Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Nguyên tắc ngân sách thăng bằng ? Phân tích các quy định trong Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 để chứng minh nguyên tắc ngân sách thăng bằng được thể hiện trong Luật Ngân sách nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.73 KB, 14 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU.................................................................................................................................................1
NỘI DUNG.............................................................................................................................................1
1.

2.

3.

Khái niệm ngân sách nhà nước và các nguyên tắc cơ bản của ngân sách nhà nước.......1
1.1.

Khái niệm ngân sách nhà nước.........................................................................................1

1.2.

Các nguyên tắc cơ bản của ngân sách nhà nước..............................................................3

Nguyên tắc thăng bằng của ngân sách nhà nước..................................................................4
2.1.

Khái niệm nguyên tắc thăng bằng....................................................................................4

2.2.

Cơ sở của nguyên tắc thăng bằng.....................................................................................4

2.3.

Biểu hiện của nguyên tắc thăng bằng trong Luật Ngân sách nhà nước năm 2015...........6



2.3.1.

Quy định chung về nguyên tắc thăng bằng trong Luật Ngân sách nhà nước 2015...6

2.3.2.

Quy định về nguyên tắc thăng bằng khi lập dự toán ngân sách................................8

2.3.3.

Quy định về nguyên tắc thăng bằng trong hoạt động chấp hành ngân sách...........10

2.3.4.

Quy định về nguyên tắc thăng bằng trong một số hoạt động khác.........................11

Ý nghĩa của nguyên tắc thăng bằng của ngân sách nhà nước...........................................11

KẾT LUẬN..........................................................................................................................................12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................13


MỞ ĐẦU
Ngân sách nhà nước (NSNN) giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống tài chính và có vai trị
quyết định sự phát triển của nền KT-XH. Vai trò của Ngân sách nhà nước được xác lập trên cơ sở
chức năng và nhiệm vụ cụ thể trong từng giai đoạn cụ thể. Phát huy vai trò của Ngân sách nhà
nước như thế nào là thước đo đánh giá hiệu quả điều hành, lãnh đạo của Nhà nước. Để có thể quản
lý và sử dụng hiệu quả ngân sách nhà nước đòi hỏi phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định.
Trong đó cân đối ngân sách nhà nước Trên cơ cơ phạm vi kiến thức đã học và tìm hiểu, em xin

triển khai đề bài: “ Nguyên tắc ngân sách thăng bằng được hiểu như thế nào? Phân tích các
quy định trong Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 để chứng minh nguyên tắc ngân sách
thăng bằng được thể hiện trong Luật Ngân sách nhà nước”
NỘI DUNG
Nội dung bài làm được triển khai theo hướng trình bày khái quát các nội dung kiến thức về
khái niệm ngân sách nhà nước và các nguyên tắc cơ bản của ngân sách nhà nước. Trong đó trình
bày cụ thể về khái niệm ngun tắc thăng bằng và chứng minh biểu hiện của nguyên tắc này thông
qua các quy định của Luật Ngân sách nhà nước năm 2015. Trên cơ sở đó nêu lên ý nghĩa của
nguyên tắc thăng bằng trong quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước.
1. Khái niệm ngân sách nhà nước và các nguyên tắc cơ bản của ngân sách nhà nước
1.1.

Khái niệm ngân sách nhà nước

Định nghĩa ngân sách nhà nước được tiếp cận dưới hai phương diện là phương diện kinh tế
và phương diện pháp lý.
Về phương diện kinh tế: Ngân sách nhà nước được hiểu là bản dự toán các khoản thu và
chi tiền tệ của một quốc gia, được cơ quan có thẩm quyền của nhà nước quyết định để thực hiện
trong thời hạn nhất định, thường là một năm. Theo thơng lệ, bản dự tốn ngân sách nhà nước hàng
năm sẽ được soạn thảo bởi một cơ quan cơng quyền, vừa có năng lực, vừa chuyên trách là bộ tài
chính hay bộ ngân khố, sau đó mới được chính phủ đệ trình lên cho quốc hội biểu quyết hoặc phê
chuẩn để chuyển giao lại cho chính phủ tổ chức thi hành trên thực tế. Mỗi dự toán ngân sách nhà
nước chỉ được dùng cho một năm và phải được thiết kế, xây dựng phù hợp với tình hình kinh tế,
chính trị, xã hội của năm đó nên địi hỏi cả hai phần chi và thu phải hết sức chi tiết, khách quan,
khoa học, chính xác trên cơ sở thu thập và xử lý tốt các thông tin trên các lĩnh vực.
Về phương diện pháp lý: Định nghĩa ngân sách nhà nước dưới phương diện này hàm chứa
nhiều nội dung pháp lý quan trọng như mối tương quan quyền lực giữa cơ quan lập pháp và cơ
quan hành pháp trong việc thiết lập và thi hành ngân sách; thủ tục soạn thảo, quyết định, ban hành
ngân sách cũng như sự phân chia giữa quyền lập páp và quyền hành pháp trong sựu kiểm sốt q
trình ngân sách. Cụ thể, trong pháp luật Việt Nam, khái niệm ngân sách được đề cập tại khoản 4

Điều 4 Luật NSNN năm 2015 như sau : “ Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của

