Tải bản đầy đủ (.pptx) (25 trang)

Bài Thuyết Trình Kiến Trúc Và Điêu Khắc Chăm Ở Bình Định.pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.73 MB, 25 trang )

KIẾN TRÚC VÀ ĐIÊU KHẮC CHĂM
Ở BÌNH ĐỊNH


KIẾN TRÚC VÀ ĐIÊU KHẮC CHĂM Ở BÌNH ĐỊNH

• Các tháp chăm ở Bình Định: Bình Định là địa phương lưu
giữ khá nhiều tháp Chăm, với 8 cụm di tích với 14 tháp
nằm rải rác trên địa giới hai huyện, một thị xã và một
thành phố: Tây Sơn(tháp Dương Long,Thủ Thiện), Tuy
Phước(tháp Bình Lâm,Bánh Ít), An Nhơn(tháp Cánh
Tiên,Phú Lốc) và thành phố Quy Nhơn(tháp Đôi). Niên
đại của các tháp Chăm được xác định ở Bình Định gần
như cịn ngun vẹn, đa dạng và đạt kỷ lục khu vực Đông
Nam Á và điều được xếp hạng Quốc gia.
• Tất cả các tháp điều được xây dựng bằng vật liệu : Gạch,
đất nung, điêu khắc đá. Cửa chính quay về hướng đơng,
hướng mặt trời mọc.


Tháp Cánh Tiên Tháp Dương
Long


• Điêu khắc Chăm 1 thời kỳ vàng son của đế chế
VIJAYA- Vương quốc Chăm pa kéo dài gần 500
năm. Từ thế kỷ XI đến nửa sau thế kỷ XV đã để lại
cho vùng đất ở Bình Định ngàu nay những di sản
điêu khắc vô giá. Các nghệ sỹ điêu khắc bằng tài
hoa điêu luyện đã biến những khối đá và đất
nung vơ hồn thành những hình tượng thần,


người, các con vật phù hợp với tâm thức của
người chăm bản địa. Các tác phẩm nói chung đều
thấm đẫm ánh hưởng phong cách văn hóa Ấn Độ
giáo với hệ thống tam vi nhất thể (BramaliVihnu- Shiva) cùng vô vàn thần linh, tu sỹ, vũ nữ.



Điểm qua một số tháp Chăm ở
Bình Định:Tháp Cánh Tiên
• Tháp Cánh Tiên ( Tháp Đồng) – tọa lạc tên đỉnh gió khơng cao
lắm ở trung tâm thành Đồ Bàn, cố đo xưa của Vương quốc
Cham pa thuộc thôn An Nhơn , thị xã An Nhơn ngày nay.
Tháp là loại hình kiến trúc phổ biến vủa văn hóa Champa.
• Chức năng: Trong tiếng Chăm có một từ chỉ chung cho loại
hình kiến trúc này là Kalan ( Đền thờ) chức năng chính là để
phục vụ đời sống tâm linh và lễ nghi tơn giáo. Tuy vậy tháp
mang đậm tính nghệ thuật thể hiện được tài năng và khối óc
sáng tạo mà khơng chịu sự gị bó của lễ nghi tơn giáo.
• Tháp Cánh Tiên đẹp tạo dáng độc đáo , bố cục hết sức hợp lý.


• Toàn tháp cao khoảng 20m, 4 mặt quanh thân tháp đều trang trí các cổ
trụ ốp tường nhơ ra theo 1 tỷ lệ hài hòa với tổng kiến trúc . Tháp Cánh
Tiên  hiện lên với một kiến trúc hoành tráng với những khối hình lớn gây
ấn tượng từ xa: các cột ốp, những khung dọc trên mặt tường nằm giữa
các cột ốp nổi lên thành những mảng lớn khoẻ khoắn, các vòm của các
cửa giả vút cao vương lên như hình những mũi giáo khổng lồ, các tháp
trang trí góc các tầng cuộn lại thành những khối chắc nịch, những phiến
đá trang trí các góc tường phía trên của các tầng hình hoa lá nhơ mạnh
ra như những cánh tiên

