Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam trong việc giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng trong tư pháp quốc tế.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.75 KB, 17 trang )

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ MÔN TƯ PHÁP QUỐC TÊ
Chủ đề: Phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam trong việc giải
quyết xung đột pháp luật về hợp đồng trong tư pháp quốc tế.

A. MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, đặc biệt từ sau khi Việt Nam
gia nhập Tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO) năm 2007 thì một vấn đề nổi lên
đó là mỗi quốc gia đều có một hệ thống pháp luật riêng cho mình với những quy
phạm pháp luật có thể hoàn toàn khác nhau thậm chí trái ngược nhau. Điều này
là dễ hiểu bởi mỗi quốc gia mang một đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội cũng
như lịch sử hình thành phát triển không giống nhau. Tuy nhiên nó dẫn đến hiện
tượng một quan hệ tư pháp quốc tế có thể có hai hay nhiều quy phạm pháp luật
thuộc hệ thống pháp luật của các quốc gia khác nhau cùng có thể điều chỉnh hay
còn gọi là xung đột pháp luật.
Cụ thể hơn, trong giao lưu kinh tế quốc tế, việc các chủ thể giao kết hợp
đồng với nhau là điều tất yếu, nhưng đến khi xảy ra tranh chấp thì pháp luật của
quốc gia nào sẽ được áp dụng để giải quyết, đó sẽ là vấn đề có ý nghĩa hết sức
quan trọng . Vì vậy, trong hoàn cảnh đó, pháp luật Việt Nam cần phải hoàn thiện
hơn nữa để phù hợp với xu thế chung của quốc tế nói chung và trong lĩnh vực
hợp đồng nói riêng, đặc biệt là các quy định về giải quyết xung đột pháp luật về
hợp đồng để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho các chủ thể tham gia vào
quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Từ đó, Bộ luật Dân sự 2015 và hàng
loạt các đạo luật mới ra đời trong quá trình nước ta thực hiện cải cách tư pháp đã
có nhiều điểm tiến bộ đáp ứng được yêu cầu giải quyết xung đột pháp luật về
hợp đồng cũng như bắt kịp được với điều kiện quốc tế, tạo điều kiện môi trường
pháp lý thuận lợi cho các bên giao kết hợp đồng qua đó thúc đẩy hợp tác, giao
lưu thương mại phát triển kinh tế nước nhà.

B. NỘI DUNG
I. Những vấn đề lý luận chung
1




1. Khái quát về xung đột pháp luật trong tư pháp quốc tế
1.1. Khái niệm xung đột pháp luật
Để thực hiện chủ quyền của mình trên lãnh thổ, mỗi quốc gia trên thế giới
đều xây dựng cho mình một hệ thống pháp luật riêng điều chỉnh các mối quan
hệ xã hội trên cơ sở đảm bảo lợi ích của chính quốc gia đó, xã hội và công dân
của họ. Nếu chỉ đơn giản là các quan hệ quốc nội thì không có gì đáng bàn,
nhưng trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay thì sự phát sinh các quan hệ có
yếu tố nước ngoài ngày càng đa dạng và phức tạp. Chính các yếu tố nước ngoài
này làm cho một quan hệ tư pháp quốc tế có thể được điều chỉnh bởi hai hay
nhiều hệ thống pháp luật của các nước khác nhau mà thực tế là khó có thể áp
dụng cả các hệ thống pháp luật này được bởi có thể chúng sẽ khác nhau thậm chí
trái ngược nhau. Vì vậy, vấn đề là phải chọn ra được một hệ thống pháp luật để
điều chỉnh mối quan hệ cụ thể đang được xem xét. Khoa học tư pháp quốc tế gọi
đó là hiện tượng “xung đột pháp luật”. Từ đây có thể xác định khái niệm: Xung
đột pháp luật là hiện tượng hai hay nhiều hệ thống pháp luật của các nước khác
nhau cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ dân sự theo nghĩa
rộng có yếu tố nước ngoài (quan hệ tư pháp quốc tế).
Qua khái niệm trên, cần hiều xung đột pháp luật là xung đột giữa các hệ
thống pháp luật chứ không phải xung đột giữa các quy phạm pháp luật hay chế
định luật. Do đó, thực tế có thể có trường hợp trong các hệ thống pháp luật khác
nhau có những quy phạm pháp luật hay chế định pháp luật tương tự nhau nhưng
không có nghĩa là các hệ thống pháp luật đó là như nhau. Thêm nữa, xung đột
pháp luật ở đây là giữa hai hay nhiều hệ thống pháp luật của các nước khác nhau
chứ không đặt ra xung đột pháp luật giữa các bang trong một nhà nước liên
bang. Bởi tư pháp quốc tế điều chỉnh mối quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu
tố nước ngoài giữa các công dân, pháp nhân của quốc gia này với công dân,
pháp nhân của quốc gia khác chứ không đơn thuần là công dân, pháp nhân của
các bang khác nhau trong một quốc gia liên bang.

