Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

TƯ TƯỞNG CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI. VẬN DỤNG VÀO QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, TU DƯỠNG, RÈN LUYỆN CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI HIỆN NAY?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.98 KB, 14 trang )

ĐỀ TÀI: TƯ TƯỞNG CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI. VẬN DỤNG VÀO
QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, TU DƯỠNG, RÈN LUYỆN CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG
ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI HIỆN NAY?
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI
1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người
1.2.Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trị của con người
1.3.Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng con người
1.3.1. Ý nghĩa của xây dựng con người
1.3.2. Nội dung xây dựng con người
1.3.3. Phương pháp xây dựng con người
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HCM VỀ CON NGƯỜI VÀO QUÁ TRÌNH
HỌC TẬP, TU DƯỠNG, RÈN LUYỆN CỦA SINH VIÊN ĐHTM
2.1.Thực trạng học tập, tu dưỡng, rèn luyện của sinh viên trường Đại học Thương
mại hiện nay
2.1.1. Thành tựu
2.1.2. Hạn chế
2.1.3. Nguyên nhân
2.2. Đề xuất giải pháp

NỘI DUNG


CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI
1.1 Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người
Chủ nghĩa Mác- Lênin chỉ rõ, “con người là một sinh vật xã hội”; “một chỉnh thể thống
nhất giữa yếu tố sinh vật và yếu tố xã hội”. Bằng lao động, con người biến đổi tự nhiên
và từng bước hình thành ý thức con người,ý thức đó dần dần thay thế bản năng, hay bản
năng đã được ý thức. Ở con người, cái sinh vật đã được cải tạo, nhưng không hề bị xóa
bỏ. Q trình “người hóa”là q trình diễn ra sự tương tác giữa yếu tố sinh vật và yếu tố
xã hội. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng quát thì “trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hịa những quan hệ xã hội”.


Tuyệt đối hóa mặt này, mặt kia đều bị bác bỏ. Mác phê phán những quan điểm tuyệt đối
hóa bản chất con người sinh vật dẫn tới chủ nghĩa tự do, lối sống thực dụng, nhấn mạnh
mặt bản năng, phủ nhận vai trò quyết định của yếu tố xã hội, tách con người khỏi những
quy luật xã hội, xa rời những vấn đề về tư tưởng, đạo đức, lối sống, kỷ cương, phép nước.
Ông cũng khơng chấp nhận tuyệt đối hóa con người xã hội, khơng thấy tính đa dạng,
chiều sâu tâm hồn con người, làm mất tính người.
Theo Hồ Chí Minh, con người là một chỉnh thể, thống nhất về trí lực, tâm lực, thể lực, đa
dạng bởi mối quan hệ giữa cá nhân, đa dạng bởi mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội
(quan hệ gia đình, dịng tộc, làng xã, quan hệ giai cấp, dân tộc…) và các mối quan hệ xã
hội (quan hệ chính trị, văn hóa, đạo đức, tơn giáo…). Trong mỗi con người đều có tính
tốt và tính xấu. Người giải thích “chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bạn
bè; nghĩa rộng là đồng bào cả nước; rộng hơn nữa là cả loài người”. Con người có tính xã
hội, là con người xã hội, thành viên của một cộng đồng xã hội.
Hồ Chí Minh, cũng cho ta những hiểu biết về yếu tố sinh vật của con người. Theo người,
“dân dĩ thực vi thiên”; “dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no,
mặc đủ”. Theo người, trong mọi đường lối, chủ trương, chính sách, nhiệm vụ phải thực
hiện ngay làm cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở, có học hành.
Trong thực tiễn, con người có nhiều chiều quan hệ: quan hệ với cộng đồng xã hội (là
thành viên); quan hệ với một chế độ xã hội (làm chủ hay bị áp bức); quan hệ với tự nhiên
(một bộ phận không tách rời).
Xa lạ với con người trừu tượng, phi nguồn gốc lịch sử, Hồ Chí Minh nhìn nhận con người
lịch sử - cụ thể về giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp, chức vụ, vị trí, đảng viên, cơng dân…,
trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Nét đặc sắc trong quan niệm của Hồ Chí Minh về con người là nhìn nhận đặc điểm của
con người với những điều kiện lịch sử cụ thể, với những cấu trúc kinh tế, xã hội cụ thể.
Cách tiếp cận này đi đến việc giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp rất sáng tạo,
không chỉ về mặt đường lối cách mạng mà cả về mặt con người.


