Tải bản đầy đủ (.docx) (73 trang)

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.58 KB, 73 trang )

ĐẠI HỌC QC GIA THÀNH PHỊ HƠ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐAI HOC KINH TÉ - LUẬT

HỒ XUÂN ANH

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGƯỜI
CỦA PHÁP NHÂN GÂY RA THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Ngành: Luật Dân sự và Tô tụng Dân sự
Mã số: 8380ì03

LUẬN VĂN THẠC sĩ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG

TP. HỊ CHÍ MINH - NĂM 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi cùng với
sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Thị Hồng Nhung. Các số liệu, ví dụ, bản án, trích
dẫn có độ tin cậy, chính xác cao và trung thực. Mặc dù đề tài đã được một số tác giả
thực hiện cho đề tài luận văn của mình nhưng đối với đề tài này tác giả có hướng tiếp
cận hồn tồn mới trên cơ sở lý luận và thực tiễn.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN


DANH MỤC KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TÁT
Bô luât dân sư
•••



BLDS

Bồi thường thiệt hại

BTTH

Bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng

BTTHNHĐ

Trách nhiệm bối thường thiệt hại ngoài
hợp đồng
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà

TNBTTHNHĐ

nước

Lt TNBTCNN


Tồ án nhân dân

TAND


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MUC KÝ HIỆU CÁC CHŨ VIẾT TẮT

MỤC LỤC

Trang

1.1....................................................................................................................................


1.2. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bôi thường của pháp nhân do người của pháp nhân

TÀI LIỆU THAM KHẢO


6

MỎ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là chế định lớn trong BLDS, là

hình thức cụ thể của trách nhiệm dân sự. Trên cơ sở từ những nguyên tắc chung của
Hiến pháp năm 2013 từ Điều 14 đến Điều 21, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng được
quy định trong BLDS nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cúa cá nhân, tổ
chức bị xâm phạm và phòng ngừa, răn đe những hành vi gây thiệt hại. Trách nhiệm
BTTH không chỉ nhằm bảo đảm việc đền bù tổn thất đã gây ra mà còn giáo dục mọi
người ý thức tuân thủ pháp luật, bảo vệ tài sản của xã hội, tơn trọng quyền và lợi ích
hợp pháp của người khác. Cụ thể được quy định tại Điều 584 BLDS năm 2015 “Người
nào có hành vi xâm phạm tỉnh mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản,
quyền, lợi ích hợp pháp của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường... ”
Trách nhiệm BTTH do người của pháp nhân gây ra được cụ thề hoá trách nhiệm

BTTH do người gây ra trong chế định BTTH ngoài hợp đồng, vấn đề này được quy định
tại Điều 597 BLDS năm 2015 trên cơ sở kế thừa quy định tại Điều 622 BLDS năm 1995
và Điều 618 BLDS năm 2005.
Trong thực tiễn phát sinh tranh chấp BTTH ngoài họp đồng do người của pháp
nhân gây ra thì nội dung văn bản trên đóng vai trị quan trọng. Khác với việc giải quyết
BTTH nói chung, thì BTTH do người của pháp nhân gây ra có những đặc trưng riêng đó
là người có hành vi gây thiệt hại là người của pháp nhân nhưng pháp nhân phải bồi
thường và sau đó yêu cầu người có hành vi gây thiệt hại có lồi có nghĩa vụ hồn trả lại
một khoản tiền theo quy định của pháp luật.
Trong xu thế hội nhập và kêu gọi đầu tư, việc yêu cầu hoàn thiện pháp luật là cấp
bách và là những vấn đề luôn được các doanh nghiệp trong và ngoài rất quan tâm. Pháp
luật về BTTH do người của pháp nhân gây ra là một trong những vấn đề quan trọng
luôn đặt ra đối với họ và cũng là những thách thức đặt ra cho những nhà nghiên cứu và
những người làm công tác thực tiễn. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Trách nhiệm bôi
thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra” trong BLDS năm 2015 hiện nay là


7

mang tính cấp thiết.
2.

Tình hình nghiên cún
Trách nhiệm BTTH ngồi họp đồng là một trong những nội dung lớn của BLDS

nên dành được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu pháp luật. Nhiều cơng trình
nghiên cứu về vấn đề này đã được thề hiện thông qua các luận văn, sách, và các bài viết
đăng trên các tạp chí chuyên ngành tạo điều kiện cho những người quan tâm cũng như
làm cơng tác thực tiễn tham khảo. Các cơng trình nghiên cứu về trách nhiệm BTTH
ngồi hợp đồng gồm có:

Luận văn thạc sĩ luật học của Hồ Thị Ngọc “Pháp luật về trách nhiệm BTTH do
người của pháp nhân gây ra”. Đây là cơng trình nghiên cứu khá chi tiết về chủ thề, đặc
biệt là pháp nhân cơng. Vì vậy chưa đưa ra được những thực tiễn và vướng mắc về quy
định trách nhiệm BTTH của pháp nhân tư do người của pháp nhân gây ra.
Luận văn thạc sĩ luật học cúa Bùi Thị Thuỷ Chung “Lổỉ trong trách nhiệm BTTH
ngoài hợp đồng'", Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Quỳnh Anh “Trách nhiệm
BTTH ngoài hợp đồng do hành vi trải pháp luật gãy ra theo BLDS năm 2005". Ngồi ra
cịn có một số sách và các tạp chí như: Sách chuyên khảo “Trách nhiệm BTTH ngoài
hợp đồng" của PGS.TS Phùng Trung Tập do NXB Công an nhân dân, sách tham khảo
“Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng trong BLDS năm 2015 và những tình huống thực
tế" của Luật gia Trương Hồng Quang, Tạp chí khoa học pháp lý số 03/2003 “Khái niệm
lỗi trong trách nhiệm dân sự" cùa Phạm Kim Anh.
Tuy chế
nhiên,
các
cơng
trình
nghiên
cứu
trên
chỉhợp
đề đồng
cập
tới
phần
chung,
một
khí
cạnh
vềkhác

trách
nhiệm
ngồi
hợp
đồng
hoặc
đã
được
các
thực
định
hiện
trong
từ
khá
đó
lâu.

chế
Trong
địnhkhi
BTTH
đó
ngồi
tình
hình
xã hội
nênđã
tác
thay

giả
đổi
có phạm
và BLDS
vi a
năm
tiếp
2015
cận
đã
ravới
đời
các
bổ BTTH
sung,
đề
tài,
sữa
cơng
đồi
trình
để
hồn
nghiên
thiện
cứu
trên.