1


Nhà nước được dự toán và thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định do cơ quan nhà nước
có thẩm quyền quyết định để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.”
Định nghĩa này có sự khác biệt so với cách tiếp cận ở phương diện kinh tế đó là : thứ nhất, ngân
sách nhà nước là đạo luật được cơ quan lập pháp lập ra theo một trình tự riêng, khơng hồn tồn
giống với trình tự lập pháp thơng thường; thư hai, hiệu lực về thời gian của đạo luật ngân sách bao
giờ cũng được xác định rõ là một năm, trong khi hiệu lực của các đạo luật thông thường là vô thời
hạn. thuộc tính này khiến cho ngân sách nhà nước được gọi là đạo luật ngân sách thường niên để
phân biệt với một đạo luật ngân sách khác đó là Luật NSSN năm 2015. Tuy nhiên cũng cần hiểu
rằng, đạo luật ngân sách thường niên khơng có nghĩa là bản dự toán các khoản thu chi tiền tệ quốc
gia đã được Quốc hội biểu quyết thơng qua mà cịn bao gồm cả văn bản nghị quyết của Quốc hội
về việc ban hành bản dự tốn ngân sách đó.
Trên cơ sở các định nghĩa trên, có thể hình dung ngân sách nhà nước có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, ngân sách nhà nước là một kế hoạch tài chính khổng lồ cần được quốc hội biểu
quyêt thông qua trước khi được thi hành. Việc thiết lập ngân sách nà nước không chỉ là kỹ thuật
nghiệp vụ kinh tế mà còn là vấn đề mang tính kỹ thuật pháp lý. Do ngân sách nhà nước bắt buộc
phải được quốc hội thông qua với kỹ thuật pháp lý nên khác hẳn với các loại ngân sách khác (ngân
sách gia đình, ngân sách của các tổ chức kinh tế- chính trị- xã hội, …). Sự khác biệt thể hiện ngân
sách nhà nước vừa phản ánh các hành vi kinh tế( lập trù khoản thu, chi sẽ thực hiện trong tương
lai) vừa thể hiện hành vi pháp lý của các chủ thể có chủ quyền (cơ quan hành pháp có trách nhiệm
lập dự tốn ngân sách và cơ quan lập pháp có thẩm quyền quyết định bản dự tốn ngân sách đó).
Trong khi đó các ngân sách của các chủ thể khác chỉ phản ánh các hành vi thuần túy kinh tế ( mang
tính chất kỹ thuật tài chính) như lập dự trù kế hoạch thu chi tiền tệ mà khơng phải đệ trình cho
một cơ quan nào phê chuẩn trước khi đem ra thực hiện.
Thứ hai, ngân sách nhà nước không phải là một bản kế hoạch tài chính thuần túy là là một
đạo luật. Theo thơng lệ, khi bản dự tốn ngân sách nhà nước đã được soạn thảo bởi cơ quan hành

pháp nó sẽ được chuyển sang cơ quan lập pháp xem xét quyết định và ban bố dưới một hình thức
pháp luật để thi hành. Qúa trình luật hóa bản dự tốn ngân sách nhà nước thể hiện sự khác biệt về
phương diện pháp lý của ngân sách nhà nước so với các loại ngân sách của các chủ thể khác. Sở dĩ
có sự khác biệt này là vì ngân sách hà nước có vai trị, vị trí vơ cùng quan trọng đối với sự pahts
triển kinh tế, ổn định chính trị, xã hội của một đất nước nên phải đảm bảo cho ngân sách nhà nước
có hiệu lực như một đạo luật. Việc chuyển hóa bản dự tốn ngân sách nhà nước thành đạo luật
chẳng những giúp quốc hội kiểm soát được chính phủ trong qua trình thu, chi ngân sách nhà nước
nhằm đảm bảo quyền lợi cho toàn quyền lợi của nhân dân mà còn làm cho bản kê hoạch tài chính
quan trong bậc nhất này có thể được thực hiện rõ ràng hơn trong thực tế vì nó được đảm bảo thực
hiện như một đạo luật.
Thứ ba, ngân sách nhà nước là kế hoạch tài chính của tồn quốc gia, được giao cho chính
phủ tổ chức thực hiện và phải đặt dưới sự kiểm soát của quốc hội. Việc thiết lập quyền giám sát
của quốc hội đối với việc thi hành ngân sách nhà nước của chính phủ đã trở thành nguyên tăc hiến
2


định, thực chất là nhằm kiểm soát nguy cơ lạm quyền của cơ quan hành pháp trong qúa trình thực
thi ngân sách nhà nước. Sự kiểm soát thường xuyên của quốc hội đối với chính phủ trong lĩnh vực
này là phương pháp đề cao tính dân chủ, cơng khai minh bach trong hoạt động tài chính nhà nước,
góp phần quản trị tốt nền tài chính cơng trong đó dân chúng đóng vai trị qut định. Đây chính la
một đặc điểm phân biệt giữa ngân sách nhà nước với ngân sách của của các chủ thể khác như ngân
sách của các tổ chức kinh tế, xã hội, ngân sách cá nhân, ngân sách hộ gia đình. Sự khác biệt này
thể hiện ở chỗ việc thiết lập ngân sách nhà nước rất cần có sự kiểm sốt của dân chúng với mục
đích nhằm bảo vệ lợi ích chung, trong khi đó các loại ngân sách của các chủ thể khác thì nhà nước
cần phải để cho chủ thể đó tự quyết định và chịu trách nhiệm về các hậu quả xảy ra trong quá trình
xây dựng trong quá trình xây dựng và thực hiện đảm bảo nguyên tắc tự định đoạt của các chủ thể
đó
Thứ tư, ngân sách nhà nước được thiết lập hồn tồn vì mục tiêu là mưu cầu lợi ích chung
cho tồn thể quốc gia khơng phân biệt người thụ hưởng lợi ích đó là ai, thuộc thành phần kinh tế
nào hay đẳng cấp xã hội nào. Lợi ích chung là yếu tố ảnh hưởng và mang tính quyết định tới việc

tiến hành các nghiệp vụ tài chính của chính phải mà ở đó chính phủ ln tìm cách thảo mãn tối đa
các nhiệm vụ chi, tiêu đã hoạch định và được cho phep thực hiện bởi quốc hội. Đơi khi, vì mục
tiêu thỏa mãn lợi ích chung của tồn quốc gia mà chính phủ phải tiến hành nhiệm vụ chi khơng
chắc chắn đem lại một lợi ích cụ thể cho riêng mình, ví dụ như việc trợ cấp cho nhân dân các vùng
bị thiên tai, dịch bệnh, địch họa hay việc tài trợ cho các doanh nghiệp trong nước bằng biện pháp
trợ giá nhằm mục đích phục hồi một ngành sản xuất quan trọng nào đó của đất nước. Đặc điểm
cũng khiến cho ngân sách nhà nước khác biệt với các loại ngân sách của các chủ thể khác, bởi lẽ
ngân sách của các chủ thể này liên quan trực tiếp tới lợi ích của họ và bao giờ cũng được thiết lập
nhằm mục đích phục vụ cho những lợi ích cụ thể của họ. Suy cho cùng điểm khác biệt được thể
hiện ở chỗ: nếu một khoản chi nào đó khơng đem lại một lợi ích kinh tế cụ thể nào đó cho tư nhân
thì họ sẽ không bao giờ thực hiện và không bắt buộc phải thực hiện, cịn chính phủ vì mưu cầu lợi
ích chung nên có thể phải thực hiện những khoản chi rõ ràng khơng đem lại lợi ích kinh tế cho
mình.
Thứ năm, ngân sách nhà nước luôn phản ánh mối tương quan giữa quyền lập pháp và
quyền hành pháp trong quá trình xây dựng và thực hiện ngân sách nhà nước. Mối tương quan này
thường nghiêng về phía cơ quan lập pháp bởi lẽ vai trò áp đảo của cơ quan lập pháp so với cơ
quan hành pháp trong lĩnh vực ngân sách nhà nước đã được ghi nhận trong Hiến pháp và đạo luật
ngân sách nhà nước của mỗi quốc gia như một nguyên tắc cơ bản của nền tài chính công hiện đại.
Tuy nhiên trong thực tiễn, đôi khi sự giảm sút vai trò của cơ quan lập pháp trong thời điểm nào đó
sẽ khiến cho mối tương quan quyền lực này có xu hướng nghiêng về phía cơ quan lập pháp. Trong
trường hợp đó, nếu cơ quan hành pháp không biết kiềm chế làm tốt bổn phận thừa hành thì có thể
khiến cho nền quản trị tài chính cơng trở nên kém dân chủ và thiếu minh bạch.
1.2.