1.2.Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trị của con người

Mặc dù Hồ Chí Minh khơng có tác phẩm nào bàn riêng về con người, nhưng trong hệ
thống tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề con người có một vị trí đặc biệt, được coi trọng như
mục tiêu thiêng liêng, cao cả của sự nghiệp cách mạng, nó thấm đượm và thường trực
trong toàn bộ cuộc đời hoạt động của Người, nó được tỏa sáng trong từng việc làm, cử
chỉ, hành vi ân cần, tôn trọng, quan tâm đến từng người và mọi người.
a. Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách
mạng.
Con người là chiến lược đầu tiên trong tư tưởng và hành động của Hồ Chí Minh. Mục
tiêu này được cụ thể hóa trong ba giai đoạn cách mạng
- Giải phóng dân tộc,
- Xây dựng chế độ dân chủ nhân dân,
- Tiến dần lên XHCN
Giải phóng dân tộc là xố bỏ ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc, giành lại độc lập cho
dân tộc, là đưa xã hội là đưa xã hội phát triển thành một xã hội không có chế độ người
bóc lột người, một xã hội có nền sản xuất phát triển cao và bền vững, văn hóa tiên tiến,
mọi người là chủ và làm chủ xã hội, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, một xã hội
văn minh, tiến bộ
Giải phóng giai cấp là sự xố bỏ sự áp bức bóc lột của giai cấp này với giai cấp khác; xố
bỏ sự bất cơng , bất bình đẳng xã hội ; xố bỏ nền tảng kinh tế- xã hội đẻ ra sự bóc lột
giai cấp, dần dần thủ tiêu sự khác biệt giai cấp. Con người trong giải phóng xã hội là các
giai cấp cần lao, trước hết là giai cấp công nhân và giai cấp nơng dân. Phạm vi thế giới là
giải phóng giai cấp vô sản và nhân dân lao động các nước.
Giải phóng con người là xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc lột, nơ dịch con người; xóa bỏ các
điều kiện xã hội làm tha hóa con người, làm cho mọi người được hưởng tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát huy khả năng sáng tạo, làm chủ xã hội, làm chủ tự nhiên và làm
chủ bản thân, phát triển toàn diện theo đúng bản chất tốt đẹp của con người
- Theo Hồ Chí Minh, “trong bầu trời khơng có gì q bằng nhân dân, trong thế giới
khơng có gì q bằng lực lượng đồn kết của nhân dân”. Vì vây, “vơ luận việc gì, đều do
người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả”. Người cho rằng; "Dễ trăm lần
không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”

=> Nhân dân là người sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần


- Dân ta là tài năng, trí tuệ và sáng tạo, họ biết “giải quyết nhiều vấn đề một cách giản
đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đồn thể to lớn, nghĩ mãi khơng
ra”
=> Người ln đặt niềm tin vững chắc với tinh thần quật cường và lực lượng vơ tận của
dân tộc ta, với lịng yêu nước và chí kiên quyết của nhân dân và quân đội ta.
- Nhân dân là yếu tố quyết định thành công của cách mạng
b. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng: phải coi trọng,
chăm sóc, phát huy nhân tố con người
Theo Hồ Chí Minh, con người là vốn quý nhất, động lực, nhân tố quyết định thành công
của sự nghiệp cách mạng. Người nhấn mạnh “mọi việc đều do người làm ra” Cách mạng
là sự nghiệp của quần chúng. Nhân dân là những người sáng tạo chân chính ra lịch sử
thơng qua các hoạt động thực tiễn cơ bản nhất như lao động sản xuất, đấu tranh chính trị xã hội, sáng tạo ra các giá trị văn hóa. Nói đến nhân dân là nói đến lực lượng, trí tuệ,
quyền hành, lịng tốt, niềm tin, đó chính là gốc, động lực cách mạng

- Vì sống gần dân, với dân, giữa lịng dân, hiểu rõ dân tình, dân tâm, dân ý, Hồ Chí Minh
thấy rõ yêu cầu giải phóng dân tộc, giải phóng con người, giải phóng lao động xã hội.
Nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng.
- Người xác định rõ trách nhiệm của Người cũng là của Đảng và Chính phủ là “làm sao
cho nước học hành”.
- Ở Hồ Chí Minh, có sự cảm nhận, thơng cảm sâu sắc với thân phận những người cùng
khổ và nô lệ lầm than, niềm tin vững chắc và trí tuệ, bản lĩnh của con người, ở khả năng
tự giải phóng của chính bản thân con người.
- “Nếu nước độc lập mà dân khơng hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì”
- Di chúc, Người viết: “Đầu tiên là công việc đối với con người”.
- Con người là mục tiêu của cách mạng nên mọi chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng, Chính phủ đều vì lợi ích chính đáng của con người. Có thể là lợi ích lâu dài, lợi ích

trước mắt; lợi ích cả dân tộc và lợi ích của bộ phận, giai cấp, tầng lớp và cá nhân.
- Hồ Chí Minh nhận rõ: “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con người
xã hội chủ nghĩa”, “có dân thì có tất cả”.


- Người cho rằng tin dân, học dân, tôn trọng dân, dựa vào dân sẽ tạo nên sức mạnh vô
địch. Bởi vì, sự nghiệp cách mạng giành độc lập dân tộc và xây dựng
1.3. Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng con người
1.3.1 Ý nghĩa xây dựng con người
Xây dựng con người là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, nó vừa mang tính
cấp thiết vừa mang tính lâu dài, có ý nghĩa chiến lược. Hồn thành xây dựng con người là
một trọng tâm, bộ phận hợp thành trong chiến lược xây dựng và phát triển đất nước, nó
cũng có quan hệ mật thiết đến nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
…Hồ Chí Minh nêu hai quan điểm nổi bật làm sáng tỏ sự cần thiết xây dựng con người:
Quan điểm thứ nhất: “Vì lợi ích trăm năm thì phải “trồng người”. “Trồng người” là
công việc lâu dài, gian khổ, vừa vì lợi ích trước mắt vừa vì lợi ích lâu dài, là cơng việc
của văn hóa giáo dục. “Trồng người” là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng, vừa đáp ứng
yêu cầu trước mắt, vừa chuẩn bị cho tương lai. “Trồng người” phải được tiến hành
thường xuyên trong suốt tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội và phải đạt được những kết quả
cụ thể trong từng giai đoạn cách mạng. Hồ Chí Minh quan niệm, “trồng người” là một
quá trình lâu dài, địi hỏi tính tích cực, tự giác, chủ động của mỗi cá nhân. Đảng, Nhà
nước, các đoàn thể, đơn vị, nhà trường, gia đình…đều có trách nhiệm chăm lo việc trồng
người. Đồng thời những người có trách nhiệm, việc “trồng người” cũng phải được vun
trồng bởi quần chúng nhân dân, vì những tập thể nhất định, cuộc sống thực tiễn có sự tác
động quan trọng đến sự tự tu dưỡng rèn luyện trong suốt cuộc đời của chính bản thân mỗi
người.
Quan điểm thứ hai: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì trước hết cần có những
con người xã hội chủ nghĩa.” Chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra những con người xã hội chủ
nghĩa, con người xã hội chủ nghĩa là động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội. CNXH là một
xã hội mới mang bản chất tốt đẹp có khả năng giải phóng con người triệt để nhất, tạo điều