3.


Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đê tài
•••“

3.1 Mục đích nghiên cún
Mục đích nghiên cứu đề tài này nhằm làm rõ hơn về mặt lý luận về trách nhiệm
BTHH do người của pháp nhân gây ra. Từ đó tìm hiểu các quy định của pháp luật Việt
Nam điều chỉnh về vấn đề này, liên hệ với thực tiễn. Trên cơ sở đó tìm ra những khiếm
khuyết về mặt lập pháp và bất cập trong thực tiễn để đưa ra những định hướng, giải
pháp hoàn thiện của quy định pháp luật về loại trách nhiệm này.
3.2

Nhiệm vụ nghiên cứu
Đe đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn được đặt ra là:


••

z

e

<



••

- Phân tích một sơ vân đê lý luận vê trách nhiệm BTTH do người của pháp nhân gây
ra.

- Sơ lược quá trình hình thành và phát triển quy định về trách nhiệm BTTH do người
cua pháp nhân gây ra.
- Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật hiện hành cùa Việt Nam về trách
BTTH do người của pháp nhân gây ra.
- Kiến nghị đưa ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật của Việt Nam về loại trách
nhiệm này.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: trách nhiệm BTTH do người của pháp nhân gây ra theo

pháp luật Việt nam.
Phạm vi nghiên cứu: Một sô vân đê lý luận vê trách nhiệm BTTH do người của
pháp nhân gây ra, pháp luật của Việt Nam quy định về loại trách nhiệm này và thực tiễn
áp dụng pháp luật hiện hành cúa Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người
của pháp nhân gây ra.


5.

Phuong pháp nghiên cứu
về phương pháp nghiên cứu, luận văn đã sử dụng các phương pháp như: Phương

pháp phân tích, lịch sử, so sánh, tổng họp, đánh giá một số tài liệu mà tác giả sứ dụng để
hoàn thành luận văn này. Những phương pháp này dùng để làm rõ những vấn đề trong
luận văn nhu sau:
Phu’O’ng pháp phân tích: Phương pháp này dùng để phân tích các quy định
của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra. Đồng
thời, tác giả còn sử dụng phương pháp này để phân tích khi đề cập đến những khó khăn,
vướng mắc cũng như thực trạng pháp lý, thực tiễn áp dụng của quy định này.

Phu'O'ng pháp lịch sử, so sánh: phương pháp này sử dụng để nghiên cứu, so
sánh những quy định của pháp luật Việt Nam có liên quan và pháp luật Cộng Hịa Pháp,
Nga tại chương I về loại trách nhiệm này.
Phuong pháp tổng họp: tác giả sử dụng để tổng kết, xâu chuồi và đưa ra kết
luận về vấn đề trên cơ sở các tài liệu thu thập được.
6.

Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có

02 chương với các nội dung cụ thể như sau:
Chương 1. Cơ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO NGƯỜI CỦA PHÁP NHÂN GÂY RA
1.1.

Một số khái niệm cơ bản

1.2.

Một số đặc trưng cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người cúa

pháp nhân gây ra
1.3.

Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường của pháp nhân do người cúa pháp

nhân gây ra


1.4.


Các trường hợp pháp nhân không phải chịu trách nhiệm bơi thường do

người pháp nhân có hành vi gây thiệt hại
Chương 2. THựC TIỀN ÁP DỤNG TRÁCH NHIỆM BỔI THƯỜNG THIỆT
HẠI DO NGƯỜI CỦA PHÁP NHÂN GÂY RA VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN
2.1.

Người của pháp nhân bồi thường

2.2.

Phương thức bồi thường

2.3.

Mức hoàn trả của người của pháp nhân

2.4.

Trách nhiệm hoàn trả và mức hoàn trả của pháp nhân sau khi người cứa

pháp nhân bồi thường
2.5.

Chú thể tham gia thoả thuận bồi thường

2.6.

Xác định tư cách đương sự


2.7.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp người bị thiệt hại có lồi

và xác định mức thiệt hại bồi thường
Kết luận


CHƯƠNG 1
CO SỎ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO NGƯỜI CỦA PHÁP NHÂN GÂY RA
1.1.

Một số khái niệm CO’ bản

1.1.1.

Khái niệm thiệt hại
Hiện nay chưa có quy định nào cho biết thể nào thiệt hại nhưng dưới góc độ

ngơn ngữ học, theo Đại từ điển tiếng Việt thiệt hại được hiểu là “mất mát, hư hỏng nặng
nề về người và của”, là “tồn thất về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài
sản, quyền và lợi ích họp pháp khác được pháp luật bảo vệ” 1. Dưới góc độ pháp lý, có
một số ý kiến cho rằng “ thiệt hại là sự thay đổi biến thiên theo chiều xấu đi của tài sản,
của các giá trị nhân thân do pháp luật bảo vệ” 2 hoặc “ thiệt hại là sự giảm sút về lợi ích
vật chất của người bị thiệt hại mà họ đã có hoặc sự mất mát lợi ích vật chất mà chắc
chắn họ sẽ có (lợi nhuận chắc chắn thu được)” 3. Cịn có ý kiến khác cho rằng “thiệt hại
được hiểu là sự giảm bớt những lợi ích vật chất và phi vật chất của một chủ thể xác định
được trên thực tế bằng một khoản tiền cụ thể” 4. Như vậy, nhìn chung trong khung cảnh

cùa luật thực định và một số quan niệm phố biến hiện nay, căn cứ vào bản chất của thiệt
hại thì thiệt hại bao gồm: Thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần.
1.1.

