Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

(Tiểu luận) tiểu luận môn đường lối cách mạng của đảng cộng sản việt nam đề tài cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (701.91 KB, 12 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA QUỐC TẾ

BÀI TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
MÔN: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
Đề tài: Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam.

Họ và tên: Phạm Thị Như Hảo
Mã sinh viên: 18071078
Lớp: IB2018G
Mã lớp học phần: HIS1002 01
Giảng viên: Nguyễn Thị Giang

1

h


MỤC LỤC:
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................3
NỘI DUNG ...............................................................................................................
Chương I: Hoàn cảnh lịch sử và sự thành lập Đảng cộng sản Việt Nam .................4
1. Hoàn cảnh ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam .............................................4
2. Hội nghị hợp nhất tháng 2/1930 ......................................................................5
Chương II: Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ..................................................
1. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng được thể hiện thông qua chính cương
vắn tắt của Đảng ..............................................................................................6
2. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng thể hiện qua sách lược vắn tắt của Đảng ........8
Chương III: Đánh giá, kết luận và bài học kinh nghiệm ...........................................8
TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................12



2

h


Lời mở đầu
Ngày 3-2-1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và xác lập vai trò lãnh đạo cách
mạng, đồng thời, với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái (9-2-1930) đánh dấu sự
chấm dứt ảnh hưởng của hệ thống tư tưởng tư sản, xác lập ảnh hưởng của hệ tư tưởng
vô sản trong cách mạng Việt Nam.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời mở đầu thời đại mới trong lịch sử nước ta, thời đại
giai cấp công nhân và đảng tiên phong của nó đứng vị trí trung tâm, kết hợp với
phong trào yêu nước và cách mạng, quyết định nội dung, phương hướng phát triển
của xã hội Việt Nam. Đây là thời đại nhân dân Việt Nam khơng chỉ làm nển lịch sử
vẻ vang của mình, mà cịn góp phần vào sự nghiệp chung của các dân tộc bị áp bức là
xoá bỏ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, giành độc lập, dâm chủ, hồ bình
và tiến bộ xã hội.
Tiểu luận mơn học của em trình bày về vấn đề Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng được thông qua trong Hội
nghị hợp nhất đã định hướng cho các hoạt động của Đảng trong những ngày mới
thành lập. Do thời gian có hạn và thiếu sót về kiến thức và ngơn từ nên bài làm khơng
tránh khỏi có nhiều thiếu sót. Em xin chân thành cảm ơn cơ đã giúp em tích luỹ được
nhiều kiến thức quý giá thông qua môn học Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản
Việt Nam.

3

h



Chương I: Hoàn cảnh lịch sử và sự thành lập Đảng cộng sản Việt Nam
1. Hoàn cảnh ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam.
Tình hình tồn thế giới đầu thế kỷ XX hết sức biến động, đặc biệt sau Chiến tranh
thế giới lần thứ nhất, Pháp là nước thắng trận nhưng kinh tế đất nước gần như sụp đổ,
vậy nên để khôi phục ngân khố quốc gia, Pháp ra sức bóc lột các quốc gia thuộc địa
để làm giàu, trong đó Việt Nam chúng ta cũng là một trong nước bị Pháp ra sức bóc
lột nặng nề.
Trong q trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài, gian khổ, dân tộc ta sớm
hình thành truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đấu tranh anh dũng, bất khuất.
Vì vậy, ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta liên tiếp đứng lên chống lại
chúng. Từ năm 1858 đến trước năm 1930, hàng trăm cuộc khởi nghĩa, phong trào
chống Pháp đã nổ ra theo nhiều khuynh hướng khác nhau, như khởi nghĩa của
Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, phong trào Cần Vương, phong trào Đông Du,
Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân; các cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng, Hồng
Hoa Thám, Nguyễn Thái Học... lãnh đạo. Các cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh
đó vơ cùng anh dũng, nhưng đã bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo và đều thất bại.
Trước tiền đề là những thất bại của các cuộc khởi nghĩa lúc bấy giờ, mục tiêu đặt
ra là cần phải có một tổ chức đảng chính trị đứng đầu, có đủ tầm nhìn chiến lược và
cả tính lãnh đạo để cùng nhau xây dựng và đứng lên chống thực dân. Vì vậy, các tổ
chức cộng sản lần lượt được thành lập:
- Trước năm 1929, tổ chức Cộng sản đầu tiên là Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên
được thành lập tạo Trung Quốc, tuyên truyền quảng bá con đường đấu tranh trong
nước, đồng thời truyền bá chủ nghĩa Mac-Lenin. Tại Đại hội lần thứ nhất của Hội
Việt Nam cách mạng thanh niên (5-1929) đã xảy ra bất đồng giữa các đoàn đại biểu
về vấn đề thành lập Đảng Cộng sản, trong bối cảnh đó, các tổ chức cộng sản ở Việt
Nam ra đời.
- Đông Dương Cộng sản Đảng: Ngày 17-6-1929, tại 312 Khâm Thiên – Hà Nội, đại
biểu các tổ chức cộng sản ở Bắc kỳ họp Đại hội quyết định thành lập Đông Dương
Cộng sản Đảng (Hoạt động chủ yếu ở Bắc kỳ).

