Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

(Tiểu luận) đề tài phân tích tính tất yếu khách quan của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của việt nam các tác động tích cực và tồn tại của hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (638 KB, 31 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


ĐỀ TÀI:
PHÂN TÍCH TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM? CÁC TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC VÀ TỒN TẠI CỦA HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ?

GVHD: LÊ VĂN ĐẠI
MÔN HỌC: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
CHUN NGÀNH: NGƠN NGỮ ANH

HCM THÁNG 1/2023

h


LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Kể từ sau cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ ba (1913 – 1950), sự phát triển nhanh chóng của
khoa học cơng nghệ đã thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất vượt ra khỏi phạm vi
biên giới quốc gia, mở rộng trên phạm vi toàn thế giới theo cả chiều rộng và chiều sâu. Do đó, tất cả các
quốc gia khơng phân biệt trình độ đã và đang hình thành mối quan hệ gắn bó lẫn nhau. Đường biên giới
quốc gia và khoảng cách địa lý trở nên mờ nhạt, các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu nối tiếp nhau ra
đời. Sự ra đời của các tổ chức lớn như WTO, APEC, NAFTA và gần đây là sự ra đời của các khu vực
đồng tiền chung Euro đã là ví dụ điển hình trong thiên niên kỷ mới này, cuộc cách mạng công nghệ tiếp
tục đi sâu, mở rộng ứng dụng công nghệ tin học sẽ là động lực chính thúc đẩy hơn nữa q trình hội nhập
kinh tế, tồn cầu hố.
Tuy giành lại được độc lập từ ngày 2/9/1945, nhưng Việt Nam phải trải qua 30 năm kháng chiến, đến năm
1975 đất nước mới hoàn toàn thống nhất. Tuy nhiên, do xuất phát điểm của nền kinh tế quá thấp, hậu quả
chiến tranh quá nặng nề cùng với những thiếu sót, sai lầm trong chỉ đạo kinh tế, duy trì quá lâu cơ chế tập


trung bao cấp nên đến năm 1985 kinh tế Việt Nam rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng. Trong chiến lược
phát triển kinh tế, vấn đề hội nhập nền kinh tế thế giới, tăng cường hợp tác kinh tế các nước và các tổ
chức quốc tế đang là vấn đề được quan tâm. Nhận thấy được tình hình kinh tế của đất nước đang gặp khó
khăn, tháng 12/1986 Đảng và Nhà nước quyết định chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp
sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước bối cảnh toàn cầu như vậy, công cuộc
phát triển kinh tế của nước ta không thể không mở rộng ngoại giao và đặc biệt là phát triển nền kinh tế
với các nước khác. Không thể có một quốc gia nào trên thế giới tồn tại độc lập, phát triển có hiệu quả mà
khơng có mối quan hệ nào với các quốc gia khác trên thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế. Đối với
Việt Nam,trong quá trình đổi mới, Đảng ta đã khẳng định: “Nội lực là nhân tố quyết định ,nhưng ngoại
lực cũng là nhân tố rất quan trọng cho sự phát triển đất nước”. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII của Đảng (năm 1996) đã nêu rõ: : “Trong hoàn cảnh mới, chúng ta chủ trương xây dựng một nền
kinh tế mở, đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, hướng mạnh về xuất khẩu”.

ĐỀ CƯƠNG TIỂU LUẬN
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Trước xu thế mới của thời đại, kinh tế đối ngoại ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong quá trình
phát triển của nền kinh tế tồn cầu cũng như tiến trình phát triển của mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam, sau
hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, kinh tế đối ngoại đã phát triển nhanh chóng, đóng góp tích cực
vào phát triển kinh tế - xã hội cũng như tạo đà phát triển của đất nước trong giai đoạn mới. Trong bối
cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế trở thành một xu thế tất yếu, các quốc gia, dân tộc trên thế giới
muốn vươn lên khẳng định vị thế của mình đều phải tập trung phát triển kinh tế; muốn thực hiện mục tiêu
đó phải kết hợp sức mạnh nội tại với sức mạnh bên ngoài, nhất là về vốn, khoa học, cơng nghệ, trình độ
quản lý... Để hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế quốc tế, tất yếu phải đẩy mạnh phát triển kinh tế quốc
tế. Trong mỗi giai đoạn lịch sử, Việt Nam luôn thực hiện đường lối đối ngoại và kinh tế đối ngoại linh
hoạt, sáng tạo để góp phần phát triển kinh tế, xây dựng đất nước. Nhiều năm nay, Việt Nam luôn nhấn
mạnh phương châm “kế hoạch lâu dài, chất lượng hàng đầu”, điều này đã phát huy vai trò của việc hội

h



nhập kinh tế. Trong q trình hội nhập, đơi khi vẫn còn một số tồn tại và thách thức, do đó, cần phải nhận
thức rõ được vấn đề của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế để tăng cường hiệu quả trong quá trình hội
nhập. Kinh tế là chìa khóa quan trọng cho sự phát triển của một quốc gia, một quốc gia sẽ không thể phát
triển nếu thiếu kinh tế. Thế nhưng chỉ phát triển kinh tế trong nước thì sẽ là một thiếu sót lớn. vì thế, ta
cần phát triển của nền kinh tế trong nước lẫn ngồi nước. Từ những lí do trình bày ở trên, người nghiên
cứu đã chọn đề tài “ PHÂN TÍCH TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM? CÁC TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC VÀ TỒN TẠI CỦA HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ? “ làm đề tài tiểu luận cho mơn kinh tế chính trị. Nghiên cứu đề tài này là rất cần
thiết và mang tính thực tiễn cao, góp phần nâng cao chất lượng nền kinh tế nước ta trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
Phương pháp nghiên cứu
Bài tiểu luận được áp dụng phương pháp phân tích – tổng hợp, phân tích các mặt của vấn đề từ đó rút ra
các kết luận. Ngồi ra, chúng em cịn áp dụng phương pháp liệt kê số liệu để chứng minh vấn đề.
2. Kết cấu của luận án
CHƯƠNG 1: SƠ LƯỢC VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 
1.1. Khái niệm
1.2. Tất yếu khách quan 
1.3. Nội dung
CHƯƠNG 2: TIẾN TRÌNH, THỰC TRẠNG VỀ QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
2.1. Tồn cảnh kinh tế xã hội trước đổi mới
2.2. Quá trình phát triển nhận thức về hội nhập quốc tế được thể hiện qua các kỳ Đại hội Đảng:
2.3. Thành tựu hội nhập kinh tế 
2.3.1. Quan hệ hợp tác
2.3.2. Thành tựu trong xuất nhập khẩu và đầu tư quốc tế:
2.3.2.1 Hoạt động ngoại thương
2.3.2.1.1 Xuất khẩu
2.3.2.1.2. Nhập khẩu
2.3.2.2. Đầu tư quốc tế
2.4.Tác động của việc hội nhập kinh tế quốc tế đến nền kinh tế Việt Nam