1.2. Phạm vi có xung đột pháp luật
Hầu hết các quan hệ tư pháp quốc tế phát sinh đều xảy ra hiện tượng xung
đột pháp luật. Tuy nhiên, đối với quan hệ về sở hữu trí tuệ do đặc thù là tính vô
2


hình của tài sản nên tài sản phát sinh trên cơ sở pháp luật nước nào, yêu cầu bảo
hộ ở đâu thì chỉ được bảo hộ trong phạm vi nước đó. Vì vậy đối với quan hệ này
không có xung đột pháp luật.
1.3. Nguyên nhân xung đột pháp luật
Nguyên nhân khách quan là do pháp luật của các nước khác nhau. Điều
này khá dễ hiểu do điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của các nước là khác nhau;
cách giải thích pháp luật, áp dụng pháp luật, trình độ lập pháp của các nước
không đều và tập quán, truyền thống, tín ngưỡng, tôn giáo cũng có tác động
không nhỏ. Ngoài ra, đối tượng điều chỉnh có sự hiện diện của yếu tố nước
ngoài cũng là một nguyên nhân dẫn đến xung đột pháp luật.
Nguyên nhân chủ quan là do có sự thừa nhận khả năng áp dụng pháp luật
nước ngoài của nhà nước trong các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố
nước ngoài. Còn đối với những quan hệ trong lĩnh vực công như quan hệ hình
sự, hành chính có yếu tố nước ngoài thì các nước đều từ chối áp dụng pháp luật
nước ngoài nên không đặt ra vấn đề xung đột pháp luật với các loại quan hệ này.
Giải thích đơn giản vì luật hành chính, hình sự là pháp luật công để bảo vệ
những giá trị, nền tảng cốt lõi, thể hiện bản chất của một bộ máy nhà nước nên
giả sử nếu có xung đột pháp luật thì có thể pháp luật nước khác sẽ được áp dụng
điều chỉnh những quan hệ hình sự, hành chính có yếu tố nước ngoài và đó là
điều hết sức vô lý và khó chấp nhận đối với các quốc gia.
Tóm lại, nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan là các điều
kiện cần và đủ để xuất hiện hiện tượng xung đột pháp luật trong tư pháp quốc tế.
Hay nói cách khác, nguyên nhân khách quan là tiền đề, nền tảng để xuất hiện
xung đột pháp luật, nguyên nhân chủ quan là lí do quyết định xung đột pháp luật

có tồn tại hay không.
1.4. Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật

3


Thứ nhất, phương pháp thực chất là phương pháp dùng quy phạm thực
chất trực tiếp điều chỉnh quan hệ mà không cần qua bất kì một khâu trung gian
nào. Quy phạm thực chất là quy phạm pháp luật quy định cụ thể cách ứng xử
của các chủ thể khi tham gia quan hệ, quy định rõ quyền và nghĩa vụ của các
bên, trả lời cho câu hỏi quan hệ này được giải quyết cụ thể như thế nào? Vì vậy,
quy phạm thực chất là quy phạm dễ áp dụng và phương pháp thực chất là
phương pháp thuận tiện nhất, nhanh chóng nhất trong việc giải quyết xung đột
pháp luật. Quy phạm thực chất có hai loại: Quy phạm thực chất thống nhất là
quy phạm thực chất nằm trong các điều ước quốc tế và quy phạm thực chất
thông thường là quy phạm thực chất nằm trong pháp luật quốc gia.
Thứ hai, phương pháp xung đột là phương pháp sử dụng các quy phạm
xung đột để giải quyết xung đột pháp luật. Khi không có quy phạm thực chất
thống nhất, các cơ quan có thẩm quyền sẽ tìm đến các quy phạm xung đột. Quy
phạm xung đột không quy định quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan
hệ, không quy định hình thức, chế tài áp dụng mà nó chỉ ra hệ thống pháp luật
của quốc gia nào sẽ được áp dụng điều chỉnh quan hệ từ đó dẫn chiếu để giải
quyết vấn đề.
Thứ ba, áp dụng tập quán quốc tế hoặc “pháp luật điều chỉnh các quan
hệ xã hội tương tự”. Cơ bản nhất vẫn là hai phương pháp thực chất và xung đột.
Tuy nhiên, hi hữu có trường hợp không có cả quy phạm thực chất lẫn quy phạm
xung đột điểu chỉnh thì tập quán quốc tế hoặc “pháp luật điều chỉnh các quan hệ
xã hội tương tự” sẽ được lựa chọn.
Việc áp dụng tập quán được quy định tại khoản 2, Điều 5, BLDS 2015:
“Trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định thì có