- Đông Dương Cộng sản Liên đoàn: Tháng 9-1929, Đảng Tân Việt phân hoá mạnh
mẽ, những đảng viên tiên tiến của Tân Việt đã thành lập Đơng Dương Cộng sản Liên
đồn (Hoạt động chủ yếu ở Trung kỳ).

4

h


- An Nam Cộng sản Đảng: Tháng 10-1929, các đồng chí trong Hội Việt Nam Cách
mạng thanh niên hoạt động ở Trung Quốc và Nam Kỳ đã thành lập An Nam Cộng
sản Đảng (Hoạt động chủ yếu ở Nam kỳ).
Mặc dù cùng giương cao ngọn cờ chống đế quốc, phong kiến, xây dựng chủ nghĩa
cộng sản Việt Nam, nhưng ba tổ chức cộng sản trên hoạt động phân tán, chia rẽ đã
ảnh hưởng xấu đến phong trào cách mạng ở Việt Nam lúc bấy giờ.
2. Hội nghị hợp nhất tháng 2/1930.
Ngày 27-10-1929, Quốc tế Cộng sản gửi yêu cầu cho người Cộng sản tại Đông
Dương về việc thành lập một Đảng cộng sản tại Đơng Dương.
Nhận thấy tình hình trong nước đồng thời được sự uỷ nhiệm của Quốc tế Cộng
sản, Nguyễn Ái Quốc - Uỷ viên bộ phương Đông, phụ trách Cục phương Nam với tư
cách phái viên Quốc tế Cộng sản đã bí mật từ Thái Lan về Trung Quốc (tháng 111929).
Hội nghị tổ chức bí mật từ ngày 6-1 đến 8-2-1930 tại Cửu Long, Hương Cảng,
Trung Quốc. Tại Hội nghị, Nguyễn Ái Quốc phê phán các tổ chức Cộng sản chia rẽ
thiếu tinh thân đoàn kết, chỉ rõ những sai lầm và hệ quả.
Hội nghị đã thống nhất thành lập Đảng chung hợp nhất An Nam Cộng sản Đảng và
Đông Dương Cộng sản Đảng, lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam. Hội nghị cũng
thống nhất thông qua Cương lĩnh chính trị gồm Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn
tắt, Chương trình tóm tắt, điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái
Quốc soạn thảo.
Sau hội nghị, Đơng Dương Cộng sản Liên đồn đề nghị xin gia nhập Đảng Cộng

sản Việt Nam, ngày 24-2-1930 Ban chấp hành Trung ương lâm thời chính thức chấp
thuận đề nghị.
Tại Hội nghị Ban chấp hành TW, họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hương Cảng từ
ngày 14 đến 31-10-1930, tên của đảng được đổi thành Đảng Cộng sản Đông Dương
theo yêu cầu của Quốc tế Cộng sản và Trần Phú được bầu làm Tổng Bí thư đầu tiên.
Đó là một cột mốc lớn, bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam,
chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước. Chánh cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, được Hội nghị thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam thông qua đã xác định: cách mạng Việt Nam phải tiến hành cách
mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
5

h


hội là con đường cách mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người.