kiện tốt nhất cho sự phát triển tồn diện cá nhân. Hồ Chí Minh nêu rõ: "CNXH là xã hội
ngày càng tiến tới vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt". Sáng tạo lớn của
Người là đề ra mục tiêu trước mắt của CNXH một cách thiết thực, cụ thể đáp ứng yêu cầu
nguyện vọng của nhân dân. Một khi tất cả các giá trị đó đã đạt được thì lồi người sẽ
vươn tới lý tưởng cao nhất, đó là “liên hiệp tự do của những người lao động” mà C.Mác
và Ph.Ăng ghen đã dự báo. Ở đó, cá tính con người được phát triển đầy đủ, năng lực con
người được phát huy cao nhất. Việc xây dựng con người xã hội chủ nghĩa được đặt ra
ngay từ đầu và phải được quan tâm trong suốt tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
“Trước hết cần phải có những con người xã hội chủ nghĩa”. Có nghĩa là khơng phải tất cả
mọi người phải và có thể trở thành người xã hội chủ nghĩa thật đầy đủ, thật hồn chỉnh
ngay một lúc, mà có nghĩa là, trước hết cần có những con người tiên tiến, có được những
nét tiêu biểu của người xã hội chủ nghĩa. Vì họ là những người đi đầu để có thể làm
gương và lơi cuốn người khác cũng như toàn xã hội xây dựng con người mới. Đồng thời,
họ cũng khơng ngừng được hồn thiện, được nâng cao.
Ngồi ra, tiêu chuẩn của con người xã hội chủ nghĩa được Hồ Chí Minh nêu lên nhiều
lần, có thể khái qt ở những điểm chính sau:


+ Có tư tưởng xã hội chủ nghĩa: có ý thức làm chủ, có tinh thần tập thể, có tư tưởng
mình vì mọi người, mọi người vì mình, có tinh thần dám nghĩ dám làm, dám chịu
trách nhiệm, quyết vươn lên hàng đầu, có tinh thần tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững
chắc lên chủ nghĩa xã hội.
+ Có đạo đức và lối sống xã hội chủ nghĩa: trung với nước, hiếu với dân, yêu thương
con người, cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Có tinh thần quốc tế trong sáng, có
lối sống lành mạnh, trong sáng.
+ Có tác phong xã hội chủ nghĩa: làm việc có kế hoạch, có biện pháp, có quyết tâm,
có tổ chức, có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất, chất lượng hiệu quả: lao động qn
mình, khơng sợ khó, sợ khổ, làm việc vì lợi ích của xã hội, tập thể và bản thân mình.
+ Có năng lực để làm chủ: bản thân, gia đình và cơng việc mình đảm nhiệm, đủ sức
khỏe và tư cách tham gia làm chủ nhà nước và xã hội, thực hiện có kết quả quyền

cơng dân: phải khơng ngừng nâng cao trình độ chính trị, văn hố, khoa học – công
nghệ, chuyên môn nghiệp vụ để làm chủ.
1.3.2 Nội dung xây dựng con người
Hồ Chí Minh quan tâm xây dựng con người toàn diện vừa “hồng” vừa “chun”. Đó là
những con người có mục đích và lối sống cao đẹp, có bản lĩnh chính trị vững vàng,
những con người của chủ nghĩa xã hội, có tư tưởng, tác phong và đạo đức xã hội chủ
nghĩa và năng lực làm chủ.
- Con người có ý thức làm chủ, tinh thần tập thể XHCN và tư tưởng “mình vì mọi người,
mọi người vì mình”:
 Nhà nước ta ngày nay là của tất cả những người lao động: Công nhân, nơng dân,
trí thức có quyền và có đủ điều kiện để tự tay mình xây dựng đời sống tự do, hạnh
phúc cho mình. Bởi vậy mọi người đều phải thấm nhuần sâu sắc tư tưởng “mình vì
mọi người, mọi người vì mình”.
 Con người phải từ bỏ chủ nghĩa cá nhân, sống có kỷ luật và ln đặt lợi ích của
tập thể lên trước: Người thẳng thừng phê phán: Chủ nghĩa cá nhân, lợi mình hại
người, tự do vơ tổ chức, vơ kỷ luật và những tính xấu khác là kẻ địch nguy hiểm
của chủ nghĩa xã hội. Mỗi người phải ra sức góp cơng, góp của để xây dựng nước
nhà. Ai cũng phải là một chiến sĩ dũng cảm phấn đấu xây dựng chủ nghĩa xã hội
với tinh thần tập thể XHCN.
 Cán bộ và Đảng viên phải gạt bỏ những thái độ sai lầm: Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: Cán bộ và đảng viên phải gạt bỏ những thái độ sai lầm như: Thỏa mãn
với thành tích bước đầu, bảo thủ, tự mãn với những kinh nghiệm đã có, có ít nhiều
tri thức thì kiêu căng, coi khinh quần chúng, hồi nghi những sáng kiến bình
thường của quần chúng; lười biếng, khơng tích cực học tập cái mới...,Phải nhớ
rằng: Mọi thành công là do sức phấn đấu, hy sinh của tồn Đảng, tồn dân, khơng
phải của một cá nhân anh hùng nào.