Các nguyên tắc cơ bản của ngân sách nhà nước

Nguyên tắc cơ bản của ngân sách nhà nước được hiểu là những ngun lý, tư tưởng chủ
đạo có tính then chốt, xuất phát điểm, làm cơ sở cho tồn bộ q trình xây dựng và thực hiện ngân
3



sách nhà nước. Theo quan niệm cổ điển về ngân sách, thể chế ngân sách trong mỗi quốc gia được
thiết lập và vận hành theo bốn nguyên tắc cơ bản là:
- Nguyên tắc nhất niên;
- Nguyên tắc ngân sách đơn nhất;
- Nguyên tăc toàn diện;
- Nguyên tắc thăng bằng;
- Nguyên tắc công khai, minh bạch.
Ngày nay hầu hết các nguyên tăc này vẫn được giới học giả đương thời thừa nhận như một
quan điểm khoa học có tính lịch sử và đi xa hơn. Đối với Việt Nam, quá trình xây dựng và thực
hiện ngân sách nhà nước cũng tuân thủ theo các nguyên tắc cơ bản này.
2.

Nguyên tắc thăng bằng của ngân sách nhà nước
2.1.

Khái niệm nguyên tắc thăng bằng

Nguyên tắc ngân sách thăng bằng xuất hiện khá sớm trong lịch sử nền tài chính cơng ở
nhiều quốc gia trên thế giới. Sự thăng bằng ngân sách là một ý niệm kế toán nhiều hơn là ý niệm
kinh tế hay pháp lý. Theo nguyên tăc này, tất cả các khoản chi trong tài khoản ngân sách đều phải
cân bằng với tất cả các khoản thu trong tài khoản ngân sách. Nói cách khác, tổng số thu phải cân
bằng với tổng số chi trong năm ngân sách. Có thể hiểu một cách đơn giản nguyên tắc thăng bằng
ngân sách nhà nước chính là làm cho ngân sách nhà nước có sự cân đối.
Xét về bản chất, cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước là cân đối giữa các nguồn thu mà
Nhà nước huy động được tập trung vào ngân sách nhà nước trong một năm và sự phân phối, sử
dụng nguồn thu đó thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước trong năm đó; Xét về góc độ tổng thể,
cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước phản ánh mối tương quan giữa hoạt động thu và hoạt
động chi trong một tài khóa. Nó khơng chỉ là sự tương quan giữa tổng thu và tổng chi mà còn thể
hiện sự phân bổ hợp lý giữa cơ cấu các khoản thu và cơ cấu các khoản chi của ngân sách nhà nước

do các cơ quan có thẩm quyền thực hiện; Xét trên phương diện phân cấp quản lý nhà nước, cân đối
trong hoạt động ngân sách nhà nước là cân đối về phân bổ và chuyển giao nguồn thu giữa các cấp
ngân sách, giữa trung ương và địa phương và giữa các địa phương với nhau để thực hiện chức
năng và nhiệm vụ được giao.Tựu trung lại ta có thể hiểu: Thăng bằng ngân sách hay chính là cân
đối trong hoạt động ngân sách nhà nước là một bộ phận quan trọng của chính sách tài khóa, phản
ánh sự điều chỉnh mối quan hệ tương tác giữa hoạt động thu và hoạt động chi ngân sách nhà nước
nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội mà Nhà nước đã đề ra trong từng lĩnh vực và địa bàn
cụ thể1
2. 2. Cơ sở của nguyên tắc thăng bằng
1 Quách Hồng Thơ. Giáo viên hướng dẫn: Lê Huỳnh Phương Chinh, Cân đối ngân sách nhà nước – thực trạng và
hướng hoàn thiện, Luân văn Thạc sĩ, năm 2013, />
4


Trên thực tế, quá trình thu, chi ngân sách nhà nước luôn trong trạng thái biến đổi không
ngừng và bị ảnh hưởng bởi nền kinh tế quốc gia, khi có những khoản thu dự kiến không đủ đáp
ứng cho nhu cầu chi trong năm đó, hoặc có thể mức thu lại vượt xa những khoản chi. Do vậy, các
khoản chi tiêu và thu ngân sách nhà nước phải được tính tốn chính xác và phù hợp với thực tế để
đảm bảo cho ngân sách nhà nước trong trạng thái cân bằng, ổn định. Thu và chi ngân sách là hai
vấn đề quan trọng để đảm bảo cho ngân sách nhà nước được cân đối, hai vấn đề này lại nằm trong
mối tương quan giữa tài chính và kinh tế, vì kinh tế có phát triển thì Nhà nước mới huy động được
nguồn thu vào ngân sách nhà nước còn kinh tế khơng ổn định, kém phát triển thì nguồn thu vào
ngân sách nhà nước giảm và còn phải chi nhiều để hổ trợ. Điều đó dễ dẫn đến ngân sách nhà nước
bị mất sự thăng bằng. Do đó, việc quy định nguyên tắc thằng bằng xuất phát từ:
Thứ nhất, xuất phát từ yêu cầu đảm bảo cho cho các mục tiêu kinh tế- xã hội của đất nước
được thực hiện đến cùng. Ngân sách nhà nước có nguồn thu từ các nguồn khác nhau và hoạt động
chi ngân sách do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện nhằm hoàn thành các nhiệm vụ, mục
tiêu đặt ra trước nhà nước, trước đất nước để làm ổn định và phát triển kinh tế- xã hội. Do vậy, để
thực hiện tốt và đến cùng các mục tiêu kinh tế- xã hội mà nhà nước đã đặt ra thì nguồn tài chính,
tiền tệ của đất nước phải ổn định, cân đối, trong đó các nhiệm vụ chi khơng được vượt q khả