• Như mọi ngôi tháp truyền thống khác, tháp cấu trúc gồm hai phần: tiền
sảnh và điện thờ, hiện nay toàn bộ cấu trúc của tiền sảnh đã bị sụt lở từ
lâu, các mặt tường phía ngồi của thân tháp được trang trí bằng những
cột ốp và các khung dọc nhơ mạnh ra khỏi mặt tường, một trong những
điều kỳ lạ nhất ở tháp Cánh Tiên là nữa phần phía ngồi của cột ốp góc
tường được ốp kín bằng những phiến đá sa thạch màu tín có chạm khắc
hoa dây xoắn và góc các diềm mái của tháp cũng được làm bằng đá hiện tượng độc nhất trong lịch sử kiến trúc tháp Chăm Pa



Tháp Bánh Ít


 


 


 

Tháp Bánh Ít là một trong bảy cụm Tháp trên đất Bình Ðịnh, một khu di tích đẹp, đặc sắc và cịn lại
nhiều tháp nhất, có giá trị văn hóa độc đáo trong kiến trúc của Việt Nam, được tạo lập vào giai đoạn
cuối thế kỷ XI đến đầu thế kỷ XII, dưới thời trị vì của hai quốc vương Harivarman IV và V. Trước kia tháp
Bánh Ít nằm trong phạm vi của làng Tri Thiện, xã Phước Quang, Tuy Phước nên tháp này còn mang tên
là tháp Tri Thiện, ngồi ra tháp Bánh Ít cịn có những tên gọi khác như tháp Cầu Bà Gi, tháp Thiện Mẫu,
Thổ Sơn hay người Pháp gọi là Tour dargent - tháp Bạc.

Tháp Bánh Ít có bốn ngọn được xây trên một đồi núi đất đỏ, to, cao, trơng có vẻ hùng vĩ, uy nghi, vượt hẳn
những ngọn tháp khác. Ngọn to nhất cao 22m xây ở đỉnh đồi, nhìn từ xa trơng giống như chiếc bánh ít lá

gai. Chung quanh ngọn tháp chính, cịn có ba ngọn tháp phụ, hình dáng thấp và nhỏ bé hơn nhiều. Trong
ba ngọn tháp này, có hai ngọn giống như hai chiếc bánh ít ngọt và một ngọn giống cái bánh ít mặn, đều lột
trần. Mỗi tháp là một kiến trúc riêng biệt mang sắc thái khác nhau, trên đỉnh mỗi tháp đều có tượng thần
Siva làm bằng đá.
Tháp cổng phía đơng cao chừng 13m, xây trên bình đồ hình vng, mỗi chiều 7m, chất liệu hoàn toàn bằng
gạch đá ong. Tháp mở ra hai cửa thông nhau theo hướng Đông - Tây. Ðây là kiến trúc Gopura với vịm cửa
hình mũi giáo, có nhiều lớp liên tiếp vút lên phía trên. Hai mặt Bắc và Nam là hai cửa giả, bịt kín. Thân tháp
có những rãnh dọc được xoi lõm, tạo thành những cột ốp có dáng cao vút, thanh thốt nhẹ nhàng.




 


Một tháp cổng phía Nam cao chừng 10m có phần kiến trúc giống tháp cổng phía
Đơng và cùng phong cách kiến trúc Bình Ðịnh: bình đồ vng, cửa hình mũi giáo,
thân được tạo các cột ốp... Song ở tháp cổng phía nam có những đặc điểm riêng
như bốn cửa thơng nhau. Ðây là kiến trúc Posah có bộ mái khá đặc biệt, các tầng
mái nhỏ dần về phía trên. Mỗi tầng đều có hàng cột thể hiện theo lối thắt giữa,
phình ra ở hai đầu trơng giống như những quả bầu nậm, tạo cho di tích giá trị riêng
biệt.
Tháp chính nằm trên đỉnh đồi, bình đồ hình vng, mỗi chiều đo được 11m, có một
cửa chính ở phía Đơng và ba cửa giả. Ðây là kiến trúc Kalan với cửa chính nhơ ra
khỏi mặt tường đến 2m, vịm cửa hình mũi giáo, chính giữa vịm có phù điêu mặt
Kala. Diềm mái vịm là một băng phù điêu hình khỉ thần HaNuMan đang múa. Ở các
cửa giả nhơ ra ít hơn, diềm mái vòm lại được tạo các phù điêu Gajasimha (mình
người đầu voi). Thân tháp chính có năm cột dọc, rãnh kép, vừa làm cho tường vững
chãi, vừa tạo dáng thanh thoát. Bộ diềm mái ngăn cách với thân được ốp bằng
những khối đá sa thạch, gắn liền với nhau thành một mảng. Ba mái có ba tầng mơ