Con người phải cần kiệm xây dựng đất nước, hăng hái bảo vệ Tổ quốc: Hồ Chí
Minh đã luận giải về cần một cách sâu sắc và hệ thống: Người nêu định nghĩa ngắn gọn
“Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai”. Nói đến cần là nói



đến thái độ nghiêm túc trong công việc và hiệu quả do cần mang lại thì vơ cùng to lớn.
Nếu con người ta biết cần“thì việc gì, dù khó mấy cũng làm được”. Và để làm được điều
đó thì:
 Mỗi người phải tự giác giữ vững kỷ luật lao động.
 Thanh niên càng phải xung phong hăng hái thực hiện khẩu hiệu: “Đâu cần thanh
niên có, đâu khó thanh niên làm”.
 Cán bộ và đảng viên cần phải nâng cao tinh thần phụ trách, nêu gương “cần kiệm
liêm chính”, khơng xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân;
phải chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh là nguồn gốc sinh ra tham ơ, lãng phí. Trong
mọi cơng việc phải tính tốn, cân nhắc cẩn thận. “Thì giờ là vàng bạc”. Phải kiên
quyết chống thói hội họp lu bù, mất thì giờ, hại sức khỏe mà khơng kết quả thiết
thực.

Xây dựng con người có lịng u nước nồng nàn, tinh thần quốc tế trong sáng:
Dân tộc Việt Nam đã sớm hình thành lịng u nước trong lịch sử và có một nền văn hiến
lâu đời. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Dân ta có một lịng nồng nàn yêu nước. Đó là một
truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần
ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự
nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước. Lịch sử đã có
nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của dân tộc ta. Yêu nước là
thuộc tính chung của người Việt Nam, nhưng cùng với đó, con người phải có tinh thần
quốc tế trong sáng. Đó là sự tơn trọng, hiểu biết, thương u và đồn kết với giai cấp vơ
sản tồn thế giới, với các dân tộc bị áp bức, với tất cả các dân tộc và nhân dân các nước,
với những người tiến bộ trên toàn cầu, chống lại mọi sự chia rẽ, hằn thù, bất bình đẳng và
phân biệt chủng tộc; chống lại chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, biệt lập và chủ nghĩa bành
trướng bá quyền. Hồ Chí Minh nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, nhưng
ln ln kêu gọi phải tăng cường đồn kết và hợp tác quốc tế, đồng thời phải ra sức ủng
hộ và giúp đỡ đối với các cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hịa bình, độc lập dân

tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Xây dựng con người có phương pháp làm việc khoa học, phong cách quần chúng,
dân chủ, nêu gương: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ muốn hồn thành tốt nhiệm vụ
cần phải có phương pháp làm việc khoa học; việc lớn hay việc nhỏ đều phải được xem
xét, nghiên cứu tỉ mỉ, chính xác, xây dựng chương trình, nội dung, kế hoạch, biện pháp
sát thực và tổ chức hoạt động thực tiễn một cách khoa học. Bên cạnh đó, con người phải
có phong cách quần chúng, dân chủ, nêu gương. Phong cách quần chúng, phong cách dân
chủ và phong cách nêu gương trong tư tưởng và tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí
Minh thể hiện xuyên suốt mọi hành động trong cả cuộc đời cách mạng, phấn đấu hy sinh
vì Tổ quốc, vì nhân dân của vị lãnh tụ vĩ đại kính yêu của cách mạng và của dân tộc Việt
Nam. Do vậy, cần đẩy mạnh việc học tập và làm theo tác phong, phong cách Bác Hồ
cùng với học tập và làm theo tư tưởng và đạo đức của Bác.
1.3.3 Phương pháp xây dựng con người


Nêu gương, nhất là người đứng đầu, có ý nghĩa rất quan trọng: Mỗi người tự rèn
luyện, tu dưỡng ý thức, kết hợp chặt chẽ với xây dựng cơ chế, tính khoa học của bộ máy
và tạo dựng nền dân chủ. Việc nêu gương, nhất là người đứng đầu, có ý nghĩa rất quan
trọng. Hồ Chí Minh thường nói đến “tu thân, chính tâm” thì mới có thể “trị quốc, bình
thiên hạ”. Nêu gương phải thể hiện trong cả lời nói, việc làm và trách nhiệm. Lời nói,
việc làm của cán bộ cốt cán làm cho nhân dân tin, nhân dân phục, nhân dân yêu quý,
đoàn kết chặt chẽ chung quanh Đảng, tổ chức tuyên truyền và động viên quần chúng
hăng hái thực hiện chính sách của Đảng. Về trách nhiệm, vừa nêu cao tinh thần trách
nhiệm, vừa có sai lầm, khuyết điểm thì phải có dũng khí xung phong, nêu gương nhận
trách nhiệm về mình, khơng được đổ lỗi cho người này, người khác hoặc do khách
quan.Nêu gương là biểu hiện và gắn với tinh thần trách nhiệm - trách nhiệm nêu gương.
Là người đứng đầu mà không nêu gương là khơng có trách nhiệm với nhân dân, với Tổ
quốc, với chính bản thân mình; là khơng xứng đáng với vị trí lãnh đạo, đứng đầu. Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh thần trách nhiệm là đưa tinh thần và lực lượng, tận tâm, tận

lực làm cho đến nơi đến chốn, vượt mọi khó khăn, làm cho thành cơng, bất kỳ việc to hay
nhỏ, khó hay dễ. Tinh thần trách nhiệm là nắm vững chính sách, đi đúng đường lối quần
chúng, hoàn thành nhiệm vụ. Làm cẩu thả, làm cho có chuyện, dễ làm khó bỏ, đánh trống
bỏ dùi, gặp sao làm vậy… là khơng có tinh thần trách nhiệm, là khơng có ý thức nêu
gương.