Chương II: Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
1. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng được thể hiện thơng qua chính cương vắn tắt của
Đảng.
Chính cương vắn tắt của đảng nhận định rằng Việt Nam là một xứ thuộc địa, nửa
phong kiến, cơng nghiệp khơng phát triển “vì tư bản Pháp hết sức ngăn trở sức sinh
sản, lại làm cho công nghệ bản xứ không thể nào mở mang được.”
Kinh tế nông nghiệp chiếm ưu thế “ngông nghiệp ngày một tập trung đã phát sinh
ra lắm khủng hoảng, ngông dân thất nghiệp nhiều.” Tình hình đó đã dẫn đến mâu
thuẫn ngày càng kịch liệt giữa một bên là dân tộc ta trong đó có cơng nhân, nơng dân
và tồn thể dân tộc với một bên là đế quốc Pháp và tay sai của chúng.
Đánh giá hai giai cấp tư sản và địa chủ là những đối tượng cần xoá bỏ, Đảng ta đã
có sự phân biệt: “Tư bản bản xứ khơng có thế lực gì, ta khơng nên nói cho họ đi về

phe đế quốc đuợc, chỉ có bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc
chủ nghĩa.” Muốn giải quyết mâu thuẫn đó, nhân dân Việt Nam phải làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Đây là một thể loại
cách mạng vô sản ở các nước thuộc địa mà sinh thời Mác, Lênin và ngay cả Quốc tế
cộng sản cũng chưa nói đến. Sau này, Đảng ta hoàn chỉnh tên gọi của thể loại cách
mạng này là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Mục tiêu chủ yếu lúc này là đánh đổ ách thống trị của đế quốc xâm lược và tay sai
của chúng, giành độc lập dân tộc và dân chủ cho nhân dân. Mục đích cuối cùng là
xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam.
Theo tư tưởng của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thì cuộc cách mạng tư sản dân quyền
và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản bao gồm hai cuộc vận động là cuộc
vận động giải phóng dân tộc và cuộc vận động xây dựng đất nước độc lập tự do hạnh
phúc, phần lớn coi giai đoạn cách mạng là giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp,
giải phóng xã hội. Hai cuộc vận động này liên quan mật thiết với nhau, ảnh hưởng và
thúc đẩy lẫn nhau, cuộc vận động trước thành công tạo điều kiện cho cuộc vận động
sau giành thắng lợi. Vì vậy, giữa hai giai đoạn cách mạng này: giải phóng dân tộc và
xây dựng chủ nghĩa xã hội khơng có bức tường nào ngăn cách, khơng phải tiến hành
một cuộc cách mạng chính trị lần thứ hai để giải quyết vấn đề chính quyền như cách
6

h


mạng Nga và cách mạng Trung Quốc.
Điều đó chứng tỏ rằng, ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã nắm vững nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm cách mạng thế giới, thấu
rõ con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam, nhận rõ mối quan hệ biện
chứng giữa cách mạng dân tộc dân chủ với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh
đầu tiên của Đảng là giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ cách mạng mà Cương lĩnh vạch ra là “đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp,

