Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Pháp luật việt nam hiện hành về hiệu lực pháp luật di chúc chung của vợ chồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (315.69 KB, 56 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG Trang
LỜI NÓI ĐẦU 3
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài 3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 4
3. Mục đích - Phạm vi nghiên cứu 5
4. Phương pháp nghiên cứu 6
5. Đóng góp mới của luận văn 6
6. Cơ cấu của luận văn 7
CHƯƠNG 1: 8
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DI CHÚC CHUNG 8
CỦA VỢ CHỒNG 8
1.1. Khái niệm, sự khác biệt giữa di chúc chung vợ chồng và di chúc thông
thường 8
1.1.1. Khái niệm di chúc chung của vợ chồng 8
1.1.2. Đặc điểm di chúc chung của vợ chồng 9
1.1.3. Sự tất yếu hình thành di chúc chung của vợ chồng 11
1.1.4. Đặc thù của di chúc chung của vợ chồng 13
1.2. Vài nét về quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về di chúc
chung của vợ chồng 15
1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về di chúc chung của
vợ chồng trên thế giới 15
1.2.2. Quá trình hình thành và phát triển của chế định di chúc chung của vợ
chồng tại Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử 19
CHƯƠNG 2: 23
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ 23
DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG 23
2.1. Điều kiện có hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng 23
2.1.1. Điều kiện về chủ thể lập di chúc 23
2.1.2. Điều kiện về nội dung và mục đích 26
2.1.3. Điều kiện về ý chí tự nguyện thống nhất 30


2.1.4. Điều kiện về hình thức 31
2.1.5. Điều kiện về quản lý di sản khi một người chết trước 34
2.2.1. Trường hợp vợ chồng không thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của di
chúc chung 34
Đồng Thị Thu Sa Khoá luận tốt
nghiệp
2.2.2. Trường hợp vợ chồng thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của di chúc
chung 36
2.3. Vấn đề sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ di chúc chung của vợ chồng 38
2.4. Mối quan hệ di chúc chung di chúc riêng 40
2.4.1. Trường hợp di chúc chung định đoạt tài sản riêng 41
2.4.2. Trường hợp vừa có di chúc chung vừa có di chúc riêng 43
CHƯƠNG III 47
KIẾN NGHỊ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ HIỆU LỰC DI
CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG 47
3.1. Nhận xét về những bất cập của pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực
pháp luật di chúc chung của vợ chồng 47
3.1.1. Về thời hiệu khởi kiện về thừa kế 47
3.1.2. Về tài sản được quản lý bởi người còn sống 48
3.1.3. Về tài sản chung và tài sản riêng 48
3.1.4. Di chúc định đoạt vợ chồng là người thừa kế của nhau 49
3.2. Các giải pháp, kiến nghị 50
KẾT LUẬN 55
TÀI LIỆU THAM KHẢO 56
Pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực pháp luật di chúc chung của vợ chồng
2
Đồng Thị Thu Sa Khoá luận tốt
nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Pháp luật công nhận quyền sở hữu tài sản của cá nhân và khẳng định cá
nhân có quyền định đoạt tài sản theo ý của mình,. Điều này đã được ghi nhận và
khẳng định trong rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Tính tự định đoạt, thỏa
thuận là một nét tiêu biểu trong quan hệ pháp luật dân sự. Trong quan hệ thừa
kế, người lập di chúc toàn quyền định đoạt tài sản của mình sau khi chết. Xã hội
phát triển, trình độ dân trí nâng cao, người ta muốn định đoạt tài sản của mình
ngay cả khi chết đi bởi những gì họ đã làm, đã gắng và đang có trong tay. Luật
Việt Nam quy định tài sản vợ chồng là thuộc sở hữu chung hợp nhất và vợ
chồng có quyền ngang nhau trong việc định đoạt tài sản. Thực tế cho thấy không
phải là hiếm những trường hợp vợ chồng lập di chúc chung. Và vì pháp luật quy
định không rõ ràng về vấn đề này, nên dẫn đến những cách hiểu không giống
nhau của những người lập di chúc và ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp
khác của những người thừa kế.
Thực tiễn giải quyết án về di chúc chung của vợ chồng ở các Tòa án tại
các tỉnh, thành phố hiện nay rất ít, thậm chí là không có. Theo thống kê tại Tòa
án nhân dân thành phố Hà Nội cho thấy, trong khoảng 59 vụ án xét xử phúc
thẩm về quan hệ pháp luật thừa kế năm 2008 thì chỉ có hơn 10 vụ liên quan đến
di chúc, trong đó hầu như không có vụ án nào về vấn đề di chúc chung của vợ
chồng
1
. Trong các tranh chấp về thừa kế thì chủ yếu là những tranh chấp về di
sản thừa kế, tranh chấp giữa tài sản chung của những người thừa kế khi một
trong hai vợ chồng chết trước…Phần lớn những tranh chấp nào liên quan đến di
chúc thì cũng bị tuyên hủy hoặc không hợp pháp và chia thừa kế theo pháp luật.
Chỉ có một vài vụ án liên quan đến di chúc của một trong hai bên vợ chồng còn
1
Theo Sổ kết quả xét xử phúc thẩm các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội năn 2008
Pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực pháp luật di chúc chung của vợ chồng
3

Đồng Thị Thu Sa Khoá luận tốt
nghiệp
sống định đoạt phần di sản của người đã chết trong khối tài sản chung là đề cập
chút ít đến đề tài mà luận văn đang nghiên cứu.
Quyền lập di chúc chung của vợ chồng tưởng là vấn đề đơn giản và rất
hợp lý vì nó thể hiện đạo đức truyền thống của dân tộc ta. Nhưng thực tiễn về di
chúc chung của vợ chồng đã cho thấy, đây là một vấn đề khá phức tạp mà luật
hiện hành chưa quy định đầy đủ, rõ ràng. Các thiếu sót, bất cập của luật, đã dẫn
tới hậu quả là, làm cho vấn đề này càng trở nên rắc rối, thậm chí còn tạo ra
nhiều mâu thuẫn so với các quy định khác có liên quan.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, các công trình khoa học, các công trình nghiên cứu về vấn đề di
chúc chung của vợ chồng, cũng như tính hiệu lực pháp luật của nó không phổ
biến. Có thể kể tên một số thầy giáo đã có tâm huyết trong việc nghiên cứu lĩnh
vực thừa kế, đặc biệt thừa kế theo di chúc như: Tiến sỹ Vũ Văn Mẫu với nghiên
cứu “Thừa kế theo di chúc trong luật Việt Nam”, Tiến sỹ Nguyễn Ngọc Điện với
nghiên cứu “Một số suy nghĩ về thừa kế trong luật Dân sự Việt Nam”, Tiến sỹ
Phạm Văn Tuyết với nghiên cứu “Thừa kế theo quy định của pháp luật và thực
tiễn áp dụng”, Tiến sỹ Phùng Trung Tập với nghiên cứu “Luật Thừa kế Việt
Nam”…cùng một số thầy cô giáo khác với các bài bình luận, phân tích trên các
tạp chí nghiên cứu như tạp chí Luật học, tạp chí Tòa án nhân dân, tạp chí Dân
chủ và pháp luật…Tuy các thầy cô dù nhiều dù ít đề cập đến vấn đề di chúc
chung của vợ chồng nhưng không thầy cô nào nói về giá trị hiệu lực di chúc
chung của vợ chồng cùng các biểu hiện cụ thể của nó và các vấn đề pháp lý khác
nhau liên quan như điều kiện của di chúc chung của vợ chồng, mối quan hệ giữa
di chúc chung của vợ chồng và di chúc riêng của vợ, di chúc riêng của chồng.
Pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực pháp luật di chúc chung của vợ chồng
4
Đồng Thị Thu Sa Khoá luận tốt
nghiệp