Biện pháp giáo dục có một vị trí quan trọng trong xây dựng con người: Người đặc
biệt nhấn mạnh đến vai trò giáo dục của xã hội, nhất là với lớp người trẻ. Người cho rằng
để mỗi con người trở thành một người thiện, một cơng dân tốt, có ích cho xã hội thì sự
tác động của xã hội, đặc biệt là quá trình giáo dục có một ý nghĩa thật to lớn. Giáo dục là
q trình tồn vẹn hình thành nhân cách, được tổ chức có mục đích, có kế hoạch, thơng
qua hoạt động và quan hệ giữa nhà giáo dục và người được giáo dục nhằm chiếm lĩnh
kinh nghiệm xã hội của lồi người. Giáo dục là q trình tác động tới thế hệ trẻ về đạo
đức, tư tưởng, hành vi nhằm hình thành niềm tin, lý tưởng, động cơ, thái độ, hành vi, thói
quen ứng xử đúng đắn trong xã hội. Do đó, giáo dục được xem là yếu tố quan trọng nhất,
có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất và sâu sắc nhất. Cũng chính vì thế, Sainte Vremod cũng đã
từng nói: “Nếu được giáo dục chu đáo không con người nào khơng có cái tốt, cái tuyệt
hảo". Để thực hiện chiến lược xây dựng con người cần có nhiều biện pháp, nhưng giáo
dục và đào tạo là biện pháp quan trọng bậc nhất. Bởi vì, giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện,
đem lại tương lai tươi sáng cho thanh niên. Ngược lại, giáo dục tồi sẽ ảnh hưởng xấu đến
thanh niên, đến thế hệ trẻ của nước nhà.

Chú trọng vai trị của tổ chức Đảng, chính quyền, đồn thể quần chúng thông qua
các phong trào “Thi đua yêu nước”, “Người tốt việc tốt”: Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn
mạnh “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua, những người thi đua là những yêu
nước nhất”. Quan điểm ấy chính là động lực to lớn làm cho phong trào thi đua u nước
có sức mạnh tinh thần vơ cùng mạnh mẽ, tồn tại lâu dài, phát triển không ngừng, gắn liền
với sự phát triển của dân tộc. Quan điểm thi đua là yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh
được xây dựng trên nền tảng truyền thống của lịch sử văn hóa dân tộc Việt Nam, đó là
lịng yêu nước, ý chí quật cường của con người Việt Nam. Người đã lấy thi đua làm động

lực phát huy lòng yêu nước, qua phong trào thi đua bồi dưỡng, nâng cao lòng yêu nước,



làm cho lòng yêu nước thể hiện bằng những hành động cụ thể trong lao động sản xuất và
chiến đấu. Ngược lại, lấy lòng yêu nước thúc đẩy phong trào thi đua.
Để đạt được hiệu quả trong việc xây dựng con người Việt Nam với những phẩm chất tốt đẹp
thì việc phát động các phong trào “Thi đua yêu nước”, “Người tốt việc tốt” chính là một biện
pháp hiệu quả để cổ vũ, phát huy tài năng, sáng tạo, trí tuệ, sức mạnh của quần chúng; phát
huy nhân tố con người để tạo nên sức mạnh tổng hợp xây dựng và phát triển đất nước. Trong
giai đoạn hiện nay, giai đoạn đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế,
Đảng ta đã vận dụng rất tốt tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề xây dựng con người phát triển
tồn diện thơng qua các phong trào “Thi đua yêu nước”, “Người tốt việc tốt”. Cụ thể như
sau:
Tổ chức Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X, Thủ tướng Nguyễn Xuân
Phúc đã phát động phong trào thi đua yêu nước giai đoạn 2021-2025 với chủ đề
"Đoàn kết, sáng tạo, thi đua xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" và thay mặt Đảng đưa ra
lời kêu gọi “toàn Đảng, toàn dân toàn quân phát huy truyền thống yêu nước, sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, ra sức thi đua, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới"
 Qua phong trào xây dựng “người tốt việc tốt” đã xuất hiện các cá nhân tiêu biểu
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội: hiến đất làm đường, tham gia hiến máu
nhân đạo, giúp đỡ người nghèo...


Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng con người, Đảng đã thực hiện tốt
công tác lãnh đạo, chỉ đạo kháng chiến và cho đến nay làm rất tốt để công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, phát triển nền kinh tế quốc gia.
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HCM VỀ CON NGƯỜI VÀO QUÁ TRÌNH
HỌC TẬP, TU DƯỠNG, RÈN LUYỆN CỦA SINH VIÊN ĐHTM

2.1.Thực trạng học tập, tu dưỡng, rèn luyện của sinh viên trường Đại học Thương
mại hiện nay

2.1.1. Thành tựu
- Điểm nổi bật đầu tiên khi ta nghĩ về sinh viên trường Đại học Thương Mại, đó là
những con người năng động và sáng tạo. Là những người tiên phong trong mọi
công cuộc cải cách, đổi mới về kinh tế, giáo dục…Trong đầu họ luôn đầy ắp các ý
tưởng độc đáo và thú vị; và họ tận dụng mọi cơ hội để biến các ý tưởng ấy thành
hiện thực. Đã có nhiều sinh viên nhận được bằng phát minh, sáng chế, và khơng ít
trong số những phát minh ấy được áp dụng, được biến thành những sản phẩm hữu
ích trong thực tiễn.
- Sinh viên dám nghĩ , dám làm, dám chịu thử thách, dám nhìn thẳng vào thất bại
và vượt qua nó.


- Sinh viên đã kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng của Đảng. Phần lớn sinh
viên vẫn giữ được lối sống tình nghĩa, trong sạch; khiêm tốn, ln cần cù và sáng
tạo trong học tập; sống có bản lĩnh, có chí lập thân, lập nghiệp. Trên các lĩnh vực
của đời sống xã hội đã và đang xuất hiện những nhà quản lý, nhà doanh nghiệp,
nhà khoa học, nhà hoạt động nghệ thuật có đức, có tài trong độ tuổi thanh niên. Nét
nổi bật của sinh viên trường Đại học Thương Mại là ý chí vươn lên, tinh thần cần
cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, ham mê nghiên cứu và ứng dụng khoa học
cơng nghệ để thốt khỏi nghèo nàn, lạc hậu, làm giàu cho bản thân, gia đình và xã
hội.
- Trong học tập, sinh viên khơng ngừng tự đổi mới phương pháp học sao cho lượng
kiến thức họ thu được là tối đa (đọc sách, nghiên cứu,lấy thông tin, tài liệu từ nhiều
nguồn…)
- Nhiều sinh viên học tập tiếp thu phong cách của Hồ Chí Minh làm việc gọn gàng
hơn, có kế hoạch, khoa học sắp xếp cơng việc và học tập hợp lý. Ngồi ra nhiều
sinh viên còn học được sự diễn giải, diễn đạt các lời văn câu nói gọn gàng dễ hiểu

hơn. Đồng thời cịn học được tính lãnh đạo của Bác thơng qua các môn học, buổi
thảo luận trông nhà trường.
- Sinh viên cịn tiếp thu từ Bác đạo đức văn hóa cư xử văn minh, tôn trọng người
lớn , tham gia vào các hoạt động từ thiện giúp đỡ người khó khăn.
- Trong việc rèn luyện đạo đức qua lối sống, sinh hoạt hằng ngày, sinh viên trường
Đại học Thương Mại vẫn ln tích cực dành thời gian tìm hiểu tư tưởng, đạo đức,
phong cách và tấm gương Hồ Chí Minh, đồng thời tự soi mình, sửa mình và rèn
luyện, tạo được thói quen tốt cho bản thân, học tập và làm theo lời Bác dạy.
- Các sinh viên có tinh thần trách nhiệm, nỗ lực hết sức mình để hồn thành nhiệm
vụ, không tránh né, đùn đẩy nhiệm vụ qua cho hoàn cảnh hay người khác và sẵn
sàng nhận lỗi, gánh chịu hậu quả khi mình phạm lỗi, khơng hồn thành nhiệm vụ
được giao chứ khơng đổ thừa cho hồn cảnh hay cho người khác.
- Nhiều sinh viên luôn tham gia tích cực các phong trào của Đồn Thanh niên, Hội
Sinh viên của Đồn trường, của thành phố; ln phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện, đạt
danh hiệu"Sinh viên 5 tốt" với các tiêu chí: Đạo đức tốt, Học tập tốt, Thể lực tốt,
Tình nguyện tốt,Hội nhập tốt.
- Sinh viên trường ln chủ động học tập kiến thức, tích cực tu dưỡng đạo đức, rèn
luyện sức khỏe, có lối sống lành mạnh, khơng vướng vào tệ nạn xã hội, mê tín dị
đoan khơng lành mạnh, khơng nói dối thầy cơ và cha mẹ.
- Sinh viên không phá hoại của công, biết giữ gìn và bảo vệ mơi trường sống, cảnh
quan trường lớp.
2.1.2. Hạn chế


Ngoài những ưu điểm kể trên, trong thực tế việc học tập, tu dưỡng, rèn luyện của sinh
viên trường Đại học Thương Mại hiện nay còn một vài hạn chế như:
- Vẫn cịn có những sinh viên khơng có chí hướng rõ ràng, chưa hiểu biết đầy đủ truyền
thống cách mạng của Đảng, của dân tộc, ít quan tâm đến tình hình của đất nước, quốc tế.
Có những sinh viên “nhạt Đảng, phai Đồn, xa chính trị”, chịu tác động ảnh hưởng của
các hoạt động tuyên truyền xuyên tạc của các thế lực thù địch; tư tưởng còn bị dao động;