tả như thân tháp nhưng nhỏ dần về phía đỉnh. Các tầng mái, ngồi hệ thống cột và
cửa giả cịn có những bức trang trí hoa văn. Tầng một, ở phía Nam tạc hình sư tử,
phía Tây và Đơng trang trí bị thần Nadin, phía Bắc thể hiện mặt Kala nhìn thẳng,
bên trong tầng cịn có những tượng thờ bằng đá.



Tháp Đơi







Niên đại: được xây dựng vào cuối thế kỉ XII-đầu thế kỉ XIII
Tháp Đôi(tháp Hưng Thạnh) được xem là 1 ngơi tháp có một khơng hai của nghệ thuật văn
hóa kiến trúc Chăm pa
Tháp Đơi gồm hai tháp là tháp Ông và tháp Bà
Tháp Bắc( tháp Ông) tượng trưng cho người nam, cao khoảng 17,5 m, trong tháp ông theo
tín ngưỡng phồn thực thờ dương vật ,xung quanh có 9 ngực nữ, (9 vía) trong tháp ơng người
chăm cầu may mắn ,mưa thuận gió hịa ,làm ăn xung túc ,...
Tháp Nam( tháp bà) cao khoảng 19.5m, bên trong thờ theo tín ngưỡng phồn thực mà người
Chăm thường cầu duyên, cầu con cái,...
Cả hai tháp đều khơng có mái , là tháp trống mái duy nhất trong hệ thống các tháp Chăm ở
Việt Nam, tượng trưng cho sự giao hòa âm dương/ trời đất.Với chất liệu là gạch nung cùng
một loại chất kết dính đặc biệt,thốt nước tốt , gạch khơng bị đóng rêu,... mà tháp Đơi cùng
nhiều tháp Chăm khác trường tồn qua hàng thế kỉ.





ĐIÊU KHẮC CHĂM Ở BÌNH ĐỊNH




Bình Định đã đi vào lịch sử nghệ thuật Champa với tư thế là một phong cách nghệ
thuật độc đáo, rực rỡ được các nhà nghiên cứu nghệ thuật Champa trong nước và
nước ngoài định danh là phong cách Bình Định, kéo dài gần 500 năm từ thế kỷ XI đến
nửa sau thế kỷ XV. Trước kia có người cịn gọi là phong cách Tháp Mẫm vì phần lớn
các tác phẩm điêu khắc thuộc phong cách này đều được tìm thấy ở gị Tháp Mẫm
(thực ra là Tháp Mắm, xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn; Mắm là biệt danh của người
chủ nhà sống ở đó).
Nghệ thuật điêu khắc Chăm nói chung thấm đậm ảnh hưởng Ấn Độ giáo với hệ thống
Tam vị nhất thể (trimurti), với vô vàn thần linh (người và thú), tu sĩ, vũ nữ... Song những
hình tượng thần, người, thú... đó đều đã được người Chăm bản địa hóa phù hợp với
tâm thức của mình khiến cho điêu khắc Chăm hiện lên trước mắt người xem (khách
tham quan) độc đáo lạ thường. Bên dưới cái ngoại hình Ấn Độ giáo dễ nhận biết ẩn tàng
những nội tâm lúc bay bổng sảng khoái, lúc trầm tĩnh ưu tư, lúc trăn trở day dứt. Không
chỉ là những thần, những người mà cả đến động vật thần thoại hay quen thuộc, cho đến
cả hoa lá đều rung lên, run rẩy sống động dưới nhát đục tài hoa, điêu luyện của các nghệ
sĩ điêu khắc Chăm. Có thể cảm thụ được điều đó qua điêu khắc đá và đất nung Chăm ở
nghệ thuật Bình Định.