3. Mục đích - Phạm vi nghiên cứu
• Mục đích
Bản chất của pháp luật là công cụ để điều chỉnh xã hội, một trong những
tính chất của nó là tính phổ biến, tường minh. Nhưng không phải quy định nào
của pháp luật cũng được quy định một cách rõ ràng. Người dân rất khó tiếp cận
một vấn đề nào đó mà mình quan tâm. Ngay cả khi người dân biết được pháp
luật quy định vấn đề đó như thế nào cũng chưa chắc đã hiểu được đúng bản chất,
ý nghĩa của điều luật.
Hiệu lực pháp luật di chúc chung của vợ chồng là một vấn đề không hề dễ
hiểu. Dù pháp luật chỉ quy định ở một điều luật duy nhất là Điều 668 Bộ luật
Dân sự 2005 (BLDS 2005), nhưng nội hàm của điều luật ấy lại liên quan đến
nhiều điều luật khác trong cùng Bộ luật và cả những điều luật thuộc văn bản
pháp luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Di chúc chung của vợ chồng là một loại di chúc đặc biệt. Tính chất đặc
biệt của nó thể hiện trong các quy định về chủ thể, nội dung, ý nghĩa, hình
thức…Nhưng những nội dung ấy lại không được pháp luật quy định rõ. Do đó,
tìm hiểu và làm rõ các quy định của pháp luật hiện hành về di chúc chung của
vợ chồng nói chung và hiệu lực pháp luật di chúc chung của vợ chồng nói riêng
sẽ là mục đích đầu tiên của luận văn.
Tiếp theo, trên cơ sở phân tích, làm rõ các quy định của pháp luật hiện
hành, tác giả bài viết sẽ đưa ra những khúc mắc, những mâu thuẫn, sự chồng
chéo dẫn tới sự bất hợp lý của các quy định này. Những khúc mắc, những mâu
thuẫn, sự chồng chéo, bất hợp lý xoay quanh những nội dung chủ yếu của di
chúc chung vợ chồng và giá trị pháp lý của di chúc. Ví dụ như những quy định
về thời điểm có hiệu lực di chúc chung của vợ chồng, di chúc riêng của vợ
chồng, những quy định về di chúc thông thường …
Pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực pháp luật di chúc chung của vợ chồng
5
Đồng Thị Thu Sa Khoá luận tốt
nghiệp

Và cuối cùng, luận văn sẽ đưa ra những kiến nghị, những đề đạt để những
quy định của pháp luật về di chúc hạn chế được tối đa sự bất hợp lý, khắc phục
những điểm bất tương đồng; để từng quy định trong vấn đề được hiểu thống
nhất và áp dụng cho đúng. Mặt khác, đóng góp một phần cho sự hoàn thiện pháp
luật về di chúc trong hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung.
• Phạm vi:
Hiệu lực pháp luật di chúc là mảng đề tài rộng, bao gồm nhiều vấn đề
trong đó có tính hợp pháp của một bản di chúc như hình thức, điều kiện, nội
dung, chủ thể…Nhưng trong giới hạn trình độ chuyên môn của mình, tác giả chỉ
đi vào nghiên cứu quy định pháp luật hiện hành về hiệu lực pháp luật di chúc
chung của vợ chồng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu về đề tài này, luận văn sử dụng nhiều phương pháp khác
nhau. Chủ yếu nhất vẫn là dựa trên phương pháp nghiên cứu chủ nghĩa duy vật
biện chứng của C.Mác-Lênin; nhìn nhận vấn đề trong mối quan hệ tổng thể,
giữa cái chung và cái riêng của từng vấn đề, có logic, có qua có lại giữa các vấn
đề; và tất cả đều hướng tới trọng tâm chính của đề tài là những giá trị pháp lý di
chúc chung của vợ chồng.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp như so sánh, phân tích,
chứng minh để làm sáng tỏ, từng vấn đề cụ thể giữa các quy định cũ và mới,
giữa những quy định chung và riêng nhằm đưa ra nhận xét, quan điểm của cá
nhân để làm nổi bật lên vấn đề cần nghiên cứu.
5. Đóng góp mới của luận văn
Đóng góp mới của luận văn với đề tài: “Pháp luật Việt Nam hiện hành về
hiệu lực pháp luật di chúc chung của vợ chồng” có ý nghĩa quan trọng. Bởi đây
là một vấn đề mới và đặc biệt hữu ích trong thời kỳ hiện đại. Luận văn làm sáng
Pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực pháp luật di chúc chung của vợ chồng
6
Đồng Thị Thu Sa Khoá luận tốt
nghiệp

tỏ được một số vấn đề mà pháp luật chưa quy định cụ thể. Luận văn đã đưa ra
được khái niệm di chúc chung của vợ chồng, sự khác biệt giữa di chúc thông
thường và di chúc chung của vợ chồng. Bên cạnh đó, luận văn đưa ra được
những điều kiện để di chúc chung của vợ chồng có hiệu lực pháp luật, tính tất
yếu của di chúc chung vợ chồng. Đồng thời, luận văn so sánh di chúc chung của
vợ chồng theo pháp luật Việt Nam với pháp luật của các quốc gia trên thế giới
để từ đó làm sáng tỏ những điểm đặc thù về di chúc chung của vợ chồng, từ đó
đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam.
6. Cơ cấu của luận văn
- Mục lục
- Lời mở đầu
- Chương I: Một số vấn đề lý luận về di chúc chung của vợ chồng
- Chương II: Quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về di chúc chung của
vợ chồng
- Chương III: Kiến nghị các giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành về hiệu lực di chúc chung của vợ chồng
- Kết luận
- Tài liệu tham khảo
Pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực pháp luật di chúc chung của vợ chồng
7
Đồng Thị Thu Sa Khoá luận tốt
nghiệp
CHƯƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DI CHÚC CHUNG
CỦA VỢ CHỒNG
1.1. Khái niệm, sự khác biệt giữa di chúc chung vợ chồng và di chúc thông
thường
1.1.1. Khái niệm di chúc chung của vợ chồng
Nghiên cứu bất kỳ một vấn đề khoa học nói chung và vấn đề pháp lý nào
nói riêng trước tiên chúng ta cần phải đi nghiên cứu khái niệm của nó. Bởi nội

