất các tổ chức BHXH ở Trung ương và địa phương thuộc hệ thống
Lao động - Thương binh và xã hội và Liên đoàn Lao động. Trải qua 27 năm xây dựng và
phát triển, hệ thống chính sách, pháp luật về BHXH đã khơng ngừng được bổ sung, hoàn
thiện. Ngành BHXH Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể, từng bước khẳng định
chính sách BHXH, BHYT là một trụ cột chính của hệ thống ASXH, góp phần thực hiện tiến
bộ và cơng bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội và phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước. Những thành tựu đạt được cụ thể:
- Hệ thống chính sách BHXH khá đồng bộ và bao quát hầu hết các chế độ BHXH theo
thơng lệ quốc tế: hình thức triển khai bao gồm: BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện; đối

tượng tham gia BHXH bao gồm với cả người có quan hệ lao động và người khơng có quan
hệ lao động; cả khu vực kinh tế chính thức lẫn phi chính thức.
- Các mối quan hệ trong BHXH được điều chỉnh ngày càng phù hợp với vai trò chủ
đạo của Nhà nước, sự tham gia của NLĐ và người sử dụng lao động. Quỹ BHXH đã trở
thành quỹ an sinh lớn nhất, hoạt động theo nguyên tắc đóng - hưởng và chia sẻ giữa những
NLĐ cùng thế hệ và giữa các thế hệ tham gia BHXH.
- Diện bao phủ BHXH theo quy định của pháp luật và quy mô tham gia BHXH trên
thực tế ngày càng được mở rộng. Sự mở rộng theo hướng phù hợp với tình hình phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước và mở rộng quyền lợi của người tham gia, thụ hưởng chính
sách. Số người tham gia BHXH, BHYT, BHTN tiếp tục tăng qua các năm; số người tham gia
BHYT vượt mục tiêu đề ra, tiệm cận mục tiêu BHYT toàn dân. Số người tham gia BHXH bắt
buộc tăng từ 2,3 triệu người năm 1995 lên 12,1 triệu người vàonăm 2015 (gấp 5,3 lần so với
năm 1995); đạt 15,1 triệu người vào năm 2021 (gấp 1,25 lần so với năm 2015). Số người
tham gia BHXH tự nguyện tăng từ 6 nghìn người năm 2008 lên gần 218 nghìn người vào
năm 2015 (gấp 36,3 lần so với năm 2008); đạt 1,45 triệu người vào năm 2021 (gấp 6,65 lần
so với năm 2015). Số người tham gia BHYT tăng từ 7,1 triệu người năm 1995 lên 70 triệu
người vào năm 2015 (gấp 9,86 lần so với năm 1995); đạt 88,8 triệu người vào năm 2021 (gấp
1,27 lần so với năm 2015), đạt tỷ lệ bao phủ 91,01% dân số. Số người tham gia BHTN tăng
từ gần 6 triệu người năm 2009 lên 10,3 triệu người vào năm 2015 (gấp 1,7 lần so với năm
1995); đạt 13,4 triệu người vào năm 2021 (gấp 1,3 lần so với năm 2015).
- Mơ hình tổ chức hệ thống BHXH cơ bản phù hợp với thông lệ quốc tế, hạn chế được
sự chồng chéo, lỏng lẻo trong quản lý, đồng thời phát huy được vai trị và tính hiệu quả trong
từng khâu thiết kế, xây dựng, hoạch định, tổ chức thực hiện chính sách. Năng lực, hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước về BHXH được tăng cường.

379


- Hành lang pháp lý làm cơ sở cho việc thực hiện chính sách BHXH ngày càng được
hồn thiện. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về BHXH thường xun được sửa đổi, bổ

