Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Đề án nghiên cứu xuất khẩu thị trường lao động Việt Nam sang thị trường Malaysia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.31 KB, 25 trang )

ĐỀ ÁN
NGHIÊN CỨU XUẤT KHẨU LAO
ĐỘNG VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG
MALAYSIA
MỤC LỤC
A.LỜI MỞ ĐẦU 4
B.NỘI DUNG 5
1.Thực trạng lao động Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 5
1.1Thực trạng cung lao động 5
1.1.1Cung lao động dưới giác độ số lượng 5
1.1.2Cung lao động trên giác độ chất lượng 6
1.2Thực trạng cầu lao động 7
1.3Giá lao động 8
2.Tình hình xuất khẩu lao động ở Việt Nam 8
2.1Khái niệm xuất khẩu lao động 8
2.2. Sự cần thiết của XKLĐ- lợi ích từ hoạt động XKLĐ 8
2.3. Thuận lợi của Việt Nam trong hoạt động xuất khẩu lao động 9
2.4. Những khó khăn trong hoạt động XKLĐ 10
2.5. Tình hình xkld sang Malaysia và một số nước khác 11
2.5.1. Malaysia 11
2.5.2. Một số thị trường châu Á khác 11
3. Thị trường lao động Malaysia 13
3.1. Khái quát 13
3.2. Yêu cầu về trình độ lao động 13
3.3. Tình hình nhập cư lao động nước ngoài của Malaysia: 13
3.4. Rào cản khi xuất khẩu lao động sang Malaysia 14
4. Phân tích lợi thế cạnh tranh của Việt Nam 15
4.1 Giới thiệu mô hình Kim cương của Michael Porter 15
4.2. Ứng dụng vào dịch vụ xuất khẩu lao động của Việt Nam 15
4.2.1.Yếu tố thâm dụng 15
4.2.2. Những điều kiện về nhu cầu 16


4.2.3 Những ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan 17
4.2.4. Cấu trúc, chiến lược của công ty và cạnh tranh trong ngành: 18
4.2.5 Chính phủ: 19
4.2.6. Cơ hội vận may rủi: 20
4.3. Đối thủ cạnh tranh 21
4.3.1. Lợi thế cạnh tranh của Philippin 21
4.3.2. Những diễn biến xuất khẩu lao động của Philipin trong thời gian
qua 23
5. Những thuận lợi và khó khăn trong thời gian tương lai 24
5.1. Khó khăn 24
5.2. Thuận lợi 25
C.KẾT LUẬN 26
2
A.LỜI MỞ ĐẦU
־ Xuất khẩu lao động là một hoạt động trao đổi hàng hoá sức lao động giữa
các quốc gia, các nền kinh tế dựa trên cơ sở lợi thế về nguồn và cơ cấu lao
động.Với nước ta - một quốc gia có dân số đông và nguồn lao động dồi
dào - thì xuất khẩu lao động thực sự là một lĩnh vực có nhiều lợi thế. Hơn
thế nữa, nó còn là một yêu cầu bức bách khi mà tình trạng thiếu việc làm
ở nước ta hiện nay vẫn đang là vấn đề làm đau đầu các nhà hoạch định
chính sách. Xuất khẩu lao động thực sự đóng vai trò quan trọng trong phát
triển kinh tế và giải quyết các nhu cầu xã hội ở nước ta.
־ Tình hình xuất khẩu lao động của Việt Nam thời gian qua có thể chia làm
hai thời kỳ : Thời kỳ hợp tác lao động quốc tế (1980 -1990) và thời kỳ
xuất khẩu lao động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
(1991 – nay). Điểm nổi bật của hoạt động xuất khẩu lao động Việt Nam
trong thời kỳ hợp tác quốc tế là hình thức cung ứng lao động chủ yếu
thông qua Hiệp định hợp tác lao động ký kết giữa Chính phủ ta với chính
phủ bạn, thị trường tiếp nhận phần lớn là các nước XHCN. Bước sang thời
kỳ xuất khẩu lao động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà

nước, chúng ta đã mất đi hầu hết thị trường tiếp nhận lao động truyền
thống trước đây. Tuy nhiên với sự nỗ lực của Đảng, Nhà nước ta và trước
hết là những cố gắng tự thân không ngừng của các doanh nghiệp xuất
khẩu lao động, hoạt động xuất khẩu lao động của ta đã được khôi phục trở
lại và không ngừng phát triển trong những năm qua. Hiện nay, thị trường
xuất khẩu lao động của ta đã mở rộng đến trên 40 nước và vùng lãnh thổ.
Đông và Đông Nam Á là khu vực thị trường xuất khẩu lao động chủ yếu
của nước ta hiện nay. Khu vực này hàng năm tiếp nhận khoảng trên
40.000 lao động Việt Nam, chiếm gần 80% số lao động đi làm việc tại
nước ngoài của ta. Hiện tại khu vực này gồm có 5 thị trường đã mở cửa
tiếp nhận lao động của ta là Lào, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và
Malaysia tuy nhiên dự báo trong tương lai số lượng thị trường của ta tại
khu vực này chắc chắn không dừng lại ở con số 5 như trên
־ Với nội dung bài tiểu luận này,nhóm nghiên cứu xin chọn đề tài về Xuất
khẩu sang thị trường Malaysia,thị trường xuất khẩu lao động lớn nhất của
Việt Nam nhằm làm rõ hơn về những lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trên
lĩnh vực này.
3
B.NỘI DUNG
1. Thực trạng lao động Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Cùng với những thay đổi trong đời sống kinh tế- xã hội sau gần 3 thập
kỉ đổi mới, thị trường lao động với tư cách là một bộ phận cấu thành quan
trọng hệ trong hệ thống thị trường các yếu tố sản xuất đã được chính thức
công nhận và thể chế hóa bằng luật pháp. Mặc dù được công nhận cách
đây không lâu nhưng thị trường lao động nước ta đã và đang có những
bước phát triển tích cực, tạo công ăn việc làm cho người dân. Tuy nhiên,
thị trường lao động VN đang chịu những áp lực lớn về dân số và tăng cung
lao động. Việc thống kê cung và cầu trên thị trường hiện nay vẫn chưa
được thu thập xử lí đầy đủ nên việc theo dõi phân tích thực trạng và động
thái phát triển của thị trường này là không đơn giản.

1.1. Thực trạng cung lao động
Cung về lao động là tổng nguồn sức lao động do người lao động tự
nguyện đem ra thao gia vào quá trình sản xuất của xã hội, tức là tổng
người trong độ tuổi lao động hoặc không trong độ tuổi lao động nhưng đã
tham gia chính thức vào quá trình tái sản xuất của xã hội.
Xét về mặt số lượng, cung lao động được phân biệt thành cung thực tế
và cung tiềm năng. Cung tiếm năng bao gồm những người trong độ tuổi
lao động, từ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động nhưng đang đi học, làm
công việc nội trợ hoặc không có nhu cầu làm việc. Cung thực tế bao gồm
tất cả những người trong độ tuổi lao động đang làm việc, thất nghiệp hoặc
thiếu việc làm.
Xét về giác độ chất lượng lao động, cần xem xét các yếu tố về trình độ
học vấn, kỹ năng chuyên môn, kỷ luật lao động, đây là những yếu tố
chính quyết định chất lượng của lọai hàng hóa đặc biệt này.
1.1.1. Cung lao động dưới giác độ số lượng
 Dân số và lực lượng lao động
Theo qui định của Luật Lao Động Việt Nam, độ tuổi lao động là từ 15
đến 60 đối với nam và từ 15 đến 55 đối với nữ. Theo thống kê của Bộ lao
động thương binh và xã hội (LĐ-TB&XH), tính đến ngày 1/4/2009, dân số
của Việt Nam là 85.789.573 người. Tỷ lệ tăng dân số bình quân năm trong
giai đoạn 1999-2009 là 1,2%/năm, mỗi năm nước ta có khoảng 1,4 – 1,6
triệu người bổ sung vào lực lượng lao động. Ước tính đến năm 2015, tỷ lệ
dân số trong độ tuổi lao động đạt giá trị cực đại, chiếm tới 68,2% dân số,
theo đó có 63,4 triệu người trong độ tuổi lao động trên tổng số 94,3 triệu
dân.
4
Tổng số dân và dân số trong độ tuổi từ 15 đến 59 ở Việt Nam
Chỉ tiêu 1979 1989 1999 2007 2020
Tổng số dân (triệu) 52,742 64,375 76,325 85,1549 99,003
P

15-59*
(triệu) 26,63 34,76 44,58 55,38 64,543
Tỷ lệ gia tăng P (%) 2,0 1,7 1,37 1,16 -
Tỷ lệ gia tăng P
15-59
(%) 2,66 2,49 2,71 1,18 -
(Nguồn:
- Tính toán kết quả tổng điều tra dân số 1979; 1989; 1999.
- Tổng cục Thống kê. Kết quả Điều tra biến động dân số - kế hoạch hoá gia
đình 2007)
Những con số trên cho thấy Việt Nam đang có một lưc lượng lao động
lớn và tỉ lệ tăng hằng năm của số người trong độ tuổi lao động là rất cao.
Chúng ta đang trong thời kì “cơ cấu vàng” về dân số, tức là số người trong
độ tuổi lao động cao hơn số người phụ thuộc. Đây thực sự là một cơ hội
“vàng” cho sự phát triển kinh tế - xã hội
 Tỷ lệ tham gia lao động
Thực tế là không phải mọi người trong “độ tuổi lao động” đều tham gia
hoạt động kinh tế mà trong số đó tồn tại một tỷ lệ những người có nhu cầu
làm việc nhưng chưa tìm được việc làm, đó là tỷ lệ thất nghiệp. Tuy nhiên,
để đánh giá về tình hình lao động và việc làm trong nền kinh tế, chúng ta
cần biết thêm một tiêu chí khác là tỷ lệ lao động thiếu việc làm. Đây là tiêu
chí quan trọng được tính cho cả lao động ở khu vực nông thôn và thành thị
nhưng chưa được công bố từ trước đến nay. Ở Việt Nam, tỷ lệ lao động
thiếu việc làm thường cao hơn nhiều so với tỷ lệ thất nghiệp; trong đó tỷ lệ
thiếu việc làm nông thôn thường cao hơn thành thị. Với cách hiểu như vậy,
tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam năm 2008 là 4,65%, tăng 0,01% so với năm
2007. Trong khi đó, tỷ lệ lao động thiếu việc làm hiện nay là 5,1%, tăng
0,2% so với năm 2007. Đáng chú ý, tỷ lệ thiếu việc làm nông thôn lên tới
6,1%, trong khi tỷ lệ này ở khu vực thành thị là 2,3%. Vấn đề dân số thực
sự trở thành một sức ép lớn đối với nền kinh tế, nhiều lao động, nhất là ở