thể áp dụng tập quán nhưng tập quán áp dụng không được trái với các nguyên
tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này.”. Và tại
điều 666 quy định áp dụng tập quán quốc tế như sau: “Các bên được lựa chọn
tập quán quốc tế trong trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 664 của Bộ luật
này. Nếu hậu quả của việc áp dụng tập quán quốc tế đó trái với các nguyên tắc
4


cơ bản của pháp luật Việt Nam thì pháp luật Việt Nam được áp dụng”. Và nếu
trường hợp các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định và không
có tập quán thì áp dụng tương tự pháp luật, nếu không thể áp dụng tương tự
pháp luật thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản, án lệ, lẽ công bằng. (Điều 6)
Tóm lại, từ những phân tích trên đây có thể đưa ra những đánh giá về các
phương pháp này như sau: phương pháp hiệu quả nhất và dễ áp dụng nhất là
phương pháp thực chất, phương pháp phổ biến nhất, bao quát nhất là phương
pháp xung đột, phương pháp thứ ba là trường hợp pháp luật quy định mở rộng,
tuy không được sử dụng thường xuyên nhưng đó là phương pháp dự phòng hợp
lý khi hai phương pháp trên không thực hiện được.
2. Hợp đồng trong tư pháp quốc tế
Thời đại hội nhập kinh tế toàn cầu, các tổ chức, cá nhân tham gia vào rất
nhiều mối quan hệ xã hội khác nhau. Khi tham gia vào các giao dịch có nhiều
phương thức để người ta chuyển giao cho nhau những lợi ích nhất định, trong
đó, phổ biến hơn cả, an toàn hơn cả trong giao dịch quốc tế là giao kết hợp đồng.
Trong tư pháp quốc tế, một hợp đồng được nhắc đến là hợp đồng dân sự theo
nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài.
Thứ nhất, hợp đồng trong tư pháp quốc tế là hợp đồng dân sự theo nghĩa
rộng. Theo điều 385, Bộ luật Dân sự (BLDS) 2015: "Hợp đồng là sự thỏa thuận
giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự".
Trong pháp luật dân sự, chế định hợp đồng có lẽ đã được hình thành từ rất lâu
đời và là chế định hết sức quan trọng. BLDS 2015 chia ra rất nhiều loại hợp

đồng khác nhau như: Hợp đồng mua bán tài sản, hợp đồng thuê tài sản, hợp
đồng dịch vụ... Ngoài những hợp đồng được điều chỉnh bởi BLDS 2015, những
hợp đồng khác quy định trong các luật chuyên ngành như luật thương mại, luật
lao động đều được gọi là hợp đồng dân sự theo nghĩa rộng.
Thứ hai, hợp đồng trong tư pháp quốc tế là hợp đồng có yếu tố nước
ngoài. Sự phát triển kinh tế trên thế giới hiện nay đã tạo điều kiện cho giao dịch
hợp đồng giữa các chủ thể của các quốc gia khác nhau ngày càng phát triển.
Điều đó làm cho quan hệ hợp đồng không chịu sự điều chỉnh của một hệ thống
5