ỉ. ỉ. Thiệt hại vê vật chât
BLDS năm 2015 cũng như các văn bản trước đây không định nghĩa thiệt hại là

gì nhưng lại thừa nhận các loại thiệt hại được chấp nhận, được bồi thường. Loại thiệt hại
đầu tiên được chấp nhận bồi thường đó là thiệt hại vật chất. Dưới góc độ pháp lý, luật
quy định tại Điều 361 BLDS năm 2015: “Thiệt hại vật chất là tổn thất vật chất thực tế
xác định được, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý đê ngăn chặn, hạn chế, khắc
1

Viện Khoa học pháp lý (Bộ tư pháp), tử điên Luật học, Nxb. Từ điên bách khoa và Nxb Tư pháp, năm

2006, Tr. 173.
2

Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyền Hồ Bích Hằng. Luật dân sự Việt Nam, Nxb. Đại Học Quốc

Gia TP.HCM, năm 2007, Tr. 471.
3 Hoàng Thế Liên (chủ biên): Sđd, Tr. 713.
4Phùng Trung Tập (2017), Sách chuyên khảo trách nhiệm hồi thường thiệt hại ngoải hợp đồng, Nxb
Công An Nhân Dân, Tr. 42.


phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút ”. Theo quan điểm của một số
chuyên gia: “thiệt hại vật chất là những tổn thất vật chất cụ thể, có thể cảm nhận được
bằng giác quan, có thể tính tốn được bằng tiền”5; “ Thiệt hại về vật chất là sự biến thiên
theo chiều xấu đi đối với tài sản hoặc lợi ích vật chất của một người, thể hiện ở những

tốn that thực tế tính được thành tiền mà người bị thiệt hại phài gánh chịu” 6. Như vậy,
thiệt hại vật chất trước hết là thiệt hại gây ra đối với tài sản của con người, là tổn thất vật
chất thực tế xác định được khoản tiền cụ thể. Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngồi hợp đồng, BLDS năm 2015 chia làm bốn nhóm thiệt hại về vật chất: thiệt hại do
tài sản bị xâm phạm (Điều 589), thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm (Điều 590), thiệt hại
do tính mạng bị xâm phạm (Điều 591), thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm
phạm.
1.1.1.2.

Thiệt hại do tơn thất về tinh thần

Theo Từ điển Tiếng Việt xuất bản năm 2006 của Nhà xuất bản Đà Nằng thì tinh
thần là tổng thế những ý nghĩ, tình cảm.. .những hoạt động thuộc về đời sống nội tâm
của con người. Những thái độ, ý nghĩ định hướng cho hoạt động, quyết định hành động
của con người. Sự quan tâm thường xuyên trên cơ sở nhận thức nhất định.
Việc xem xét một thiệt hại vê tinh thân với tính chât của sự tơn thât với đơi • • • •

tượng phi vật thể, thiệt hại tinh thần có nguồn gốc từ thiệt hại vật chất do tính mạng, sức
khoẻ bị xâm phạm.
Tổn thất về tinh thần là một loại thiệt hại được bồi thường mà pháp luật quốc tế
cũng công nhận. Khoản 1 Điều 10:301 Bộ nguyên tắc châu Âu về BTTH ngoài hợp
đồng cũng ghi nhận “tuỳ vào mức độ bảo vệ, việc xâm phạm một lợi ích có thể dẫn đến
đền bù tổn thất phi tài sản. ví dụ như trước việc xâm phạm các quyền tự do, danh dự, uy
tín hay đời tư”
5Tưởng Duy Lượng, pháp luật dân sự và thực tiễn xét xứ, Nxb. Chính trị quốc gia- Sự Thật, Hà Nội, năm
2005, Tr. 269
6Chế Mỹ Phương Đài (Chu nhiệm), Trách nhiệm hồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền nhân thân của
cá nhân theo quy định tại Bộ luật dân sự năm 2005, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, nãm 2011, Tr. 55



Đối với thiệt hại tổn thất về tinh thần, trong cổ luật Việt Nam cũng đã manh nha
xuất hiện. Trong Quốc Triều hình luật, liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại,
thuật ngừ “thiệt hại về tinh thần” không được đề cập đến nhưng qua một số điều luật cụ
thề chúng ta có thể suy đốn được đó là bồi thường thiệt hại về tinh thần.
Cụ thể, Điều 472 trong Quốc Triều hình luật quy định trường họp đánh các quan
chức bị thương, thì ngồi tiền bồi thường thương tích, người gây thiệt hại phải bồi
thường tiền tạ. Tương tự, tại Điều 473 quy định về trường hợp một người lăng mạ quan
chức thì ngồi khoản tiền bồi thường, người có hành vi lăng mạ đó cịn phải chi thêm
một khoản tiền phạt.... Trong các Điều luật trên, khoản tiền tạ có thể được hiểu là khoản
bồi thường thiệt hại về tinh thần cho các vị quan lại phong kiến tuỳ theo địa vị xã hội
của họ do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.
Ớ giai đoạn trước khi có BLDS, trách nhiệm bồi thường thiệt hại chì đặt ra đối
với những thiệt hại về vật chất chứ chưa đề cập tới những thiệt hại về tinh thần. Liên
quan tới BTTHNHĐ, Thông tư số 173 năm 1972 của Toà án nhân dân tối cao chỉ quy
định là: “phải có thiệt hại. Đó là thiệt hại về vật chất, biểu hiện cụ thể là thiệt hại về tài
sản, hoặc là những chi phí và những thu nhập bị giảm sút hay bị mất do có có sự thiệt
hại về tính mạng, sức khoẻ đưa đến. Thiệt hại ấy phải thực sự xảy ra và có thế tỉnh tốn
được. Tuy nhiên, đối với thiệt hại như: hoa màu sắp được thu hoạch một cách tương đối
chắc chắn mà bị làm hư hỏng, hay súc vật sắp đến ngày đẻ mà bị làm