nông thôn không tìm được việc làm.
1.1.2. Cung lao động trên giác độ chất lượng
 Trình độ học vấn người lao động
5
Một trong những nghịch lí của nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay là
“tuy thừa mà thiếu”. Như đã phân tích ở trên, với một nước đông dân thứ
13 thế giới thì chuyện thiếu hụt lao động dường như là điều không thể.
Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều doanh nghiệp đang thiếu lao động nhưng
không sao tuyển được đủ. Nguyên nhân chính xuất phát từ chất lượng lao
động. Thực tế cho thấy hiện chỉ có khoảng 30% lao động Việt Nam được
qua đào tạo. Bên cạnh đó, những lao động có trình độ cao đã được đào tạo
hiện nay cũng chỉ đáp ứng được 15-20% yêu cầu của doanh nghiệp, nhưng
phải tiếp tục đào tạo thêm 2-3 năm nữa, ngay như đội ngũ sinh viên cũng
chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, cơ cấu và trình độ học vấn, kỹ
năng nghề nghiệp và hội nhập kinh tế quốc tế. Một trong những nhược
điểm lớn nhất của lao động hiện nay là thiếu khả năng tư duy, sáng tạo và
tính chủ động trong công việc. Việt Nam đang thiếu hụt nghiêm trọng các
chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề, có tay nghề
cao. Theo Tổng cục Dạy nghề, trong cơ cấu lực lượng lao động VN từ
2005-2020, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề tuy có tăng qua các năm, từ
19% năm 2005 (dân số 83 triệu người) đến 30-32% năm 2010 (dự kiến),
45% năm 2015 và ước tính đạt 55% (dân số ước 98,5 triệu) vào năm 2020,
nhưng vẫn rất thấp so với quy mô dân số và nhu cầu của thị trường.
Năng suất của người lao động Việt Nam thấp hơn các nước trong khu
vực rất nhiều. Năng suất lao động xã hội (tính bằng GDP theo giá thực tế
chia cho một lao động làm việc) năm 2006 của nước ta là 1.407
USD/người, còn thua xa so với năng suất lao động năm 2005 của nhiều
nước khác. Cụ thể, nó chỉ bằng 49% so với Trung Quốc, 52% so với Thái
Lan.
 Ý thức kỉ luật của người lao động

Đại bộ phận người lao động hiện nay của ta còn chưa được đào tạo về
kỉ luật lao động công nghiệp. Phần lớn trong số họ là lao động xuất thân
từ nông nghiệp hoặc nông thôn, còn mang nặng tác phong sản xuất của
nền kinh tế tiểu nông lạc hậu, tùy tiện về giờ giấc và hành vi. Người lao
động chưa được trang bị kiến thức và kỹ năng làm việc nhóm, không có
khả nănghợp tác và gánh chịu rủi ro, ngại phát huy sáng kiến và chia sẽ
kinh nghiệm làm việc. điều này thể hiện rỏ qua hiện tượng các xí nghiệp,
công ty có vốn đầu tư nước ngoài, phải mất hàng tháng để đào tạo tác
phong cho công nhân mới được tuyển.
1.2. Thực trạng cầu lao động
Cầu lao động là nhu cầu về sức lao động của một quốc gia, một điạ
phương, một ngành hay một doanh nghiệp trong một khoảng thời gian xác
định. Nhu cầu này thể hiện qua khả năng thuê mướn lao động. Xét từ giác
độ số lượng, trong điều kiện năng suất lao động không đổi, cầu về lao động
xã hội tỷ lệ thuận với qui mô và tốc độ sản xuất. Nếu qui mô sản xuất không
6
đổi, cầu về lao động tỉ lệ nghịch với năng suất lao động. Còn xét từ giác độ
chất lượng, việc nâng cao năng suất lao động, qui mô, tiền vốn, tri
thức của doanh nghiệp ngày càng đòi hỏi nâng cao cầu về chất lượng lao
động.
Theo báo cáo của Bộ LĐ-TB&XH, hiện nay, tổng số việc làm chỉ đáp
ứng được cho 75% tổng số lao động. Như vậy có nghĩa là một phần tư số
lao động không thể tìm được việc làm trong nước. Thêm vào đó, khủng
hoảng kinh tế kéo dài từ năm 2008 đến nay khiến cho hàng loạt người lao
động bị thất nghiệp. Điều này càng khiến cho khoảng cách giữa cung và
cầu ngày càng lớn.
1.3. Giá lao động
Trên thị trường lao động, giá cả lao động được thể hiện dưới dạng
tiền lương. Cũng giống như các loại hàng hóa khác, giá cả sức lao động
không chỉ bị qui định bởi giá trị của nó mà còn chịu ảnh hưởng của quan hệ

cung- cầu.
Việt Nam luôn đối mặt với tình trạng dư thừa lao động, cung luôn vượt
quá cầu, do đó, giá cả sức lao động của nước ta nói riêng và hầu hết các
nước đang phát triển nói chung là thấp so với mặt bằng chung của thế giới.
Và chúng ta vẫn thường xem việc giá nhân công rẻ là một lợi thế để cạnh
tranh và thu hút đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, đó cũng là một bất lợi cho
người lao động trong nước khi giá cả sức lạo động của mình luôn thấp hơn
nước khác.
2. Tình hình xuất khẩu lao động ở Việt Nam
2.1 Khái niệm xuất khẩu lao động
 Khái niệm
Xuất khẩu lao động (XKLĐ) được hiểu là hoạt động trao đổi, mua
bán hay thuê mướn hàng hóa sức lao động giữa các chính phủ, các quốc
gia với nhau trên cơ sở hiệp định hay hợp đồng cung ứng lao động. Quốc
gia đưa lao động đi làm việc là nước xuất khẩu lao động, và quốc gia thuê
mướn lao động là nước nhập khẩu lao động.
 Các hình thức XKLĐ: có 2 hình thức XKLĐ
Thứ nhất là hình thức đưa lao động ra nước ngoài làm việc nhằm thu
hút ngoại tệ về nước
Thứ hai là hình thức lao động sống ngay tại nước sở tại, nhưng cung
cấp sức lao động tạo ra giá trị cho nước ngoài, còn gọi là XKLĐ tại chỗ.
Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ xin đề cập đến loại hình XKLĐ thứ
nhất.
2.2. Sự cần thiết của XKLĐ- lợi ích từ hoạt động XKLĐ của Việt Nam
 Xuất phát từ vấn đề dân số và giải quyết việc làm
7
Một trong những vấn đề lớn mà VN nói riêng cũng như các nước đang
phát triển nói chung phải đương đầu đó là dân số quá đông. Với một đất nước
nhỏ bé, một nền kinh tế non trẻ thì 86 triệu dân thật sự là một thách thức lớn.
Trong khi đó, các quốc gia phát triển với một nền sản xuất qui mô lớn lại

cần một lực lượng lớn lao động trong khi dân số và tỉ lệ lao động của họ lại
tăng không đáng kể. Xuất phát từ nhu cầu thực tế đó, hoạt động XKLĐ đóng
một vai trò quan trọng là di chuyển lao động từ nơi thừa sang nơi thiếu.
Từ năm 2001 đến hết năm 2008 đã có hơn 500 nghìn lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài, trong đó, chỉ riêng 3 năm (từ 2006 đến hết
năm 2008), đã có khoảng 250.000 lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài (bình quân khoảng 83.000 người/năm), chiếm khoảng 5% tổng số lao
động được giải quyết việc làm hàng năm. Hiện nay có khoảng gần 500 nghìn
lao động Việt Nam đang làm việc ở trên 40 nước và vùng lãnh thổ với hơn 30
nhóm ngành nghề các loại. Như vậy, XKLĐ thực sự là một biện pháp hữu
hiệu để giái quyết sức ép lao động dư thừa của nước ta.
 Xuất phát từ vấn đề kinh tế
Ngoài ra, XKLĐ còn mang lại một lợi ích lớn về mặt kinh tế. Không có
hoạt động XKLĐ thì một bộ phận lao động dư thừa không thể tìm được việc
làm trong nước hay nếu có thì mức lương lại quá thấp. Vì vậy họ không đem
lại một lợi ích kinh tế nào cho quốc gia, chưa kể những hệ lụy xấu từ việc thất
nghiệp. Khi tham gia XKLĐ, những người lao động tìm được việc làm cho
mình với thu nhập cao hơn, không những thế họ còn góp phần làm tăng
trưởng đáng kể cho thu nhập quốc dân. Theo ước tính của Cục quản lí lao
động ngoài nước, mỗi năm, lực lượng lao động nước ngoài đem về cho đất
nước từ 1.6 đến 2 tỷ USD. Thu nhập bình quân của người lao động ngoài
nước cũng cao hơn trong nước trung bình từ 5 đến 7 lần. Ví dụ như ở Hàn
Quốc thu nhập trung bình là hơn 12 triệu đồng/người/tháng; Trung Đông là 7-
10 triệu đồng/người/tháng.
 Xuất phát từ vấn đề công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước
Trước khi tham gia XKLĐ, người lao động được đào tạo tay nghề.
Nếu như tại thời điểm cuối năm 2003, số lượng lao động được đào tạo nghề
trước khi đi làm việc ở nước ngoài mới đạt khoảng 35%, thì đến cuối năm
2008 tỷ lệ này đã đạt trên 50%. Người lao động sẽ học được tác phong công
nghiệp hiện đại cũng như trình độ tay nghề được nâng cao. Với những kinh