luật của riêng quốc gia nào. Vấn đề xung đột pháp luật hoặc áp dụng pháp luật
nước ngoài được coi là điểm đặc trưng của quan hệ hợp đồng trong tư pháp quốc
tế. Tuy vậy, việc xác định yếu tố nước ngoài trong hợp đồng không hoàn toàn
thống nhất giữa các nguồn pháp luật: điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia.
Theo Công ước La Haye 1964 về thống nhất việc mua bán hàng hóa quốc
tế thì hợp đồng mua bán hàng hóa sẽ mang yếu tố nước ngoài nếu các bên tham
gia hợp đồng có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau và các điều kiện về vận
chuyển hàng hóa, xác lập chào hàng, chấp nhận chào hàng được đáp ứng theo
quy định tại Điều 1 của Công ước này. Theo Công ước Vienna 1980 về hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế, cũng tại Điều 1 thì có thể hiểu yếu tố quốc tế là
yếu tố về trụ sở thương mại của các bên chủ thể liên quan tới hơn một quốc gia
hoặc theo nguyên tắc của tư pháp quốc tế mà áp dụng là luật của các nước thuộc
thành viên Công ước.
Đó là hai ví dụ về quy định yếu tố nước ngoài trong hợp đồng trong điều
ước quốc tế, còn về pháp luật quốc gia, yếu tố nước ngoài đã được xác định và
ghi nhận trong nhiều văn bản pháp lý khác nhau và trong từng giai đoạn nhất
định như: Luật Thương mại Việt Nam 1997, Luật thương mại 2005, Bộ Luật
Dân sự 2005, Bộ Luật Dân sự 2015. Tuy nhiên, do có giới hạn nên bài viết chỉ đi
vào những quy định của BLDS 2015. Theo đó, quan hệ dân sự có yếu tố nước

ngoài là quan hệ dân sự thuộc một trong những trường hợp sau: Có ít nhất một
trong các bên là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài; Các bên tham gia đều là
công dân Việt Nam hoặc pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực
hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở nước ngoài; Các bên tham gia đều là
công dân hoặc pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở
nước ngoài (khoản 2, Điều 663).
3. Xung đột pháp luật về hợp đồng trong tư pháp quốc tế
Xung đột pháp luật về hợp đồng trong tư pháp quốc tế là hiện tượng hai
hay nhiều hệ thống pháp luật của các nước khác nhau cùng có thể được áp dụng
để điều chỉnh quan hệ hợp đồng. Vấn đề đặt ra là áp dụng pháp luật nước nào để
xác định tính hợp pháp của hợp đồng. Trước tiên, xác định tính hợp pháp của
6


hợp đồng phải dựa trên nguyên tắc chung như: không trái đạo đức, pháp luật;
nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng… được quy định tại Điều 3, BLDS 2015. Cùng
với đó là sự tuân thủ ba yếu tố:
Thứ nhất, về hình thức hợp đồng. Hình thức hợp đồng là cách thức ghi
nhận, lưu trữ, truyền tải nội dung hợp đồng, chứa đựng các điều khoản của hợp
đồng. Có nhiều hình thức hợp đồng được công nhận như lời nói, hành vi, văn
bản… và xu thế chung của thế giới được thể hiện qua một số điều ước quốc tế
cũng đã công nhận mọi hình thức của hợp đồng có yếu tố nước ngoài (Điều 11,
Công ước Vienna 1980; Điều 1.2 Bộ nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng
thương mại quốc tế (PICC) của Viện Thống nhất tư pháp quốc tế)
Thứ hai, về nội dung hợp đồng. Nội dung hợp đồng là tổng hợp các điều
khoản mà các bên tham gia giao kết hợp đồng đã thỏa thuận. HIện tượng xung
đột pháp luật về nội dung hợp đồng trong tư pháp quốc tế là khá phổ biến. Về lý
luận có nhiều hệ thuộc luật có thể được áp dụng như: Luật nhân thân của các
bên giao kết hợp đồng, Luật nơi giao kết hợp đồng, Luật tòa án… Việc lựa chọn
được hệ thuộc nào được áp dụng chính là việc giải quyết xung đột pháp luật về

nội dung hợp đồng.
Thứ ba, về năng lực giao kết hợp đồng của các bên chủ thể. Nếu một
trong hai hoặc cả hai bên chủ thể giao kết hợp đồng đều không đủ điều kiện
năng lực theo quy định pháp luật thì hợp đồng đó sẽ vô hiệu, chỉ có những chủ
thể có đủ điều kiện mới được tham gia vào quan hệ hợp đồng nhất định theo quy
định của pháp luật. Hiện tượng xung đột pháp luật trong việc xác định năng lực
giao kết hợp đồng của các chủ thể trong tư pháp quốc tế thường xuyên xảy ra.
II.

Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng theo quy định của
pháp luật Việt Nam
1. Giải quyết xung đột pháp luật về hình thức hợp đồng

Theo quy định tại khoản 7, Điều 683, BLDS 2015: “Hình thức của hợp
đồng được xác định theo pháp luật áp dụng đối với hợp đồng đó. Trường hợp
7


hình thức của hợp đồng không phù hợp với hình thức hợp đồng theo pháp luật
áp dụng đối với hợp đồng đó, nhưng phù hợp với hình thức hợp đồng theo pháp
luật của nước nơi giao kết hợp đồng hoặc pháp luật Việt Nam thì hình thức hợp
đồng đó được công nhận tại Việt Nam.”. Ở đây, thuật ngữ“Pháp luật áp dụng
đối với hợp đồng đó” được hiểu là pháp luật điều chỉnh những vấn đề pháp lý
của hợp đồng như nội dung, hình thức, các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
và các vấn đề pháp lý khác. Cụ thể theo khoản 1, Điều 683 “Pháp luật áp dụng
đối với hợp đồng” là pháp luật được các bên trong quan hệ hợp đồng thỏa thuận
lựa chọn để áp dụng đối với hợp đồng trừ trường hợp hợp đồng có đối tượng là
bất động sản; trường hợp pháp luật do các bên lựa chọn trong hợp đồng lao
động, hợp đồng tiêu dùng có ảnh hưởng đến quyền lợi tối thiểu của người lao
động, người tiêu dùng theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Như vậy, theo pháp luật Việt Nam, hình thức hợp pháp của hợp đồng có
yếu tố nước ngoài là phải phù hợp với quy định của pháp luật do các bên lựa
chọn áp dụng đối với hợp đồng, trừ trường hợp luật quy định khác. Nếu không,
hợp đồng đó phải phù hợp với quy định về hình thức của pháp luật nơi giao kết
hợp đồng hoặc phù hợp với hình thức hợp đồng theo quy định của Việt Nam thì
mới được công nhận tại Việt Nam.
2. Giải quyết xung đột pháp luật về nội dung hợp đồng
Về nội dung hợp đồng, pháp luật Việt Nam cho phép các bên được tự do
thỏa thuận pháp luật áp dụng đối với hợp đồng theo quy định tại khoản 1, Điều
683, BLDS 2015 nhưng ngoại trừ các trường hợp quy định tại khoản 4,5,6 Điều
683. Trong đó, nội dung các khoản này lần lượt như sau: Thứ nhất, trường hợp
hợp đồng có đối tượng là bất động sản thì pháp luật áp dụng đối với việc chuyển
giao quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là bất động sản, thuê bất động sản
hoặc việc sử dụng bất động sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là pháp luật của
nước nơi có bất động sản (khoản 4); Thứ hai, trường hợp pháp luật do các bên
lựa chọn trong hợp đồng lao động, hợp đồng tiêu dùng có ảnh hưởng đến quyền
lợi tối thiểu của người lao động, người tiêu dùng theo quy định của pháp luật
8


Việt Nam thì pháp luật Việt Nam được áp dụng (khoản 5); Thứ ba, các bên có
thể thỏa thuận thay đổi pháp luật áp dụng đối với hợp đồng nhưng việc thay đổi
đó không được ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba được
hưởng trước khi thay đổi pháp luật áp dụng, trừ trường hợp người thứ ba đồng ý
(khoản 6).
Nếu các bên không có thỏa thuận thì pháp luật của nước có mối quan hệ
gắn bó nhất với hợp đồng được áp dụng. Trong đó, pháp luật có mối quan hệ gắn
bó nhất với hợp đồng được quy định rõ ràng tại khoản 2, điều 683:
 Pháp luật của nước nơi người bán cư trú nếu là cá nhân hoặc nơi thành
lập nếu là pháp nhân đối với hợp đồng mua bán hàng hóa;