chêt, thì có thê xem xét thiệt hại một cách thích đáng”. ơ đây, Thơng tư khơng đê cập tới
thiệt hại tổn thất về tinh thần mà chỉ đề cập tới thiệt hại về vật chất.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 361 BLDS năm 2015: “Thiệt hại về tinh thần là
tổn thất về tinh thần do bị xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy
tín và các lợi ích nhân thân khác của một chủ thế”. Cũng tại Nghị quyết 03/2006/NQHĐTP Hướng dần áp dụng một số quy định của BLDS năm 2005 về bồi thường thiệt hại
ngồi hợp đồng quy định:
Thiệt hại do tơn thất về tinh thần của cả nhản được hiểu là do sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, uy tín bị xăm phạm mà người bị thiệt hại hoặc do tính mạng bị xâm
phạm mà người thân thích gần gũi nhất của nạn nhân phải chịu đau thương, buồn

phiền, mất mát về tình cảm, bị giám sút hoặc mấy uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị hiểu
nhầm., và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà họ phủi chịu.
Thiệt hại do tôn thất về tinh thần của pháp nhân và các chủ thê khác không phải
là pháp nhân (gọi chung là tổ chức) được hiểu là do danh dự, uy tín bị xâm phạm, tổ
chức đó bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lịng tin... vì bị hiểu nhầm và cần phải
được bồi thường một khoản tiền bù đắp tồn thất mà tồ chức phủi chịu.
Như vậy, từ những quy định trên có thể thấy rằng pháp luật không đưa ra định
nghĩa như thế nào là thiệt hại do tốn thất tinh thần. Dưới góc độ khoa học pháp lý, có
nhiều định nghĩa về tổn thất về tinh thần: “ Thiệt hại về tinh thần là thiệt hại gây ra đối
với tâm trạng của con người, thế hiện bàng việc con người phái chịu những lo lắng, đau
đớn về tinh thần”7; “ Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của cá nhân do tính mạng, sức
khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm là những phiền muộn, hụt hẫng, dằn vặt,
đau khổ mà cá nhân người bị hại hoặc người thân thích của họ phải gánh chịu” 8; “ Thiệt
hại do tổn thất về tinh thần của cá nhân được hiểu là do sức khoẻ, danh dự, nhân phâm,
uy tín bị xâm phạm mà người đó bị thiệt hại hoặc do tính mạng bị xâm phạm mà người
thân thích gần gũi nhất của nạn nhân phải chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình
7

Phạm Kim Anh,44 Vơ quy định hồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm trong

Bộ luật dãn sự Việt nam và hưởng hồn thiện \ Tạp chí khoa học pháp lý, số 3/2001.
8s Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết, Nguyền Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam, Sđd, Tr. 472


cảm, bị giảm sút hoặc mất uy tín”9. Có thể hiểu rằng tổn thất về tinh thần là những tổn
thất phi vật chất, khơng có cơng thức chung để quy ra bằng tiền áp dụng cho tất cả các
trường hợp. Tổn thất về tinh thần không thể định lượng được. Do đó, việc bồi thường
thiệt hại tổn thất tinh thần khơng thể khơi phục lại tình trạng ban đầu nhưng phần nào
cũng khắc phục được một phần tồn thất xảy ra. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa các
tổn thất về vật chất với các tổn thất về tinh thần.

Có thể thấy rằng trên thực tế việc chứng minh thiệt hại do tổn thất về tinh thần là
rất khó khăn. Do đó, việc xác định có thiệt hại do tổn thất về tinh thần hay không và mức
thiệt hại hoàn toàn phụ thuộc vào Toà án quyết định.
BLDS năm 2015 cũng chia nhóm thiệt hại về tinh thần: Thiệt hại tinh thần do sức
khoẻ bị xâm phạm (Điều 590), thiệt hại tinh thần do tính mạng bị xâm phạm (Điều 591),
thiệt hại tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm (Điều 592).
1.1.2.

Khái niệm hồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng
Tiếp cận dưới góc độ khoa học pháp lý chúng ta thấy rằng, mồi người sống trong

xã hội đều phải tôn trọng quy tắc chung của xã hội, khơng thể vì lợi ích của mình mà
xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Khi một người vi phạm nghĩa
vụ pháp lý cùa mình gây tồn hại cho người khác thì chính người đó phải chịu bất lợi do
hành vi của mình gây ra. Sự gánh chịu một hậu quả bất lợi bằng việc bù đắp tổn thất cho
người khác được hiểu là bồi thường thiệt hại.
Ở Việt Nam, cồ luật cũng không tách biệt trách nhiệm BTTH là một loại trách
nhiệm thuộc luật tư và cũng chỉ giải quyết các vấn đề thuộc trật tự cơng. Vì vậy, các điều
luật trong bộ luật cổ như bộ Quốc triều Hình luật của nhà Lê hay Hoàng Việt Luật lệ của
Gia Long đêu quy định các điêu khoản trách nhiệm vê luật hình. Ví dụ: Điều 582 Quốc
triều hình luật đã quy định “Nếu những súc vật và chó đã hủc, đá và cắn người mà cách
làm hiệu và ràng buộc không đủng phép - (theo đúng phép vật nào hay hủc người thì
phải cắt hai sừng, đá người thì phải buộc hai chăn, cắn người thì phải cắt hai tai)- hay
là chó dại mà khơng giết thì người chủ phải phạt 60 lượng. Neu vĩ cớ trên, có người
chết hay bị thương thì phải tội quá thất. Nếu cổ ý thả ra để làm cho người chết hay bị
9 Hoàng Thế Liên (Chù biên), Bình luân khoa học Bộ luật dân sự năm 2005, Tập 11, Sđd, Tr. 714


thương thì phải tội kèm tội đánh người bị thương hay đánh chết người một bậc. Người
được thuê đến để chữa bệnh cho súc vật, hay là người cố trêu chọc những vật kia, mà bị