Người quen thuộc với nghệ thuật Ấn Độ giáo có thể nhận ra ngay cột linga bệ yoni, biểu tượng của Siva trong hệ thống Tam vị nhất thể (Brama, Visnu,
Siva) song trong nghệ thuật Chăm thần Siva được đưa lên ngôi tối thượng,
trong các nghệ thuật chịu ảnh hưởng của Ấn Độ giáo, khơng ở đâu lại phổ
biến hình tượng Linga - yoni, biểu trưng của phồn thực sinh sơi nẩy nở và
được thờ phượng thành kính sang trọng như trong nghệ thuật Chăm. Đặc
biệt ở Bình Định và nhất là trên các tiêu bản, được trưng bày ở Bảo tàng
Chăm Đà Nẵng - quanh bệ Yoni lại còn nổi lên những núm vú căng trịn mịn
màng ơm xiết lấy bệ, trơng rất hiện thực và có phần sỗ sàng táo bạo. Người
xem tiếp xúc buổi đầu cứ ngỡ ngàng nhìn ngắm. Song điều kỳ thú ở đây là
kiểu thức trang trí kia khơng hề gợi lên một niềm sắc dục. Mà chỉ có sức
sống. Một niềm khao khát cuộc sống, khao khát đến cuồng say.
Hay cứ ngắm nhìn các pho tượng dvarapala (thần hộ pháp) đặt cao trên bệ
với đơi mắt viền mở to trịng mắt lồi ra, cánh mũi nở phập phồng, hàng ria
mép vểnh lên, bộ râu quai nón tỉa tót, mơi trên dày, mơi dưới mỏng với
những đường gân nổi lên, cổ ngắn, thân tròn mập mới thấy được nỗi day
dứt, vẻ lý tưởng hóa cao độ dưới nhát đục của nghệ sĩ thời Bình Định


• Một nỗ lực ra sức vươn tới, bung ra đang bị ức chế.
• Ngay cả động vật, trần thế hay thần thoại cũng vậy. Là voi, sư tử, bò hay là
Ganesa, Garuda, Gajasimha... cũng được đeo đồ trang sức đầy mình, được
trang trí tỉa tót từ đầu đến đi. Trơng có lúc hiền lành, đơn hậu, có lúc làm ra
bộ dữ dằn như muốn đe dọa hay biểu lộ quyền uy. Con voi vốn là con vật thân
hữu và là ân nhân với con người mà cũng là vật cưỡi của thần Indra (thần sấm
sét, thần chiến tranh) trong thần thoại Ấn Độ, vừa thân tình, vừa oai phong. Sư
tử - chúa tể của rừng xanh - biểu dương của sức mạnh quyền uy của các vương
triều Champa (kinh đô đầu tiên của người Chăm ở Trà Kiệu lấy tên là Simhapura
- kinh thành sư tử), vừa là vật cưỡi của thần Visnu (một trong ba vị thần tối cao
của Ấn Độ giáo), với hai chân sau đứng thẳng, hai chân trước đưa cao lên ngang
tai, mồm toét rộng đầy răng, trông vừa dữ tợn như đe dọa lại vừa tinh nghịch.

Bò Nandin, vật cưỡi của thần Siva (một trong Tam vị nhất thể) trong tư thế nằm
thoải mái, đầu ngẩng cao, mõm hơi hếch lên, trán nở, hai mắt nhỏ dài lim dim
trông vừa hiền lành vừa đôn hậu.
• Phải là rất quen thuộc hoặc là rất nhuần nhuyễn với ý niệm về những động vật
đó, rất nhạy cảm với tính chuyển động thường trực trong tâm hồn và với một
thủ pháp điêu luyện mới tạo ra được những hình tượng sinh động như vậy.




Cái tính dân gian cũng là ở chỗ đó. Ngay cả những động vật thần thoại cũng
được thể hiện trong mạch đó.