nghiệm, học hỏi được ở nhiều nơi trên thế giới (từ nghề nghiệp cụ thể đến tác
phong công nghiệp, trình độ quản lý ), cùng với số vốn tích lũy được sau
những năm làm việc ở nước ngoài, nhiều lao động đã và đang trở về quê
hương đầu tư xây dựng nhà cửa, lập ra những doanh nghiệp vừa và nhỏ, góp
phần xóa đói giảm nghèo và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Đây sẽ là lực lượng lao động có chất lượng trong tương lai khi họ hết
hợp đồng trở về nước.
8
2.3. Thuận lợi của Việt Nam trong hoạt động xuất khẩu lao động
 Thứ nhất, VN có nguồn lao động dồi dào, tuổi bình quân rất trẻ; lao
động Việt Nam cũng đã có uy tín trên thị trường lao động quốc tế.
 Thứ hai, chúng ta đã có một hành lang pháp luật đầy đủ, tương đối
phù hợp với pháp luật các nước nhận lao động.
 Thứ ba, ta cũng đã xây dựng được một hệ thống thị trường xuất khẩu
lao động rộng và ổn định, trong đó có những thị trường nhận số lượng rất lớn
lao động Việt Nam như Hàn Quốc, Ma-lai-xi-a, Nhật Bản, Đài Loan (Trung
Quốc) và một số nước khu vực Trung Đông.
 Thứ tư, người sử dụng lao động tại một số nước đánh giá rất
cao và thích nhận lao động của Việt Nam. Ta đã ký nhiều thỏa thuận với các
nước về tiếp nhận lao động, tạo được khung pháp lý để hợp tác đưa lao động
đi và bảo vệ quyền lợi của người lao động.
 Thứ năm, giá nhân công của VN rẻ hơn so với nhiều nước trong khu
vực và trên thế giới. Tuy nhiên, đây là một thuận lợi trước mắt nhưng nó sẽ là
khó khăn trong tương lai nếu như chúng ta không chú trọng nâng cao chất
lượng lao động để tăng giá thành mà chỉ chú trọng đến giá thành rẻ thì lao
động Việt Nam bị xem như là lao động chất lượng kém nhưng giá rẻ.
2.4. Những khó khăn trong hoạt động XKLĐ
 Khó khăn lớn nhất hiện nay là nhu cầu nhập khẩu lao động tại các
quốc gia suy giảm mạnh do khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Cục quản lý lao
động nước ngoài cho hay là số lượng xuất khẩu lao động đang sút giảm rõ rệt

từng tháng một. Đầu năm nay cả nước đưa được gần 13.000 người đi nước
ngoài làm việc, thì qua tháng 2 số lao động xuất khẩu hạ xuống còn 5.300,
đến tháng 3 vừa qua, chỉ còn 3.700 lên đường xuất ngoại. Một số thị trường
quốc tế lâu nay tiếp nhận lao động Việt Nam , nay quyết định ngưng nhận
thêm người nước ngoài để bảo vệ công ăn việc làm cho người bản xứ như
Malaysia hay cộng hòa Czek. Bi kịch hơn nữa đó là những người xuất khẩu
lao động chủ yếu là người nông dân nghèo, để có tiền đặt cọc cho các công ty
để được đi nước ngoài họ phải cầm cố, bán đất, vay lãi. Thế nhưng khi đã
sang nước ngoài, lại bị trả về nước, bị hủy hợp đồng do công ty cắt giảm nhân
công hoặc vi phạm kỉ luật lao động. Như vậy, toàn bộ thiệt hại người lao động
phải gánh chịu và hầu như chưa có một tổ chức cũng như bộ luật hoàn chỉnh
nào để bảo vệ quyền lợi của họ.
 Bên cạnh đó, việc xuất khẩu lao động nước ta gặp phải sự cạnh tranh
gay gắt từ các nước xuất khẩu lao động trong khu vực, trong khi chất lượng
lao động xuất khẩu của ta còn nhiều hạn chế, thể hiện ở khả năng ngoại ngữ, ý
thức chấp hành kỷ luật lao động yếu; tình trạng lao động tự ý bỏ hợp đồng ra
ngoài làm việc, cư trú bất hợp pháp ngày một gia tăng ở một số thị trường
trọng điểm, ảnh hưởng xấu đến việc giữ vững và phát triển thị trường, thậm
chí dẫn đến nguy cơ mất thị trường.
9
 Một hạn chế nữa đó là thiếu biện pháp thẩm tra chặt chẽ thực lực của
các đơn vị xin cấp phép xuất khẩu lao động, chưa chú trọng quản lý hoạt động
của các doanh nghiệp đã được cấp phép và thẩm định các hợp đồng cung ứng
lao động do các doanh nghiệp đăng ký. Số liệu của Cục quản lý lao động
ngoài nước cho thấy trong số 164 doanh nghiệp được cấp phép hoạt động xuất
khẩu lao động, chỉ có 30% số doanh nghiệp hoạt động hiệu quả. Nhiều doanh
nghiệp chủ yếu tìm hợp đồng thông qua lực lượng môi giới, thiếu trách nhiệm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động ở nước ngoài, giá dịch
vụ thiếu minh bạch. Về phía người lao động, do ít tìm hiểu pháp luật, lại thêm
tâm lý cần việc làm chi phối, nên dễ bị nhà môi giới lợi dụng.

2.5. Tình hình xuất khẩu lao động sang Malaysia và một số nước khác
2.5.1. Malaysia
Malaysia là nước nhập khẩu lao động hàng đầu châu Á với hơn 2 triệu
lao động nước ngoài, chủ yếu đến từ Indonesia, Ấn Độ, Sri Lanka,
Bangladesh và Việt Nam, chiếm 20% lực lượng lao động nước này.
Việt Nam bắt đầu xuất khẩu lao động sang Malaysia từ nằm 2003, tính
đến nay đã có hơn 100.000 lao động Việt Nam đang làm việc tại Malaysia.
Thị trường Malaysia là một thị trường dễ tính, cần nhiều lao động phổ thông,
không cần tay nghề cao. Các ngành chủ yếu là điện, điện tử, dệt may, dịch
vụ…
Vì là thị trường dễ tính, không đòi hỏi tay nghề nên thu nhập của người
lao động cũng không cao, trung bình từ 3-7 triệu đồng/tháng trong điều kiện
làm việc hết sức vất vả.
Thời gian gần đây xảy ra nhiều vụ việc không hay cho người lao động
tại Malaysia như xô xát với chủ, lao động bị trả về trước thời hạn do bị sa
thải, lao động quá vất vả….
Đầu năm 2009, do khủng hoảng kinh tế, các doanh nghiệp Malaysia sa
thải hàng loạt công nhân, đồng thời chính phủ ban hành lệnh cấm tuyển lao
động nước ngoài để ưu tiên việc làm cho người dân trong nước. Điều này
khiến không ít doanh nghiệp XKLĐ Việt nam sang Malaysia lao đao. Tuy
nhiên vào những tháng cuối năm, thị trường này đã ấm trở lại. Rất nhiều nhà
máy, xí nghiệp, cơ sở sản xuất, dịch vụ có nhu cầu tuyển dụng lao động nước
ngoài nói chung và lao động Việt Nam nói riêng đến làm việc. Số liệu thống
kê của cơ quan này cho biết, nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài đang gia
tăng ở hầu hết các ngành nghề tại Malaysia. Hiện có khoảng 28.000 chỗ làm
đang chờ lực lượng lao động nước ngoài. Đây vẫn là thị trường lớn của lao
động xuất khẩu Việt Nam.
2.5.2. Một số thị trường châu Á khác
10
Thị trường trọng điểm của xuất khẩu lao động Việt nam ngoài Malaysia

còn có Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Đông.
 Đài Loan
Đài Loan là nơi tiếp nhận nhiều lao động Việt Nam với khoảng 30.000
người, theo số liệu của Bộ LĐ–TB&XH. Tuy nhiên, thị trường này thời gian
gần đây đã cắt giảm đến 70% nhu cầu tiếp nhận lao động. Không chỉ vậy, đến
giờ đã có khoảng 1.500 lao động làm việc phải về nước trước thời hạn vì
không có việc làm. Với tình hình trên, hoạt động xuất khẩu lao động Việt
Nam sang vùng lãnh thổ Đài Loan chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng khá mạnh do
đây là thị trường hàng đầu mà các doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt nam
nhắm tới. Mặc dù có thu nhập không cao như Hàn Quốc, và một số nước
Đông Âu nhưng đây là thị trường khá ổn định và có nhu cầu lớn lao động
nhập cư. Môi trường làm việc, khí hậu dễ chịu, phong tục, tập quán khá gần
gũi với người Việt Nam cũng là thế mạnh của thị trường Đài Loan.
 Nhật Bản
Ðến nay, đã có hơn 40.000 tu nghiệp sinh (TNS) được đưa sang tu
nghiệp tại các xí nghiệp vừa và nhỏ của Nhật Bản. Hiện nay, số TNS đang tu
nghiệp tại Nhật Bản là gần 10.000 người, số thực tập sinh là 6.740 người.
TNS Việt Nam tại Nhật Bản tu nghiệp, làm việc chủ yếu trong các lĩnh vực
dệt, may, điện tử, cơ khí, chế biến, xây dựng, thủy sản. Số lượng TNS Việt
Nam tăng qua các năm, nhưng cuối năm 2008 và đầu năm 2009 do khủng
hoảng kinh tế toàn cầu và Nhật Bản cũng bị ảnh hưởng nặng vì 40% GDP của
Nhật Bản phụ thuộc vào xuất khẩu, do vậy số lượng TNS sang Nhật năm
2008 chỉ tăng 5% và sáu tháng đầu năm 2009 giảm 13,4% so với cùng kỳ
năm trước. TNS Việt Nam được phía Nhật Bản đánh giá cao về tay nghề, tính
cần cù, chịu khó và khả năng tiếp thu nhanh về kỹ năng, kỹ thuật. Thu nhập
bình quân của TNS Việt Nam khoảng từ 700 đến 1.100 USD/tháng. Cá biệt,
có trường hợp thu nhập đến hơn 1.700 USD/tháng.
 Hàn Quốc
Hiện có khoảng trên 27.000 lao động Việt Nam đang làm việc tại Hàn
Quốc theo chương trình EPS. Nếu tính cả số tu nghiệp sinh sau khi kết thúc