thương hay chết, thì người chủ không phải tội ”
Tuy nhiên, trong một vài trường họp đặc biệt, cổ luật Việt Nam cũng quy định sự
bồi thường. Đối với trường hợp đánh người bị thương, Điều 468 Quốc triều hình luật đã
quy định về thời gian ni dưỡng kẻ bị thương do đánh nhau. Thí dụ: đánh bị thương
bằng chân tay thì phải ni 10 ngày, bằng vật khác thì phải ni 20 ngày, bằng thứ có
mũi nhọn hay bằng nước sơi, lửa, thì phải ni 40 ngày, đánh gãy xương thì phái ni 80
ngày....
Ở giai đoạn hiện nay, trách nhiệm BTTH được quy định và điều chỉnh bởi Luật
tư và các nguyên tắc tồng quát về trách nhiệm này đã được đặt ra ở tất cả các nước. Ớ
Việt Nam, BTTH hiện nay được hiếu là một loại trách nhiệm dân sự theo đó người có
hành vi gây ra thiệt hại cho người khác phải bồi thường những tổn thất mà mình gây ra.
Như vậy, có thể hiểu trách nhiệm BTTH là một loại trách nhiệm dân sự mà theo
đó thì khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác
phải bồi thường những tổn thất mà mình gây ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại mang đặc tính cúa trách nhiệm dân sự. Đó là
trách nhiệm tài sán nhằm khơi phục tình trạng tài sán của người bị thiệt hại do cơ quan
nhà nước có thấm quyền áp dụng. Tuy nhiên, việc khơi phục tình trạng tài sản bằng biện
pháp bồi thường thiệt hại của người gây ra thiệt hại không phải bao giờ cũng đem lại kết
quả như mong muốn. Vì rất nhiều nguyên nhân rất khác nhau, người gây ra thiệt hại
không thê bôi thường và người bị thiệt hại không thê phục hôi lại tình trạng tài sản ban
đầu như trước khi bị thiệt hại. Bởi vậy, cần có các cơ chế và các hình thức khác đế khắc
phục tình trạng tài sản cứa người bị thiệt hại (hiện nay các loại hình bảo hiềm đang đi
theo hướng này và ngày càng đóng vai trị quan trọng, có hiệu quả nhằm phục hồi, hạn
chế thiệt hại của người bị thiệt hại do các hành vi trái pháp luật gây ra).
Trong chế định TNBTTHNHĐ, trước BLDS năm 1995, qua từng thời kỳ đã xuất
hiện các văn bán điều chỉnh vấn đề BTTH ngoài hợp đồng như: BLDS Nam Kỳ giản yếu


ra đời năm 1883, Bộ dân luật Bắc Kỳ ra đời năm 1931 và tại Trung Kỳ là bộ dân luật
Trung Kỳ ra đời năm 1936. Trong các bộ luật này chế định BTTHNHĐ được định hình

rõ nét và phát triển trong thời gian dài. Đặc biệt, trong bộ dân luật Trung Kỳ, Pháp đã
đưa vào đó nhiều kỹ thuật lập pháp khá tiến bộ. Còn trong bộ dân luật Bắc Kỳ và dân
luật Trung Kỳ đã có các quy định cụ thể về yếu tố làm phát sinh trách nhiệm BTTH đó
là: có thiệt hại xảy ra, có hành vi vi phạm pháp luật, có lồi, có mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi gây thiệt hại và hậu quả xảy ra.
Thông tư số 173/1972/TANDTC ngày 23/3/1972 ra đời hướng dẫn xét xử về
BTTHNHĐ. Thông tư này chỉ ra đường lối, quan điểm, lý luận cùa các nhà làm luật
đương thời về TNBTTHNHĐ. Phân biệt trách nhiệm BTTHNHĐ với trách nhiệm hình
sự. Thơng tư đã xây dựng bộ khung các quy định về TNBTTHNHĐ và là tiền đề phát
triển cho quy định trong BLDS về sau.
Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh, trách nhiệm bồi thường thiệt hại được phân
thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng.
Trong Bộ luật Dân sự của Việt Nam năm 2015, quy định về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại theo họp đồng được xây dựng bởi các quy phạm điều chỉnh trong chế
định hợp đồng. Nói cách khác, quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp
đồng có thể được coi là một phần của chế định hợp đồng trong pháp luật dân sự. Theo
đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo họp đồng chỉ tồn tại khi tồn tại một họp đông,
trách nhiệm này chỉ phát sinh khi xuât hiện sự vi phạm một hay nhiêu nghĩa vụ được
quy định trong hợp đồng. Trong khi đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
là các loại trách nhiệm dân sự phát sinh bên ngồi khơng phụ thuộc vào họp đồng mà chỉ
cần tồn tại hành vi vi phạm pháp luật dân sự gây thiệt hại cho người khác và hành vi này
cũng không liên quan đến bất cứ một hợp đồng nào giữa người gây thiệt hại và người bị
thiệt hại.
Như vậy, Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hiểu là một loại
trách nhiệm dân sự mà khi người nào có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp luật quy định
ngoài họp đồng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải bồi


thường thiệt hại do mình gây ra.