sung và hồn thiện; cơng tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật BHXH
được chú trọng hơn; công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế về BHXH được đẩy mạnh.
- Khả năng thích ứng nhanh, linh hoạt với tình hình dịch COVID-19, đảm bảo tốt nhất
quyền lợi người tham gia, thụ hưởng chính sách. Trước tình hình dịch bệnh phức tạp, kéo
dài, BHXH Việt Nam luôn theo sát diễn biến thực tế, kịp thời triển khai các giải pháp linh
hoạt nhằm đảm bảo tốt nhất quyền lợi người tham gia và an tồn phịng, chống dịch COVID19. Tính đến hết ngày 31/12/2021, số người tham gia BHXH hơn 16,5 triệu người,
tăng 2,1% so với năm 2020, đạt 33,75% lực lượng lao động trong độ tuổi; số người tham gia
BHTN gần 13,4 triệu người, tăng 0,4% so với năm 2020, đạt 27,33% lực lượng lao động
trong độ tuổi; số người tham gia BHYT hơn 88,8 triệu người, tăng 0,9% so với năm 2020,
đạt tỷ lệ bao phủ 91,01% dân số.
3. Chiến lược phát triển bảo hiểm xã hội trong thời kỳ mới nhằm góp phần
phát triển kinh tế - xã hợi quốc gia
Chiến lược phát triển ngành BHXH Việt Nam đến năm 2020 được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt theo Quyết định số 1215/QĐ-TTg ngày 23/7/2013. Đến hết năm 2020, hầu hết
các mục tiêu đề ra trong Chiến lược này đã được ngành BHXH Việt Nam thực hiện hiệu quả,
là dấu mốc quan trọng để đề ra Chiến lược phát triển cho giai đoạn tiếp theo. Từ định hướng
đặt ra tại Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
10 năm 2021 - 2030 của đất nước, yêu cầu đặt ra từ thực tiễn, cần thiết phải xây dựng Chiến
lược phát triển ngành BHXH Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo. Chiến lược mới, tầm nhìn
mới, đóng góp mới cho sự phát triển kinh tế - xã hội quốc gia. Theo đó, BHXH Việt Nam
cần đặt ra các mục tiêu quan trọng như: nhanh chóng mở rộng đối tượng tham gia BHXH,
phấn đấu đến năm 2030 đạt 60% lực lượng lao động tham gia BHXH, 45% lực lượng lao
động tham gia BHTN, tỷ lệ tham gia BHYT đạt 97 % dân số; phấn đấu đạt 100% thủ tục
hành chính được tiếp nhận, giải quyết khơng phụ thuộc vào địa giới hành chính; mức độ hài
lòng của người dân, doanh nghiệp đạt tối thiểu 95%... Đồng thời, xây dựng BHXH Việt Nam
theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Toàn bộ các hoạt động quản
lý, điều hành, phục vụ người dân và doanh nghiệp đều vận hành trong “Hệ sinh thái số 4.0” (hệ
thống cơng nghệ thơng tin có năng lực xử lý tập trung và tích hợp cao, trên nền tảng công nghệ
mới), không phụ thuộc vào địa bàn hành chính, có thể truy cập mọi nơi, mọi lúc…
Tuy nhiên, việc thực hiện và chiến lược phát triển BHXH ở Việt Nam phải phù hợp

với quy luật, xu hướng chung của thế giới, có tính đến tốc độ già hóa dân số và cần đồng bộ
với những chính sách xã hội bảo đảm các dịch vụ thiết yếu cho mọi người dân. Cụ thể, sự
phát triển BHXH ở Việt Nam trong thời gian tới cần chú trọng những điểm cơ bản sau đây:
380


Thứ nhất, hạn chế các bất cập, khác biệt. Hiện nay, nguy cơ mất cân đối Quỹ BHXH
đang dần trở thành hiện thực nếu khơng có sự điều chỉnh về chính sách. Ví dụ, hiện có những
cách tính khác nhau về số người tham gia BHXH, nhưng dù theo cách tính nào thì tỷ lệ người
tham gia BHXH ở Việt Nam hiện vẫn rất thấp. Không chỉ vậy, các quy định về mức lương
tối đa để đóng BHXH, mức hưởng lương hưu của Việt Nam cũng có nhiều khác biệt so với
nhiều nước khác. Dù có tỷ lệ lương để đóng BHXH khơng chênh lệch lớn nhưng một số
nước (Đức, Trung Quốc) quy định mức trần tiền lương đóng BHXH khơng q 2 - 3 lần tiền
lương trung bình của xã hội, còn Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) khuyến nghị khơng q
10 lần mức lương cơ sở thì ở Việt Nam, NLĐ có thể đóng BHXH ở mức trần tiền lương gấp
20 lần lương cơ sở (tương đương 6 lần mức lương trung bình của xã hội). Với mức đóng như
vậy, ở Trung Quốc, người đóng BHXH được hưởng mức lương hưu tương đương 35% mức
lương đóng; ở Đức tỷ lệ này là 30%; còn ở Việt Nam là 70%. Mức đóng và tỷ lệ hưởng như
trên cùng tốc độ già hóa dân số của Việt Nam địi hỏi chúng ta phải có sự chuẩn bị sớm vì
điều chỉnh chính sách BHXH thường có độ trễ tới 20 năm. Kiểm sốt tình trạng trốn, nợ
BHXH và các tồn tại trong thực hiện chính sách BHXH ở Việt Nam như: việc doanh nghiệp
nợ, trốn đóng BHXH; lao động nhiều ngành sản xuất như: may mặc, da giày, thủy sản
thường nghỉ hưu sớm hơn so với độ tuổi quy định nên quyền lợi khó được bảo đảm. Trong
khi đại diện một số doanh nghiệp lại cho rằng, mức đóng BHXH ở Việt Nam còn cao, thủ tục
tham gia chưa đơn giản, thuận tiện.
Thứ hai, kết hợp nhiều phương án để tăng diện bao phủ BHXH. Việc nâng cao tỷ lệ
người tham gia BHXH là vấn đề khó khăn trên tồn thế giới và thường phụ thuộc vào thu
nhập. Các nước gặp thách thức về diện bao phủ thấp, mức lương hưu thấp và thiếu tính ổn
định trong việc duy trì BHXH. Do vậy, để tăng tỷ lệ tham gia BHXH, phải sử dụng kết hợp
nhiều phương án như: giao chỉ tiêu phát triển BHXH cho địa phương, gắn kết chặt chẽ giữa