năng các nguồn thu mà phải ở trong trạng thái cân bằng hoặc thấp hơn các nguồn thu để tránh tình
trạng thâm hụt ngân sách, kiệt quệ tài chính. Nếu như các nhiệm vụ chi luôn cao hơn khả năng thu
của đất nước thì điều tất yếu là sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến việc thực hiện các mục tiêu khác nhau
của các lĩnh vực khác nhau của đất nước mà cần phải có nguồn tài chính để điều chỉnh. Ngược lại,
nếu chúng ta luôn đạt được bội thu ngân sách thì tất cả các mục tiêu của đất nước sẽ ln được
hồn thành mà khơng một mục tiêu nào khơng được thực hiện đến cùng.
Thứ hai, xuất phát từ chủ trương ổn định hệ thống chính sách tài khóa tiến tới ổn định việc
tiến hành những công việc đã đề ra theo kế hoạch. Điều này có nghĩa là, khi đề ra những chủ
trương, kế hoạch cho công việc cụ thể phải tiến hành của đất nước nhằm phục vụ cho nhu cầu nào
đó thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã dự trù được nguồn kinh phí cho việc tiến hành cơng
việc đó và nguồn kinh phí đó đủ để thực hiện các cơng việc đó mà trong q trình tiến hành khơng
phải bổ sung hay lấy nguồn kinh phí đầu tư cho các cơng việc khác để bù đắp vào công việc đang
thực hiện hay công việc đang thực hiện lại phải dừng lại vì nguồn kinh phí đã khơng cịn. Như vậy,
việc ổn định nguồn ngân sách sẽ là điều kiện cho việc tiến hành công việc cụ thể được triệt để,
giúp cho nguồn ngân sách không bị xáo trộn do những nguồn thu đáp ứng đủ nhiệm vụ chi.
Thứ ba, xuất phát từ yêu cầu đấu tranh phịng, chống tham ơ, tham nhũng, lạm quyền. Bởi
lẽ những nguồn thu và nhiệm vụ chi được lên kế hoạch cụ thể, có nghĩa là nguồn thu này được
phân bổ bao nhiêu cho nhiệm vụ chi cụ thể thì bắt buộc cơ quan có thẩm quyền thu, người có
nghĩa vụ nộp vào ngân sách nhà nước những khoản thuế theo quy định của pháp luật và những cơ
quan, đơn vị tiếp nhận việc phân bổ nguồn ngân sách để trực tiếp thực hiện các công việc được
giao phải làm đúng những định hướng, kế hoạch mà cơ quan cấp trên đã đề ra để đảm bảo cho
công việc được hoàn thành mà ngân sách nhà nước lại vẫn ổn định, không bị xáo trộn. Những
5


nguồn thu và nhiệm vụ chi có sự ăn khớp, cân bằng với nhau bởi những kế hoạch mà không thể có
sự gian dối, làm sai lệch những con số đó khi thực hiện thu và thực hiện chi ngân sách.
2.3. Biểu hiện của nguyên tắc thăng bằng trong Luật Ngân sách nhà nước năm 2015
Nguyên tắc thăng bằng là một nguyên tăc cơ bản của ngân sách nhà nước, do đó bên cạnh
những quy định chung thì ngun tắc này được thể hiện xuyên suốt trong các chu trình của ngân

sách nhà nước
2.3.1.

Quy định chung về nguyên tắc thăng bằng trong Luật Ngân sách nhà nước 2015

Những quy định chung về nguyên tắc thăng bằng được thể hiện trong Điều 7 của Luật
NSNN 2015, theo đó nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước bao gồm những nội
dung sau đây:
Thứ nhất ,thống nhất tổng hợp một cách đầy đủ, cân đối ngân sách từ các khoản thu từ thuế,
phí, lệ phí và các khoản thu khác; việc ban hành các chính sách thu ngân sách phải bảo đảm cân đối
ngân sách trong trung hạn, dài hạn và thực hiện các cam kết quốc tế. Cụ thể, khoản 1 Điều 7 Luật
NSNN 2015 quy định:“ Các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác theo quy định của
pháp luật được tổng hợp đầy đủ vào cân đối ngân sách nhà nước, theo nguyên tắc không gắn với
nhiệm vụ chi cụ thể. Trường hợp có khoản thu cần gắn với nhiệm vụ chi cụ thể theo quy định của
pháp luật thì được bố trí tương ứng từ các khoản thu này trong dự toán chi ngân sách để thực
hiện. Việc ban hành chính sách thu ngân sách phải bảo đảm nguyên tắc cân đối ngân sách trong
trung hạn, dài hạn và thực hiện các cam kết về hội nhập quốc tế.”Thuế, phí và lệ phí là các nguồn
thu cơ bản và đóng vai trị quan trọng trong ngân sách nhà nước, để có thể thực hiện các nhiệm vụ chi
cho các lĩnh vực thì đảm bảo cân bằng trong hoạt động thu các loại thuế, phí và lệ phí là điều cần thiết.
Quy định trên đã nêu ra một nguyên tắc thống nhất cho tồn bộ q trình của ngân sách nhà nước.
Thứ hai, các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xun và góp
phần tích lũy ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển, trường hợp cịn bội chi thì số bội chi phải
nhỏ hơn chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách. Nội dung này của nguyên tắc
cân đối đã phân định ranh giới giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên, thể hiện sự thận
trọng trong chính sách tài khóa của Việt Nam. Theo đó, các khoản thu thường xuyên được sử dụng
để trang trải chi thường xuyên và một phần thu thường xuyên cùng với thu bù đắp được sử dụng để
chi đầu tư phát triển, trong đó chi đầu tư phát triển được chú trọng hơn vì nó có thể làm tăng khả
năng thu hồi vốn cho ngân sách nhà nước nhưng phải đảm bảo được sự cân đối giữa chi đầu tư
phát triển và chi thường xuyên, bởi lẽ giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau trong chi tiêu
công của Nhà nước. Chi đầu tư phát triển là hoạt động cần thiết đối với sự phát triển kinh tế, xã hội

của một quốc gia, nó tạo ra những điều kiện cở sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho nền kinh tế, cũng
từ đó kéo theo sự phát triển của nhiều lĩnh vực khác và đảm bảo các vấn đề xã hội của đất nước,
giúp nhà nước thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình. Vì vậy, chi đầu tư phát triển là vấn
đề được Nhà nước ưu tiên trong xây dựng nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước.
6