Nếu trách nhiệm BTTH theo họp đồng bao giờ cũng được phát sinh trên cơ sở
một hợp đồng có trước thì trách nhiệm BTTH ngoài họp đồng là một loại trách nhiệm
pháp lý do pháp luật quy định đối với người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến
quyền và lợi ích họp pháp cùa người khác. Hiện nay, pháp luật Việt Nam quy định chủ
yếu về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng đối với hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức
khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của các cá nhân và tổ chức khác.
Trên cở sở đó, có thể tóm tắt một số đặc điểm của trách nhiệm BTTH ngoài hợp
đồng như sau:
Thứ nhất, căn cứ phát sinh trách nhiệm đồng thời là căn cứ phát sinh nghĩa vụ. Vì
vậy, việc thực hiện xong trách nhiệm bồi thường cũng đồng thời chấm dứt quan hệ nghĩa
vụ giữa các bên. Việc phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài họp đồng khơng phụ thuộc vào
ý chí của các bên. Khác với việc BTTH theo họp đồng, các bên có thể thoả thuận về việc
chấm dứt quan hệ hợp đồng sau khi đã bồi thường hoặc trong trường hợp ngược lại nếu
các bên khơng có thoả thuận thì quan hệ hợp đồng vẫn tồn tại cho đến khi chấm dứt
trong các trường hợp luật định.
Thứ hai, nội dung cùa trách nhiệm bồi thường thiệt hại hoàn toàn do luật định: cơ
sở phát sinh, chủ thể chịu trách nhiệm, cách thức bồi thường, mức bồi thường... được
pháp luật quy định sẵn mà không phụ thuộc vào thoả thuận trước của các bên.
Thứ ba, trách nhiệm BTTH ngồi hợp đơng phát sinh khi có đây đủ điêu kiện do
pháp luật quy định. BLDS năm 2015 không ghi nhận yếu tố lồi là yếu tố bắt buộc cấu
thành trách nhiệm. Hành vi trái pháp luật gây thiệt hại thì người thực hiện hành vi phải
bồi thường tổn thất để bù dắp cho người bị thiệt hại bất kể có lồi hay khơng. Lồi chỉ
được xem xét để xác định mức độ BTTH của người gây thiệt hại.
Thứ tư, Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng ngoài việc áp dụng đối với người có
hành vi trái pháp luật thì cịn áp dụng đối với người khác như cha mẹ của người chưa
thành niên, người giám hộ đối với người được giám hộ, pháp nhân đối với người của
pháp nhân, trường học, bệnh viện, cơ sở dạy nghề................


1.1.3.


Khái niệm người của pháp nhãn
Theo quy định của pháp luật thì pháp nhân là chủ thể của quan hệ pháp luật dân

sự, tuy nhiên việc tham gia quan hệ dân sự, kinh tế... của pháp nhân luôn thông qua hành
vi của người đại diện, thông qua hành vi của thành viên pháp nhân. Hành vi của người
đại diện, của thành viên pháp nhân ngoài việc mang lại quyền cho pháp nhân thì cũng
mang lại nghĩa vụ cho chính pháp nhân đó. Điều 597 BLDS năm 2015 quy định: “pháp
nhân phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ
được giao...”. Như vậy, dưới góc độ văn bản luật thì BLDS cũng như các văn bản khác
cũng chưa đưa ra ra khái niệm “người của pháp nhân” và thực tiễn cũng phát sinh nhiều
cách hiểu khác nhau. Theo cách hiểu thứ nhất, đó là những người thuộc pháp nhân như
nhân viên, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân (giám đốc, tổng giám đốc). Với
cách hiểu này, trong những người của pháp nhân bao gồm cả những người làm công theo
quy định tại Điều 600 BLDS năm 2015. Theo cách hiếu thứ hai, người cùa pháp nhân là
những người đại diện của pháp nhân không bao gồm người làm công theo quy định tại
Điều 600 BLDS năm 201510.
Theo giáo trình luật Dân SỊĨ Việt Nam, Đại học luật Hà Nội thì người của pháp
nhân là bất cứ thành viên nào của pháp nhân. Thành viên này có thề được pháp nhân
tuyển dụng vào làm việc theo các quan hệ hợp đồng dài hạn, ngắn hạn, đang trong thời
gian thử việc...
Người cúa pháp nhân được hiếu là người mà giữa pháp nhân và người cúa pháp
nhân có mối quan hệ và quan hệ đó là quan hệ lao động. Theo khoản 5 Điều 3 Bộ luật
lao động năm 2019 thì “qucin hệ lao động là quan hệ xã hội phát sinh trong việc thuê
mướn, sử dụng lao động, trá lương giữa người lao động và người sứ dụng lao động, các
tổ chức đại diện của các bên, cơ quan nhà nước có thấm quyền. Quan hệ lao động bao
gồm quan hệ lao động cá nhãn và quan hệ lao động tập thể. ”. Theo Điều 83 BLDS năm
2015 quy định một pháp nhân phải có cơ quan điều hành như là một thiết chế bắt buộc.
Cơ quan điều hành đó là cơ quan bảo đảm sự vận hành của pháp nhân trong quá trình
10 Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng Việt Nam- Bản án và bình luận bán án, tập

2, Nxb Hồng Đức, Tr. 127.


giao tiếp với xã hội và pháp lý thường nhật. Cơ quan điều hành thật sự là bộ mặt xã hội
của pháp nhân và được nhận dạng một cách thường xuyên. Đây là cũng là cơ quan đại
diện theo pháp luật của pháp nhân trong quan hệ với người thứ ba, bao bồm người lãnh
đạo và nhân viên thừa hành. Hành vi của những người này trong khuôn khổ hoạt động
của cơ quan điều hành của pháp nhân, theo sự điều hoà, phối hợp của người đại diện
theo pháp luật của pháp nhân, tạo ra hiệu lực pháp lý ràng buộc pháp nhân. Như vậy,
người cùa pháp nhân tư bao gồm người đại diện của pháp nhân và các thành viên khác
của pháp nhân được pháp nhân tuyển dụng thông qua hợp đồng.
Trong BLDS năm 2015, ngoài Điều 597 quy định trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do người của pháp nhân gây ra thì tại Điều 598 đề cập đến trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra: “Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra theo quy định của Luật
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ”. Như vậy, bên cạnh pháp nhân nói chung tức là
pháp nhân tư là tổ chức kinh tế do cá nhân, tổ chức thành lập bên cạnh đó cịn có một
loại trách nhiệm BTTH do người của pháp nhân là cơ quan Nhà nước cịn gọi là pháp
nhân cơng. Thơng qua quy định tại Điều 598 có thể thấy rằng BLDS năm 2015 đã dân
chiêu đèn Luật Trách nhiệm bôi thường Nhà nước trong việc BTTH do người của pháp
nhân là Nhà nước (pháp nhân công) là người thi hành công vụ gây ra.
Theo khoản 2 Điều 3 Luật Trách nhiệm bồi thường cúa Nhà nước “Người thi
hành công vụ là người được bầu cử, phê chuẩn, tuyến dụng hoặc bố nhiệm theo quy
định của pháp luật về cán bộ, công chức và pháp luật có liên quan vào một vị trí trong
cơ quan nhà nước để thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính, tố tụng hoặc thi hành án
hoặc người khác được cơ quan nhà nước có thấm quyển giao thực hiện nhiệm vụ có liên
quan đến hoạt động quản lý hành chính, tố tụng hoặc thi hành án
Với quy định như trên thì người cứa pháp nhân cơng là người thi hành công vụ
được bầu cử, phê chuấn, tuyển dụng hoặc bổ nhiệm theo quy định của pháp luật về cán
bộ, công chức. Theo quy định luật Điều 4 Luật cán bộ, cơng chức năm 2008 thì cán bộ,