hàm của khái niệm ít hay nhiều cũng phản ánh nhiều yếu tố như bản chất, đặc
điểm của đối tượng nghiên cứu.
Điều 646 Bộ luật Dân sự 2005 (BLDS 2005) đã quy định “Di chúc là sự
thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau
khi chết”. Khác với hợp đồng là sự gặp gỡ của hai hay nhiều ý chí tại một thời
điểm, di chúc được hình thành bởi sự bày tỏ ý chí của người lập di chúc mà thôi.
Đó chính là giao dịch pháp lý một bên; theo đó, người có tài sản quyết định
chuyển giao không có đền bù một phần hoặc toàn bộ tài sản của mình cho người
thụ hưởng (có thể là một hoặc nhiều người, có thể là cá nhân hoặc tổ chức) mà
không cần quan tâm người thụ hưởng ấy có ý chí như thế nào về việc chuyển
giao này.
Di chúc là sự chuyển dịch tài sản của người chết cho người khác, đó là sự
tôn trọng và bảo đảm của pháp luật đối với quyền tự định đoạt của chủ sở hữu
Pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực pháp luật di chúc chung của vợ chồng
8
Đồng Thị Thu Sa Khoá luận tốt
nghiệp
với tài sản của họ. Cần phải hiểu rằng, cho đến khi người lập di chúc chết, người
thụ hưởng di sản theo di chúc không có bất cứ một quyền nào trên bất cứ tài sản
nào của người lập di chúc và người thụ hưởng cũng không thể chắc rằng họ
được hưởng những di sản ấy về sau này. Điều đó có nghĩa là khi người lập di
chúc chưa chết thì thứ nhất, di chúc chưa có hiệu lực pháp luật; thứ hai, di chúc
có thể bị sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc huỷ bỏ theo ý chí của ngưòi lập ra nó.
Ngoài ra, ngay cả khi người lập di chúc đã chết thì di chúc cũng có thể bị rơi vào
một trong những trường hợp không có hiệu lực.
BLDS 2005 chỉ đưa ra một quy định rất chung chung, mang tính tuỳ nghi,
đó là: “Vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung” (Điều
663 BLDS 2005). Có thể thấy, BLDS 2005 không đưa ra một khái niệm cụ thể
thế nào là di chúc chung của vợ chồng. Tuy nhiên, di chúc chung của vợ chồng
cũng có nhiều điểm tương đồng với di chúc của cá nhân. Do đó, dựa vào khái

niệm di chúc thông thường, ta có thể đưa ra khái niệm di chúc chung của vợ
chồng như sau: “Di chúc chung của vợ chồng là sự thể hiện ý chí đồng thuận,
thống nhất của vợ và của chồng nhằm chuyển dịch tài sản chung của vợ chồng
cho người khác sau khi chết”.
1.1.2. Đặc điểm di chúc chung của vợ chồng
Là một loại di chúc nên di chúc chung của vợ chồng cũng mang những
đặc điểm của di chúc thông thường được nêu như là giao dịch pháp lý đơn
phương, di chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm người lập di chúc chết và di
chúc được sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ theo ý chí của người lập di chúc.
Tuy nhiên, xuất phát từ tính chất đặc thù của di chúc chung, di chúc chung của
vợ chồng mang những đặc điểm khác biệt cần được lưu ý sau đây.
Thứ nhất, về ý chí đơn phương của di chúc: Ngay cả khi vợ chồng cùng
lập di chúc thì tính chất một bên của giao dịch vẫn không mất đi. Điều đó có
nghĩa là khi vợ chồng đã thỏa thuận, thống nhất định đoạt tài sản chung của
mình thì pháp luật hoàn toàn tôn trọng. Tài sản ấy có thể định đoạt một phần
Pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực pháp luật di chúc chung của vợ chồng
9
Đồng Thị Thu Sa Khoá luận tốt
nghiệp
hoặc toàn bộ. Người thụ hưởng có thể là cá nhân hoặc tổ chức bất kỳ mà không
phụ thuộc vào quan hệ huyết thống, nuôi dưỡng. Vợ chồng lập di chúc chung có
thể gắn nghĩa vụ hoặc không gắn nghĩa vụ đối với người thụ hưởng và cũng
không cần quan tâm người thụ hưởng ấy có đồng ý, có muốn nhận di sản hay
không. Đây là sự chuyển giao không có đền bù và hoàn toàn phụ thuộc ý chí của
vợ chồng lập di chúc chung. Tính chất một bên ở đây không phải là khi vợ
chồng lập di chúc chung thì chỉ có một bên hoặc vợ hoặc chồng thể hiện ý chí.
Mà một bên ở đây là sự xác lập giữa một bên lập di chúc để định đoạt tài sản của
mình, cụ thể ở đây là cả vợ và chồng với một bên là người thụ hưởng. Tính chất
một bên là xuất phát từ ý chí của người lập di chúc.
Tóm lại, không có sự ràng buộc hoặc căn cứ nào bắt buộc vợ chồng phải

tuân theo khi vợ chồng đồng thuận định đoạt tài sản chung của mình.
Thứ hai, khi vợ chồng lập di chúc chung, việc sửa đổi, bổ sung, thay thế
và hủy bỏ di chúc chỉ có thể được thực hiện khi có sự đồng ý của cả hai người
nếu cả hai còn sống. Trong trường hợp một người chết trước, người còn sống chỉ
có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình trong khối
tài sản chung và nhất là không thể thay thế, hoặc hủy bỏ di chúc chung đã lập.
Có thể hiểu vấn đề này như sau: vợ chồng thỏa thuận thống nhất ý chí lập di
chúc chung thì khi sửa đổi, bổ sung thay thế hủy bỏ di chúc ấy cũng phải có sự
thỏa thuận thống nhất ý chí của cả hai người. Sự thống nhất ý chí này phải được
cụ thể ở từng vấn đề của di chúc chung ấy. Ví dụ nếu người chồng muốn bổ
sung người thừa kế là con riêng ngoài giá thú của mình trong di chúc chung thì
phải có sự đồng ý của người vợ. Sự đồng ý của người vợ bao gồm là đồng ý cho
bổ sung thêm người thừa kế, đồng ý với người thừa kế đó là con riêng của
chồng, đồng ý với số tài sản sẽ giành cho người con đó, đồng ý với việc có trao
nghĩa vụ cho người đó hay không…Nếu người vợ chỉ đồng ý cho người chồng
bổ sung thêm người thừa kế mà không biết người đó là ai, người đó được hưởng
bao nhiêu…thì sự thay đổi di chúc chung đó của người chồng không được coi là
đã có sự thống nhất ý chí với người vợ. Nói cách khác, sự thống nhất ý chí được
Pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực pháp luật di chúc chung của vợ chồng
10
Đồng Thị Thu Sa Khoá luận tốt
nghiệp
biểu hiện ra ngoài khi cả vợ và chồng cùng tham gia vào việc thay đổi những nội
dung liên quan đến di chúc chung đã lập. Khi cả hai còn sống, một người thay
đổi di chúc chung mà không có sự đồng ý của người kia thì sự thay đổi ấy không
có giá trị pháp lý. Trong trường hợp một người chết trước, người còn sống muốn
thay đổi những nội dung liên quan đến di chúc chung của vợ chồng đã lập thì chỉ
có thể sửa đổi, bổ sung di chúc chung liên quan đến phần tài sản của mình trong
khối tài sản chung (vì tài sản định đoạt trong di chúc chung là tài sản chung).
Nếu người còn sống thay thế hoặc hủy bỏ di chúc chung; sửa đổi, bổ sung liên