2.4.1: Tác động tích cực
2.4.1.1: Kinh tế
2.4.1.2: Cơng nghệ
2.4.1.3: Văn hóa
2.4.1.4: Chính trị
2.4.1.5: An ninh quốc phịng
2.4.2: Tác động tích cực
2.4.2.1: Kinh tế
2.4.2.2: Cơng nghệ
2.4.2.3: Văn hóa
2.4.2.4: Chính trị
2.4.2.5: An ninh quốc phịng
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
3.1. Thời cơ, thách thức và xây dựng chiến lược, lộ trình

h


3.1.1:Thời cơ và thách thức do hội nhập kinh tế quốc tế mang lại 
3.1.2: Xây dựng chiến lược và lộ trình hội nhập KTQT phù hợp 
3.2. Phương hướng nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế trong phát triển của Việt Nam
3.2.1 Nhận thức sâu sắc về thời cơ và thách thức do hội nhập kinh tế quốc tế mang lại:
3.2.1.1.Nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế
3.2.1.2 Thực chất
3.2.1.2.1. Tác động tích cực:
3.2.1.2.2. Tác động tiêu cực
3.2.1.3. Chủ thể tham gia hội nhập
3.2.1.4. Thực tế hiện nay
3.3. Hoàn thiện thể chế kinh tế và luật pháp
3.4. Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của nền kinh tế

3.4.1. Tiềm năng
3.4.2. Thách thức
3.4.3. Giải pháp:
3.4.3.1. Nhà nước
3.4.3.2. Các doanh nghiệp
3.5 Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ của VN
3.5.1 Điều kiện để đảm bảo độc lập, tự chủ về kinh tế
3.5.1.1. Khái niệm về nền kinh tế độc lập, tự chủ
3.5.1.1.1. Khái niệm về độc lập, tự chủ
3.5.1.1.2. Khái niệm về nền kinh tế độc lập, tự chủ
3.5.1.2. Điều kiện để bảo đảm độc lập, tự chủ về kinh tế
3.5.2. Quan điểm của Đảng về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ
3.5.3. Biện pháp xây dựng
PHẦN KÉT LUẬN

h


CHƯƠNG 1: SƠ LƯỢC VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 
1.1. Khái niệm
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình giao lưu, hợp tác giữa nhiều đất nước khác nhau trên khắp thế giới,
nhằm cùng nhau kết nối và phát triển nền kinh tế, dựa trên cơ sở san sẻ ích lợi và tuân thủ những chuẩn
mực chung của quốc tế. Một ví dụ thực tiễn đó là trên khắp tồn cầu hiện nay đã có rất nhiều liên minh, tổ
chức, hiệp hội được thành lập để các quốc gia trong những khu vực cụ thể có thể giúp đỡ nhau, cùng nhau
phát triển vươn lên như: Liên minh Châu Âu (EU); Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) ; Thị
trường chung Trung Mỹ (CACM) ; Hiệp hội mậu dịch tự do Châu Âu (EFTA) ; Hiệp định thương mại tự
do Nam Á (SAPTA) ; Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC)....Về phía Việt Nam,
chúng ta đã chủ động tham gia, đóng góp tích cực tại Liên hợp quốc ; Tổ chức thương mại thế giới
(WTO); Hội nghị thượng đỉnh Á-Âu (ASEM); Hợp tác tiểu vùng sông Mê-kông…Đặc biệt, Việt Nam đã
rất xuất sắc khi đảm nhiệm thành cơng vai trị Chủ Tịch ASEAN vào các năm 1998, 2010 và mới đây

nhất là 2020.
1.2. Tất yếu khách quan
Hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia là q trình quốc gia đó thực hiện gắn kết nền kinh tế của mình
với nền kinh tế thế giới dựa trên sự chia sẻ lợi ích đồng thời tuân thủ các chuẩn mực quốc tế chung.
Thứ nhất,do xu thế tồn cầu hóa kinh tế. Tồn cầu hóa là một xu hướng phát triển tất yếu lịch sử nhân loại
mà trước hết là tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra sôi động, là sự liên kết và trao đổi ngày
càng tăng giữa các quốc gia, các tổ chức hay cá nhân và diễn ra trên nhiều phương diện văn hóa, kinh tế,
chính trị, xã hội…trên quy mơ tồn cầu. Trong đó tồn cầu hóa kinh tế vừa là trung tâm, xu thế nổi trội
nhất và cũng vừa là động lực thúc đẩy toàn cầu hóa các lĩnh vực khác.
Tồn cầu hóa kinh tế là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế, là q trình phát triển mới của
phân cơng lao động và hợp tác sản xuất vượt ra khỏi biên giới một quốc gia vươn tới quy mơ tồn thế
giới, đạt trình độ chất lượng mới.Nó tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế , phát triển hướng
tới một nền kinh tế thế giới thống nhất.
Trong tồn cầu hóa kt, các yếu tố sx được lưu thơng trên phạm vi tồn cầu, nếu khơng hội nhập các nước
không thể tự đảm bảo được các điều kiện cần thiết cho sx trong nước.
Thứ hai, Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình “ mở cửa” nền kinh tế, đưa các doanh nghiệp trong nước
tham gia tích cực vào cạnh tranh quốc tế, là phương thức phát triển phổ biến của các nước, nhất là các
nước đang và kém phát triển trong điều kiện hiện nay: tạo cơ hội để tiếp cận và sử dụng các nguồn lực
bên ngồi như tài chính, khoa học cơng nghệ, kinh nghiệm của các nước phát triển, mở rộng không gian
và thị trường để chiếm lĩnh những vị trí phù hợp nhất …Tuy nhiên, việc mở cửa và hội nhập kinh tế quốc
tế tuy có thể phải trả giá nhất định , song đó là yêu cầu tất yếu hướng tới sự phát triển của mỗi nước. Việt
Nam cũng không nằm ngồi quy hoạch chung này.
Trong diễn trình tồn cầu hóa, đường lối đối ngoại của Việt Nam cũng đã được cụ thể hóa và rõ nét nhất
chúng ta có thể thấy trong các tổ chức kinh tế - chính trị trên thế giới. Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế
quốc tế với sự góp mặt khi đã là thành viên của nhiều tổ chức kinh tế- chính trị quốc tế và khu vực.
Chúng ta đã là thành viên của Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (MF)… Ở cấp liên khu vực,
chúng ta là thành viên tích cực của Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương ( APEC) và sự
kiện vơ cùng quan trọng là chúng ta đã chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO).