cơng chức được định nghĩa như sau:
Cán bộ là công dân Việt Nam, được hầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ,


chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tố
chức chỉnh trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây
gọi chung là Cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tinh (sau đây gọi chung
là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức
vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị
- xã hội ỏ' trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong CO' quan, đơn vị thuộc Quân đội
nhân dân mà không phủi là sĩ quan, qn nhãn chun nghiệp, cơng nhân quốc phịng;
trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan
chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tô chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là
đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối
với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quán lý cùa đơn vị sự nghiệp


cơng lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy
định của pháp luật.
Tuy nhiên, do tính chất đặc thù là pháp nhân công được điều chỉnh bởi pháp luật
riêng biệt (Luật Trách nhiệm bồi thường cúa Nhà nước) nên trong phạm vi bài luận văn
này tác giả chi đi sâu vào phân tích trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người của pháp
nhân tư gây ra thiệt hại.
I.J.4. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người của pháp nhăn gây ra
Giai đoạn trước khi có BLDS năm 1995 được ban hành, ở Việt Nam cũng có văn
bản hướng dẫn biện pháp giải quyết những tranh chấp BTTH ngoài họp đồng và trong
nội dung đó có hướng dẫn liên quan đến vấn đè trách nhiệm BTTH do ngưòi của
pháp nhân gây ra. Văn bản được đề cập là Thông tư 173-UBTP ngày 23/3/1972 của

Toà án nhân Tối cao hướng dẫn xét xử BTTH ngồi họp đồng. Nội dung của Thơng tư
có hướng dẫn xác định trách nhiệm của pháp nhân và của cá nhân trong trường hợp: “
Công nhân, viên chức hay người đại diện hợp pháp của xí nghiệp, cơ quan trong khi thi
hành nhiệm vụ, do hành vi liên quan chặt chẽ đến cơng tác, được xí nghiệp, cơ quan
phân công mà gãy thiệt hại cho người khác thì xí nghiệp, cơ quan phải hồi thường thiệt
hại theo chế độ trách nhiệm dân sự, rồi sau đó có quyền địi hịi họ hồn trả việc bồi
thường theo quan hệ lao động".
Như vậy, căn cứ vào nội dung Thông tư, thì việc xác định trách nhiệm cúa pháp
nhân BTTH do người của pháp nhân gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ của pháp nhân
giao cho. Pháp nhân cũng chịu trách nhiệm dân sự toàn bộ thiệt hại do người cùa pháp
nhân gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ của pháp nhân.
Hướng dẫn này thật cụ thể và là cơ sở để xác định ai là người chịu trách nhiệm
BTTH, pháp nhân hay là người của pháp nhân thực hiện nhiệm vụ và vì lợi ích của pháp
nhân mà gây thiệt hại cho người khác. Người cùa pháp nhân trong khi thực hiện nhiệm
vụ của pháp nhân mà gây thiệt hại cho người khác và pháp nhân đã bồi thường toàn bộ
thiệt hại theo nguyên tắc của pháp luật dân sự ( gây thiệt hại bao nhiêu thì phải bơi
thường bây nhiêu ), cịn người cơng nhân, viên chức trong khi thi hành nhiệm vụ mà gây


thiệt hại phải chịu trách nhiệm là hoàn trả toàn bộ hoặc một phần tài sản pháp nhân đã
bồi thường cho người bị thiệt hại
Với những nội dung hướng dẫn cơ bản trên, có thể nhận định ở Việt Nam dưới
chế độ dân chủ nhân dân trước khi có BLDS, thì Thơng tư 173-UBTP ngày 23/3/1972
của Tồ án nhân dân Tối cao đã là căn cứ để cấp toà án ở nước ta vận dụng vào việc giải
quyết tranh chấp liên quan đến trách nhiệm BTTH ngồi hợp đồng nói chung và trong
trường hợp cụ thề là BTTH do người của pháp nhân gây ra. Thơng tư đã đóng một
vai trị quan trọng và là một bước chuẩn bị khơng thể thiếu trong q trình pháp điển hố
BLDS năm 1995 và 2005 và hiện nay là BLDS năm 2015 đang có hiệu lực pháp luật.
Do hồn cảnh lịch sử và do quan niệm, Thông tư đã không dự liệu để hướng dẫn
các cấp toà án giải quyết những tranh chấp phát sinh trong giai đoạn mới của đất nước.