quan đến phần tài sản của người đã chết trong di chúc chung thì những sự thay
đổi đó sẽ không có giá trị, không được pháp luật công nhận.
1.1.3. Sự tất yếu hình thành di chúc chung của vợ chồng
Tại sao pháp luật lại quy định chủ thể có quyền lập di chúc chung để định
đoạt tài sản của mình sau khi chết chỉ có thể là vợ chồng mà không trao quyền
này cho những trường hợp khác. Điều này có thể được lý giải bởi các lý do sau
đây:
Thứ nhất, về mối quan hệ vợ chồng: chồng vợ là khái niệm chỉ hai cá
nhân nam nữ độc lập trong xã hội, gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn nhân hợp
pháp. Khi là vợ chồng, vợ chồng phải “chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm
chỉ, giúp đỡ nhau, cùng xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh
phúc, bền vững” (Điều 18 Luật Hôn nhân và Gia đình 2000). Xuất phát từ bản
chất của hôn nhân là vợ chồng cùng chung tay xây dựng mái ấm, cùng nghĩa vụ
yêu thương chăm sóc nhau, chăm nom gia đình, giáo dục nuôi dưỡng các con.
Trong gia đình ấy, vợ chồng cùng phải nhìn về một phía, vì sự phát triển chung.
Thứ hai, về tài sản: Bên cạnh đời sống tình cảm vợ chồng còn phải quan
tâm tới vấn đề vật chất, tài sản của vợ chồng. Cuộc sống chung của vợ chồng
cùng với tính chất của quan hệ hôn nhân đã xác lập đòi hỏi vợ chồng phải có
khối tài sản chung. Và khối tài sản ấy sẽ là cơ sở kinh tế của gia đình, đáp ứng
các nhu cầu thiết yếu của gia đình để từ đó thực hiện tốt các chức năng xã hội.
Pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực pháp luật di chúc chung của vợ chồng
11
Đồng Thị Thu Sa Khoá luận tốt
nghiệp
Tài sản chung của vợ chồng là vấn đề có ý nghĩa quan trọng như vậy. Điều 27
Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 quy định: “Tài sản chung của vợ chồng gồm
tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh
doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân;
tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những
tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung”. Tài sản chung của vợ

chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản
chung ấy thường được sự nhất trí của vợ chồng.
Vậy nên vợ chồng có quyền lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung
là vấn đề cần thiết. Tuy nhiên sự định đoạt này chỉ được đảm bảo nếu vợ chồng
đều tự nguyện, thống nhất và tuân theo các quy định của pháp luật về di chúc
hợp pháp. Di chúc chung của vợ chồng là loại di chúc đặc biệt được xác lập do
hai người có tài sản chung hợp nhất, cùng định đoạt chung. Bởi vậy, BLDS
2005 đã quy định về loại di chúc đặc biệt và phức tạp này. Nếu vợ chồng không
đồng thuận trong việc lập di chúc chung này thì họ có thể lập di chúc riêng cho
mình; mỗi người đều có thể lập di chúc riêng để định đoạt một nửa khối tài sản
chung hợp nhất của vợ chồng và những tài sản thuộc sở hữu riêng của người đó.
Thứ ba, về mối quan hệ của vợ chồng với những người thừa kế: như ta đã
biết nam nữ sau khi xác lập quan hệ hôn nhân hợp pháp hình thành nên gia đình
– tế bào của xã hội “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do quan
hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh
các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau” (Điều 10 Luật Hôn nhân và Gia đình
2000). Pháp luật cho phép vợ chồng lập di chúc chung cũng xuất phát từ sự liên
kết ràng buộc đó. Thông thường, vợ chồng lập di chúc chung để trao quyền thừa
kế cho những người có cùng quan hệ huyết thống (các con đẻ của vợ chồng, cha
mẹ anh chị em ruột của một bên vợ hoặc chồng) hoặc quan hệ nuôi dưỡng như
con nuôi…Người thừa kế cũng có thể là cá nhân, tổ chức khác không thuộc các
quan hệ trên nhưng điều đó ít khi xảy ra khi vợ chồng lập di chúc chung. Mặt
khác, dù vợ chồng có định đoạt tài sản chung không cho những người trong gia
Pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực pháp luật di chúc chung của vợ chồng
12
Đồng Thị Thu Sa Khoá luận tốt
nghiệp
đình (thuộc ba quan hệ: hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng) hưởng thì pháp luật
cũng hạn chế sự định đoạt đó bằng điều luật 669 BLDS 2005.
Thứ tư, về thực tế: từ lâu đời vấn đề di chúc chung của vợ chồng đã có từ

lầu đời và ngày càng trở nên phổ biến trong đời sống xã hội hiện đại. Nó thể
hiện truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta, thể hiện đạo lý tình nghĩa vợ
chồng. Và chế định này đã được BLDS 2005 quy định để tôn trọng ý chí của họ.
Đó cũng là sự tất yếu hình thành di chúc chung của vợ chồng.
Từ sự tất yếu trên, có thể nhận thấy quy định hiệu lực pháp luật di chúc
chung của vợ chồng có ý nghĩa rất quan trọng. Thứ nhất, hiệu lực pháp luật di
chúc chung giúp chia thừa kế theo di chúc chung một lần, nhằm tránh chia di sản
nhiều lần; vì điều luật quy định di chúc chung của vợ chồng chỉ có hiệu lực từ
hai thời điểm xác định là người sau cùng chết hoặc vợ chồng cùng chết. Thứ hai,
đảm bảo quyền sở hữu và quyền sử dụng di sản thừa kế của người sống; vì tài
sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là loại tài sản chung hợp nhất;
khi nó được định đoạt bằng một chúc thư chung thì phần nào đó các quyền của
người thừa kế sẽ được đảm bảo một cách ưu việt hơn so với việc không có di
chúc hoặc di chúc riêng. Thứ ba, việc quy định như vậy, phần nào đó ngăn chặn
sự mất ổn định của gia đình; bởi một khi động chạm đến vấn đề lợi ích, tài sản
tiền bạc…thì rất dễ xảy ra mâu thuẫn giữa những người trong gia đình với nhau,
đặc biệt khi một người chết trước, người còn sống quản lý di sản chưa chia,
những người thừa kế theo di chúc chưa thể nhận di sản từ di chúc chung của vợ
chồng mà người vợ hoặc người chồng còn sống. Di sản đang được quản lý đó
cần luôn đảm bảo sự minh bạch rõ ràng.
1.1.4. Đặc thù của di chúc chung của vợ chồng
Trên cơ sở khái niệm, đặc điểm di chúc chung của vợ chồng đã nêu ra ở
trên, ta thấy cùng là di chúc, di chúc chung của vợ chồng có những đặc điểm
giống di chúc thông thường. Nhưng vì là một loại di chúc đặc biệt, di chúc
chung của vợ chồng so với di chúc thông thường có một số điểm đặc thù sau:
Pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực pháp luật di chúc chung của vợ chồng
13
Đồng Thị Thu Sa Khoá luận tốt
nghiệp
Vấn đề Di chúc thông thường Di chúc chung của vợ chồng