h



1.3. Nội dung
Có 2 nội dung chính của hội nhập kinh tế quốc tế. Đầu tiên, chúng ta phải trang bị tiền đề để hội nhập
hiệu quả và thành công. Mặc dù hội nhập là vô cùng cần thiết nhưng Việt Nam không nhất thiết phải hội
nhập bằng mọi giá. Trước khi hội nhập, chúng ta cần xem xét kỹ lưỡng, sau đó đưa ra lộ trình và cách
thức phù hợp nhất. Để thực hiện q trình này thì khơng thể thiếu sự ổn định về tình hình kinh tế trong
nước và công tác đối ngoại hiệu quả. Điều thứ hai là, tận dụng nhiều hình thức khác nhau cũng như đa
dạng hóa các mức độ hội nhập kinh tế quốc tế. Về mặt hình thức, quá trình này bao gồm nhiều hoạt động
liên quan đến kinh tế đối ngoại như: đầu tư quốc tế, dịch vụ thu ngoại tệ, ngoại thương, hợp tác quốc tế…
Xét về mức độ, có 5 cấp độ hội nhập cơ bản được xếp theo thứ tự từ thấp đến cao đó là: Thỏa thuận
thương mại ưu đãi (PTA), Khu vực mậu dịch tự do (FTA), Liên minh thuế quan (CU), Thị trường chung
(hay thị trường duy nhất), Liên minh kinh tế - tiền tệ…Hầu hết các quốc gia khi tham gia hội nhập đều bắt
đầu ở tiến độ thấp nhất, sau đó dần dần tiến sâu vào các cấp độ cao hơn. Một ví dụ điển hình là Việt Nam
- đất nước đã trải qua sự chuyển hóa diệu kỳ từ việc chỉ tham gia vào các khn khổ hội nhập sang vai trị
làm người dẫn đường tài ba của ASEAN. Không những thế, các hiệp định CPTPP và RCEP đã cho phép
Việt Nam ký kết thành công, trong khi nhiều nước chủ tịch ASEAN khác lại khơng thể hồn tất đàm phán
suốt nhiều năm qua. Điều này lại thêm một lần nữa khẳng định vị thế của Việt Nam ta trong thời đại hội
nhập tồn thế giới.
CHƯƠNG 2: TIẾN TRÌNH THỰC TRẠNG VỀ Q TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
2.1. Tồn cảnh kinh tế xã hội trước đổi mới
Sau hơn 35 năm đổi mới (1986-2023), từ một đất nước đói nghèo, Việt Nam ta đã  bước qua ngưỡng thu
nhập trung bình, trở thành một trong những quốc gia hàng đầu về xuất khẩu nông thuỷ sản và ngày càng
hội nhập sâu rộng hơn với kinh tế thế giới.
Vào giai đoạn năm 1986 (Đại hội VI của Đảng), cùng với sự phát triển vượt bậc về công nghệ trong cuộc
cách mạng khoa học cơng nghệ mới lần thứ 3, tồn cầu hố kinh tế trở thành một xu thế chung và tất yếu
đối với sự phát triển kinh tế của các nước trên tồn thế giới. 
Sau khi giải phóng thống nhất đất nước vào năm 1975, nền kinh tế của việt nam còn rất nhiều cứng nhắc
vì cơ chế kinh tế kế hoạch hố tập trung quan liêu bao cấp và mơ hình cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa
kiểu Xơ Viết cũ. Bên cạnh đó, kinh tế nước nhà gặp rất nhiều khó khăn khi các nguồn viện trợ bên ngồi,

các nguồn vốn, hàng hoá vật tư, nguyên liệu, hàng hoá tiêu dùng bị cắt giảm đáng kể, lại thêm Hoa Kỳ
ngăn cản Việt Nam bình thường hố quan hệ với thế giới. 
Nhiều địa phương đã thử nghiệm các cải tiến để đổi mới kinh tế từ năm 1981 như khoán trong nông
nghiệp, điều chỉnh kế hoạch và mở rộng quyền tự chủ cho xí nghiệp cơng nghiệp quốc dân v.v…. Song,
những cố gắng vi mô trên vẫn không thể làm dịu đi khủng hoảng kinh tế trầm trọng của nước ta. Tình
trạng lạm phát vẫn tiếp diễn liên tục và đỉnh điểm có thể lên đến 700%. 
Điển hình là chính sách khốn việc trong nơng nghiệp. Vào cuối năm 1960, hợp tác xã nông nghiệp trở
thành xu hướng chung với nguyên tắc tập thể hoá tư liệu sản xuất và sức lao động và phân phối sản phẩm

h


một cách thống nhất. Nghĩa là, nơng dân đóng góp tất cả tư liệu sản xuất mình có như trâu bò, ruộng đất,
cày cuốc v.v… để Ban chủ nhiệm hợp tác xã quản lý và phân phối. Tất cả sản lượng thu hoạch đều được
nộp lên và chia theo công, điểm. Chính vì thế nên dẫn đến tình trạng “cha chung khơng ai khóc” và “dong
cơng, phóng điểm”. Vì thiếu động cơ từ lợi ích cá nhân, người nơng dân trở nên lười biếng, ì ạch và sản
lượng bị giảm sút ở mức độ nghiêm trọng. Từ bình quân sản lượng đầu người 24 kg/tháng vào năm 1961
giảm còn 14 kg/tháng vào năm 1965. 
Ngày 10/9/1966, Đồng chí Kim Ngọc - Nguyên Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc - đã ban hành Nghị quyết số
68-NQ/TU. Công văn này đề cập đến các thiếu sót cũng như nan đề của khốn việc, từ đó ban hành chính
sách khốn hộ vào thực tiễn. Thay vì phân bố sản lượng chung cho hợp tác xã, giờ đây được năng suất
được quy định theo từng hộ, đồng nghĩa với việc nếu hộ nào đã đạt sản lượng được quy định, số nông sản
dư ra sẽ được tư hưởng. Chính vì yếu tố lợi ích cá nhân được tính đến, người nơng dân trở nên hăng hái
và xơng xáo hơn, từ đó hiệu quả lao động sản xuất nâng cao lên nhiều. Tuy trên thực tế, thời gian triển
khai Nghị quyết 68 không dài nhưng những kết quả gặt hái được từ “khoán hộ” mang lại to lớn vơ cùng.
Đến cuối năm 1967, tồn tỉnh Vĩnh Phúc có 160 hợp tác xã (chiếm 70% số hợp tác xã) đạt năng suất bình
quân từ 5 tấn đến trên 7 tấn/ha; sản lượng lương thực quy thóc đạt khoảng 222.000 tấn, tăng hơn năm
trước đó 4.000 tấn.
2.2. Quá trình phát triển nhận thức về hội nhập quốc tế được thể hiện qua các kỳ Đại hội Đảng:
Khái niệm “hội nhập” được đề cập lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội VIII của Đảng (năm 1996): “Xây

dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế
nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả”(2). 
Đến Đại hội IX (năm 2001), chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế tiếp tục được nhấn mạnh: “Chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Quan điểm về hội nhập kinh tế quốc tế được thể hiện cụ thể trong Nghị
quyết số 07-NQ/TW, ngày 27-11-2001, của Bộ Chính trị khóa IX “Về hội nhập kinh tế quốc tế”.
Đại hội X của Đảng (năm 2006) tái khẳng định chủ trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế
và nêu định hướng “đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Ngày 05/02/2007, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá X đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW “Về một số chủ trương,
chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức
Thương mại thế giới”. Đến Đại hội XI, sau 10 năm hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta đã có bước phát
triển tư duy quan trọng với việc chuyển từ “hội nhập kinh tế quốc tế” sang “chủ động, tích cực hội nhập
quốc tế”(5), tức là mở rộng phạm vi, lĩnh vực và tính chất của hội nhập. Ngày 10-4-2013, Bộ Chính trị đã
ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW “Về hội nhập quốc tế”. Đây là văn kiện có ý nghĩa chiến lược, thống
nhất nhận thức về hội nhập quốc tế trong tình hình mới, xác định mục tiêu, quan điểm chỉ đạo và phương
hướng nhiệm vụ hội nhập quốc tế của Việt Nam giai đoạn tới.
Ngày 7 tháng 1 năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 40/QĐ-TTg phê duyệt Chiến
lược tổng thể hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 của Việt Nam. Hội nghị Trung
ương 4 khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 5-11-2016, “Về thực hiện có hiệu quả tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các
hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”. 