hợp đồng tu nghiệp ở lại thì tổng số lao động Việt Nam ở Hàn Quốc hiện là
48.000 người. Theo tính toán, thu nhập bình quân của người lao động Việt
Nam kể cả làm thêm giờ khoảng 1.100- 1.300 USD/tháng. Tuy nhiên, do tỷ lệ
thất nghiệp trong nước tăng cao nên hiện nay chỉ tiêu của Hàn Quốc giành
cho lao động nước ngoài đã giảm đi đáng kể.
 Trung Đông
Trung Đông gồm 6 nước vùng vịnh: Oman, Bahrain, Qatar, Saudi
Arabia, UAE, Kuwait là thị trường xuất khẩu lao động duy nhất không bị ảnh
hưởng mấy trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Trong khi nhiều
quốc gia trên thế giới đều lên kế hoạch giảm nhu cầu tiếp nhận lao động nhập
11
cư và ban hành một số chính sách hỗ trợ lao động nước ngoài về nước trước
hạn, thì tại các nước Trung Đông, nhiều chủ sử dụng lao động vẫn có nhu cầu
lớn nhận lao động nước ngoài vào làm việc. So với nhiều thị trường khác, thu
nhập của thị trường này không cao nhưng ổn định, từ 5 – 7 triệu đồng tháng,
và không đóng bất kỳ khoản phí hay thuế nào. Các nước Trung Đông đều có
nhu cầu lao động nước ngoài lớn, trung bình mỗi nước cần khoảng 100.000
LĐ/năm. Hiện, chỉ tính riêng tại UAE đãcó khoảng 10.000 LĐVN đang làm
việc. Con số này vẫn quá khiêm tốn so với nhu cầu của UAE. Tuy nhiên trở
ngại lớn nhất đối với lao động VN là khó thích nghi với điều kiện sống tại đây
khi khí hậu quá nóng, toàn bộ dân số theo đạo Hồi nên phong tục tập quán
của họ khác VN rất nhiều.
3. Thị trường lao động Malaysia
3.1. Khái quát
3.1.1. Dân số
Theo số liệu tính đến tháng 7/2007, Malaysia có hơn 24 triệu người, tỉ
lệ tăng dân số hằng năm làkhoảng 1.8%, trong đó lực lượng lao động là 11
triệu người, chiến gầm 50% tổng số dân. Malaysia là một rong những nước
đang phát triển có nền kinh tế tăng trưởng mạnh ở khu vực Đông Nam Á.
3.1.2. Nhu cầu về lao động tại Malaysia

Malaysia là một quốc gia Á châu giàu có. Với thu nhập bình quân 13
ngàn đôla/người/ năm, Malaysia là nước công nghiệp hóa mới, và đang có
mục tiêu trở thành quốc gia phát triển vào năm 2020. Nền kinh tế của
Malaysia, với tốc độ phát triển cao trên 5% mỗi năm suốt thập niên qua, đòi
hỏi một lượng nhân công lớn mà trong nước không thể thỏa mãn nổi. Vì vậy,
nước này phải nhập khẩu lao động nước ngoài. Thành công kinh tế của
Malaysia không thể thiếu một phần đóng góp vô cùng to lớn của lao động
nước ngoài. Có thể nói không ngoa rằng kinh tế Malaysia phụ thuộc rất nhiều
vào công nhân nhập ngoại.
Nước này đang thiếu khoảng ba triệu nhân công và theo thống kê của
Công đoàn Malaysia, con số lao động nhập cư hợp pháp ở đây là khoảng hai
triệu. Tuy nhiên, cũng có một lượng lớn không có thống kê lao động bất hợp
pháp, những người không có giấy tờ chính thức. Nếu tính cả số người này, thì
từ 30%-50% lực lượng lao động ở Malaysia là người nước ngoài, chủ yếu
hoạt động trong ngành gia công sản xuất, xây dựng và dịch vụ.
3.2. Yêu cầu về trình độ lao động
Có thể nói rằng Malaysia là một thị trường rất dễ xâm nhập. họ không
đòi lao động phải có trình độ chuyên môn cao, thậm chí sẵn sàng đào tạo khi
12
người lao động không có bất cứ tay nghề gì. Những công việc cần tuyển lao
động nước ngoài tại Malaysia chủ yếu là các công việc phổ thông, đòi hỏi cơ
bắp. Người lao động nhập cư ở Malaysia thường làm những công việc được
gọi là 3D, tức dirty, dangerous and difficult - bẩn thỉu, nguy hiểm và khó
khăn. Vì vậy, mức lương tại thị trường này khá thấp.
3.3. Tình hình nhập cư lao động nước ngoài của Malaysia:
Malaysia là nước có nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài lớn, hiện có
khoảng 2,3 triệu lao động nước ngoài, trong đó 1,9 triệu lao động hợp pháp,
chiếm 21% trong lực lượng lao động hùng hậu gần 11 triệu người của nước
này, chủ yếu làm việc trong các lĩnh vực nhà máy, nông nghiệp, giúp việc gia
đình, xây dựng và dịch vụ. Lĩnh vực sản xuất và dịch vụ chiếm hơn 50% số

lao động nước ngoài tại Malaysia.
Lao động nước ngoài tập trung chủ yếu vùng Penusular đặc biệt ở
vùng thành thị và các khu công nghiệp ở thung lũng Kelang, thủ đô Kuala
Lumpur, trung tâm công nghiệp, thương mại và hành chính là mục tiêu chủ
yếu của lao động nhập cư. Số lao động nước ngoài ở đây chiếm gần 70% tổng
số lao động nước ngoài trên toàn lãnh thổ Malaysia.
Lao động nước ngoài ở Malaysia chủ yếu là từ Indonesia, Ấn Độ, Sri
Lanka, Bangladesh và Việt Nam. Trong đó, người Indonexia chiếm tỉ lệ lớn
nhất, 2 triệu lao động trên tổng số 2.3 triệu lao động nước ngoài tại đây, chủ
yếu làm nghề giúp việc gia đình.
Đầu năm 2009, kinh tế suy thoái khiến tỉ lệ thất nghiệp hiện nay ở
Malaysia là 3.5%. Để giải quyết tình trạng này, từ tháng 1-2009, chính quyền
Malaysia cấm các doanh nghiệp ngành sản xuất và dịch vụ thuê thêm nhân
công nước ngoài sau khi các chuyên gia lao động dự báo 45.000 người tại
Malaysia sẽ mất việc. Năm 2008, khoảng 2,2 triệu người nước ngoài, chủ yếu
từ Indonesia, Bangladesh, Nepal, Ấn Độ, Myanmar và Việt Nam, làm việc
hợp pháp tại Malaysia. Đến tháng 3-2009, số lượng lao động nước ngoài có
giấy phép đã giảm xuống còn 1,9 triệu. Chính quyền Malaysia còn muốn
giảm con số này xuống còn 1,5 triệu vào năm 2015. Nhiều người cho rằng
giảm số lượng lao động nước ngoài sẽ giúp tăng mức lương cơ bản của lao
động trong nước.
3.4. Rào cản khi xuất khẩu lao động sang Malaysia
Có thể nói rào cản lớn nhất đối với người lao động Việt Nam đó là trình
độ lao động. người đi xuất khẩu lao động thường là những người nông dân
nghéo, trình độ văn hóa thấp, tay nghề chuyên môn không có. Do đó, họ chỉ
có thể tìm được các công việc phổ thông, với mức lương thấp và điều kiện
làm việc vất vả. trong khi đó, lao động VN rất khó tiếp cận các thị trường lao
động thu nhập cao như Mỹ, Canada, Ôxtrâylia, Ba Lan…
13
Rào cản thứ hai khi làm việc tại nước ngoài nói chungn và Malaysia

nói riêng đó là khả năng ngoại ngữ. Người lao động trình độ đã thấp, lại
không thể giao tiếp được với chủ của mình, do đó bị thiệt thòi về nhiều mặt.
Mặt khác, chi phí để đi xuất khẩu lao động là quá cao so với khả năng
của những người dân nghèo muốn đi tìm một vùng đất mới. Để đi làm việc tại
Nhật Bản phải tốn khoảng 2.000 USD và khoảng 6.000-10.000 USD đặt cọc.
Đi Hàn Quốc chi phí từ 6.000-7.500 USD. Làm công nhân tại Đài Loan nếu
như năm 2002 chỉ tốn khoảng 1.500 USD, thì nay đã lên đến 4.800- 5.600
USD. Ngay cả thị trường Malaysia, mỗi LĐ cũng phải chi khoảng 17 triệu
đồng.
Và thêm một vấn đề nữa đó là thủ tục giấy tờ. nhiều nước đang cố gắng
cắt giảm lao động nước ngoài bằng cách đưa ra nhiều thủ tục xuất cảnh rườm
rà, phức tạp cho người lao động. tại Malaysia, từ tháng 4, các doanh nghiệp
phải quảng cáo tuyển dụng nhân lực trong nước trong vòng hai tháng, trước
khi xin được giấy phép tuyển lao động nước ngoài. Các doanh nghiệp phải trả
thuế thường niên 1.800 ringgit (510 USD) với mỗi lao động nước ngoài họ
thuê.
4. Phân tích lợi thế cạnh tranh của Việt Nam
4.1 Giới thiệu mô hình Kim cương của Michael Porter
Khi phân tích lợi thế cạnh tranh của ngành XK lao động Việt Nam
bằng mô hình kim cương của Michael Porter, chúng ta lưu tâm đến 4 biến số
chính và 2 biến số phụ.
 4 biến số chính là :
o Yếu tố thâm dụng
o Điều kiện nhu cầu
o Các ngành liên quan bổ trợ
o Cấu trúc, chiến lược của công ty và cạnh tranh của ngành.
 2 biến số phụ là
o Cơ hội,may rủi
o Chính phủ
4.2. Ứng dụng vào dịch vụ xuất khẩu lao động của Việt Nam