nhiều lúc cịn mơ hồ, thiếu kiên định, thiếu hồi bão, khơng tích cực tham gia các phong
trào và hoạt động xã hội.
- Ý chí, khát vọng vươn lên trong cơng việc, cuộc sống, tình u thương với q hương,
đất nước; kỹ năng sống; hoạt động thực tiễn; khả năng chịu đựng những khó khăn, vất vả
ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới của số ít sinh viên vẫn chưa nhiều, chủ yếu chọn nơi
sinh sống, làm việc có nhiều thuận lợi, điều kiện về cơ sở vật chất, kinh tế. Những sinh
viên này chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt, lợi ích cá nhân của mình. Họ tập trung vào
việc học tập chun mơn, sau đó, đi làm thêm, ít quan tâm tới các vấn đề xã hội, chính
trị; ít tham gia các phong trào, các hoạt động xã hội.
- Một số sinh viên thiếu tu dưỡng phấn đấu rèn luyện, học tập, sống buông thả, thờ ơ,
bàng quan với bản thân, gia đình và xã hội; thậm chí có nhiều bạn vi phạm pháp luật.
Trong đó, có những bạn cịn lười biếng trong học tập dẫn đến kết quả “nước đến chân
mới nhảy” hay học đối phó khi thi cử nên khơng có kiến thức áp dụng vào thực tế sau
này. Như vậy không những kết quả học tập thấp mà họ cịn đang lãng phí thời gian, công
sức và tiền bạc đã bỏ ra.
- Những sinh viên có lối sống hưởng thụ và tiêu xài hoang phí tiền bạc có thể dẫn đến
những hệ lụy như: ma túy, rượu bia, tệ nạn xã hội,...Việc sử dụng đồng tiền sai cách có
thể có những hành vi tiêu cực, sai trái trong học đường như gian lận trong thi cử, đút lót
để mua điểm, chạy điểm, thuê người thi hộ,.. Sinh viên có thái độ khơng đúng đắn đối với
lao động, sống dựa dẫm và không coi trọng đồng tiền.
- Một bộ phận sinh viên ngày nay ghen ghét sự tài giỏi của người khác mà dìm họ xuống
để giữ danh tiếng của bản thân có thể dẫn đến sự suy đồi đạo đức như: không làm mà
hưởng, trộm cắp, tham ơ.
- Một vài sinh viên có lối sống khơng lành mạnh, có quan niệm sai về tình bạn, tình u,
có thói nịnh hót người trên, khinh thường người dưới là đi trái với đạo đức xã hội. Họ
không cảm thông, chia sẻ, sẵn sàng giúp đỡ người khi gặp khó khăn, hoạn nạn, chỉ biết
tính tốn hơn thiệt của bản thân.
- Vẫn cịn tình trạng sinh viên đánh nhau, gây gổ. Bên cạnh đó, tình trạng sống thử và
quan hệ tình dục trước hơn nhân dễ dẫn đến tình trạng nạo phá thai vẫn diễn ra.
- Bị ảnh hưởng quá nhiều từ phim ảnh, tranh ảnh sách báo khơng có chọn lọc, cách sử

dụng mạng xã hội khơng đúng cách nên cách ăn mặc, đầu tóc, cư xử, suy nghĩ đều thể
hiện một cách thái quá, lố lăng, không phù hợp với thuần phong mỹ tục, quy định của
trường lớp.
- Tình trạng nói tục, chửi bậy vẫn diễn ra với tần suất khá nhiều. Nhiều lúc được
thầy cô nhắc nhở nhưng không biết rút kinh nghiệm. Một số bạn sinh viên nữ cịn bị tấn
cơng mạng xã hội, bị đe dọa tinh thần do nhiều lý do khác nhau.


2.1.3.Ngun nhân
Ngun nhân cịn có nhiều hạn chế trong việc vận dụng Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
của sinh viên hiện nay nói chung và sinh viên Trường Đại học Thương Mại nói riêng có
thể do nhiều nguyên nhân, nhưng một số ngun nhân chính có thể bao gồm:
 Nguyên nhân chủ quan
Sinh viên còn thiếu ý thức về tầm quan trọng của đạo đức: Một số sinh viên có thể
chưa thực sự hiểu rõ về tầm quan trọng của đạo đức trong cuộc sống và trong học tập. Họ
có thể cho rằng chỉ cần đạt được kết quả cao trong học tập là đủ, không cần quan tâm đến
những giá trị đạo đức.
Áp lực từ gia đình và xã hội: Một số sinh viên có thể đối mặt với áp lực từ gia đình hoặc
xã hội để đạt được thành tích cao trong học tập và làm việc. Điều này có thể dẫn đến việc
họ tập trung quá nhiều vào việc học tập và làm việc để đáp ứng các yêu cầu này mà quên
đi giá trị của đạo đức.
Thiếu kiến thức về đạo đức Hồ Chí Minh: Một số sinh viên có thể chưa có đầy đủ kiến
thức về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và những giá trị đạo đức mà Hồ Chí Minh muốn
truyền tải.

 Một số nguyên nhân khách quan có thể góp phần giải thích tại sao sinh viên hiện
nay chưa học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bao gồm:
Sự thay đổi trong giá trị văn hoá và giáo dục: Với sự phát triển của xã hội và cơng nghệ,
giá trị văn hố và giáo dục đã thay đổi nhiều so với thời kỳ trước. Điều này có thể dẫn
đến việc các sinh viên khơng nhận thức được giá trị của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh

trong thời đại hiện nay.
Áp lực từ cuộc sống hiện đại: Sinh viên hiện nay đối mặt với nhiều áp lực từ cuộc sống
hiện đại như áp lực học tập, việc làm, tài chính, mối quan hệ xã hội, sức khỏe v.v. Điều
này có thể khiến họ khó lịng tập trung và đặt sự ưu tiên cao nhất cho việc học tập và làm
theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Thiếu giáo dục đạo đức: Trong một số trường học, giáo dục đạo đức có thể khơng được
đưa vào chương trình giảng dạy một cách đầy đủ và sâu sắc. Điều này có thể khiến sinh
viên khơng hiểu rõ giá trị và tầm quan trọng của đạo đức trong cuộc sống và học tập.
Không đủ thời gian và tài nguyên: Một số sinh viên có thể phải đối mặt với việc khơng có
đủ thời gian và tài ngun để tìm hiểu và thực hành tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Điều
này có thể do áp lực học tập, cơng việc, hoặc hồn cảnh gia đình khó khăn.