h


Đại hội XIII của Đảng (tháng 1-2021) xác định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hịa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm
cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và
luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng”(6). Đại hội XIII của Đảng (tháng 1-2021) đã đề ra
chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế tồn diện, sâu rộng, có hiệu quả”(7). Khi đề ra chủ

trương này, Việt Nam đã trải qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) và 10 năm thực
hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, “Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có
ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Đại hội XIII của Đảng
(tháng 1-2021) đã có nhận định khái quát về thế giới đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030 và năm
2045.
Có 2 quan điểm cần được lưu ý trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế như sau: 
Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế là nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị vì là yêu cầu xuất phát từ
nội tại nền kinh tế nhằm xây dựng và phát triển đất nước.
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế nhằm tranh thủ nguồn lực từ nước ngoài để phát triển đất nước nhưng
phải đảm bảo giữ vững độc lập, tự chủ và chủ quyền đất nước; mở cửa hội nhập để khai thác các lợi ích
cho sự phát triển kinh tế nước nhà từ nền kinh tế thế giới.
2.3. Thành tựu hội nhập kinh tế 
2.3.1. Quan hệ hợp tác
Với phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá các mối quan hệ quốc tế và tinh thần sẵn sàng hợp tác với
mọi quốc gia trong cộng đồng quốc tế, Việt nam đang không ngừng triển khai và hoàn thiện chủ trương
hội nhập kinh tế để phù hợp với từng giai đoạn, góp phần phục vụ cho sự nghiệp đổi mới và phát triển đất
nước. Một quy tắc nhất quán mà Việt Nam ta luôn chú trọng thực thi là giữ vững độc lập, tự chủ và chủ
quyền của quốc gia, đồng thời đi đôi với hợp tác và phát triển với các nước bạn. Kể từ khi mở cửa hội
nhập quốc tế và mở rộng hợp tác đa lĩnh vực, Việt Nam ta đã trở thành một đối tác đáng tin cậy đối với
cộng đồng quốc tế. Điển hình như:
(1) Về quan hệ hợp tác song phương, tính đến nay, nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với trên
dưới 180 quốc gia khác, mở rộng hoạt động xuất khẩu hàng hoá tới hơn 230 thị trường trên thế
giới, ký kết gần 100 Hiệp định thương mại song phương, khoảng 70 Hiệp định tránh đánh thuế
hai lần, trên 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư và các Hiệp định hợp tác song phương
khác. 
(2) Về hợp tác đa phương và khu vực, Việt nam ta đã gia nhập nhiều tổ chức định chế tài chính quốc
tế. Việt Nam ta đã trở thành thành viên chính thức của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) vào ngày
15/9/1976, Ngân hàng thế giới (WB) vào ngày 21/9/1976, Ngân hàng phát triển châu Á (ADB)
vào ngày 23/9/1976.  Với  việc gia nhập PECC (01/1995), ASEAN (07/1995), Ngày 25/7/1995,

nước ta đã chính thức gia nhập ASEAN, đồng thời tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA). Từ ngày 1/1/1996, chúng ta bắt đầu thực hiện nghĩa vụ và các cam kết trong chương
trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEFT) của AFTA. Tháng 3/1996 nước ta tham gia diễn
đàn hợp tác á - âu (ASEM) với tư cách là thành viên sáng lập. ký kết hiệp định chung về hợp tác

h


kinh tế với EU (7/1995), tham gia APEC (11/1998), và đang chuẩn bị tích cực cho các cuộc đàm
phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Ngày 15/6/1996, Việt Nam đã gửi đơn xin
gia nhập diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - thái Bình Dương (APEC). Tháng 11/1998 đã được
cơng nhận là thành viên chính thức của tổ chức này. APEC quyết định thực hiện hội nhập đầy đủ
vào năm 2010 đối với thành viên là các nước phát triển và vào năm 2020 đối với các nước đang
phát triển (trong đó có Việt Nam). Tháng 12/1994, ta gửi đơn  xin gia nhập Tổ chức thương mại
thế giới (WTO). Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO vào ngày 11/1/2007. Đất
nước ta đã có những bứt phá đáng biểu dương thông qua việc ký kết tham gia các hiệp định kinh
tế song phương và đa phương. Bên cạnh đó, chính phủ Việt Nam cũng đang đàm phán một số
hiệp định thương mại quan trọng khác. Tính đến hết năm 2016, Việt Nam đã tham gia ký kết và
thực thi 10 Hiệp định Thương mại Tự do (FTA), kết thúc đàm phán 2 FTA và đang trong quá
trình đàm phán 4 FTA khác. Trong 10 FTA đã ký kết và thực thi, có 6 FTA được ký kết với tư
cách là một thành viên của ASEAN (bao gồm AFTA, 5 FTA giữa ASEAN và Trung Quốc, Hàn
Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, New Zealand và Úc), 4 FTA ký kết với tư cách là một đối tác độc lập
(Nhật Bản, Hàn Quốc, Chile và Liên minh Kinh tế Á - Âu). 2 FA đã kết thúc đàm phán là với
Liên minh châu Âu và Hiệp định Đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP). 4 FTA đang
được đàm phán gồm có: Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP), Khối Thương
mại Tự do Châu Âu (EFTA), FTA ASEAN - Hồng Kông và FTA với Israel. 
2.3.2. Thành tựu trong xuất nhập khẩu và đầu tư quốc tế:
2.3.2.1 Hoạt động ngoại thương
2.3.2.1.1 Xuất khẩu
Xuất khẩu ghi nhận sự tăng trưởng mạnh về quy mô, từ 176,6 tỷ USD năm 2016 lên 282,7 tỷ USD năm