chế độ phong kiến, làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập”, “Tổ chức ra
quân đội công nông”, “Thu hết sản nghiệp lớn của tư bản đế quốc”, “Thu hết ruộng
đất của bọn đế quốc chủ nghĩa làm của công cách mạng đem chia cho dân cày
nghèo”, “miễn thuế cho dân nghèo”, “đem mọi quyền tự do cho dân chúng”, “thực
hiện ngày làm 8 giờ”, “mở mang công nghiệp và nông nghiệp”, “thực hành giáo dục
tồn dân”, “thực hiện nam nữ bình quyền” v.v
Các nhiệm vụ đó bao hàm cả nội dung dân tộc dân chủ và nội dung xã hội chủ
nghĩa. Song nổi bật nhất là nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai của chúng (đại địa
chủ, đại tư sản phản cách mạng và vua quan phong kiến) giành độc lập, tự do, dân
chủ cho toàn dân tộc.
Về lực lượng cách mạng, Cương lĩnh của Đảng chủ trương đoàn kết tất cả các giai
cấp cách mạng, các lực lượng tiến bộ và cá nhân yêu nước, tập trung lực lượng đánh
đổ kẻ thù chủ yếu của dân tộc là chủ nghĩa đế quốc Pháp và tay sai, mở đường cho
cách mạng phát triển đến thắng lợi hoàn toàn.
Về vấn đề ruộng đất, “xương sống của cách mạng thuộc địa”, Đảng chủ trương
tiến hành từng bước với những nội dung thích hợp với từng thời kỳ cách mạng. ở giai
đoạn giải phóng dân tộc thì quốc hữu hố tồn bộ đồn điền và đất đai của đế quốc và
địa chủ phản cách mạng Việt Nam để chia cho nông dân nghèo, “hết sức lãnh đạo
cho dân cày nghèo làm thổ đại cách mạng, đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến”.
Đối với chủ nghĩa tư bản thì “thu hết sản nghiệp lớn” ( như công nghiệp, vận tải,
ngân hàng v.v.) của tư bản đế quốc Pháp để giao cho chính phủ cơng nông binh. Đối
với các tầng lớp “phú nông, trung tiểu địa chủ và tư sản Việt Nam chưa rõ mặt phản
cách mạng, thì sử dụng, ít nữa là làm cho họ trung lập”. Sau khi cách mạng giải
phóng dân tộc giành thắng lợi, chính quyền đã về tay cơng nơng, Đảng sẽ lãnh đạo
tiến hành những cải cách nhằm “sửa đổi lại những bất công và phân phối lợi nhuận
giữa những nhà tư sản và những người vô sản một cách công bằng hơn”.

7

h



2. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng thể hiện qua sách lược vắn tắt của Đảng.
Trong khi khẳng định “công nông là gốc cách mạng”, Sách lược vắn tắt của Đảng
vạch rõ “phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nơng (Thanh niên, Tân
Việt, phái Nguyễn An Ninh v.v.) để lôi kéo họ về phe vô sản giai cấp”.
Về nguyên tắc liên minh, Sách lược vắn tắt đã viết : “Trong khi liên lạc tạm thời
với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng bộ một chút lợi ích gì của
cơng nơng đi vào đường lối thoả hiệp”.
Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam phải tiến hành bằng “bạo lực cách
mạng của quần chúng, để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”, rồi
“dựng ra chính phủ cơng nơng binh” chứ không phải bằng con đường cải lương.
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, đứng trong
mặt trận cách mạng của các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân thế giới mà đội
quân tiên phong của mặt trận này là Liên Xô. Sách lược vắn tắt ghi rõ: “Trong khi
tuyên truyền cái khẩu hiệu nước Việt Nam độc lập, lại phải đồng thời tuyên truyền
vừa thực hành liên lạc với giai cấp bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất
là vô sản giai cấp Pháp”.
Cương lĩnh đầu tiên cũng khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng “thu phục
cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân
chúng”, “phải thu phục cho được đại đa số dân cày và phải dựa vững vào hạng dân
cày nghèo, phải hết sức lãnh đạo cho dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng, đánh trúc
bọn đại đại chủ, phong kiến”, đồng thời phải liên minh với các giai cấp cách mạng và
tầng lớp yêu nước khác, đoàn kết họ, tổ chức họ đấu tranh cho giải phóng dân tộc và
“để đi tới” chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.