Tuy nhiên những nội dung của thơng tư đã góp phần khơng nhó vào cơng tác xét xử, giải
quyết những tranh chấp phát sinh liên quan đến trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng nói
chung và trách nhiệm BTTH ngồi hợp đồng do người của pháp nhân gây ra nói riêng.
Năm 1995, BLDS của nước Cộng hoà xã hội chú nghĩa Việt Nam ra đời và có
hiệu lực vào ngày 01/7/1996, quy định trách nhiệm BTTH do người cúa pháp nhân gây
ra. Tại Điều 622 Bộ luật quy định: “Pháp nhân phủi bồi thường thiệt hại do người của
mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao; nếu pháp nhãn đã bồi
thường thiệt hại, thì có quyền u cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hồn trả
khoản tiền mà mình đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật’’.
Khi BLDS năm 2005 ban hành thay thế BLDS năm 1995, thì chế định BTTH do
người của pháp nhân gây ra được quy định tại Điều 618, cụ thể như sau: “Pháp nhân
phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được
pháp nhân giao; nếu pháp nhãn đã bồi thường thiệt hại thì có quyền u cầu người có
lơi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật”.
Bộ luật dân sự năm 2015 đang có hiệu lực quy định trách nhiệm BTTH do người
của pháp nhân gây ra tại Điều 597 như sau: “Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do
người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao; nếu pháp


nhân đã bồi thường thiệt hại thì có quyền u cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại
phải hồn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật”.
Thông qua văn bản pháp luật cũng như thực tiễn pháp lý và trên cơ sở lý luận, có
thể hiểu trách nhiệm BTTH của pháp nhân do người của pháp nhân gây ra như sau:
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của pháp nhân do người của pháp nhân gây ra là
trách nhiệm pháp lý dân sự thể hiện việc pháp nhân phải gánh chịu hậu quả bất lợi
mang tính tài sản mà cụ thể là bồi thường thiệt hại cho cá nhân, tố chức bị thiệt hại
xuất phát từ hành vi trái pháp luật mà người của pháp nhân gây ra trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao.
Ờ đây, có thể thấy người làm phát sinh trách nhiệm BTTH chính là người của
pháp nhân (người được pháp nhân giao nhiệm vụ), và chù thể chịu trách nhiệm bồi

thường chính là pháp nhân. Như vậy, chủ thể làm phát sinh trách BTTH và chủ thể chịu
trách nhiệm BTTH là hai chủ thể khác nhau.
Dưới góc độ pháp luật so sánh, trong pháp luật dân sự của Cộng hoà Pháp chế
định về trách nhiệm BTTH ngồi hợp đồng có quy định về trách nhiệm đối với thiệt hại
do người thứ ba gây ra. Theo đó, tại Điều 1384 quy định: “Người ta không những chịu
trách nhiệm về thiệt hại do chính việc làm của mình gây ra mà cịn phủi chịu trách
nhiệm về thiệt hại do việc làm của người khác mà người ta phải đứng ra chịu trách
nhiệm ”. Với ý nghĩa như vậy, trách nhiệm đối với thiệt hại do người thứ ba gây ra được
đặt trong trường hợp trách nhiệm của người uỷ nhiệm về việc làm của người được uỷ
nhiệm.
Người uỷ nhiệm là người có thể ra lệnh cho người khác. Còn người nhận lệnh
được gọi là người được uỷ nhiệm. Do vậy, người được uỷ nhiệm là người nhận những
chỉ dân, yêu câu mà họ phải thực hiện và họ phải phụ thuộc hoàn toàn vào người uỷ
nhiệm để thực hiện cơng việc cúa mình. Người uỷ nhiệm thường là người chủ sử dụng
lao động, cịn người được uỷ nhiệm là người làm cơng ăn lương.
Người uỳ nhiệm phải chịu trách nhiệm về lỗi mà người được uỷ nhiệm mắc phải
trong khi thực hiện chức năng của mình. Trách nhiệm của người uỷ nhiệm được đặt ra


khi họ có quyền đối với người được uỷ nhiệm, tức là khi có mối quan hệ uỷ nhiệm và
với điều kiện người được uỷ nhiệm phải thực hiện trong khn khổ mệnh lệnh mà người
này nhận được. Vì thế, người uỷ nhiệm không phải chịu trách nhiệm đối với lồi của
người được uỷ nhiệm khi lồi đó xuất phát từ việc không thực hiện các mệnh lệnh đã
nhận được. Chẳng hạn, do thiếu canh chừng, người gác đêm đã làm cháy trụ sở mà
người này có trọng trách canh gác. Trong trường hợp này, chủ của người gác đêm không
phải chịu trách nhiệm về thiệt hại do người này gây ra.
Bộ luật Dân sự Nga quy định tại Điều 1064 và 1068 pháp nhân phái có trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do người lao động của mình gây ra trong khi thực hiện nghĩa
vụ lao động, tuy nhiên, cũng theo Bộ luật này thì trường hợp luật hoặc hợp đồng có quy
định lại có thể mở ra nghĩa vụ người lao động phải hoàn trả khoản tiền mà pháp nhân đã

bồi thường.
Nhìn chung, các nước quy định trách nhiệm của pháp nhân phải BTTH do người
pháp nhân gây ra thiệt hại trong khi thực hiện nhiệm vụ được giao. Điều này nhằm bảo
vệ kip thời quyền và lợi ích của người bị thiệt hại, vì pháp nhân được suy đốn là có khả
năng kinh tế hơn cá nhân.
1.2.

Một số đặc trưng CO' bản của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do

ngưòi của pháp nhân gây ra
Hiện nay, pháp luật của nhiều nước cũng như của Việt Nam có quy định cụ thể
về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra. Đối chiếu với các
loại trách nhiệm dân sự khác, nhất là trách nhiệm BTTH ngồi hợp đồng nói chung,
chúng ta thấy trách nhiệm BTTH do người của pháp nhân gây ra có những đặc trưng
riêng.
-Thứ nhât, vê hành vi làm phát sinh bôi thường
Trong trách nhiệm BTTH ngoài họp đồng, về nguyên tắc chung, trách nhiệm
BTTH phát sinh từ hành vi của con người (có ngoại lệ như tài sản gây thiệt hại). Trong
trách nhiệm BTTH của pháp nhân do người của pháp nhân gây ra, trách nhiệm cũng
phát sinh từ hành vi của con người. Tuy nhiên, trong trách nhiệm BTTH ngoài họp đồng


×