4.2.1.Yếu tố thâm dụng: Các nhân tố chính ngành xuất khẩu lao động
cần:Nguồn nhân lực, địa điểm
 Nguồn nhân lực:
Số dân của cả nước là 84,156 triệu người(trong đó, nông dân chiếm
khoảng hơn 73% dân số của cả nước(9/2009). Số liệu trên đây phản ánh một thực
tế là nông dân nước ta chiếm tỷ lệ cao về lực lượng lao động xã hội.
14
Lao động Việt Nam cần cù, khéo léo nhưng chất lượng làm việc còn chưa
cao. Ngay cả lao động làm các công việc phổ thông như thợ điện, thợ sửa ống
nước, nhân viên phục vụ để tìm ra người lành nghề không hề dễ. Lao động xuất
khẩu đa phần có trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp hoặc mới chỉ qua giáo dục
ngắn hạn,cấp tốc.Tính chung, lực lượng lao động xuất khẩu đã qua đào tạo mới
đạt 24%; trong số này, lao động được đào tạo nghề chỉ khoảng 17%.
Nguồn lao động xuất khẩu nước ta phần lớn xuất thân là nông dân, họ
được gọi là những lao động “3 không” ( không nghề, không ngoại ngữ, không ý
thức và tác phong công nghiệp). Sau khi đăng ký đi XKLĐ, họ mới được học
một khóa nghề và ngoại ngữ cấp tốc. Trên thực tế, không phải doanh nghiệp
XKLĐ nào cũng có thể đầu tư cho việc đào tạo một cách bài bản Ngoài ra, một
số doanh nghiệp không tạo được đủ nguồn, tự ý “nới lỏng” điều kiện cho người
lao động, đã bị “tắc” ở khâu làm visa. Điều đó không những gây thiệt hại về
kinh tế cho người lao động, bản thân doanh nghiệp mà còn làm ảnh hưởng đến
uy tín lao động quốc gia.
Là một nước xuất khẩu lao động lớn trong khu vực nhưng tỷ lệ vi phạm
hợp đồng của lao động Việt Nam ở nước ngoài cao. Dù quy định hiện hành về xử
phạt vi phạm trong lĩnh vực XKLĐ là rất rõ ràng nhưng việc xử lý vi phạm của
cơ quan chức năng còn nhẹ tay, dẫn đến doanh nghiệp bị “lờn thuốc”. Theo quy
định, trường hợp đưa lao động ra nước ngoài làm việc mà không đăng ký hợp
đồng cung ứng lao động theo quy định, doanh nghiệp sẽ bị phạt từ 10 triệu đến
15 triệu đồng, bị đình chỉ hoạt động từ 6 đến 12 tháng hoặc thu hồi giấy phép,
buộc bồi thường thiệt hại và mọi chi phí phát sinh nếu gây rủi ro cho người lao

động. Tuy nhiên, trong nhiều năm qua, chưa có doanh nghiệp XKLĐ nào bị rút
giấy phép dù sai phạm đã rành rành.
 Địa điểm:
Việc làm thời vụ tại nước ngoài chỉ phù hợp với lao động các vùng lân
cận, đi lại dễ dàng, không mất phí visa và vận chuyển.Với vị trí địa lý của
mình,Việt Nam sẽ rất thuận tiện cho việc xuất khẩu lao động ra các nước
trong khu vực đang cần lưc lượng lao động lớn như:Malaysia,Đài Loan,Hàn
Quốc…
4.2.2. Những điều kiện về nhu cầu
 Đối với thị trường nội địa:
Tình hình chung sau khủng hoảng kinh tế,nhu cầu về lao động của
các doanh nghiệp Việt Nam đều tăng. Chẳng hạn như tại TPHCM, các doanh
nghiệp cần phải tuyển thêm khoảng 100.000 lao động. Qua tính toán sơ
bộ(8/2009), cơ cấu lao động cần tuyển dụng sẽ bao gồm: lao động phổ thông
chiếm ít nhất là 50%, lao động có trình độ đại học - cao đẳng khoảng 30%, còn
lại 20% là công nhân lành nghề, thợ bậc cao. Tuy nhiên,đối với các ngành thâm
dụng lao động, khó có thể nói rằng nhu cầu sử dụng nhân lực của các doanh
15
nghiệp tăng lên, mà chủ yếu là chỉ nhằm bù đắp vào những thiếu hụt do lao động
nghỉ việc và dòng luân chuyển lao động giữa các doanh nghiệp đang diễn ra khá
mạnh mẽ.
Nguyên nhân dẫn đến sự thiếu hụt lao động hiện nay là do hạn chế về kỹ
năng của người lao động, cùng với tình trạng giá nhân công chưa tương xứng.
Rất nhiều doanh nghiệp đã phải “chữa cháy” bằng cách tuyển lao động “trắng”,
tức hoàn toàn chưa có tay nghề, đưa về đào tạo.
Và theo đánh giá chung, tồn tại nhiều tình trạng, người tuyển dụng thì
tìm lao động “đỏ mắt” còn người lao động tìm việc lại ra về tay không. Có
nhiều lý giải cho vấn đề nay, song một thực tế cần phải nhìn nhận, dù có nhu
cầu tuyển dụng nhiều nhưng chính sách ưu đãi tại các doanh nghiệp dành cho
người lao động, đặc biệt là lao động phổ thông vẫn thiếu hấp dẫn. Với mức

thu nhập trung bình được phổ biến tại các bàn tuyển dụng là 1,8 – 2 triệu
đồng/tháng, tính cả tăng ca thì với một người lao động trong thời điểm hiện
nay, họ chỉ đủ để trang trải tiền trọ và những chi tiêu tối thiểu chứ không thể
dành cho tích lũy. Vì vậy, người lao động vẫn không mặn mà với những băng
rôn, biểu ngữ mà các nhà tuyển dụng đưa ra.
Nhu cầu nhân lực đang đứng trước khả năng tăng “nóng” . Một vấn đề
mang tính chất cốt yếu là tương quan giữa tiền lương thực tế với chỉ số giá cả.
Đang tồn tại một sự chênh lệch đáng kể giữa giá tiêu dùng với giá trị nhân
lực.:thời gian trước có không ít người lao động chấp nhận mức lương thấp để
có việc làm. Nhưng bây giờ, khi hầu hết các doanh nghiệp đều “chào” mức
lương ngang với mức trước khủng hoảng kinh tế, thì nhiều người lại tỏ ra
không mặn mà. Tình hình giá cả tăng đột biến trong thời gian gần đây đã
khiến không ít người phải cân nhắc, tính toán. Các doanh nghiệp đứng trước
nguy cơ khan hiếm lao động càng trầm trọng hơn.
 Thị trường MALAYSIA
Đặc biệt, thị trường này đang “sốt” lao động nữ làm việc trong các lĩnh
vực may mặc, điện tử và chế biến thủy sản. Với một số ưu điểm nổi trội, đa số
chủ sử dụng lao động tại Malaysia đều muốn nhận lao động Việt Nam, nhất là nữ
vào làm việc bởi sự khéo tay, nhận thức nhanh, “thuần” hơn nam giới và lợi thế
ngoại hình. Ngoài ra, hiện nay, Malaysia có nhu cầu cao tiếp nhận lao động nước
ngoài trong các lĩnh vực sản xuất chế tạo, giúp việc gia đình.
Theo Ban quản lý lao động Việt Nam tại Malaysia, bên cạnh những ưu
thế vượt trội về sự khéo tay, thông minh - nhận thức nhanh thì lao động nam
người Việt còn nhiều tồn tại: khả năng ngoại ngữ giao tiếp yếu; tổ chức uống
rượu, đánh bạc dẫn đến đánh nhau không chỉ giữa lao động Việt Nam với nhau
mà với cả với lao động nước ngoài khác.
Ngoài ra, thái độ ứng xử đôi khi gây cho người quản lý và những người
cùng làm hiểu lầm. Đặc biệt, thay vì thương lượng, một số lao động, chủ yếu là
lao động nam coi đình công là biện pháp duy nhất đòi quyền lợi.
16