Tên gọi Di chúc Di chúc chung của vợ chồng
Người
lập di
chúc
Pháp luật chỉ cho phép một cá
nhân có quyền lập di chúc riêng
để định đoạt tài sản của mình, trừ
trường hợp di chúc chung của vợ
chồng.
Pháp luật cho phép vợ chồng
được lập di chúc chung để định
đoạt tài sản trên cơ sở hôn nhân
tồn tại.
Tài sản Phải là tài sản của người lập di
chúc có quyền sở hữu hợp pháp,
bao gồm tài sản riêng và phần tài
sản trong khối tài sản chung với
người khác.
Là tài sản chung hợp nhất của vợ
chồng; không bao gồm tài sản
riêng; nếu vợ hoặc chồng định
đoạt tài sản riêng trong di chúc
chung thì cũng không được xem
là một phần di chúc chung của vợ
chồng.
Hình
thức
Có thể bằng miệng, bằng văn bản
hoặc các hình thức tương đương.
Dù điều luật không quy định,

nhưng vợ chồng có thể lập di
chúc chung bằng văn bản hoặc
bằng miệng nếu đáp ứng đủ các
điều kiện của pháp luật.
Sửa đổi,
bổ sung,
thay thế,
huỷ bỏ di
chúc
Cá nhân lập di chúc có quyền
tuyệt đối.
Vợ chồng có quyền tuyệt đối khi
cả hai người còn sống và đồng
thuận với nhau. Nhưng chỉ có ý
nghĩa tương đối với riêng vợ
hoặc chồng trong trường hoặc
một trong hai người chết trước.
Người
hưởng
thừa kế
Không bao giờ là người lập ra di
chúc.
Phần di chúc chung liên quan đến
người chết trước có hiệu lực pháp
luật thì người còn sống luôn là
một trong những người thừa kế
của người chết trước.
Pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực pháp luật di chúc chung của vợ chồng
14
Đồng Thị Thu Sa Khoá luận tốt

nghiệp
Hiệu lực
pháp luật
Điều 667 BLDS 2005: “Di chúc
có hiệu lực pháp luật kể từ thời
điểm mở thừa kế”.
Điều 668 BLDS 2005: “Di chúc
chung của vợ chồng có hiệu lực
từ thời điểm người sau cùng chết
hoặc tại thời điểm vợ chồng cùng
chết”.
Quản lý
di sản
Có thể được chỉ định trong di
chúc hoặc được những người
thừa kế thoả thuận cử ra. Và
người này chỉ có thể bảo quản,
tránh sự hao hụt của di sản. Nếu
di sản phát sinh hoa lợi, lợi tức
thì thuộc di sản thừa kế.
Nếu một người chết trước, người
vợ hoặc chồng còn lại quản lý sử
dụng và phát triển khối tài sản
của vợ, chồng. Sau thời điểm một
người chết, người còn lại phát
triển gia sản và làm ra tài sản mới
thì đó là tài sản riêng của người
đó, không nằm trong khối “di
sản” mà vợ chồng đã định đoạt
trong di chúc chung.

1.2. Vài nét về quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về di chúc
chung của vợ chồng
Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về di chúc chung của vợ
chồng là phần nội dung nghiên cứu tiến trình lịch sử được sắp xếp theo thời gian
của chế định di chúc chung của vợ chồng trên thế giới và tại Việt Nam; trong đó
chủ yếu tập trung tìm hiểu quá trình đó tại Việt Nam.
Đây là phần tìm hiểu giúp chúng ta có cái nhìn mở rộng và toàn diện hơn
về chế định di chúc chung của vợ chồng.
1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về di chúc chung
của vợ chồng trên thế giới
Trước khi đi tìm hiểu pháp luật của các nước trên thế giới về quyền lập di
chúc chung của vợ chồng, chúng ta đi xem xét pháp luật của những quốc gia
Pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực pháp luật di chúc chung của vợ chồng
15
Đồng Thị Thu Sa Khoá luận tốt
nghiệp
không ghi nhận quyền này trong hệ thống pháp luật của họ. Tiêu biểu đó là Luật
La Mã và pháp luật Cộng hòa Pháp. Sở dĩ chọn hai hệ thống pháp luật này vì vị
trí, ý nghĩa và vai trò của nó có tác động lớn tới sự hình thành phát triển hệ
thống pháp luật của các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
Đặc biệt từng là thuộc địa của Pháp, Việt Nam chịu ách thống trị nặng nề cả về
kinh tế, văn hóa. Pháp luật của Việt Nam thời kỳ đó cũng bị chi phối, ảnh hưởng
rất nhiều của Bộ luật Dân sự Pháp.
Thứ nhất, Luật La Mã là một Bộ luật cổ xưa nhất trong văn minh nhân
loại. Nó có vai trò và vị trí vô cùng lớn đối với sự phát triển pháp luật của tất cả
các nước trên thế giới từ cổ chí kim. Nhiều chế định của Luật La Mã có giá trị
như một nguồn tri thức chung của nhân loại về cấu trúc lập pháp và trình độ lập
pháp. Những quy định của Luật La Mã đã đặt nền móng vững chắc có ảnh
hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới hầu hết tất cả luật thành văn của các nước trên
thế giới trong quá trình xây dựng luật dân sự hiện đại. Đặc biệt có thể thấy các

quy định hết sức mở thể hiện sự tôn trọng của pháp luật đối với quyền bình đẳng
của con người trong các gia đình vợ chồng, con cái, trong các quan hệ hợp đồng
như mua bán, sở hữu, thừa kế…
Khái niệm luật La Mã, theo Ang-ghen: “Luật La Mã là hình thức pháp
luật hoàn thiện nhất dựa trên cơ sở tư hữu. Sự thể hiện pháp lý những điều kiện
sống và những xung đột xã hội trong đó thống trị tư hữu mà những nhà làm luật
sau đó không thể mang thêm điều gì hoàn thiện hơn…”. Luật La Mã là một
nguồn tài liệu tham khảo quý giá cho các nhà nghiên cứu pháp luật và các nhà
lập pháp trong thời hiện đại.
Trong lĩnh vực thừa kế, Luật La Mã quy định hai hình thức cơ bản là thừa
kế theo di chúc (testato) và thừa kế theo luật (intestato), ngoài ra còn có thừa kế
theo lệnh của các quan. Tuy nhiên, trong thừa kế theo di chúc lại không hề đề
cập đến vấn đề di chúc chung của vợ chồng. Cho đến nay các nhà làm luật vẫn
không lý giải được tại sao pháp luật La Mã lại không quy định vấn đề di chúc
chung của vợ chồng trong hệ thống pháp luật của mình.
Pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực pháp luật di chúc chung của vợ chồng
16
Đồng Thị Thu Sa Khoá luận tốt
nghiệp
Thứ hai, pháp luật Cộng hòa Pháp là một hệ thống được xếp vào hàng
danh giá, có ý nghĩa và ảnh hưởng lớn với các nước trên thế giới, đặc biệt là các
nước châu Âu lục địa. Trong hệ thống pháp luật ấy, nổi bật nhất là Bộ Luật Dân
sự Napoleon 1804. Đó là một bộ luật đồ sộ, tồn tại lâu đời, còn nguyên giá trị
cho đến bây giờ. Trong lĩnh vực thừa kế, dù pháp luật của Pháp cho phép “Mọi
người đều có thể định đoạt bằng di chúc để lập thừa kế hoặc để di tặng hoặc
được gọi bằng bất cứ tên nào khác để thể hiện ý chí của mình” (Điều 967 Bộ
Luật Dân sự Pháp). Tuy nhiên các nhà làm luật Pháp lại không chấp nhận vấn đề
di chúc chung của vợ chồng, điều đó thể hiện tại một điều luật riêng biệt. Điều
968 Bộ Luật Dân sự Pháp quy định: “Hai hoặc nhiều người không thể làm
chung một di chúc để lại tài sản cho một người thứ ba hoặc để lại tài sản cho