2020. Tăng trưởng xuất khẩu giai đoạn 2016-2020 đạt trung bình 11,9%/năm, cao hơn mục tiêu 10% do
Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII đề ra. Q trình hội nhập cũng được khai thác hiệu quả, gắn tăng
trưởng xuất khẩu với kiểm sốt có hiệu quả hoạt động nhập khẩu giúp cán cân thương mại chuyển từ nhập
siêu sang xuất siêu. Theo Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu hàng hóa, mục tiêu cân bằng cán cân
thương mại vào năm 2020. Tuy nhiên, từ năm 2016 đến nay cán cân thương mại luôn đạt thặng dư với
mức xuất siêu tăng dần qua các năm từ 1,77 tỷ USD năm 2016, 2,1 tỷ USD năm 2017, 6,8 tỷ USD năm
2018, 10,9 tỷ USD năm 2019. Năm 2020, tiếp tục ghi nhận xuất siêu kỷ lục trên 19 tỷ USD. Đáng chú ý,
cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tiếp tục cải thiện theo chiều hướng tích cực. Tỷ trọng hàng công nghiệp chế
biến tăng từ 80,3% kim ngạch xuất khẩu năm 2016 lên mức 85,1% năm 2019 và 85,2% trong năm 2020.
Trong khi đó, tỷ trọng nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản giảm từ 2% tổng kim ngạch xuất khẩu năm
2016 xuống cịn 1% năm 2020. Số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD tăng dần, từ 28
mặt hàng năm 2016 lên 31 mặt hàng năm 2020.
Bộ trưởng Cơng thương Nguyễn Hồng Diên cho biết, chín tháng năm 2022, tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu của Việt Nam đã đạt 558 tỷ USD, xuất siêu 6,5 tỷ USD. Trong đó, mặc dù số liệu tháng 10 chưa
cơng bố, nhưng ông thông tin cán cân xuất nhập khẩu đã đạt 620 tỷ USD, trong đó xuất khẩu là 313 tỷ
USD, nhập khẩu 306,1 tỷ USD, xuất siêu gần 8 tỷ USD. Theo Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên, trong năm
2022, Việt Nam có 32 mặt hàng xuất nhập khẩu hơn 1 tỷ USD, cao hơn nhiều so với các năm trước. Các
mặt hàng tập trung vào những thế mạnh khai thác tốt các hiệp định thương mại tự do (FTA) của ta như
dệt may tăng 24%, da giày tăng 36%; đồng thời cũng tranh thủ giá cao để đẩy mạnh xuất khẩu các ngành
hàng như hóa chất, phân bón. “Thế giới đang quay cuồng không chỉ trong dịch bệnh mà còn sự đứt gãy

h


của rất nhiều nguồn cung, nhưng với riêng Việt Nam, tất cả hàng hóa, dịch vụ, nguyên vật liệu cho sản
xuất được cung ứng rất kịp thời, mọi thứ đều bình ổn”, ơng Diên nói, đồng thời thơng tin, giá trị tăng
thêm của ngành công nghiệp đạt 9,63%, tăng cao hơn mức tăng cùng kỳ năm trước.
Các mặt hàng xuất khẩu ngày càng trở nên phong phú và đa dạng hơn, với nhiều nhóm hàng “chủ lực” đạt
kim ngạch lớn. Một số mặt hàng xuất khẩu có khối lượng lớn với kim ngạch xếp hạng cao trên thế giới.
Trong đó, máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 19,7 tỷ USD, tăng 55,4%; hàng dệt và may mặc đạt

18,6 tỷ USD, tăng 14,1%; giày dép đạt 12,1 tỷ USD, tăng 27,7%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 9,5 tỷ USD, tăng
53,7%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 6,5 tỷ USD, tăng 48,5%... Trong tháng 7/2021, kim ngạch
xuất khẩu nhóm hàng này ước đạt 23,15 tỷ USD, chỉ tăng 0,9% so với tháng 6/2021 và tăng 9,1% so với
cùng kỳ năm 2020. Tính chung 7 tháng năm 2021, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng cơng nghiệp chế biến
vẫn duy trì mức tăng trưởng cao 27,9% so với cùng kỳ năm 2020, ước đạt 159,12 tỷ USD, chiếm 85,85%
tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Đà tăng trưởng này đến từ hầu hết các mặt hàng chủ chốt của nhóm như: Điện thoại các loại và linh kiện
tăng 11,9%; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 16,5%; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng
tăng 55,4%; gỗ và sản phẩm gỗ tăng 53,7%... Xuất khẩu hàng dệt may và giày dép tiếp tục duy trì đà phục
hồi trở lại với mức tăng trưởng hơn hai con số: hàng dệt và may mặc tăng 14,1%; giày dép các loại tăng
27,7%; vải mành, vải kỹ thuật khác tăng 86,7%; xơ, sợi dệt các loại tăng 62,8% so với 7 tháng năm 2020.

Vào năm 1986, nước ta chưa có mặt hàng nào xuất khẩu trên 200 triệu USD, nhưng hiện nay đã có nhiều
mặt hàng kim ngạch vượt ngưỡng 1 USD và 5 tỷ USD. Đáng chú ý, tỷ trọng xuất khẩu của hàng thô hoặc
mới sơ chế đang ngày một giảm đi. 
2.3.2.1.2. Nhập khẩu
Trị giá nhập khẩu hàng hóa trong tháng 11/2022 đạt 28,28 tỷ USD, tăng 1,3% (tương ứng tăng 375 triệu
USD) so với tháng trước; trong đó, tăng chủ yếu ở các nhóm hàng: máy móc thiết bị dụng cụ và phụ tùng
tăng 370 triệu USD, dầu thô tăng 209 triệu USD, xăng dầu các loại tăng 186 triệu USD, ô tô nguyên chiếc
các loại tăng 149 triệu USD...Tính đến hết tháng 11/2022, tổng trị giá nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam
đạt 331,51 tỷ USD, tăng 10,1% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, tăng mạnh nhất là máy vi tính sản
phẩm điện tử và linh kiện tăng 7,87 tỷ USD, tương ứng tăng 11,5%; xăng dầu các loại tăng 4,42 tỷ USD,
tương ứng tăng 119,6%; hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 2,79 tỷ USD, tương ứng tăng 20,2%; dầu thô

h


tăng 2,72 tỷ USD, tương ứng tăng 69,2%; than đá tăng 2,66 tỷ USD, tăng 58,8%; nguyên phụ liệu dệt
may, da giầy tăng 2,06 tỷ USD, tương ứng tăng 8,6%... Xăng dầu các loại: lượng nhập khẩu trong tháng
11 là là 772 nghìn tấn, tăng mạnh 28,3% so với tháng trước.Tính đến hết tháng 11/2022, Việt Nam đã

nhập khẩu 7,89 triệu tấn xăng dầu các loại, với trị giá là 8,12 tỷ USD, tăng 23,9% về lượng và tăng
119,6% về trị giá so với cùng kỳ năm trước. Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện: trị giá nhập khẩu
trong tháng là 5,63 tỷ USD, giảm 13,2% so với tháng trước. Tính chung, trị giá nhập khẩu nhóm hàng này
trong 11 tháng/2022 đạt 76,07 tỷ USD, tăng 11,5% so với cùng kỳ năm trước. Máy móc, thiết bị, dụng cụ,
phụ tùng khác: trị giá nhập khẩu trong tháng đạt 3,78 tỷ USD, tăng 10,8% so với tháng trước. Tổng trị giá
nhập khẩu nhóm hàng này trong 11 tháng qua là 41,64 tỷ USD, giảm 1,6% so với cùng kỳ năm trước.