 Pháp luật của nước nơi người cung cấp dịch vụ cư trú nếu là cá nhân
hoặc nơi thành lập nếu là pháp nhân đối với hợp đồng dịch vụ;
 Pháp luật của nước nơi người nhận quyền cư trú nếu là cá nhân hoặc
nơi thành lập nếu là pháp nhân đối với hợp đồng chuyển giao quyền
sử dụng hoặc chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ;
 Pháp luật của nước nơi người lao động thường xuyên thực hiện công
việc đối với hợp đồng lao động. Nếu người lao động thường xuyên
thực hiện công việc tại nhiều nước khác nhau hoặc không xác định
được nơi người lao động thường xuyên thực hiện công việc thì pháp
luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng lao động là
pháp luật của nước nơi người sử dụng lao động cư trú đối với cá nhân
hoặc thành lập đối với pháp nhân;
 Pháp luật của nước nơi người tiêu dùng cư trú đối với hợp đồng tiêu
dùng.
Như vậy, có thể thấy, khi giải quyết xung đột pháp luật về nội dung hợp
đồng thì pháp luật Việt Nam ưu tiên áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn, trừ
các trường hợp luật định. Nếu các bên không có thỏa thuận thì áp dụng pháp luật
của nước có quan hệ gắn bó nhất với hợp đồng. Quy định này thể hiện sự tiến bộ
và hợp lý vì nó phản ánh đúng bản chất của quan hệ dân sự nói chung và quan
hệ hợp đồng nói riêng đó là luôn tôn trọng tự do ý chí của các chủ thể.
3. Giải quyết xung đột pháp luật về năng lực giao kết hợp đồng
9


Năng lực giao kết hợp đồng phụ thuộc bởi năng lực pháp luật và năng lực
hành vi của chủ thể, mà chủ thể tham gia giao kết hợp đồng có thể là cá nhân
hoặc pháp nhân nên có thể chia ra như sau:
3.1.

Năng lực giao kết hợp đồng của cá nhân


Theo quy định tại Điều 673, BLDS 2015: “1.Năng lực pháp luật dân sự
của cá nhân được xác định theo pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch.
2. Người nước ngoài tại Việt Nam có năng lực pháp luật dân sự như công
dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác.”
Đối với người nước ngoài được quy định tại Điều 674:
“1. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân được xác định theo pháp luật
của nước mà người đó có quốc tịch, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều
này.
2. Trường hợp người nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự
tại Việt Nam, năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài đó được xác định
theo pháp luật Việt Nam.
3. Việc xác định cá nhân bị mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự tại
Việt Nam theo pháp luật Việt Nam.”
Tóm lại, năng lực giao kết hợp đồng của chủ thể là cá nhân dựa trên luật
quốc tịch của cá nhân đó. Nếu xác lập, thực hiện giao dịch dân sự tại Việt Nam
thì năng lực của người đó được xác định theo pháp luật Việt Nam.
3.2.

Năng lực giao kết hợp đồng của pháp nhân

Đối với pháp nhân thì việc xác định năng lực giao kết hợp đồng được quy
định tại Điều 676, BLDS 2015. Theo đó, năng lực pháp luật dân sự của pháp
nhân được xác định theo pháp luật của nước mà pháp nhân mang quốc tịch.
Quốc tịch của pháp nhân lại được xác định theo quy định của pháp luật nước mà
10


pháp nhân thành lập. Trường hợp pháp nhân nước ngoài xác lập, thực hiện giao

dịch dân sự ở Việt Nam thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân đó phải
được xác định theo quy định của pháp luật Việt Nam.
III.

Bất cập và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giải quyết
xung đột pháp luật về hợp đồng
1. Về hình thức hợp đồng

Theo quy định tại khoản 2, Điều 27, Luật Thương mại 2005: “Mua bán
hàng hoá quốc tế phải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc
bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương”. Tuy nhiên, tham khảo qua
Điều 11 Công ước Vienna 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và Điều
1.2 Bộ nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế (PICC) của
Viện Thống nhất tư pháp quốc tế thì những điều ước này đã công nhận nguyên
tắc tự do về hình thức hợp đồng, nghĩa là một hợp đồng mua bán hàng hóa
không nhất thiết phải có hình thức bằng văn bản mà có thể được thành lập bằng
lời nói, bằng hành vi và có thể được chứng minh bằng mọi cách, kể cả bằng
nhân chứng.
Như vậy là có sự khác biệt về hình thức hợp đồng giữa pháp luật Việt
Nam và Công ước Vienna 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Mà Việt
Nam đã gia nhập thành viên Công ước Vienna 1980 về hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế và kể từ 1/1/2017, Công ước này chính thức có hiệu lực tại Việt
Nam. Vậy để phù hợp hơn với xu thế chung của quốc tế nói chung cũng như quy
định của Công ước Vienna 1980 nói riêng, thì nước ta nên sửa đổi Luật thương
mại theo hướng chấp nhận hợp đồng bằng lời nói, hành vi hoặc được chứng
minh bằng hình thức khác mà không nhất định phải bằng văn bản.
2. Về nội dung hợp đồng
Thứ nhất, thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng cho một phần hợp
đồng. Như đã biết thì BLDS 2015 cho phép các chủ thể giao kết hợp đồng được
thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng mà không có quy định về việc các bên có