Chương III: Đánh giá, kết luận và bài học kinh nghiệm
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời ở một nước thuộc địa, giai cấp cơng nhân chỉ
chiếm 1,2% dân số, đã có cương lĩnh cách mạng đúng đắn ngay từ đầu. Điều đó

chứng minh rằng Đảng đã nắm vững bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa
Mác-Lênin, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa yếu tố dân tộc và yếu tố giai cấp,
sớm kết hợp yếu tố giai cấp với yếu tố dân tộc một cách sáng tạo; gắn chủ nghĩa u
nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vơ sản, phát huy được truyền thống yêu nước,

8

h


đánh giá đúng vị trí của từng giai cấp cách mạng, đồn kết đợc các lực lượng u
nước, nhờ đó mà Đảng đã nắm được quyền lãnh đạo cách mạng.
Cương lĩnh đầu tiên là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết
Mác-Lênin, đờng lối của Quốc tế cộng sản và kinh nghiệm cách mạng thế giới vào
hoàn cảnh cụ thể nước ta, là sự thể hiện tập trung tư tưởng cơ bản của đồng chí
Nguyễn Ái Quốc về cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
nước thuộc địa nửa phong kiến.
Tuy nhiên, tại Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng tháng 10 năm 1930 đã
phê phán những “sai lầm” của Hội nghị hợp nhất và quyết định “thủ tiêu Chính
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Điều lệ” của Đảng, thơng qua Luận cương chính
trị theo tinh thần chỉ thị của Quốc tế cộng sản, đổi tên đảng là Đảng cộng sản Đơng
Dương.
Sở dĩ có vấn đề chưa thống nhất giữa cương lĩnh đầu tiên do Hội nghị thành lập
Đảng vạch ra với Luận cương chính trị và các văn kiện của Hội nghị trung ương
Đảng tháng 10 năm 1930 là không chỉ do kết hợp hay tách rời yếu tố giai cấp với yếu
tố dân tộc, mà còn do xác nhận đúng hay chưa đúng vị trí của mỗi yếu tố đó trong
điều kiện cụ thể nước ta. Đồng chí Nguyễn ái Quốc đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin, đánh giá đúng hơn và đầy đủ hơn yếu tố dân tộc trong cách mạng Việt
Nam.
Tuy bị phê phán nhưng thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh sự đúng

đắn, sáng tạo của cương lĩnh đầu tiên.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã xác định được những nội dung cơ bản
nhất của cách mạng Việt Nam. Sự đúng đắn của Cương lĩnhđược khẳng định qua
thực tiễn đấu tranh cách mạng và xây dựng đất nước trong suốt 85 năm qua:
Một là, Cương lĩnh xác định rõ nhiệm vụ, mục tiêu cơ bản của cách mạng tư sản
dân quyền (sau này gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân) là chống đế quốc,
chống phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng. Xuất phát từ chế
độ thuộc địa nửa phong kiến, Cương lĩnh đã phân tích mối quan hệ gắn bó giữa hai
nhiệm vụ cơ bản là chống đế quốc và chống phong kiến gắn bó chặt chẽ với nhau
nhưng trước hết phải đánh đổ đế quốc, “làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập”.
Đây là cơ sở để giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Chỉ
có độc lập tự do của đất nước mới đủ điều kiện để thực hiện quyền con người, quyền
công dân.

9

h


Hai là, chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc được xây dựng từ Cương lĩnh chính trị
đầu tiên là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt cách mạng Việt Nam trong cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân đến xây dựng đất nước theo định hướng XHCN hiện nay. Tư
tưởng này thể hiện rõ trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng về các
lực lượng cách mạng. Những lực lượng như tiểu tư sản, trí thức, trung, tiểu địa chủ
đều được Đảng chủ trương tập hợp, đoàn kết lại trong lực lượng cách mạng do công
nông làm nòng cốt.
Chủ nghĩa yêu nước là nền tảng cơ sở cho sự thống nhất trong khác biệt nhằm tập
hợp lực lượng, tạo ra sức mạnh tổng hợp của một đất nước tiềm lực kinh tế, quân sự
không lớn, người không đông, lại phải đối mặt với các thế lực đế quốc đầu sỏ. Hiện
nay, khi tình hình Biển Đơng khơng bình yên, chủ quyền biển, đảo đang bị đe dọa,