nhau”. Điều đó có nghĩa là mặc dù tôn trọng sự tự định đoạt tài sản của chủ sở
hữu nhưng pháp luật Pháp lại hạn chế một số trường hợp định đoạt tài sản này,
thể hiện qua việc không cho phép vợ chồng lập di chúc chung mà không phân
biệt vợ chồng đó theo chế độ cộng đồng tài sản hay chế độ phân sản trong hôn
nhân.
Hai hệ thống pháp luật tiêu biểu trên đều là những công trình đồ sộ, nơi
tập hợp trí tuệ của các luật gia lỗi lạc thời đó. Nhưng cả hai hệ thống pháp luật
đó đều không quy định di chúc chung của vợ chồng cũng là một điều đáng phải
suy nghĩ. Ta biết việc xây dựng pháp luật của mỗi quốc gia phụ thuộc nhiều vào
tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, trình độ lập pháp của quốc gia đó.
Khó có thể áp dụng nguyên vẹn một hệ thống pháp luật nào vào điều kiện thực
tế của một quốc gia khác. Việc quốc gia này quy định một vấn đề nào mà quốc
gia khác không quy định là điều dễ hiểu và đương nhiên. Vậy nên có những
quốc gia vẫn quy định di chúc chung của vợ chồng trong hệ thống pháp luật của
mình. Chúng ta sẽ đi tìm hiểu hai hệ thống pháp luật tiêu biểu, đó là hệ thống
pháp luật Cộng hòa liên bang Đức và hệ thống pháp luật của Quebec (Canada).
Thứ nhất, pháp luật của Cộng hòa liên bang Đức cũng như pháp luật
Cộng hòa Pháp đều được hình thành trên cơ sở kết hợp luật tập quán địa phương
Pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực pháp luật di chúc chung của vợ chồng
17
Đồng Thị Thu Sa Khoá luận tốt
nghiệp
và Luật La Mã nhưng lại có sự khác biệt giữa hai hệ thống pháp luật này trong
vấn đề di chúc chung của vợ chồng. Ở Đức, các đế chế Đức tồn tại thời kỳ giữa
năm 962 và năm 1806 tự cho mình là kế thừa của đế chế La Mã. Luật La Mã
được nghiên cứu tại các trường đại học của Đức và các nước lục địa châu Âu và
được coi là nguồn luật bổ sung, được áp dụng trực tiếp nếu luật pháp thành văn
và tập quán pháp luật của họ chưa có quy định đối với quan hệ xã hội cần thiết
phải điều chỉnh pháp luật.
Bộ luật Dân sự Đức năm 1896 được gọi là “professorenrecht”, tức là luật

của các giáo sư bởi sự thành công trong kỹ năng lập pháp cũng như trong các
quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Pháp luật của Đức quy định vợ chồng có thể
lập di chúc chung.
Thứ hai, từng là một trong những phần lãnh thổ thuộc Pháp, nhưng
Quebec (hiện nay thuộc Canada) lại quy định theo hướng công nhận di chúc
chung của vợ chồng.
Với những quốc gia này nếu khi kết hôn vợ chồng lập hôn ước để định
đoạt tài sản của mình hoặc hôn nhân của họ là chế độ phân sản thì quyền lập di
chúc chung cũng không bị hạn chế trừ điều kiện về tài sản vợ chồng định đoạt
trong di chúc phải là tài sản chung. Tuy nhiên, trường hợp này gặp rất ít trên
thực tế; và đa phần di chúc chung của vợ chồng được lập trên cơ sở chế độ cộng
đồng tài sản của vợ và chồng.
Ngoài ra, với những nước thuộc hệ thống common law, đặc điểm giải
quyết tranh chấp của họ là phụ thuộc phần lớn vào những case (án lệ). Và hầu
như không có vụ tranh chấp, rắc rối nào là không giải quyết được. Nếu không có
case thì hướng giải quyết phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người thẩm phán
giải quyết vụ án đó. Tranh chấp di chúc chung của vợ chồng ở những nước này
nếu có không phải là không có hướng giải quyết.
Để tránh sự xung đột pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp giữa
những quốc gia có công nhận hoặc không công nhận di chúc chung của vợ
chồng, Công ước Whasington 1984, hay còn gọi là Công ước về vấn đề di chúc
Pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực pháp luật di chúc chung của vợ chồng
18
Đồng Thị Thu Sa Khoá luận tốt
nghiệp
quốc tế đã quy định: Di chúc có hiệu lực kể từ thời điểm nó tuân thủ các quy
định về hình thức của di chúc quy định trong pháp luật của nước nơi lập di chúc
hoặc các quy định về hình thức của di chúc của nước mà người lập di chúc có
quốc tịch. Quy định này có ý nghĩa rất quan trọng, đặc biệt trong việc giải quyết
các tranh chấp liên quan đến vấn đề di chúc nói chung và di chúc chung của vợ

chồng nói riêng có tính chất nước ngoài. Đặc biệt nó đã hài hòa được phần nào
những khác biệt giữa các hệ thống pháp luật trên thế giới.
1.2.2. Quá trình hình thành và phát triển của chế định di chúc chung của vợ
chồng tại Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử
Đây là phần tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của chế định di
chúc chung của vợ chồng qua các thời kỳ lịch sử trong pháp luật Việt Nam từ cổ
luật, thời kỳ Pháp thuộc, thời kỳ 1954 – 1975, thời kỳ 1975 – nay. Có sự phân
định như vậy là vì mỗi thời kỳ đó ở Việt Nam gắn với điều kiện chính trị, kinh
tế, xã hội, phong tục tập quán nhất định; mà pháp luật lại là sản phẩm của trí tuệ
con người phụ thuộc vào những điều kiện cụ thể ấy. Thời kỳ sau không hoàn
toàn giống thời kỳ trước mà nó có sự biến đổi, kế thừa và phát triển cho phù hợp
với tình hình thực tế.
* Cổ luật
Hệ thống văn bản pháp luật của nước ta thời kỳ này khá rời rạc. Những
vấn đề về thừa kế đã không còn được lưu giữ kể từ trước thời kỳ nhà Lê (1428 –
1527). Chỉ dưới thời vua Lê Nhân Tông và Lê Thánh Tông mới ban hành một số
điều luật về thừa kế. Quan điểm của các nhà làm luật thời này khá gần với quan
điểm hiện đại về thừa kế.
Khi ban hành Bộ Quốc Triều Hình Luật, hay còn gọi là Bộ Luật Hồng
Đức, các vấn đề về thừa kế theo di chúc được quy định tại các Điều 354, Điều
388. Ở đây, người con gái có quyền thừa kế ngang bằng người con trai và Bộ
luật đã phân định nguồn gốc tài sản của vợ chồng là tài sản riêng của mỗi người
Pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực pháp luật di chúc chung của vợ chồng
19
Đồng Thị Thu Sa Khoá luận tốt
nghiệp
và tài sản chung của vợ chồng. Đây là một điểm được đánh giá là rất tiến bộ, tuy
nhiên bộ luật lại không có quy định về di chúc chung của vợ chồng.
Bộ Hoàng Triều Luật Lệ, tức Luật Gia Long dưới thời nhà Nguyễn so với
Bộ Luật Hồng Đức thì hà khắc hơn rất nhiều; cụ thể những vấn đề về bình đẳng