Thứ ba, bội chi ngân sách nhà nước được bù đắp bằng nguồn và chỉ sử dụng cho đầu tư
phát triển, không sử dụng cho chi thường xuyên(khoản 3 Điều 7). Trong đó:
* Bội chi ngân sách trung ương được bù đắp từ các nguồn sau: Vay trong nước từ phát
hành trái phiếu chính phủ, cơng trái xây dựng Tổ quốc và các khoản vay trong nước khác theo quy
định của pháp luật; Vay ngoài nước từ các khoản vay của Chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế
và phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường quốc tế, không bao gồm các khoản vay về cho vay
lại.
* Bội chi ngân sách địa phương: Chỉ ngân sách địa phương cấp tỉnh được bội chi; bội chi
ngân sách địa phương chỉ được sử dụng để đầu tư các dự án thuộc kế hoạch đầu tư công trung hạn
đã được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định; Bội chi ngân sách địa phương được bù đắp bằng
các nguồn vay trong nước từ phát hành trái phiếu chính quyền địa phương, vay lại từ nguồn Chính
phủ vay về cho vay lại và các khoản vay trong nước khác theo quy định của pháp luật; Bội chi
ngân sách địa phương được tổng hợp vào bội chi ngân sách nhà nước và do Quốc hội quyết định.
Chính phủ quy định cụ thể điều kiện được phép bội chi ngân sách địa phương để bảo đảm phù hợp
với khả năng trả nợ của địa phương và tổng mức bội chi chung của ngân sách nhà nước.
Vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước phải đảm bảo nguyên tắc không sử dụng cho tiêu
dùng và chi thường xuyên. Trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay thì vấn đề bội chi ngân
sách là không thể tránh khỏi đối với một quốc gia nhưng chưa hẳn bội chi ngân sách nhà nước là
biểu hiện của sự yếu kém của nền kinh tế mà nó cịn là một trong các cách thức tạo ra sự cân đối
của hoạt động ngân sách nhà nước trong dài hạn, đảm bảo cho nền kinh tế- xã hội phát triển và ổn
định. Nguyên tắc vay bù đắp bội chi nên dành cho mục đích phát triển và đảm bảo bố trí ngân sách
để chủ động trả hết nợ khi đến hạn là rất cần thiết để đảm bảo ngân sách nhà nước được cân đối,
tận dụng được nguồn vốn vay một cách có hiệu quả. Chi cho tiêu dùng là hoạt động chi khơng

mang tính chất thu hồi vốn và khơng tạo ra thặng dư, do đó nguồn vay bù đắp bội chi chỉ được để
dành cho mục đích phát triển.
Bên cạnh đó, lần đầu tiên Luật NSNN 2015 quy định bội chi ngân sách địa phương (NSĐP)
là một cấu phần trong bội chi ngân sách nhà nước. Nói cách khác, bội chi ngân sách nhà nước bao
gồm bội chi ngân sách trung ương (NSTW) và bội chi NSĐP. Đây là điểm mới quan trọng để tăng
cường kiểm soát bội chi NSNN. Nguồn bù đắp bội chi NSNN từ việc vay trong nước và vay nước
ngoài, bao gồm cả việc vay từ phát hành trái phiếu chính phủ, công trái xây dựng Tổ quốc và các
khoản vay trong nước khác theo quy định của pháp luật (Điều 7). Luật NSNN 2015 mới quy định
chỉ NSĐP cấp tỉnh mới được phép bội chi. Bội chi NSĐP chỉ được sử dụng để đầu tư các dự án
thuộc kế hoạch đầu tư công 5 năm đã được Hội đồng Nhân dân (HĐND) cấp tỉnh quyết định...
Chính phủ quy định cụ thể điều kiện được phép bội chi NSĐP để bảo đảm phù hợp với khả năng

7


trả nợ của địa phương và tổng mức bội chi chung của NSNN. Bên cạnh đó, Luật NSNN mới cũng
đã nêu rõ những quy định về mức dư nợ vay của NSĐP2.
Ngoài ra, Luật NSNN năm 2015 cũng đã nêu rõ những quy định về mức dư nợ vay của
NSĐP, Đối với thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh khơng vượt q 60% số thu ngân
sách địa phương được hưởng theo phân cấp; Đối với các địa phương có số thu ngân sách địa
phương được hưởng theo phân cấp lớn hơn chi thường xuyên của ngân sách địa phương không
vượt quá 30% số thu ngân sách được hưởng theo phân cấp; Đối với các địa phương có số thu ngân
sách địa phương được hưởng theo phân cấp nhỏ hơn hoặc bằng chi thường xuyên của ngân sách
địa phương không vượt quá 20% số thu ngân sách được hưởng theo phân cấp3.
2.3.2. Quy định về nguyên tắc thăng bằng khi lập dự toán ngân sách
Lập dự toán ngân sách là khâu đầu tiên và là giai đoạn khởi đầu cho quá trình lập ngân sách
của mỗi quốc gia. Qúa trình ngân sách là tồn bộ những hoạt động lập, chấp hành, quyết toán ngân
sách cuarq quốc gia. Lập dự tốn ngân sách nhà nước là q trình xây dựng và quyết định dự toán
thu, chi ngân sách của nhà nước. Đây là một khâu quan trọng của quá trình ngân sách bởi lẽ khâu
này tạo tiền đề và là cơ sở quan trọng cho các khâu tiếp theo của quá trình ngân sách nhà nước.