Biểu đồ 2: Trị giá nhập khẩu nhóm hàng nguyên liệu dệt may theo thị trường chính 11 tháng
2020 - 2022. (Nguồn: Tổng cục hải quan)

giai đoạn

2.3.2.2. Đầu tư quốc tế:
Ngày 29/12/1987, tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội VIII, Quốc hội thông qua Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam. Đây được coi là bước ngoặt lịch sử, là văn bản pháp lý quan trọng nhất chính thức hóa việc tiếp
nhận đầu tư nước ngồi, tạo điều kiện mời gọi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào
Việt Nam. 30 năm sau, khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI) đang trở thành một phần không
thể thiếu của nền kinh tế, đóng góp khơng nhỏ vào sự phát triển kinh tế xã hội Việt Nam. Hàng loạt các
thương hiệu của tập đồn lớn trên thế giới đã có mặt tại Việt Nam như Samsung, Intel, Microsoft, Toyota,
Honda, KFC, Starbuck… đóng góp khơng nhỏ cho ngân sách nhà nước. Hầu hết các tập đoàn này đều
đang mong muốn tiếp tục mở rộng và đầu tư lâu dài tại Việt Nam. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, sau hơn 30 năm “đón” vốn FDI, từ năm 1988 đến tháng 8/2018, 63 tỉnh, thành phố của cả nước
thu hút 26.438 dự án FDI của 129 quốc gia và vùng lãnh thổ còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký 333,83 tỷ
USD. Vốn FDI đầu tư vào 19/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân. Đầu tư nước ngoài
hiện là nguồn vốn bổ sung quan trọng chiếm khoảng 25% tổng vốn đầu tư cả nước, đóng góp khoảng
20% GDP. Năm 2017, khu vực FDI đóng góp khoảng 8 tỷ USD, chiếm 14,4% tông thu ngân sách. 10 đối
tác đứng đầu có số vốn đăng ký khoảng 82%, trong đó phải kể đến Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore và
Đài Loan (Trung Quốc).

h



Kết quả thu hút FDI này được khởi nguồn từ một quyết định mang tính lịch sử, đó là việc Quốc hội ban
hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam vào năm 1987. Đây là dấu mốc quan trọng tạo điều kiện để
Việt Nam mở cửa, hội nhập, đóng dịng đầu tư từ nước ngồi.
Bên cạnh đó, việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng trở thành một trong những động lực
chính yếu cho sự phát triển kinh tế Việt Nam, đặc biệt là từ sau khi Việt Nam trở thành một thành viên
của WTO. Những năm đầu mở cửa hội nhập kinh tế, vốn FDI được thu hút không đáng kể, nhưng kể từ
khi ký kết tham WTO, lượng vốn không ngừng tăng lên, đỉnh điểm có năm lên đến 70 tỷ USD. Vốn FDI
thực hiện đạt được 15,8 tỷ USD, chiếm 23,4% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội và tăng 9,4% so với cùng kỳ
năm 2015. 
Đồng thời, các lĩnh vực xã hội như giải quyết việc làm, nâng cao đời sống của đông đảo quần chúng nhân
dân, phát triển sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, xây dựng cơ sở hạ tầng, kinh tế – xã
hội cho các vùng sâu, vùng xa, dân tộc thiểu số đã được quan tâm phát triển để từng bước đồng bộ với
phát triển kinh tế. Cụ thể:Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước quý I năm 2022 ước tính là
51,2 triệu người, tăng 441,1 nghìn người so với quý trước và tăng 158,9 nghìn người so với cùng kỳ năm
2021; tỷ lệ tham gia lực lượng lao động đạt 68,1%, tăng 0,4 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 0,6
điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước; lao động 15 tuổi trở lên có việc làm ước tính là 50 triệu người,
tăng 132,2 nghìn người so với cùng kỳ năm trước.Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động của cả nước
quý I năm 2022 ước tính là 2,46%, trong đó tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 2,88%; khu vực nông
thôn là 2,19%. Tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động của cả nước quý I năm 2022 ước tính là 3,01%,
trong đó tỷ lệ thiếu việc làm khu vực thành thị là 2,39%; khu vực nông thôn là 3,40%. Theo Bộ Lao động
– Thương Binh và Xã hội, kế hoạch tuyển sinh giáo dục nghề nghiệp năm 2022 là 2.086 nghìn người.
Trong đó, trình độ cao đẳng, trung cấp đạt 530 nghìn người; trình độ sơ cấp và các chương trình đào tạo
nghề nghiệp khác đạt 1.556 nghìn người. Ước tính tuyển sinh 3 tháng đầu năm 2022 đạt hơn 11.000
người. Cơng tác rà sốt, sắp xếp các cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập thuộc bộ, ngành, địa phương
tiếp tục được thực hiện. Ước tính năm 2022 có khoảng 1.877 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, trong đó 409
trường cao đẳng; 438 trường trung cấp; 1.030 trung tâm giáo dục nghề nghiệp. Tổng số cơ sở giáo dục
nghề nghiệp công lập là 1.184 cơ sở, giảm 4% so với năm 2021.
2.4. TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM

Hội nhập kinh tế quốc tế là một q trình quốc tế hóa kinh tế, tạo ra mơi trường bình đẳng để các nước
tham gia có thể giao lưu, hợp tác từ đó tạo ra những lối liên kết giữa nền kinh tế nước mình với nền kinh
tế tồn thế giới. Việc tham gia vào q trình này quả thật sẽ giúp đem lại những lợi ích to lớn đối với một
nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, nhưng đồng thời nó cũng đem đến khơng ít những thử thách,
vấn đề tiêu cực cần phải đối mặt và giải quyết.
2.4.1. Tác động tích cực
2.4.1.1. Kinh tế
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo rất nhiều thuận lợi trong việc tìm kiếm và mở rộng thị trường tiêu thụ; tạo
điều kiện cho xuất khẩu, kinh tế thương mại trong nước phát triển; giúp tận dụng, khai thác tốt những
điểm mạnh đang có về nguồn lực lao động trong nước và phân cơng lao động quốc tế; góp phần hoàn
thành mục tiêu đã đặt ra về tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững cũng như chuyển đổi mơ hình tăng
trưởng sang chiều sâu với hiệu quả cao.

h


Từ một nước bị cơ lập kinh tế, nạn đói nạn nghèo hoành hành, Việt Nam vươn lên trở thành một nước
đang trên đà khơng ngừng phát triển có mức thu nhập trung bình, có quan hệ kinh tế với vô vàn quốc gia
lớn nhỏ khác nhau. Không chỉ vậy Việt Nam có quan hệ thương mại với trên 220 đối tác, đã ký kết và
tham gia 15 hiệp định hiệp định thương mại tự do, trong đó có nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ
mới; đồng thời có 71 nước cơng nhận quy chế kinh tế thị trường.
Hội nhập kinh tế quốc tế giúp cho nền kinh tế nước ta chuyển đổi theo hướng hợp lý, hiện đại và hiệu
quả; tạo nhiều cơ hội cho các tập đoàn doanh nghiệp trong nước tiếp cận nền kinh tế và đối tác ngoài
nước, lĩnh hội được những ý tưởng tiềm năng cao trong việc thay đổi công nghệ sản xuất; giúp hình thành
và đầu tư vào các lĩnh vực trọng tâm để nâng cao năng lực cạnh tranh và tồn tại của các sản phẩm nội địa
khi tiến ra thị trường quốc tế; tăng khả năng thu hút khoa học cơng nghệ hiện đại và đầu tư nước ngồi
vào nền kinh tế từ đó cải thiện tình trạng đầu tư kinh doanh.
Trong lĩnh vực sản xuất ô tô, Việt Nam lấy làm tự hào khi lần đầu tiên nước ta có thể xuất khẩu xe ơ tơ
sang Mỹ, những 999 chiếc từ tập đồn VinFast. Đây chính là một bước tiến vô cùng quan trọng, một khởi
đầu mới cho ngành ơ tơ nội địa, nó khơng chỉ giúp thị trường tiêu thụ sản phẩm gia tăng mà còn khẳng