4.2.3 Những ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan:
Bên cạnh hỗ trợ về vay vốn, ngành LÐ-TB và XH cần tăng cường phối
hợp ngành giáo dục tổ chức đào tạo những nghề khó, thợ tay nghề cao, có tính
đặc thù mà thị trường đang cần, đào tạo theo địa chỉ cụ thể, đáp ứng nhu cầu
thực tế của thị trường. Các cơ quan ngoại giao tăng cường phối hợp và đưa ra
dự báo về biến động thị trường XKLÐ để định hướng cho các doanh nghiệp,
nhất là việc mở rộng thị trường mới.
4.2.4. Cấu trúc, chiến lược của công ty và cạnh tranh trong ngành:
 Cấu trúc, chiến lược của công ty
Hình thức hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao đông Việt
Nam hiện nay là tuyển lao động trực tiếp hoặc khoán trắng ,môi giới.Quy mô
các doanh nghiệp còn nhỏ,thiếu chuyên nghiệp.
Xu thế hiện nay số lượng đơn vị khoán trắng cho chi nhánh hoặc trung
tâm thực hiện hợp đồng; tuyển chọn lao động thông qua môi giới, liên kết tràn
lan, công tác tuyển dụng qua môi giới, tư vấn nhiều hơn doanh nghiệp tuyển
trực tiếp.
Với "mô thức" khoán trắng, nhiều Cty XKLĐ đã dựng lên các cơ sở
đào tạo và cho tư nhân núp bóng, thuê biển hoạt động. Điều đáng nói là chính
các công ty mẹ đôi khi cũng không "quản" được các chi nhánh con khi đã
khoán, đã cho thuê giấy phép theo kiểu - mua đứt - bán đoạn.Vì thế, giá dịch
vụ không thống nhất, kinh phí tuyển dụng và các khoản đóng góp thiếu minh
bạch. Thậm chí, tại nhiều chi nhánh, chi phí cho đi lao động xuất khẩu gấp
tăng gấp 1,5 đến 2 lần, thậm chí có thị trường gấp đến 10 lần so với thông báo
của các doanh nghiệp tuyển dụng.
 Cạnh tranh trong ngành
Doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam không chỉ cạnh tranh với nhau
trong nhận hợp đồng xuất khẩu, mà còn phải cạnh tranh gay gắt với các doanh
nghiệp nước ngoài trong thị trường xuất khẩu lao động rộng lớn.
Mặc dù được nhiều thị trường đánh giá cao, nhưng sức cạnh tranh của
lao động Việt Nam còn chưa cao, chủ yếu cạnh tranh do mức lương thấp,

công việc nặng nhọc, lao động Việt Nam vẫn tập trung ở những thị trường mà
lao động các nước khác không muốn đến.
Không những Việt Nam mà còn khá nhiều quốc gia xuất khẩu lao động
như Indonesia,Philipin,Trung Quốc Thị trường càng béo bở,tiềm năng,thì
càng có nhiều nước muốn ký hợp đồng,mức độ cạnh tranh khốc liệt hơn. Đòi
hỏi chất lượng lao động của các nước nhập khẩu cũng cao hơn:tuyển đúng
người,đúng việc,có trình đô,biết ngoại ngữ…một ví dụ điển hình là việc đưa
lao động Việt Nam sang Thụy Điển thực hiện hợp đồng thời vụ hái dâu trong
17
2 tháng. Lao động Việt Nam xem như bị thất bại trong hợp đồng này trong
khi lao động Thái Lan,Indonesia lại làm rất tốt.Nguyên nhân là: doanh nghiệp
đã tuyển không đúng người, đúng việc, tuyển phần lớn là người quen, người
nhà, chủ yếu là dân thành phố cho các đơn hàng này.Những hợp đồng thời vụ
mặc dù đã được nhiều nước triển khai rất thành công nhưng đối với Việt Nam
mới chỉ mang tính chất thí điểm nên về mặt pháp lý chưa có quy định chặt
chẽ. doanh nghiệp xuất khẩu lao động trong nước chưa có nhiều kinh nghiệm
đối với những đơn hàng này, đã dẫn đến việc thiếu bài bản trong khâu tạo
nguồn cũng như thẩm định hợp đồng. Do thiếu năng lực, hoạt động kém hiệu
quả, không chịu đầu tư mở thị trường mới, một số doanh nghiệp xuất khẩu lao
động VN thường áp dụng “chiêu” kinh doanh và cạnh tranh thiếu lành mạnh
như giành giật đối tác nước ngoài lẫn hợp đồng bằng cách nâng mức phí môi
giới cao hơn thực tế. Thực tế là có doanh nghiệp đã tuyển được người nhưng
đến phút cuối lại bị doanh nghiệp khác chiếm mất vì họ sẵn sàng trả phí dịch
vụ tuyển dụng cao hơn. Đó là chưa kể hiện tượng cạnh tranh thiếu lành mạnh
giữa các tổ chức và cá nhân môi giới cũng như việc bưng bít thông tin về
tuyển dụng, chi phí ban đầu đi nước ngoài làm việc… Điều này đã tạo ra kẽ
hở cho những đường dây trung gian, cò mồi xuất khẩu lao động bành trướng
hoạt động ngầm, nâng phí môi giới, phí tuyển dụng lên cao gấp nhiều lần so
với thực tế.
4.2.5 Chính phủ:

Bộ Lao động Thương binh và Xã hội và Bộ Tài chính ban hành Thông tư liên
tịch 31 hướng dẫn Quyết định 71/2009/QĐ-TTg về phê duyệt đề án “Hỗ trợ các
huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động, góp phần giảm nghèo bền vững giai
đoạn 2009-2020” với tổng kinh phí lên đến 4.715 tỷ đồng, trong đó, phần vốn hỗ
trợ người lao động là 1.542 tỷ đồng, Chỉ tiêu này trong giai đoạn 2016 – 2020
được nâng lên hơn 70.000 lao động xuất khẩu, góp phần giảm khoảng 19% số hộ
nghèo của 61 huyện nghèo:
 Theo đó, lao động thuộc hộ nghèo, dân tộc thiểu số được hỗ trợ 100% phí
học nghề, ngoại ngữ, bồi dưỡng kiến thức theo mức học phí được Bộ Lao động
Thương binh và Xã hội quy định. Người lao động cũng được hỗ trợ tiền ăn, sinh
hoạt phí trong thời gian học với mức 40.000 đồng/người/ngày, tiền ở 200.000
đồng/người/tháng. Ngoài ra còn có tiền trang cấp đồ dùng cá nhân, tiền tàu xe và
được hỗ trợ chi phí làm thủ tục trước khi đi làm việc ở nước ngoài theo các mức
quy định hiện hành. Riêng với người lao động thuộc hộ nghèo, dân tộc thiểu số
tốt nghiệp từ bậc tiểu học trở lên nhưng trình độ văn hoá chưa đáp ứng yêu cầu
sẽ được bổ túc thêm văn hoá với thời gian học tối đa không quá 12 tháng. Học
phí, tài liệu học tập, sách giáo khoa, vở viết, dụng cụ học tập được hỗ trợ toàn
bộ.
 Các chính sách hỗ trợ của đề án bao gồm: hỗ trợ người lao động học bổ túc
văn hóa, học nghề, ngoại ngữ, bồi dưỡng kiến thức cần thiết để tham gia xuất
khẩu lao động; cho người lao động vay tín dụng ưu đãi với lãi suất bằng 50% lãi
18
suất cho vay hiện hành của Ngân hàng Chính sách xã hội áp dụng cho đối tượng
chính sách đi xuất khẩu lao động; các cơ sở dạy nghề cho XKLĐ cũng sẽ được
vay vốn tín dụng ưu đãi để đầu tư tăng quy mô đào tạo.
 Trường hợp người lao động có thời gian làm việc thực tế dưới 12 tháng
phải về nước thì được hỗ trợ bằng 1 lượt vé máy bay khi gặp một trong các lý do:
vì sức khỏe không phù hợp với yêu cầu công việc, vì chủ sử dụng lao động gặp
khó khăn trong sản xuất, kinh doanh nên người lao động bị mất việc làm, vì chủ
sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.

Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội vừa có công văn gửi Ngân hàng Chính
sách xã hội Việt Nam về nội dung mức trần chi phí đối với lao động huyện nghèo
vay vốn đi làm việc ở nước ngoài. Theo đó, Bộ này cung cấp mức trần chi phí ở
một số thị trường và đề nghị quy định mức trần cho vay theo từng khu vực thị
trường tiếp nhận.Cụ thể, mức trần chi phí đi lao động mọi ngành nghề ở Trung
Đông là 45 triệu đồng, Bắc Phi là 40 triệu đồng, Malaysia và Brunei là 25 triệu
đồng, Lào là 15 triệu đồng; Macao giúp việc gia đình là 25 triệu đồng, làm bảo
vệ, nhà hàng là 45 triệu đồng; Đài Loan làm công nhân, hộ lý là 65 triệu đồng; đi
tu nghiệp sinh Nhật Bản là 75 triệu đồng.Mức trần chi phí nói trên được xác định
trên cơ sở các khoản chi phí theo hợp đồng ký giữa doanh nghiệp dịch vụ và
người lao động hoặc trong văn bản thông báo chi phí của các tổ chức sự nghiệp
đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài, và các chi phí khác ngoài hợp đồng như
lệ phí làm visa, hộ chiếu, khám sức khỏe, lý lịch tư pháp và 50% học phí học
nghề, ngoại ngữ và bồi dưỡng kiến thức cần thiết và phí bảo hiểm.
4.2.6. Cơ hội vận may rủi:
Cuộc khủng hoảng tài chính dẫn đến suy giảm kinh tế toàn cầu ảnh hưởng
nghiêm trọng đến việc làm và đời sống của hàng triệu lao động trên toàn thế giới.
Nhiều công ty đa quốc gia sử dụng hàng vạn lao động và cả doanh nghiệp nhỏ và
vừa đã phải tuyên bố phá sản hoặc bắt buộc phải sa thải bớt hoặc giảm giờ làm
của số lượng lớn người lao động và coi đây là một cứu cánh để tồn tại. Các nước
nhận nhiều lao động nước ngoài khẩn cấp ban hành chính sách ưu tiên dành việc
làm cho người lao động bản địa và do sức ép của các tổ chức đại diện người lao
động trong nước, nên chủ sử dụng lao động đã nhắm đến đối tượng sa thải đầu
tiên là người lao động nước ngoài.
 Theo tổ chức lao động quốc tế, trong năm 2008 toàn thế giới cắt giảm
khoảng 210 triệu chỗ làm điều đáng chú ý là việc cắt giảm này sẽ tập trung vào
các ngành nghề vốn là thế mạnh của lao động Việt Nam. Rất nhiều công ty Việt
Nam xuất khẩu lao động sang Đài Loan,Nhật Bản,Hàn Quốc…đã phải làm thủ
tục thanh lý hợp đồng cho lao động về nước trước thời hạn vì nhà máy thu hẹp
sản xuất, cắt giảm nhân công.