Nếu việc lập dự toán ngân sách nhà nước được tiến hành trên cơ sở có đầy đủ căn cú khoa học và
phù hợp với thực tiễn, đảm bảo đúng tiến độ, thời gian quy định thì việc tổ chức và thực hiên ngân
sách nhà nước sẽ có chất lượng khác và hiệu quả hơn. Chính vì vậy viêc nghiên cứu và áp dụng
pháp luật trong hoạt động lập ngân sách nhà nước nhất thiết phải được đặt trong mối quan hệ thống
nhất, biện chứng với các giai đoạn của tồn bộ q trình ngân sách.
Mặt, hoạt động lập dự toán ngân sách nhà nước cũng cần phải tuân theo các nguyên tắc cơ bản
của ngân sách nhà nước nói chung và ngân sách thăng bằng nói riêng. Theo đó, nguyên tắc thăng
bằng được thể hiện trong căn cứ lập dự toán ngân sách nhà nước và yêu cầu lập dự toán ngân sách
nhà nước (Điều 42 Luật NSNN 2015). Cụ thể:
*Căn cứ lập dự toán ngân sách nhà nước (Điều 41 Luật NSNN 2015): Việc lập dự toán ngân
phải căn cứ vào :
- Nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phịng, an ninh, đối ngoại, bình
đẳng giới.
- Nhiệm vụ cụ thể của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan, tổ
chức khác ở trung ương, các cơ quan, tổ chức, đơn vị ở địa phương. Mỗi vùng trên đất nước ta có
điều kiện tự nhiên cũng như điều kiện về kinh tế – xã hội khơng giống nhau như về vị trí địa lý,
dân số theo vùng lãnh thổ, khí hậu, tài ngun thiên nhiên, trình độ phát triển… Do đó, để có thể

2 ThS. Nguyễn Minh Tân - Phó Vụ trưởng Vụ Tài chính - Ngân sách Văn phịng Quốc hội, Những điểm
mới trong luật ngân sách nhà nước năm 2015, Tạp chí Tài chính , tháng 8- kỳ 1- 2015
3 Khoản 6 Điều 7 Luật NSNN 2015

8


lập được dự toán ngân sách phù hợp với điều kiện từng vùng cụ thể, các cơ quan có thẩm quyền
phải thông báo đối với từng bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung
ương, từng địa phương và đơn vị những điều kiện cụ thể, chi tiết của vùng mình. Từ đó, đưa ra
được các chỉ tiêu, nhiệm vụ cụ thể của năm kế hoạch và những chỉ tiêu phản ánh quy mô nhiệm
vụ, đặc điểm hoạt động, điều kiện kinh tế – xã hội và tự nhiên của từng vùng để xây dựng dự toán

ngân sách.
- Quy định của pháp luật về thuế, phí, lệ phí và chế độ thu ngân sách nhà nước; định mức
phân bổ ngân sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách nhà nước. Đó là những quy phạm
pháp luật định ra những chuẩn mực pháp lý để cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành phù hợp
với nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Tuy nhiên, các quan hệ xã hội không ngừng biến đổi nên nhiều
trường hợp chính sách, chế độ khơng cịn phù hợp để điểu chỉnh, vì thế, cần có sự sửa đổi, bổ sung
cần thiết đối với những văn bản này. Trong những trường hợp này, cấp có thẩm quyền cần nghiên
cứu nhằm sửa đổi, bổ sung và ban hành trước thời điểm lập dự toán ngân sách nhà nước hàng năm.
- Phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi ngân sách và tỷ lệ phần trăm (%) phân chia đối với các
khoản thu phân chia và mức bổ sung cân đối ngân sách của ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp
dưới. Các quy định về phân cấp nguồn thu có vai trò quan trọng nhằm đảm bảo sự thăng bằng ngân
sách giữa ngân sách trung ương và địa phương cũng như các cấp ngân sách ở địa phương.
- Văn bản pháp luật của các cấp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền hướng dẫn xây dựng kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm sau. Thơng thường các văn
bản đó là Thơng tư của Bộ tài chính, Nghị quyết Hội đồng nhân dân các cấp.
- Kế hoạch tài chính 05 năm, kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 03 năm, kế hoạch
đầu tư trung hạn nguồn ngân sách nhà nước. Các kế hoạch tài chính là cơ sở quan trọng trong định
hướng lập dự tốn ngân sách nhà nước vì đây đều là các kế hoạch có tính thực tiễn và khách quạ
với tình hình phát triển của đất nước.
- Tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm trước. Đây vừa là cơ sở lập dự toán vừa là
cách thức kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện ngân sách nhà nước của các cơ quan có thẩm
quyền. Qua đó sẽ năm được tình hình thu,chi trong năm, biết được ngân sách thiếu chỗ nào, cần
phải chi thêm chỗ nào,…để tiến tới sư thăng bằng.
- Số kiểm tra dự tốn thu, chi ngân sách thơng báo cho các cấp, các cơ quan, tổ chức, đơn
vị có liên quan.
*Yêu cầu của lập dự toán ngân sách nhà nước (Điều 42 Luật NSNN): Bên cạnh những căn
cứ, lập dự toán ngân sách nhà nước cũng cần đáp ứng các yêu cầu nhất định nhằm đảm bảo thống
nhất với nguyên tắc thăng bằng ngân sách chung, vừa đmả bảo sự thăng bằng trong q trình lập
dự tốn. Các u cầu như là : Dự toán ngân sách nhà nước phải tổng hợp theo từng khoản thu, chi
và theo cơ cấu chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên, chi dự trữ quốc gia, chi trả nợ và viện trợ,

chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính, dự phịng ngân sách; Dự tốn ngân sách của đơn vị dự toán ngân
9