Thần Ganesa mình người đầu voi, vị thần tùy hành của Siva, ngồi xếp bằng an
tọa vững vàng, thân trịn, vai xi, ngực nở, bụng to, vịi vắt sang bên trái
nhúng vào chiếc đĩa đặt trên bàn tay trái như sẵn sàng ban phước cho mọi
sinh linh, cho nên dân còn gọi là Linh tượng. Garuada là loại chim thần thân
thú đầu chim được coi là chúa tể mọi lồi chim và là vật cưỡi của thần Visnu,
song ít khi được gắn với vị thần chủ mà thường được thể hiện độc lập hai
chân trước nâng cao đỡ bệ thánh. Garuda theo thần thoại là kẻ thù truyền
kiếp của rắn thần Naga nên thường được diễn tả chân dẫm lên đầu Naga, tay
nắm thân mồm ngậm đuôi Naga, trông vững vàng chắc khỏe như một chiến
binh, Gajasimha là loại thú lưỡng hợp có sức mạnh vơ song kết hợp oai phong
của sư tử (hóa thân của Visnu) và vẻ đường bệ của voi, vật cưỡi của thần sấm
sét Indra - loại linh thú này không thấy nhiều trong nghệ thuật Champa, riêng
Bảo tàng Bình Định cịn lưu giữ được một tiêu bản loại này.





Trong các tượng người, đáng chú  ý là hình tượng tu sĩ, nữ thần, vũ nữ. Tu sĩ thì ngồi
trầm tư, bất động, mắt nhìn thẳng, nét mặt thanh thản như đang hướng vào nội tâm,
tay cầm tràng hạt. Những tượng tu sĩ đáng được gọi là tượng chân dung thực sự. Nữ
thần Sarasvati múa thì ngược lại, sơi động tràn đầy sức sống với bộ ngực căng tròn, bụng
nở, bắp đùi thon thả, hai chân khuỳnh ngang một chân trụ vững trên thân Makara chân
kia nhón gót như đang quay tròn theo nhịp quay của thân và tay. Năm cánh tay nõn nà
mềm mại thể hiện năm hoạt động của vũ trụ - Sáng tạo, Bảo tồn, Phá hủy, Hóa thân,
Giải thốt - cầm các vật thiêng như chng nhỏm vòng carka, đoản kiếm ba cạnh... vòng
xuống quanh thân và tung lên cao rồi chụm lại như những cánh sen ôm lấy đài sen là
khuôn mặt thánh thiện của nữ thần đầu đội mũ cánh sen kết lớp. Cổ đeo vịng hạt
chuỗi, bụng quấn khó hạt chuỗi với một tà sampot mỏng thả dài xuống gót chân lượn lờ
theo bước nhảy. Tĩnh đấy mà cứ như vận động liên miên bát tuyệt. Tấm lá nhĩ Bình Nghi
quả đáng là một kiệt tác trong nghệ thuật Bình Định và cả trong nghệ thuật điêu khắc
Chăm nói chung. Đáng chú ý thêm ở hình tượng này là tay phải dưới cùng cầm một cây
đoản kiếm ba cạnh (phurba), tay trái bên dưới cầm một cái chuông (drilbu), hai bàn tay
tên cùng kết ấn Đại giác (utturabodhimudra). Trong Phật giáo Mật Tông, phurba có nghĩa
là hàng ma, drilbu được coi là trí tuệ, utturabodhimudra là thủ ấn tiêu biểu của Đại Nhật
Như Lai (Vairocana), vị thần tối cao của Mật Tông.    


• Trong nghệ thuật Champa, điêu khắc đá và gạch,
đất nung là tạo nên linh hồn cho các kiến trúc đền,
tháp, cho nên những tác phẩm điêu khắc khi còn
gắn với các kiến trúc tương ứng, lại còn làm rõ hơn
tâm hồn nghệ thuật của các nghệ nhân Chăm qua
các giai đoạn. Ví như những Garuda, Linga, Kala,
sư Tử, Voi... ở giai đoạn I với các tháp Bình Lâm,
Bánh Ít; những Brahma, Dvarapal, vũ công ở giai

đoạn 2 với các tháp Dương Long, Tháp Đôi; những
nữ thần múa ở giai đoạn 3 với tháp Thủ Thiện.



×