nam nữ không được công nhận; luật không đề cập về quyền thừa kế của con gái
với những tài sản thông thường và mặc dù luật có quy định về thừa kế theo di
chúc nhưng vấn đề di chúc chung không được đề cập.
Tuy nhiên theo Giáo sư Vũ Văn Mẫu, việc lập di chúc chung của vợ
chồng lại được thừa nhận từ lâu trong phong tục tập quán, thể hiện quan niệm
truyền thống đạo lý người Việt coi trọng nghĩa tào khê, luôn củng cố tình yêu
thương, sự gắn kết trong gia đình và thực tiễn tục lệ của Việt Nam trong các xã
hội trước đây cho thấy di chúc chung của vợ chồng là hình thức di chúc thông
dụng và việc vợ chồng cùng lập di chúc chung là hiện tượng phổ biến thời bấy giờ
1
.
* Thời kỳ Pháp thuộc
Thời kỳ này chúng ta có ba Bộ luật tiêu biểu là Bộ Dân luật Giản yếu
1883, Bộ Dân luật Bắc kỳ 1931, Bộ Dân luật Trung kỳ 1936; và tất cả chúng
đều dựa trên cơ sở những nguyên tắc đại cương của Bộ Dân Luật Pháp 1804
nhưng lại có sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với đời sống, sinh hoạt người Việt.
Luật quy định trong gia đình, người vợ không có quyền định đoạt tài sản
chung của vợ chồng. Điều 346 Dân luật Bắc kỳ và Điều 341 Dân luật Trung kỳ
đều quy định: Nếu người chồng chết trước, thì người vợ chỉ được hưởng tài sản
riêng của mình, còn tài sản chung thì không được hưởng. Người vợ goá chỉ trở
thành sở hữu di sản của người chồng khi không còn thừa kế nào về bên nội, bên
ngoại của người chồng. Trong trường hợp người vợ chết trước, thì Điều 113 Dân
Luật Bắc kỳ và Điều 111 Dân Luật Trung kỳ đều quy định: Người chồng đương
nhiên trở thành chủ sở hữu duy nhất của tất cả tài sản chung của vợ chồng, trong
đó có cả tài sản riêng của vợ.
1
Vũ Văn Mẫu “Thừa kế theo di chúc trong luật Việt Nam”
Pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực pháp luật di chúc chung của vợ chồng
20
Đồng Thị Thu Sa Khoá luận tốt

nghiệp
Tuy nhiên, có một điểm đáng lưu ý, đó là luật đã ghi nhận quyền lập di
chúc chung của vợ chồng. Tại Điều 321 Dân luật Bắc kỳ và Điều 313 Dân luật
Trung kỳ quy định: “Người cha được lập chúc thư để xử trí tài sản chung của
gia đình tuỳ theo ý mình, nhưng phải có vợ chính đồng ý… Trừ tài sản của vợ
chính ra thì người chồng được làm chúc thư để xử trí tài sản của gia đình tùy
theo ý mình, không có vợ chính thuận tình cũng được”.
* Thời kỳ 1954 - 1975
Dưới chính thể ngụy quyền Sài Gòn, các quy định về thừa kế được quy
định tại Bộ Dân luật Sài Gòn 1972, quyển 3 từ Điều 489 - đến Điều 649. Và vấn
đề di chúc chung của vợ chồng cũng được công nhận tại Điều 572: “Chúc thư
chỉ có thể do một người lập ra; hai người không thể cùng chung một chúc thư
lợi tha hay lưỡng tương đắc lợi. Đặc biệt, trong trường hợp chúc thư do hai vợ
chồng cùng làm để sử dụng tài sản chung, chúc thư được thi hành riêng về phần
di sản của người chết trước, người sống vẫn có quyền huỷ bãi hay thay đổi chúc
thư về phần mình”.
Còn hai văn bản khác là Luật gia đình 1959 và Sắc luật 64 lại không đề
cập đến vấn đề di chúc chung của vợ chồng.
* Thời kỳ 1975 – nay
Trước khi có Pháp lệnh thừa kế ngày 30-8-1990, thì chỉ có Thông tư 81
của Tòa án nhân dân tối cao ban hành ngày 24-7-1981 đề cập một cách tương
đối toàn diện về chế định thừa kế, trong đó có đề cập đến vấn đề di chúc chung
của vợ chồng. Sau khi Pháp lệnh thừa kế ban hành, chương II của Pháp lệnh đã
quy định trình tự thừa kế theo di chúc và dù không trực tiếp quy định về di chúc
chung của vợ chồng nhưng cũng gián tiếp thừa nhận hiệu lực của di chúc chung,
và những quy định này đã được pháp điển hoá tại phần thứ tư Bộ luật dân sự 1995.
Mặt khác, luật Hôn nhân và gia đình 1986, Luật Hôn nhân và gia đình
2000 hiện hành đều khẳng định “Vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau
Pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực pháp luật di chúc chung của vợ chồng
21

Đồng Thị Thu Sa Khoá luận tốt
nghiệp
trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung” và dù pháp luật tôn
trọng sở hữu riêng của mỗi bên vợ và chồng nhưng Điều 27 Luật Hôn nhân và
gia đình 2000 đã quy định: “Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung
hợp nhất”.
Điều 635 Bộ luật dân sự 1995 cũng đã quy định về quyền bình đẳng trong
quan hệ thừa kế “Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình
cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”. Điều
đó có nghĩa là phụ nữ hay là nam giới đều bình đẳng với nhau trong việc để lại
di sản thừa kế, hưởng di sản thừa kế, có toàn quyền định đoạt tài sản của mình;
Chính vì thế, việc lập di chúc chung của vợ chồng để định đoạt tài sản đã được
quy định khá rõ trong những điều luật riêng biệt (Điều 667, Điều 671 Bộ luật
Dân sự 1995).
Và các quy định này đã có nhiều sửa đổi trong BLDS 2005, cụ thể tại các
Điều 663, Điều 664 và Điều 668. Nếu Điều 671 Bộ luật Dân sự 1995 quy định
về hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ chồng: “Trong trường hợp vợ,
chồng lập di chúc chung mà có một người chết trước, thì chỉ phần di chúc liên
quan đến phần di sản của người chết trong tài sản chung có hiệu lực pháp luật;
nếu vơ, chồng có thỏa thuận trong di chúc về thời điểm có hiệu lực của di chúc
là thời điểm người sau cùng chết, thì di sản của vợ, chồng theo di chúc chung
chỉ được phaan chia từ thời điểm đó” thì trong BLDS 2005 lại chỉ quy định hiệu
lực pháp luật của di chúc chung của vợ chồng: “Di chúc chung của vợ, chồng có
hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng
chết”, mà không quy định cụ thể trong trường hợp một bên vợ hoặc chồng chết
trước thì giá trị di chúc chung sẽ như nào.
Pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực pháp luật di chúc chung của vợ chồng
22
Đồng Thị Thu Sa Khoá luận tốt
nghiệp