sách các cấp được lập phải thể hiện đầy đủ các khoản thu, chi theo đúng biểu mẫu, thời hạn do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quy định
2.3.3. Quy định về nguyên tắc thăng bằng trong hoạt động chấp hành ngân sách
Chấp hành ngân sách nhà nước là quá trình thực hiện dự tốn ngân sách ngân sách nhà nước
sau khi được các cơ quan có thẩm quyền thơng qua theo những trật tự, nguyên tắc do luật định. Về
bản chất kinh tế, đây là việc thực hiện các chr tiêu tài chính thực tế dược ghi nhận trong dự tốn
ngân sách nhà nước được cơ quan có thẩm quyền thơng qua với góc độ một kế hoạch tài chính. Vì
thế hoạt động này thường gắn với q trình hình thành, quản lý, sử dụng quỹ ngân sách nhà nước
thơng qua việc sử dụng cơ chế hành chính (bắt buộc) hoặc cơ chế hợp đồng (tự nguyện)
Theo thông lệ, chấp hành ngân sách nhà nước thường bao gồm các nội dung chủ yếu : phân
bổ ngân sách, chấp hành dự toán thu ngân sách, chấp hành dự toán chi ngân sách. Nguyên tắc
thăng bằng ngân sách nhà nước cũng được thể hiện thông qua các nội dung này, cụ thể:
*Trong phân bổ ngân sách nhà nước (Điều 49, 50 Luật NSNN 2015): Chính sách phân bổ
ngân sách nhà nước là một trong những chính sách kinh tế vĩ mơ quan trọng của Nhà nước, qua đó
thiết lập cơ chế vận hành, phân chia nguồn lực tài chính theo những nguyên tắc, tiêu chí, căn cứ,
định mức và phương pháp tính tốn nhất định. Mục tiêu của chính sách phân bổ ngân sách là nhằm
đảm bảo nguồn lực tài chính cho các cơ quan, tổ chức hoàn thành nhiệm vụ được giao, giảm thiểu
sự bất bình đẳng giữa các vùng, miền. Việc phân bổ ngân sách nhà nước phải đáp ứng các yêu cầu,
tiêu chuẩn nhằm đảm bảo sự thăng bằng, cân đối nguồn thu với nguồn chi cho các lĩnh vực. Một số
yêu cầu đối với hoạt động phân bổ đảm bảo sự thăng bằng như là : Đúng với dự toán ngân sách
được giao cả về tổng mức và chi tiết theo từng lĩnh vực, nhiệm vụ thu, chi được giao; Đúng chính
sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi; Phân bổ đủ vốn, kinh phí để thu hồi các khoản đã ứng
trước dự toán đến hạn thu hồi trong năm, vốn đối ứng các dự án sử dụng vốn hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA) của các nhà tài trợ nước ngoài theo cam kết; Đối với phân bổ vốn đầu tư phát
triển phải bảo đảm các yêu cầu theo quy định của pháp luật về đầu tư công, xây dựng và quy định
khác của pháp luật có liên quan; Đối với phân bổ các khoản bổ sung có mục tiêu từ ngân sách cấp

trên cho ngân sách cấp dưới phải bảo đảm đúng mục tiêu, đúng đối tượng và thực hiện đúng các
cam kết hoặc quy định về bố trí ngân sách địa phương cho mục tiêu đó4.
*Trong chấp hành dự tốn thu ngân sách nhà nước (Điều 55 Luật NSNN 2015): Chấp hành
dự toán ngân sách nhà nước là việc các cập ngân sách, các tổ chức, cá nhân trên cơ sở hệ thống
pháp luật sử dụng các cách thức, biện pháp phù hợp để thu đầy đủ, kịp thời tất cả số thu đã ghi
trong dự toán được phân bổ kể cả số thu từ các nghiệp vu hay vay nợ hay viện trợ của nước ngoài.
Việc chấp hành thu ngân sách nhà nước cũng phải đảm bảo sự cân đối và phù hợp thông qua việc
thu đúng, thu đủ, thu kịp thời theo quy định pháp luật.
*Trong chấp hành dự toán cho ngân sách (Điều 56 Luật NSNN 2015): Chấp hành dự toán
chi ngân sách là việc chuyển giao, sử dụng đúng mục đích, đúng kế hoạch dự tốn và đúng chế độ
4Khoản 1 Điều 50 Luật NSNN 2015

10


thể lệ hiện hành các nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước thông qua hoạt động của cơ quan tài
chính và các đơn vị nhằm sử dụng ngân sách nhằm sử dụng hiệu quả các chương trình hoạt động
của nhà nước trên mọi lĩnh vực trong năm tài chính. Đảm bảo sự thăng bằng trong chấp hành dự
toán chi ngân sách nhà nước là yêu cầu cực kỳ quan trọng, đặc biệt phải đáp ứng các điều kiện chi
ngân sách nhà nước theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Luật NSNN 2015. Theo đó, chi ngân sách
nhà nước chỉ được thực hiện khi đã có trong sự tốn ngân sách được giao, đã được thủ trưởng đơn
vị sử dụng ngân sách hoặc chủ đầu tư, người được ủy quyền quyết định chi và đáp ứng các điều
kiện cho từng trường hợp. Các nhiệm vụ cho trong dự tóan phải được đảm bảo kinh phí theo đúng
tiến độ thực hiện và trong phạm vi dự toán được giao. Việc đảm bảo sự thăng bằng, cân đối, chính
xác trong hoạt động chấp hành chi dự toán là cơ sở đảm bảo nguồn ngân sách không bị mất mát,
thiếu hụt, không đủ để sử dụng.
2.3.4. Quy định về nguyên tắc thăng bằng trong một số hoạt động khác
*Trong hoạt động bổ sung cân đối ngân sách địa phương (Khoản 8 Điều 9 Luật NSSN
2015): Với mỗi địa phương, sau mỗi năm thời kỳ ổn định ngân sách phải tăng khả năng tự cân đối,
phát triển ngân sách địa phương. Việc cân đối ngân sách địa phương giúp giảm bớt các gánh nặng

đối với ngân sách nhà nước cấp trên thông qua việc giảm dần tỷ lệ bổ sung cân đối ngân sách từ
cấp trên. Đồng thời cân bằng ngân sách địa phương sẽ nâng cao tính chủ động của địa phương
trong các hoạt động thu ngân sách một cách đầy đủ cũng như thực hiện các nhiệm vụ chi hợp lý
sao cho cân bằng với nguồn thu.
*Trong hoạt động kế toán, quyết toán ngân sách nhà nước (Điều 63 Luật NSNN 2015):Qúa
trình lập dự tốn ngân sách nhà nước và chấp hành ngân sách nhà nước thường xuyên phải lưu ý
tới việc cân đối giữa hoạt động thu và chi thì q trình quyết tốn ngân sách nhà nước cũng phải
chỉ rõ các yếu tố giúp cho hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước cân đối cũng như những kinh
nghiệm tích lũy trong điều hành ngân sách nhà nước. Qua quyết tốn ngân sách có thể đánh giá
tình trạng lạm thu hoặc tình trạng mất cân đối các khoản chi, đồng thời xác định các nguyên nhân
làm mất cân đối trong quá trình thực hiện ngân sách.
*Trong hoạt động xử lý thu, chi ngân sách cuối năm (Điều 64 Luật NSNN 2015): Theo nội
dung khoản 3 Điều 64, một số hoạt động chưa được thực hiện hoặc chi chưa hết sẽ được chuyển
nguồn sang năm sau để thực hiện hoặc hoạch toán vào ngân sách năm sau như: Chi đầu tư phát
triển thực hiện chuyển nguồn sang năm sau theo quy định của Luật đầu tư công; Chi mua sắm
trang thiết bị đã đầy đủ hồ sơ, hợp đồng mua sắm trang thiết bị ký trước ngày 31 tháng 12 năm
thực hiện dự tốn; Nguồn thực hiện chính sách tiền lương;….Những quy định nhằm xử lý các
trường hợp khoản chi chưa hết trong năm tài chính, góp phần cân đối ngân sách nhà nước
3.