định chất lượng hàng Việt Nam trên trường quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách nắm bắt tốt tình hình và xu thế
phát triển của thế giới, giúp điều chỉnh kịp thời và xây dựng chiến lược phát triển hợp lý nhằm đề ra chính
sách phát triển phù hợp với tình hình của đất nước.
Việc hoạch định chiến lược ngày càng trở thành một yếu tố quan trọng của mỗi quốc gia, bởi nó liên quan
đến nhiều mặt lợi ích trong nước, và đối với phát triển kinh tế càng cần thiết. Dựa trên các bài học, góc
nhìn đa chiều có được từ lịch sử, xã hội, Việt Nam chắc chắn phải chuẩn bị những kế hoạch giải pháp phù
hợp cho những mục tiêu phát triển lớn hơn. Việt Nam cần phải tận dụng được ưu điểm từ các thỏa thuận
quốc tế đã đạt được và tìm cách để duy trì tốc độ tăng trưởng dao động trong phạm vi từ 7% đến 7,5%.
Đó là mục tiêu chính trong phát triển cần hoàn thành trong giai đoạn 2021 – 2030, như thế thu nhập bình
quân mới vượt lên mức trung bình.
Hội nhập kinh tế quốc tế giúp cải thiện đời sống hằng ngày trong nước, người dân được lựa chọn và
hưởng thụ các loại sản phẩm, dịch vụ đa dạng cả hình thức lẫn chất lượng với các mức giá khác nhau, tạo
ra nhiều hình thức giao lưu với sản phẩm quốc tế; góp phần gia tăng cơ hội kiếm việc làm trong nước lẫn
ngồi nước.
2.4.1.2. Cơng nghệ
Hội nhập kinh tế quốc tế giúp nâng cao trình độ nhân lực và tiềm lực khoa học công nghệ quốc gia.
Thông qua việc tăng cường hợp tác trong đào tạo giáo dục và nghiên cứu khoa học với bạn bè quốc tế,
tiếp thu ý tưởng mới và nâng cao khả năng sáng tạo khoa học công nghệ hiện đại nhờ đầu tư nước ngồi
cũng như việc chuyển giao cơng nghệ.
Với tinh thần ln học tập, trau dồi kiến thức để giúp đất nước càng tiến bộ càng hiện đại, từ năm 2000
đến nay, trong lĩnh vực khoa học công nghệ, Việt Nam tham gia gần 100 tổ chức quốc tế; có quan hệ hợp

h


tác với hơn 90 quốc gia và tổ chức quốc tế; đã ký kết và thực hiện hơn 80 điều ước, thỏa thuận quốc tế đạt
mức cấp chính phủ, cấp bộ. Với những hành động đó đủ cho thấy quyết tâm phát triển công nghệ cải thiện
đời sống nhân dân của lãnh đạo nước ta.
2.4.1.3. Văn hóa

Hội nhập kinh tế quốc tế là tiền đề về hội nhập văn hóa, tạo điều kiện để tiếp thu những giá trị tinh hoa
của thế giới, bổ sung những giá trị và tiến bộ của văn hóa, văn minh thế giới để làm giàu thêm văn hóa
dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Có thể nói Việt Nam là một quốc gia tham gia rất tích cực trong các hoạt động quốc tế liên quan tới lĩnh
vực văn hóa, chúng ta khơng chỉ mong muốn quảng bá rộng rãi hình ảnh đẹp về văn hóa, truyền thống lâu
đời của dân tộc mà còn tiếp cận với những tinh hoa của các nền văn hóa khác. Bởi thế nên những năm
gần đây, một số nước như: Nhật, Hàn, Nga,… liên tục tổ chức các sự kiện giao lưu văn hóa ở Việt Nam,
cũng như Việt Nam đồng ý các trung tâm văn hóa nước ngoài hoạt động như: Viện Gớt (Đức) hay Viện
Khổng Tử (Trung Quốc),…
2.4.1.4. Chính trị
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện cho cải cách toàn diện hướng tới xây dựng một nhà nước có hướng
phát triển đúng đắn, xây dựng một xã hội bình đẳng, dân chủ, văn minh; góp phần ổn định cán cân thu chi
ngân sách tập trung nguồn lực cho các chương trình phát triển kinh tế xã hội; tạo điều kiện để mỗi nước
tìm cho mình một vị trí thích hợp trên diễn đàn quốc tế rộng lớn, nâng cao vai trị, uy tín và vị thế quốc tế
của nước nhà trong các tổ chức chính trị và các cuộc họp tồn cầu.
Việt Nam từ một đất nước nghèo đói lạc hậu khơng có tiếng, luôn phấn đấu phát triển tiến lên và dần cos
được một vị trí đáng tin cậy trên diễn đàn quốc tế. Việt Nam được tin tưởng để đảm nhiệm vị trí chủ tịch
ASEAN trong hai năm 2010 và 2020, hai lần giữ được chức Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an
Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009 và 2020-2021, đặc biệt trúng cử trở thành thành viên thuộc Hội đồng
Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025,…
2.4.1.5. An ninh quốc phòng
Hội nhập kinh tế quốc tế giúp bảo đảm an ninh quốc gia, duy trì nền hịa bình, trật tự xã hội ổn định trong
khu vực và quốc tế; bên cạnh đó cịn củng cố khả năng liên kết và phối hợp giữa các quốc gia để giải
quyết những vấn đề chung của nhân loại như: biến đổi khí hậu, tội phạm khơng gian mạng, bn lậu
xun quốc gia,…
Như đã biết, đất nước chữ S chúng ta có đường bờ biển hơn 3.000 km, điều đó mang lại một nguồn tài
nguyên biển dồi dào và phong phú nhưng đồng thời cũng là một trong những mối quan tâm hàng đầu về
an ninh. Nước ta thể hiện rõ ràng quan điểm muốn hướng tới những biện pháp hịa bình hữu nghị để tránh
những thiệt hại khơng đáng có giữa xung đột lợi ích căng thẳng giữa các bên. Quan điểm ấy không chỉ
được thể hiện một lần, và được đặc biệt nhấn mạnh trong cuộc họp lần đầu tiên về vấn đề an ninh biển

của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.
2.4.2. Tác động tiêu cực:
2.4.2.1. Kinh tế
Hội nhập kinh tế quốc tế tuy giúp mở rộng thị trường nhưng đồng thời gia tăng sự cạnh tranh lợi ích gay
gắt khiến nhiều doanh nghiệp và ngành nghề nước ta gặp khó khăn trong q trình phát triển, thậm chí
trường hợp tệ nhất là phá sản tạo ra nhiều hậu quả bất lợi về mặt kinh tế xã hội. Không những vậy nó cịn