CHƯƠNG 2:
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ
DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
2.1. Điều kiện có hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng
Di chúc chung của vợ chồng cũng giống di chúc thông thường muốn có
hiệu lực trước hết phải được thừa nhận là hợp pháp. Và một di chúc hợp pháp thì
phải đảm bảo những điều kiện của pháp luật về chủ thể, về ý chí, về hình thức,
về nội dung và một số điều kiện khác. Tuy nhiên, xuất phát từ tính chất đặc biệt,
di chúc chung sẽ phải đảm bảo những điều kiện cụ thể khác nữa mà nếu không
tuân theo thì di chúc chung ấy cũng không được công nhận.
2.1.1. Điều kiện về chủ thể lập di chúc
Di chúc nói chung và di chúc chung của vợ chồng nói riêng là một giao
dịch pháp lý đơn phương. Nó cũng phải đảm bảo các điều kiện có hiệu lực của
giao dịch dân sự. Một trong những điều kiện đầu tiên mà người lập di chúc cần
phải có đó là năng lực hành vi dân sự. Khoản 1 Điều 122 quy định: “Người
tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự”. Đó là khả năng của vợ, chồng
thông qua hành vi của mình để thực hiện các quyền và gánh vác các nghĩa vụ.
Theo quy định của pháp luật, một người được coi là có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ khi người đó đủ mười tám tuổi mà không mắc các bệnh không thể nhận
thức và làm chủ được hành vi của mình. Về nguyên tắc chỉ những người đủ
mười tám tuổi trở lên mới có quyền lập di chúc. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 647
BLDS 2005 quy định: “Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi
có thể lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý”. Điều đó có
nghĩa là, những người này khi họ có tài sản nhất định thì vẫn có quyền lập di
chúc để định đoạt tài sản của mình. Tuy nhiên, ở độ tuổi này, cá nhân mới chỉ
Pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực pháp luật di chúc chung của vợ chồng
23
Đồng Thị Thu Sa Khoá luận tốt
nghiệp
đạt được sự nhận thức nhất định, chưa thể coi là hoàn thiện, chưa thể kiểm soát

được sự định đoạt của mình nên pháp luật quy định chỉ khi có sự cho phép của
cha, mẹ hoặc người giám hộ người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám
tuổi mới có quyền lập di chúc. Vấn đề không có gì đáng nói và tưởng chừng
những quy định của pháp luật về vấn đề trên hoàn toàn hợp lý nếu không có sự
khác biệt giữa những quy định ấy với Luật Hôn nhân và Gia đình. Ta biết Điều
663 BLDS 2005 cho phép: “Vợ chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài
sản chung”. Trong khi điều kiện đầu tiên để nam nữ có thể kết hôn là yêu cầu về
độ tuổi “Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên” (Khoản 1
Điều 9, Luật Hôn nhân và Gia đình 2000). Ở đây ta thấy sự mâu thuẫn. Điều 18
BLDS 2005 quy định “Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên.
Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên”. Nếu người nữ qua tuổi
mười bảy (tức là chỉ cần một ngày sau sinh nhật của người ấy), bước sang tuổi
mười tám mà kết hôn thì theo Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 điều đó hoàn
toàn hợp pháp. Nhưng nếu sau khi kết hôn, người này cùng chồng thỏa thuận
thống nhất lập di chúc chung thì di chúc ấy có được pháp luật công nhận hay
không. Vì trong trường hợp này, người vợ không có đầy đủ năng lực hành vi
dân sự đề tự mình quyết định việc lập di chúc. Người vợ muốn lập di chúc thì
phải có sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ. Quy định như vậy có là hợp
lý vì người con gái sau khi “xuất giá” (“làm con nhà người”) muốn định đoạt tài
sản, ở đây lại là tài sản chung với người chồng của mình, lại phải xin ý kiến của
cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý hay không đồng ý. Nếu cha, mẹ hoặc người
giám hộ không đồng ý thì có phải là đã không đảm bảo quyền lập di chúc này
của người vợ. Nhưng nếu không quy định quyền lập di chúc của người vợ trong
trường hợp này thì cũng không là hợp lý, không đảm bảo yếu tố công bằng so
với những chủ thể khác. Vậy nếu người vợ cùng chồng thỏa thuận thống nhất
lập di chúc chung mà người vợ không xin ý kiến của cha, mẹ hoặc người giám
hộ; hoặc có xin ý kiến mà cha, mẹ hoặc người giám hộ không đồng ý nhưng
Pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực pháp luật di chúc chung của vợ chồng
24
Đồng Thị Thu Sa Khoá luận tốt

nghiệp
người vợ cùng chồng vẫn lập di chúc chung thì di chúc ấy có giá trị pháp lý, có
được pháp luật công nhận hay không?
Pháp luật không đề cập vấn đề này, phải chăng các nhà làm luật cho rằng:
Thứ nhất, những người từ mười tám tuổi đối với nữ mà kết hôn không phải là
nhiều, đặc biệt trong xã hội hiện đại; Thứ hai, các nhà làm luật đã loại trừ khả
năng vợ chồng mới cưới có khối tài sản chung nhất định để định đoạt những tài
sản ấy trong di chúc chung. Sự lý giải như vậy hoàn toàn không hợp lý. Không
phải vì ít xảy ra mà pháp luật lại không quy định. Mặt khác, không thể nói vợ
chồng mới cưới chưa thể có khối tài sản chung nhất định được. Vì có khả năng,
nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng đã lâu, đợi đến khi đủ tuổi họ mới
đăng ký kết hôn, chính thức trở thành vợ chồng trước pháp luật. Khối tài sản mà
họ đã có với nhau có thể được họ thỏa thuận làm tài sản chung. Hơn nữa, những
tài sản mà hai vợ chồng nhận được trong lễ cưới cũng không hẳn là không có giá
trị.
Thiết nghĩ, nam nữ khi đến tuổi kết hôn, tức là họ đã đạt được sự phát
triển nhất định về thể xác lẫn trí tuệ. Người con gái sau khi đi lấy chồng trở
thành người phụ nữ biết lo toan, thu vén mọi chuyện trong gia đình nhà chồng,
không còn sống cuộc sống phụ thuộc nhà mẹ đẻ và cũng không thể coi người vợ
trong trường hợp này không có đủ sự kiểm soát đối với sự định đoạt của mình
được nữa. Cho nên, không phải chuyện gì cũng phải có sự tham gia, đồng ý,
đóng góp của cha, mẹ hoặc người giám hộ. Trong trường hợp lập di chúc chung
này cũng vậy. Mặc dù pháp luật quy định người chưa thành niên muốn lập di
chúc phải có sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ. Nhưng thật phi lý khi
đây là di chúc chung mà người vợ muốn lập với người chồng của mình, định
đoạt những tài sản mà vợ chồng có trong đời sống chung. Vậy nên có thể coi
đây là trường hợp ngoại lệ của khoản 2 Điều 647 BLDS 2005.
Tiếp nữa, đây là một giao dịch pháp lý đơn phương được thực hiện bởi
hai chủ thể là vợ và chồng cùng thỏa thuận thống nhất lập di chúc chung. Điều
kiện cần thiết phải có đối với di chúc chung nữa là phải còn tồn tại tình trạng

Pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực pháp luật di chúc chung của vợ chồng
25

×