cơ quan thuế và BHXH; đơn giản hóa các quy trình, thủ tục tham gia BHXH; xây dựng các
chính sách linh hoạt như “con đóng BHXH, bố mẹ được hưởng lương hưu”, hỗ trợ doanh
nghiệp đóng đầy đủ BHXH cho lao động được tiếp cận các chương trình ưu đãi của Nhà
nước, từ đó tạo thói quen tham gia BHXH. Thực tế có một tỷ lệ rất lớn lao động tự do muốn
tham gia BHXH nhưng số người có thể đóng được lại rất ít, vì vậy, cần phải có chính sách hỗ
trợ từ Nhà nước cho đối tượng này. Từ chính sách đóng bắt buộc đến ưu đãi thuế, khuyến
khích tiết kiệm cá nhân vì mục đích hưu trí; Nhà nước hỗ trợ đóng BHXH cùng người lao
động hoặc trợ cấp trực tiếp cho một số đối tượng mà khơng địi hỏi đóng góp; phát triển các
chương trình hưu trí bổ sung, đồng thời phải hiện đại hóa hệ thống quản lý BHXH, tăng hiệu
quả đầu tư quỹ hưu trí.
Thứ ba, có đặc thù nhưng hịa nhập quốc tế. Những thay đổi rất căn bản trong chính
sách BHXH ở Việt Nam là tất yếu để đáp ứng sự thay đổi của điều kiện kinh tế - xã hội. Tuy
nhiên, cũng như các quốc gia khác, việc phát triển, thực hiện chính sách BHXH, hệ thống
381


ASXH ở Việt Nam có những đặc thù. Ví dụ, quan tâm đảm bảo đời sống toàn dân nhưng đặc
biệt là quan tâm đến những đối tượng yếu thế, người có cơng, đến chủ trương đầu tư hạ tầng,
các cơng trình cơng cộng cho vùng sâu, vùng xa chứ khơng chỉ ở những khu vực phát triển.
Đồng thời, đảm bảo ba nguyên tắc khi thực hiện chính sách BHXH ở Việt Nam: phương
pháp tiếp cận, giải pháp đề ra vẫn cơ bản phải phù hợp với quy luật, xu hướng chung của thế
giới; cần tính đến thực tế tình trạng già hóa dân số rất nhanh; và phải đồng bộ với tất cả các
chính sách về xã hội như: giáo dục, y tế để bảo đảm bảo các dịch vụ thiết yếu cho mọi người dân.
Thứ tư, ứng dụng tối đa và tận dụng lợi thế của công nghệ thông tin trong quản lý đối
tượng tham gia, quản lý tài chính BHXH; cần đổi mới căn bản về ứng dụng công nghệ thông
tin; xây dựng kiến trúc tổng thể, liên thơng dữ liệu trong tồn ngành về BHXH, BHYT được
quản lý tập trung tại Trung ương.
Để BHXH ln đóng vai trò trụ cột trong hệ thống ASXH quốc gia và phát huy vai trò
trong phát triển kinh tế - xã hội quốc gia, tất yếu phải cụ thể hóa những nội dung cần sửa đổi,
bổ sung về chính sách pháp luật và việc tổ chức thực hiện tốt chính sách pháp luật BHXH,

BHTN, BHYT theo một lộ trình hợp lý; có các điều kiện tổ chức thực hiện cho phù hợp với
giai đoạn phát triển mới kinh tế - xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 của
đất nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS. Nguyễn Văn Định (2008), Giáo trình An sinh xã hợi, NXB Đại học Kinh tế
Quốc dân.
2. TS. Nguyễn Thị Chính (2021), Giáo trình Bảo hiểm xã hợi, NXB Đại học Kinh tế
Quốc dân.
3. TS. Hoàng Mạnh Cừ, ThS. Đoàn Thị Thu Hương (2011), Giáo trình Bảo hiểm xã hợi,
NXB Tài chính.
4. Tổ chức Lao động Quốc tế – ILO (1952), Công ước 102 về bảo hiểm xã hội (PDF).
5. />
382



×