Định hướng giáo dục: Trong một số trường học, định hướng giáo dục có thể khơng tập
trung đủ vào việc phát triển tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh mà tập trung nhiều vào kiến
thức chun mơn. Điều này có thể dẫn đến việc sinh viên không nhận thức được giá trị
của đạo đức và không thể áp dụng vào cuộc sống và học tập.
2.2. Giải pháp
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người có giá trị to lớn đối với dân tộc Việt Nam, là
chuẩn mực cho các thế hệ sau noi theo, đặc biệt là học sinh, sinh viên - những chủ nhân
tương lai của đất nước - phải thường xuyên học tập, tu dưỡng, rèn luyện để xây dựng đất
nước ngày càng phát triển sánh ngang với các cường quốc năm châu.
 Là một sinh viên trường Đại học Thương Mại, chúng ta cần phải kiên trì, tu
dưỡng, rèn luyện những phẩm chất sau:
 Yêu Tổ quốc, Yêu như thế nào? Yêu là phải làm sao cho Tổ quốc ta giàu
mạnh. Muốn cho Tổ quốc giàu mạnh thì phải ra sức học tập, lao động, thực
hành tiết kiệm.
 Yêu nhân dân: Mình phải hiểu rõ sinh hoạt của nhân dân biết nhân dân còn
cực khổ như thế nào, biết chia sẻ những lo lắng, những buồn vui, những công
tác nặng nhọc với nhân dân.

 Yêu chủ nghĩa xã hội: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với chủ nghĩa
xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một ấm no
thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm.
 Yêu lao động: Muốn thật thà yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã
hội thì phải yêu lao động, vì khơng có lao động thì chỉ là nói suông.
 Yêu khoa học và kỷ luật: Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải có khoa học
và kỷ luật.
 Giải pháp về giáo dục:
 Sinh viên không ngừng đổi mới phương pháp học tập từ việc đọc sách, xem
thời sự, nghiên cứu tài liệu trên các nguồn thông tin đại chúng đề thu được
lượng kiến thức tối đa cho việc học tập, rèn luyện, trau dồi, hoàn thiện bản
thân.
 Mỗi sinh viên cần nỗ lực học tập, rèn luyện bản thân, nâng cao tinh thần trách
nhiệm của sinh viên đối với việc học của mình.
 Khơng gian lận trong thi cử, khơng học hộ, thi hộ, làm trịn trách nhiệm của
người con ngoan, trò giỏi.
 Mỗi sinh viên hãy chấp hành nghiêm túc nội quy của trường lớp, tôn trọng
nguyên tắc, kỷ cương của nhà trường.
 Mỗi sinh viên cần tích cực vận dụng kiến thức học được từ thầy cô áp dụng
vào cuộc sống hàng ngày, công việc sau này.
 Khuyến khích các bạn sinh viên chủ động dành thời gian tìm hiểu về tư tưởng
Hồ Chí Minh, học tập và làm theo tấm gương của Bác vào trong cuộc sống
hàng ngày.
 Giải pháp về tuyên truyền:


 Tuyên truyền các tấm gương “Người tốt việc tốt” để hành động này được
nhận rộng ra đối với mỗi con người trong việc giáo dục lẫn nhau trở thành
người tốt, có ích cho xã hội.
 Các bạn sinh viên nên tích cực, chủ động, hưởng ứng, tuyên truyền tham gia

các cuộc thi tìm hiểu về Bác như: “Bác Hồ trong trái tim tôi”, “Noi theo
gương sáng Bác Hồ”, ….
 Các cuộc thi, phong trào, hoạt động của Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên của
Khoa, Trường cần có sự sáng tạo thêm về hình thức và cách thức tổ chức,
tránh lặp lại quá nhiều để tạo sự hứng thú cho các bạn sinh viên.
 Mỗi bạn trẻ phải có tình yêu quê hương, đất nước, đoàn kết, tương thân tương
ái, chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau trong mối quan hệ giữa con người với con
người.
 Tránh xa các tai tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan như: ma túy, mại dâm, tham gia
vào Hội thánh Đức Chúa trời,...cần được bài trừ trong học đường.
 Giải pháp về phát huy tính tích cực, tự giác của sinh viên
 Mỗi sinh viên cần chủ động, tích cực, tiếp thu kiến thức, có tinh thần tự học,
tìm tịi trao đổi, chia sẻ với các thầy cơ dạy bộ mơn để tìm ra phương pháp
học tập hiệu quả. Vì việc học phải từ tự giác thì mới có thể hiểu rõ, hiểu sâu
và vận dụng một cách hợp lý từ những phẩm chất của Người để mỗi sinh viên
học tập và làm theo lời Bác dạy.
 Mỗi sinh viên cần phải năng động, tích cực, chủ động động tham gia các hoạt
động ngoại khóa, các phong trào của Đồn Thanh niên, Hội Sinh viên của
Khoa, Trường, của thành phố.
 Hãy sống có lí tưởng, có ước mơ hồi bão, khơng dựa dẫm, ỷ lại vào người
khác; rèn luyện ý chí, bản lĩnh vượt qua khó khăn, thử thách; sống có trách
nhiệm và làm chủ cuộc sống của mình.



×