 Tính đến những tháng đầu năm 2009, khi tác động của khủng hoảng ngày
càng toàn diện và sâu rộng,thông tin chưa đầy đủ cho thấy số lượng lao động
Việt Nam đã phải về nước trước hạn cho đến nay phải đến 4-5 nghìn người.
19
Mặc dù có được vài hỗ trợ từ nước nhập khẩu(cấp vé máy bay và bồi
thường 1 tháng lương cơ bản theo hợp đồng một năm làm việc )nhưng việc phải
quay về nước ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống cũng như gia đình người
lao động.Người dân Việt Nam mong muốn sang nước ngoài để kiếm đồng lương
khấm khá hơn, trang trải,nuôi sống gia đình thế nhưng thực tế biến họ thành gánh
nặng,nợ nầng chông chất.Điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế
Việt Nam,tỷ lệ người nghèo,thất nghiệp tăng.Xét trong lĩnh vực xuất khẩu lao
động,cung dư thừa,trong khi đó cầu lại ảm đạm.
 Đối với doanh nghiệp xuất khẩu lao động: bị đặt vào hoàn cảnh hết
sức khó khăn, một mặt là do nhiều thị trường giảm nhu cầu nhận lao động, mặt
khác phải tốn nhiều công sức và kinh phí để thanh lý hợp đồng đối với lao động
về trước hạn,đặc biêt trở ngại lớn khi thỏa thuận đối tác hoàn lại ngay một phần
tiền môi giới cho người lao động.
 Tuy nhiên,giai đoạn hiện nay khi nền kinh tế đang gượng dậy,xuất
khẩu lao động có chiều hướng sáng sủa hơn mặc dầu đòi hỏi chất lượng lao động
khắt khe hơn.
4.3. Đối thủ cạnh tranh.
4.3.1. Lợi thế cạnh tranh của Philippin.
Từ lâu, Philippin vẫn nỗi tiếng là một trong những nước xuất khẩu lao
động nhiều và chuyên nghiệp nhất thế giới. Hiếm có quốc gia nào có nhiều
công dân sống và làm việc ở nước ngoài và nền kinh tế phụ thuộc vào nguồn
nhân lực xuất khẩu lớn như Philippines. Đó là cả một ngành công nghiệp
“xuất khẩu nhân lực” bài bản và hiệu quả, trong đó chú trọng vào việc tạo
thương hiệu cho đội ngũ lao động bằng uy tín và chất lượng, những người biết
tôn trọng kỷ luật và cũng được bảo vệ quyền lợi tối ưu. Nếu đem ra so sánh
thí nước ta còn thua xa họ về lĩnh vực này, họ không chỉ hơn ta về số lượng

xuất khẩu về quy mô mà còn hơn cả về chất lượng nguồn nhân lực. Nguyên
nhân là từ đâu, cụ thể những yếu tố nào đã mang lại cho Philippin một ngành
xuất khẩu nhân lực mạnh như thế ? Ta thử điểm qua vài nét nổi bật của họ để
thấy họ có gì và ta cần học gì.
 Xét về mặt nhân lực, theo thống kê Philippines là nước đông dân thứ
mười hai trên thế giới, dân số của họ là 86.241.697 người vào năm 2005.
Tăng trưởng dân số khoảng 1,92%, với 26,3 trẻ em trên 1.000 dân. Trong 100
năm từ cuộc điều tra dân số năm 1903, dân số đã tăng mười một lần. Hệ thống
giáo dục có hiệu quả và dựa theo chương trình giảng dạy của Hoa Kỳ. Tỷ lệ
biết chữ là 95.9%, một trong những nước cao nhất châu Á, với tuổi thọ bình
quân là 72,28 năm đối với nữ và 66,44 đối với nam. Nền giáo dục của
Philippin không chỉ thừa hưởng mà còn phát triển lên nhiều lần dựa trên nền
tảng giáo dục Hoa Kỳ. Nền giáo dục của họ còn biết tập trung vào yếu tố lao
động, xây dựng giựa trên chiến lược xuất khẩu nguồn nhân lực.Với một số
20
lượng lượng lớn và chất lượng cũng được đánh giá tốt, đây có lẽ là lợi thế
cạnh tranh lớn nhất của Philippin trên thị trường lao động quốc tế.
 Về lịch sử, những năm trước 1940 kinh tế Philippin từng được đánh
giá là nước giàu thứ hai châu Á chỉ sau Nhật Bản, họ chỉ thật sự “nghèo” đi
sau khi độc lập khỏi Mỹ từ năm 1946. Tuy hiện là nước đang phát triển,
nhưng những gì Philippin còn lại sau thời kỳ thịnh vượng là cả một gia tài
lớn, một tiềm năng để họ phát triển. Gia tài đó không phải là một con số về
Dollar, đó là những yếu tố thúc đẩy sự phát triển nguồn nhân lực hiên tại của
họ. Những gì họ có đó là một nền giáo dục tốt được phát triển tiếp nối từ nền
giáo dục theo phong cách Tây Ban Nha và Mỹ, tác phong nhân công làm việc
một cách chuyên nghiệp rất phương Tây hơn hẳn các nước đang phát triển
khác.
 Một nét lợi thế về mặt văn hoá cũng tạo nhiều thuận lợi cho ngành
công nghiệp nhân lực Philipin, do từng là thuộc địa của Tây Ban Nha trong
hơn 350 năm và của Mỹ trong hơn 50 năm. Nền văn hoá Philipping được hoà

trộn một cách hoàn hảo giữa phương Tây và phương Đông. Nền tảng của văn
hoá Philippines dựa trên các truyền thống văn hoá của nhiều nhóm dân bản
địa trong vùng, gồm Tagalogs, Ilokanos, Visayans, Bikolanos và các nhóm
khác. Tuy nhiên, nó cũng bị ảnh hưởng lớn từ các văn hoá của người Trung
Quốc, người Tây Ban Nha, người Mỹ, và các nền văn hoá khác tuy ở mức độ
nhỏ hơn. Ảnh hưởng văn hoá Hoa Kỳ đối với Philippines chỉ bắt đầu từ hơn
một thế kỷ nay. Di sản lớn nhất là việc sử dụng rộng rãi tiếng Anh.Với một
nền văn hoá hoà trộn giữa Đông và Tây một cách hoàn hảo, có thể thấy khả
năng hoà nhập của lao động Philippin là rất tốt, lợi thế này rất có giá trị với
xuất khẩu lao động của Philippin.
 Nhân lực Philipin còn có một yếu tố lợi thế khác đó là khả năng ngoại
ngữ của nhân lực rất tốt. Tại Philippin, ngoài tiếng Philipines(tiếng Tagalog)
thì tiếng Anh được coi là ngôn ngữ chính thức tại Philippin. Chỉ thế thôi, cũng
đủ để thấy lợi thế ngoại ngữ của họ. Nhưng họ không chỉ có vây, người
Philipin còn có thể dùng tiếng Tây Ban Nha, tuy số lượng người dùng tiếng
Tây Ban Nha đã giảm sút song, con số này vẫn không nhỏ, đây có thề là một
di sản để lại sau 350 năm là thuộc địa của Tây Ban Nha. Theo cuộc điều tra
dân số năm 1990, có 2.658 người nói tiếng Tây Ban Nha và 292.630 người
nói tiếng Chavacano, một một ngôn ngữ lai Tây Ban Nha. Hàng nghìn từ vay
mượn từ tiếng Tây Ban Nha đã được chấp nhận trong ngôn ngữ của
Philippines, và có khoảng 13 triệu tài liệu bằng tiếng Tây Ban Nha trong các
thư viện tại Philippines. Toà án vẫn chấp nhận các tài liệu được viết bằng
tiếng Tây Ban Nha. Tuy nhiên, người dân nói chung không còn coi tiếng Tây
Ban Nha là thứ ngôn ngữ dùng trong sinh hoạt và lao động hàng ngày ở
Philippines. Đây chỉ là số người dùng, chưa kể số ngươi biết sử dụng tiếng
Tây Ban Nha là rất lớn.
21
Một hệ thống pháp luật tốt quy định nghiệp về việc xuất khẩu nhân lực
cũng là thành công của Philippines trong việc thúc đẩy nền công nghiệp nhân
lực phát triển. Trong khi tỷ lệ người lao động xuất khẩu ở Philippines phần

lớn do khu vực tư nhân thực hiện nhưng Nhà nước giữ vai trò quan trọng
khác, đó là bảo vệ quyền lợi của người lao động và ngăn chặn tuyển người bất
hợp pháp. Cụ thể, để được cấp phép, doanh nghiệp tuyển người lao động phải
do công dân Philippines làm chủ, có những yêu cầu về vốn điều lệ và không
được thu phí của người lao động quá một tháng lương gọi là phí giao dịch
việc làm (trung bình mỗi lao động chỉ phải đóng 700 USD/người đi tất cả các
thị trường). Các tòa lãnh sự quán của Philippines ở các nước quy định rất rõ
các điều khoản hợp đồng của người lao động với chủ người nước ngoài, nếu
chủ sử dụng lao động vi phạm, đơn vị tuyển người sẽ phải chịu trách nhiệm
pháp lý sau khi lao động về nước. Ngoài ra, Chính phủ thực hiện nghiêm lệnh
cấm công dân ở quá hạn visa và thường xuyên cập nhật danh sách những
công nhân bị cấm trong các hợp đồng lao động xuất khẩu trong tương lai, đó
là một phần nỗ lực để giữ “thương hiệu” về XKLĐ.
 Và yếu tố cuối cùng tạo nên một nền xuất khẩu lao động phát triển
đó có lẽ là chính sách của nhà nước Philippin khi họ rất chú trọng phát triển
việc đưa lao động ra nước ngoài. Chiến lược xuất khẩu lao động của
Philippines bắt đầu từ những năm 1970, thời điểm mà nước này đang ngập nợ
và cũng là thời kỳ bùng nổ nhu cầu lao động làm việc tại các nước Trung
Đông khi giá dầu thế giới tăng. Bộ Lao động nước này đã đầu tư những
chương trình đào tạo chuyên nghiệp cho lao động bởi một lao động có nghề
mức thu nhập gấp 2 đến 3 lần lao động phổ thông. Sau nhiều năm, ngành
nghề XKLĐ của Philippines trở nên đa dạng hơn bao giờ hết: từ người giúp
việc, công nhân nhà máy, ca sĩ hát trong các khách sạn, trung tâm giải trí tới
quản lý công ty trong khi thế mạnh vẫn là công nhân xây dựng, thủy thủ, y
tá Trong số này, có tới xấp xỉ 30% là lao động chất lượng cao, thường đảm
nhiệm các vị trí quan trọng trong quản lý và điều hành các công ty. Trong bất
kỳ lĩnh vực nào họ cũng đều thể hiện được trình độ giỏi tiếng Anh, chịu khó,
tận tâm với công việc, ý thức kỷ luật cao… nên lao động Philippines rất được
“chuộng”.Philippines có một cơ chế hoàn chỉnh thống nhất từ Trung ương
đến địa phương, cả trong và ngoài nước về chính sách ưu đãi XKLĐ, nhất là