11


được lựa chọn pháp luật áp dụng cho một phần hợp đồng hay không. Đối với
hợp đồng có yếu tố nước ngoài thường có những vấn đề phức tạp và vì nhiều lý
do (như thuận tiện đi lại, thuận lợi hơn cho mình…) nên có thể có trường hợp
các bên muốn từng phần của hợp đồng được điều chỉnh bởi các hệ thống pháp
luật khác nhau. Vì thế BLDS nên quy định theo hướng cho phép các bên lựa
chọn luật áp dụng cho một phần hợp đồng và được lựa chọn nhiều hệ thống
pháp luật khác nhau.
Thứ hai, quy định cụ thể về hình thức thể hiện sự lựa chọn pháp luật áp
dụng đối với hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Bởi vậy, pháp luật Việt Nam cần
bổ sung quy định về hình thức thể hiện sự thỏa thuận chọn luật áp dụng trong
hợp đồng theo hướng thể hiện rõ ràng sự lựa chọn bằng các điều khoản trong
hợp đồng và không chấp nhận hình thức “thỏa thuận ngầm”, lời nói, cử chỉ…
trong việc lựa chọn luật áp dụng để tránh tình trạng lách luật, lật lọng gây ra
những tranh chấp không đáng có; gây khó khăn, thiệt hại cho các chủ thể cũng
như các cơ quan có thẩm quyền.
Thứ ba, cho phép thỏa thuận pháp luật áp dụng là điều ước quốc tế. Nếu
có quy định cụ thể về việc cho phép các bên giao kết hợp đồng lựa chọn điều
ước quốc tế để làm pháp luật điều chỉnh cho hợp đồng thì khả năng cao là rất
nhiều hợp đồng sẽ đi theo hướng này bởi tính tích cực của nó. Cụ thể, những
quy định của các điều ước quốc tế thường phù hợp với các quan hệ hợp đồng có
yếu tố nước ngoài hơn so với pháp luật quốc gia. Bởi pháp luật quốc nội được
xây dựng trên cơ sở nền kinh tế, văn hóa, xã hội; truyền thống, phong tục, tập
quán, ý chí của nhà làm luật…cho nên các quốc gia sẽ có những quy định khác
nhau và thường không phản ánh chung nhất thông lệ quốc tế bằng các điều ước
quốc tế (được nhiều nước cùng thống nhất xây dựng). Hơn nữa hiện nay các
điều ước quốc tế đang ngày càng khẳng định được vai trò và tầm ảnh hưởng của
mình đến các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển như Việt Nam

trong bối cảnh mở cửa hội nhập thì việc quy định cho phép các chủ thể được lựa
chọn điều ước quốc tế thay vì pháp luật quốc gia cũng hết sức hợp lý.
12


3. Về năng lực chủ thể giao kết hợp đồng
Thứ nhất, theo quy định tại khoản 14 và 15, Điều 3, Luật Đầu tư 2014:
“Nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức
thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại
Việt Nam.
Nhà đầu tư trong nước là cá nhân có quốc tịch Việt Nam, tổ chức kinh tế
không có nhà đầu tư nước ngoài là thành viên hoặc cổ đông.”
Như vậy, người vừa có quốc tịch Việt Nam, vừa có quốc tịch nước ngoài
là nhà đầu tư trong nước hay nhà đầu tư nước ngoài? Điều này có ý nghĩa quan
trọng khi họ tham gia giao kết hợp đồng với người quốc tịch Việt Nam thì có
được coi là hợp đồng có yếu tố nước ngoài hay không? Vì vậy, vấn đề này cần
được hướng dẫn cụ thể hơn để đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho những chủ thể
này.
Thứ hai, về khái niệm "người Việt Nam định cư ở nước ngoài" cũng chưa
được quy định rõ ràng trong Luật quốc tịch, Bộ luật dân sự và Nghị định
138/2006/NĐ-CP. Theo quy định tại khoản 3,4, Điều 3, Luật Quốc tịch 2008 thì
“Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam và người gốc Việt
Nam cư trú làm ăn sinh sống lâu dài ở nước ngoài. Người gốc Việt Nam định cư
ở nước ngoài là người Việt Nam đã từng có quốc tịch Việt Nam mà khi sinh ra
quốc tịch của họ được xác định theo nguyên tắc huyết thống và con cháu của họ
đang cư trú sinh sống lâu dài ở nước ngoài”. Vậy thời hạn bao lâu thì được xác
định là "lâu dài" thì không có cách hiểu thống nhất. Đây cũng là điểm bài viết
nêu ra với mong muốn sẽ có quy định chặt chẽ hơn, ví dụ như quy định về
khoảng thời gian hợp lý, hoặc một tiêu chí khác không phụ thuộc thời gian để áp
dụng một cách thuận tiện hơn. Vì vấn đề xác định một đương sự trong vụ án dân