Ý nghĩa của nguyên tắc thăng bằng của ngân sách nhà nước

Thứ nhất, là cơ sở ổn định hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước, qua đó góp phần ổn
định nền kinh tế vĩ mơ. Để thực hiện nhiệm vụ thu và chi ngân sách thì các cơ quan có thẩm quyền
buộc phải áp dụng sự cân đối được pháp luật quy định nhằm đảm bảo cho kế hoạch của cơ quan
nhà nước cấp trên được thực hiện triệt để, do có những ưu điểm nhất định và được thực tiễn kiểm
11


định thơng qua q trình sử dụng lâu dài ngun tắc cân đối khi các cơ quan khác nhau trong

những giai đoạn khác nhau đã sử dụng nó cho hoạt động cụ thể của mình và dành những thắng lợi
nhất định. Mặt khác thông qua các hoạt động thu ngân sách của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và hoạt động nộp thuế của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ nộp thuế vì thấy được
tác dụng của nó khi góp phần ổn định việc thực hiện các mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mơ:
tăng trưởng mức thu nhập bình qn trong nền kinh tế, giảm tỷ lệ thất nghiệp, lạm phát được duy
trì ở mức ổn định và có thể dự tốn được, sở dĩ làm được điều này là do nguồn ngân sách của nước
ta luôn trong trạng thái cân bằng, nhiệm vụ chi không vượt quá khả năng thu.
Thứ hai, giúp cho hoạt động phân bổ, sử dụng và điều chỉnh nguồn lực tài chính có hiệu
quả, đảm bảo cơng bằng xã hội. Ý nghĩa này được thể hiện từ việc lập dự toán ngân sách và chấp
hành ngân sách. Nhà nước đã có ưu tiên hợp lý trong phân bổ ngân sách nhà nước và sự gắn kết
chặt chẽ giữa chiến lược phát triển kinh tế- xã hội với công tác lập kế hoạch ngân sách, nhờ ý
nghĩa định hướng đó của nguyên tắc này mà Nhà nước ta chủ động thực hiện thắng lợi các mục
tiêu kinh tế- xã hội đã đề ra. Đồng thời, quá trình lập ngân tốn ngân sách, các cơ quan nhà nước
có sự chú trọng vào nguồn ngân sách đầu tư cho các vùng khó khăn, giúp các vùng này rút ngắn
khoảng cách chênh lệch về sự phát triển so với các vùng khác, đảm bảo cân bằng xã hội.
Thứ ba, góp phần vào việc tạo được nguồn dự trữ ngân sách . Nếu có sự cân đối trong thu
và chi tiêu cơng thì những nguồn thu nào mà chưa có nhiệm vụ chi cụ thể do các cơ quan nhà nước
đã có kế hoạch sử dụng những nguồn khác để đầu tư cho nhiệm vụ chi đó, tức là nguồn thu và
nhiệm vụ chi nào đó được hài hịa với nhau thì một phần sẽ được giữ lại trong ngân sách để dự trữ
nhằm đáp ứng những mục tiêu chi phát sinh đột xuất. Chúng ta sẽ khơng phải hỗn lại những kế
hoạch nào đó để chờ nguồn thu cụ thể mà sẽ thực hiện ngay do nguồn dữ trữ tài chính sẵn có, điều
này giúp những cơng việc được hồn thành nhanh chóng và hiệu quả góp phần làm cho kinh tế- xã
hội được ổn định lâu dài.
KẾT LUẬN
Luật NSNN năm 2015 đã rất chú trọng và quy định một cách cụ thể và rõ ràng về nguyên
tắc thăng bằng ngân sách nhà nước. Tuy nhiên thực tế cho thấy việc giữ cân bằng ngân sách nhà
nước trong giai đoạn hiện nay vẫn còn gặp phải nhiều thách thức. Nhà nước vẫn phải thường
xuyên đối mặt với tình trạng thất thu ngân sách và dẫn đến không đáp ứng các nhiệm vụ chi đã đặt
ra. Để góp phần đi đến cân đối ngân ngân sách, ổn định nền tài khóa địi hỏi phải có sự tuân thủ
nghiêm ngặt các quy định của pháp luật về đảm bảo nguyên tắc thăng bằng trong ngân sách nhà

nước. Điều này địi hỏi khơng chỉ là việc đưa ra những kế hoạch, dự toán ngân sách phù hợp,
khách quan cùng sự quản lý chặt chẽ hoạt động thu, chi ngân sách mà cần có sự phối hợp, hợp tác
của tất cả các chủ thể có nghĩa vụ đóng góp cho nguồn ngân sách vì mục đích phát triển chung.

12


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, giáo trình Luật Ngân sách nhà nước, NXB Công an nhân
dân, năm 2016
2. Luật Ngân sách nhà nước năm 2015
3. Nghị định
4. Quách Hồng Thơ. Giáo viên hướng dẫn: Lê Huỳnh Phương Chinh, Cân đối ngân sách nhà
nước – thực trạng và hướng hoàn thiện, Luân văn Thạc sĩ, năm 2013,
/>5. ThS. Nguyễn Minh Tân - Phó Vụ trưởng Vụ Tài chính - Ngân sách Văn phịng Quốc hội,
Những điểm mới trong luật ngân sách nhà nước năm 2015, Tạp chí Tài chính , tháng 8- kỳ
1- 2015
6.

13



×