đảm bảo phúc lợi cao cho lao động làm việc ở nước ngoài như: Đào tạo trước
khi đi lao động, các kế hoạch hưu trí và bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm y tế, hỗ
trợ học phí cho người lao động và gia đình họ, hỗ trợ vốn vay khẩn cấp…
Ngoài ra là các hoạt động tăng cường sợi dây liên hệ của người lao động với
quê hương như tài trợ cho các chuyến biểu diễn nghệ thuật hay thành lập
trường học tại vùng có nhiều người Philippines sinh sống, tập trung vào “giá
trị của người Philippines” trong cộng đồng người xa quê hương. Gần đây,
Chính phủ nước này còn quyết định cho phép người đi XKLĐ có quyền bầu
cử với điều kiện họ sẽ về nước trong vòng 2 năm tiếp theo.Kinh nghiệm ở
Philippines cho thấy, ngoài một hệ thống quản lý XKLĐ hết sức thuận tiện
22
nhưng cũng rất chặt chẽ, đảm bảo thu nhập tối thiểu cho người đi XKLĐ cũng
như chất lượng lao động khi đi làm việc ở nước ngoài, còn có những lớp học
về đất nước, con người, phong tục tập quán, pháp luật ở những nước mà
người lao động sẽ tới làm việc để tránh những xung đột lao động và văn hóa
có thể xảy ra, đặc biệt tránh được những hậu quả nghiêm trọng làm ảnh
hưởng tới hình ảnh đất nước cũng như quan hệ ngoại giao. So với nhiều nước
ở khu vực Đông Nam á, đầu vào của họ không giỏi nhưng hơn hẳn về tính
chuyên nghiệp.

4.3.2. Những diễn biến xuất khẩu lao động của Philipin trong thời
gian qua
Theo thống kê chính thức của Chính phủ Philippines, từ năm 1990 đến
2001, riêng số tiền kiều hối gửi về chiếm 20,3% thu nhập xuất khẩu của cả
nước. Thời điểm cuối tháng 12-2008, khoảng 9 triệu người, chiếm gần 10%
dân số Philippines đang sống và làm việc ở 140 nước. Một nửa số này là lao
động hợp đồng, thường tập trung ở Saudi Arabia, Nhật Bản, Hong Kong,
UAE, Đài Loan, một nửa còn lại chủ yếu di cư ở các nước như Mỹ, Canada,
Australia, Nhật Bản, Anh quốc.Philippin có hơn 8 triệu lao động làm việc ở
nước ngoài vào năm 2007, đã gửi về nước11,8 tỷ USD kiều hối qua các kênh

chuyển tiền chính thức. Ước tính, tổng số kiều hối do lao động nước này gửi
về qua các kênh khoảng từ 14 tỷ đến 21 tỷ USD, lớn hơn cả số vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài FDI và viện trợ quốc tế vào Philippines. Dự kiến vào
năm 2010, con số này sẽ tăng lên 21,4 tỷ USD
Những con số ấn tượng đó phần nào lý giải vai trò và vị trí của người lao
động đối với chính sách và văn hóa của quốc gia này. Mỗi năm, Tổng thống
Philippines thường kỷ niệm Ngày Công nhân di cư bằng cách trao giải thưởng
“Baygong Bayani” (Anh hùng thời hiện đại) cho 20 lao động xuất khẩu xuất
sắc nhất về phẩm hạnh, tính chăm chỉ và kỷ lục gửi tiền về quê hương.

5. Những thuận lợi và khó khăn trong thời gian tương lai.
5.1. Khó khăn.
 Khó khăn lớn trước mắt mà ngành xuất khẩu lao động của ta phải đối
mặt tại thị trường Malayxia có lẽ đến từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Sau khủng hoảng, Chính phủ Malaysia đã quyết định ngừng thuê lao động
nước ngoài vào làm việc tại Malaysia trong 2 lĩnh vực sản xuất và dịch vụ.
Theo quyết định này, Malaysia sẽ ngừng thuê lao động nước ngoài cho 2 lĩnh
vực trên và số đang làm việc tại 2 lĩnh vực này sẽ được phép làm việc cho đến
khi giấy phép lao động của họ hết hạn hoặc cho đến khi bị doanh nghiệp cắt
giảm. Động thái này nhằm đối phó với khó khăn do ảnh hưởng của khủng
hoảng kinh tế thế giới. Do ảnh hưởng của khủng hoảng, năm 2008 đã có trên
33.451 lao động bị cắt giảm so với 26.417 lao động năm 2007. Trong khoảng
23
thời gian từ tháng 10 năm 2008 đến 20 tháng 1 năm 2009 đã có 13,040 lao
động bị cắt giảm bao gồm 2.955 lao động nước ngoài và đã có 45.000 lao
động bị tạm ngừng việc. Hiện tại có 2,1 triệu lao động nước ngoài làm việc
hợp pháp tại Malaysia trong đó khoảng một triệu đang làm việc ở lĩnh vực sản
xuất và dịch vụ. Việc cắt giảm lao động nước ngoài là do ảnh hưởng bởi
khủng hoảng kinh tế thế giới và còn có mục đích lấy chỗ làm cho lao động
người Malaysia bị cắt giảm do ảnh hưởng bới khủng hoảng (bao gồm cả số bị

cắt giảm trong nước và 150.000 lao động làm việc hàng ngày ở Singapore
đang bị cắt giảm dần do Singpore bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế).
 Một khó khăn đến từ chính nguồn cung lao động của chúng ta, hiện tại
thị trường Malayxia đang dần dần mất tính hấp dẫn với người lao động xuất
khẩu.Hiện ở trong nước vẫn tồn tại thông tin sang làm việc tại Malaysia thu
nhập không cao, tiềm ẩn nhiểu rủi ro đã tác động mạnh đến tâm lý người lao
động, khiến họ quay lưng lại với thị trường Malaysia. Nhiều doanh nghiệp
xuất khẩu lao động đã than phiền: có nhiều trường hợp đã đăng ký, được cấp
calling visa, hoàn tất thủ tục xuất cảnh, thậm chí đến giờ bay người lao động
vẫn hủy hợp đồng. Có những doanh nghiệp xuất khẩu lao động trước đây mỗi
năm cung ứng hơn 1.000 lao động sang Malaysia như Airseco, Châu Hưng,
Hiteco, Sovilaco thì nay đều rơi vào tình trạng khó tuyển lao động.Vấn đề
này đôi khi xuất phát từ một vài công ty xuất khẩu lao động của ta, cũng như
từ chính sách xuất khẩu lao động của ta chưa thật sự chuyên nghiệp theo lối
“đem con bỏ chợ”, sau khi có tiền thì không đoái hoài đến lợi ích của công
nhân Việt ta nữa.Tình hình này kéo dài có thể gây ra việc trì trệ xuất khẩu lao
động dẫn đến mất luôn thị trường ổn định và dể tính như Malayxia.
5.2. Thuận lợi.
 Tuy có nhiều khó khăn nhưng bên cạnh đó ta cũng có nhiều điều thuận
lợi. Trước mắt, theo như thông tin thì hiện Chính phủ Malaysia đang có kế
hoạch đầu tư, phát triển hành lang kinh tế phía Bắc và vùng duyên hải, rất cần
nhiều lao động nước ngoài sang làm việc đến năm 2015. Đây là thời cơ rất
thuận lợi cho việc tiếp nhận lao động Việt Nam sang làm việc.Về phía Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội, đã chỉ đạo các công ty chuyên đưa lao động
sang làm việc tại thị trường Malaysia, khi ký hợp đồng cung ứng lao động cho
phía bạn phải đảm bảo mỗi lao động thu nhập không dưới 19
Ringit/ngày/người.
 Thuận lợi tiếp theo đến từ việc khôi phục mạnh mẽ sau khủng hoảng
của nền kinh tế các nước châu Á, trong đó có Malayxia. Nền kinh tế khôi
phục thì nhu cầu lao động của Malayxia lại khôi phục mạnh, những khó khăn

đến từ suy thoái kinh tế sẽ không còn nữa.
24
C.KẾT LUẬN
-Trong quá trình toàn cầu hoá hiện nay, xuất khẩu lao động ngày càng đóng
vai trò quan trọng trong sự phát triển của quốc gia. Xuất khẩu lao động vừa
là phương tiện thu hút ngoại tệ thông qua tiền gửi của người lao động làm
việc ở nước ngoài, vừa là cơ hội tăng việc làm cho người dân, giảm bớt nạn
thất nghiệp ở trong nước. Xuất khẩu lao động được coi là một trong những
chiến lược phát triển của nhiều quốc gia Đông Nam Á trong đó có Việt
Nam.Nhận thức được tầm quan trọng của Xuất khẩu lao động như thế,Việt
Nam cần phải đề ra những chiến lược toàn diện hơn nữa nhằm củng cố và
phát huy những lợi thế và giảm thiểu những bất lợi,khó khăn trong lĩnh vực
này,đưa Xuất khẩu lao động trở thành một trong những yếu tố quan trọng
góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước./.
25

×