sự có phải là "người Việt Nam định cư ở nước ngoài" hay không có vai trò quan
trọng trong quan hệ dân sự nói chung cũng như trong quan hệ hợp đồng nói
riêng.
13


Ngoài ra, để đảm bảo hiệu quả trong hoạt động điều chỉnh các quan hệ
dân sự có yếu tố nước ngoài. Trong thời gian tới, Việt Nam cần đẩy mạnh hoạt
động xây dựng văn bản pháp luật, đặc biệt là văn bản hướng dẫn, giải thích
những yếu tố nước ngoài. Một mặt tạo ra khung pháp lý quan trọng cho việc áp
dụng pháp luật, tránh hiện tượng chồng chéo và mâu thuẫn pháp luật. Mặt khác
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong tư pháp quốc tế.

C. KÊT LUẬN
Hiện nay, Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế
giới song song với đó là càng có nhiều doanh nghiệp nước ngoài đến Việt Nam
để tiến hành các hoạt động kinh doanh. Khi đó, việc giao kết hợp đồng với các
chủ thể từ các hệ thống pháp luật khác nhau dẫn đến hiện tượng xung đột pháp
luật. Vì thế, công tác hoàn thiện pháp luật điều chỉnh giải quyết xung đột pháp
luật về hợp đồng có yếu tố nước ngoài là yêu cầu cấp thiết và khách quan. Xuất
phát từ thực tiễn Việt Nam đã tham gia nhiều tổ chức quốc tế như: WTO,
ASEAN, APEC… mà hiện tại các quy định về giải quyết xung đột pháp luật về
14


hợp đồng còn tồn tại khá nhiều bất cập gây chồng chéo, mâu thuẫn do thiếu
những hướng dẫn cụ thể. Qua tìm hiểu về giải quyết xung đột pháp luật về hợp
đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan
nhất về vấn đề này từ đó làm căn cứ áp dụng giải quyết xung đột trong thực tế,
đảm bảo tối đa quyền và lợi ích của các chủ thể trong quan hệ hợp đồng cũng

như đảm bảo phù hợp với pháp luật quốc tế.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb Tư pháp,
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.

2017.
Bộ Luật Dân sự 2015.
Luật Thương mại 2005.
Luật Đầu tư 2014.
Luật Quốc tịch 2008.
Công ước La Haye 1964 về thống nhất việc mua bán hàng hóa quốc tế.
Công ước Vienna 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Bộ nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế (PICC) của

Viện Thống nhất tư pháp quốc tế (2004).
9. Website:
15





THUẬT NGỮ VIÊT TẮT TRONG BÀI

BLDS: Bộ Luật Dân sự

Muc luc
A. MỞ ĐẦU.........................................................................................................1
B. NỘI DUNG.....................................................................................................2
I. Những vấn đề lý luận chung........................................................................2
1. Khái quát về xung đột pháp luật trong tư pháp quốc tế............................2
2. Hợp đồng trong tư pháp quốc tế...............................................................5
3. Xung đột pháp luật về hợp đồng trong tư pháp quốc tế............................7
II.

Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng theo quy định của pháp luật

Việt Nam............................................................................................................8
1. Giải quyết xung đột pháp luật về hình thức hợp đồng..............................8
2. Giải quyết xung đột pháp luật về nội dung hợp đồng...............................8
3. Giải quyết xung đột pháp luật về năng lực giao kết hợp đồng...............10
16


III.

Bất cập và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giải quyết xung

đột pháp luật về hợp đồng................................................................................11
1. Về hình thức hợp đồng...........................................................................11
2. Về nội dung hợp đồng............................................................................12
3. Về năng lực chủ thể giao kết hợp đồng..................................................13
C. KẾT LUẬN...................................................................................................15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................16


17



×