hơn bao giờ hết việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tranh thủ sức mạnh quốc tế là
yếu tố quyết định để bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.
Ba là, xác định rõ sứ mệnh lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cùng với
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng, Hội nghị thông qua Điều lệ vắn
tắtvà Lời kêu gọinhân dịp thành lập Đảng. Các văn kiện này chỉ rõ: Đảng Cộng sản
Việt Nam là Đảng của giai cấp vô sản; Đảng được tổ chức ra để dìu dắt giai cấp vơ
sản lãnh đạo quần chúng lao khổ đấu tranh giải phóng tồn thể anh chị em bị áp bức,
bóc lột “để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”.
Sau 30 năm đấu tranh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã viết: “Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số
nhân dân ta Vì vậy, Đảng ta đã đồn kết được những lực lượng cách mạng to lớn
chung quanh giai cấp mình. Cịn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá
sản, hoặc bị cơ lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công
nhân không ngừng được củng cố và tăng cường”. Dưới ánh sáng soi đường của
Cương lĩnh Đảng ta đã dẫn dắt tồn dân tộc vượt qua mọi khó khăn, thử thách, thực
hiện thắng lợi mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và đang trên đường xây
dựng nước Việt Nam giàu, mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Đường lối chiến lược và sách lược cách mạng của Đảng được thể hiện trong Chính
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt là phù hợp với yêu cầu của toàn Đảng và toàn dân.
Cương lĩnh đầu tiên trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết các lực lượng và lãnh đạo
phong trào cách mạng từ khi Đảng được thành lập.
Thực tiễn cách mạng nước ta ngày càng khẳng định sự đúng đắn và sáng tạo của
những tư tưởng chiến lược và sách lược trên đây của đồng chí Nguyễn Ái Quốc . Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã khẳng định: “lấy chủ nghĩa Mác10

h


Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành
động” của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trong giai đoạn hiện nay.

Trải qua các chặng đường lịch sử đấu tranh, với các giai đoạn cách mạng thực hiện
nhiệm vụ cụ thể trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Cương lĩnh, Đảng có lúc cũng
phạm sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng do giáo điều, chủ quan, duy ý chí, vi phạm
quy luật khách quan; do nhận thức của Đảng trên một số lĩnh vực cịn hạn chế; khơng
ít vấn đề lý luận và thực tiễn còn chưa đủ sáng tỏ, nhưng điều quan trọng là Đảng ta
đã nhận ra, thẳng thắn tự phê bình và nghiêm túc sửa chữa, khắc phục có kết quả. Và
qua mỗi vấp váp, sai lầm Đảng thêm trưởng thành.
Trong q trình lãnh đạo, tiến hành cơng cuộc đổi mới, hội nhập, trước bối cảnh
tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường, Đảng cụ thể hóa Cương lĩnh chính
trị trong thời kỳ cách mạng mới, cho thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) và được bổ sung, phát triển năm 2011.
Cương lĩnh của Đảng (2011) khẳng định: “Cương lĩnh của Đảng là ngọn cờ chiến
đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam từng bước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, định hướng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước, của hệ thống
chính trị và nhân dân ta trong những thập kỷ tới. Thực hiện thắng lợi Cương lĩnh này,
nước nhà nhất định trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, hạnh phúc”.

11

h


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ GD-ĐT(1992), Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo Dục- Hà
Nội
2. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh-Khoa Lịch sử Đảng(1995), Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia -Hà Nội
3. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng trung ương (1977), Văn kiện Đảng 1930-1935, Hà
Nội
4. />5. />6. />

12

h



×