h


có thể làm gia tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào thị trường tiêu thụ bên ngồi, từ đó làm nền
kinh tế nước nhà dễ bị tổn thương bởi những tác động khó đốn từ nền kinh tế quốc tế.
Các ngành công nghiệp sản xuất chế biến ở Việt Nam đang rơi vào trường hợp vế sau. Bởi công nghiệp
hỗ trợ nước ta kém phát triển, thành ra những ngành nghề ấy phụ thuộc rất nhiều vào nguồn cung cấp linh
kiện nhập khẩu, khơng có tính tự quyết. Biểu hiện rõ nhất là trong thời gian đại dịch COVID-19 diễn ra,
ngành công nghiệp nước ta đối mặt vơ vàn khó khăn khi các quốc gia cung cấp linh kiện sản xuất chủ yếu
gặp vấn đề. Các chuyên gia chỉ ra có nhiều vấn đề trong năm 2022 khả năng cao vẫn tiếp diễn trong năm
2023, và chúng chắc chắn gây ra nhiều tác động trực tiếp tới tồn bộ nền kinh tế Việt Nam. Trong đó, sự
khủng hoảng năng lượng tại EU và đặc biệt là vịng xốy lạm phát và nguy cơ suy thối tại các nền kinh
tế lớn như Mỹ, Trung Quốc có thể khiến cho quy mô nền kinh tế của Việt Nam giảm 0,55% trong năm
2023.
2.4.2.2. Xã hội
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể dẫn đến phân chia khơng bình đẳng giữa lợi ích và rủi ro cho các nước và
các nhóm khác kinh tế nhau trong xã hội. Do vậy có nguy cơ làm tăng khoảng cách giàu nghèo, gây ra sự
mất trật tự bất bình đẳng trong xã hội, sâu hơn là sự tụt hậu và khoảng cách kinh tế quá lớn giữa các quốc
gia.
2.4.2.3. Văn hóa
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể khiến bản sắc dân tộc và những phong tục tập quán, nét văn hóa truyền
thống Việt Nam lâu đời dần bị lu mờ và thậm chí là đánh mất trước sự tràn vào ồ ạt khơng kiểm sốt của
văn hóa nước ngồi.

2.4.2.4. Chính trị
Hội nhập kinh tế quốc tế còn dẫn đến một số vấn đề chính trị phức tạp dành cho các vị lãnh đạo quốc gia,
chủ quyền đất nước. Họ cần phải tìm phương án giải quyết êm đẹp, tránh làm mất mối quan hệ hữu nghị
với các nước, nếu không sẽ phát sinh nhiều hệ lụy đối với việc duy trì trật tự của một Nhà nước và sự an
toàn ổn định khu vực.
Tình hình ở nhiều nước châu Âu là một ví dụ. Từ lâu, châu Âu ln phải phụ thuộc rất lớn vào nguồn
năng lượng từ Nga, nhưng vì các lệnh trừng phạt từ Mỹ và chính EU vơ tình khiến các nước ấy tự dồn ép
chính mình. Giá dầu và khí đốt tăng, tình hình kinh tế khơng thể kiểm soát và mất cân bằng nghiêm trọng,
gây ra sự lạm phát ở nhiều nước, dẫn đến các cuộc biểu tình của người dân và đặc biệt cơn khủng hoảng
chính trị bất ổn kéo dài như: Đức, Ý, Hà Lan,…
2.4.2.5. An ninh quốc phòng
Hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng tình trạng khủng bố quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia, nhập cư bất hợp
pháp,… Trong thời đại ngày nay, tuy khơng cịn tiếng chiến tranh phát ra từ súng nổ hay vũ khí hạt nhân
mà thay vào đó bằng các thủ đoạn gây sức ép chính trị kinh tế, lợi dụng cơng nghệ cao với những tác
động khó lường trong chiến lược “diễn biến hịa bình” bởi các thế lực luôn chống phá Nhà nước ta.
Chủ tịch Interpol Kim Jong Yang tại Đại hội đồng Interpol lần thứ 88 đã nhấn mạnh sự gia tăng và mức
độ nguy hiểm khó đốn đối với các loại hình tội phạm hiện nay, đặc biệt các đường dây lừa đảo xuyên
quốc gia là một vấn đề nan giải khi mỗi năm thế giới chịu thiệt hại khổng lồ, khoảng 10 tỷ USD. Ngay
bản thân Việt Nam cũng đã có rất nhiều tội phạm bị truy nã quốc tế, thậm chí có hơn 200 đối tượng bị liệt

h


vào danh sách đặc biệt nghiêm trọng. Vậy nên phòng chống tội phạm không chỉ là nhiệm nội riêng của
mỗi quốc mà là vấn đề chung của cộng đồng thế giới.
3.1. Thời cơ, thách thức và xây dựng chiến lược, lộ trình
3.1.1.Thời cơ và thách thức do hội nhập kinh tế quốc tế mang lại 
Để phát triển ngoại thương một cách hiệu quả, ta cần nắm rõ, hiểu thấu đáo các nguyên tắc phản ánh
những điều luật của quốc tế, đồng thời cũng mang lại lợi ích về kinh tế, chính trị cho đất nước. Ngun
tắc có ý nghĩa rất quan trọng đầu tiên là ngun tắc bình đẳng, nó làm nền tảng cho việc xây dựng và lựa

chọn đối tác giữa các nước vì mỗi quốc gia đều có những chủ quyền, quyền bình đẳng trong quan hệ quốc
gia của mỗi nước, vì thế ta cần phải đấu tranh giữ gìn và cũng là nhiệm vụ chung của các quốc gia để
khơng nước nào bị thiệt thịi hay tụt lại phía sau. Trong quy định của tổ chức thương mại thế giới (WTO),
có một nguyên tắc quan trọng nhất đó chính là đãi ngộ huệ quốc (MFN) tức là nếu một quốc gia thành
viên cho một quốc gia thành viên khác những đãi ngộ về các lĩnh vực như thuế quan, vận chuyển, luật lệ
thì cũng phải dành cho tất cả các quốc gia thành viên còn lại những đãi ngộ đó.
Hai là nguyên tắc cùng có lợi, đây là nguyên tắc quan trọng, cơ sở khách quan của quy luật này là lợi ích
chung phát sinh từ các yêu cầu, tuân thủ nghiêm ngặt các luật lệ được đặt ra trên phạm vi quốc tế. Nó
được diễn giải cụ thể thành các điều khoản để ký kết các nghị định thư, hiệp định thương mại,… giữa các
nguyên thủ quốc gia từ đó có sự đồng nhất giữa các tổ chức kinh tế với nhau. Ví dụ cho các hợp đồng
thương mại quốc tế như hợp đồng ITC về mua bán các hàng hóa dễ hỏng của quốc tế, hợp đồng ICC sản
xuất hàng hóa để bán ra thị trường. Khi tham gia vào hoạt động kinh tế đối ngoại, ta phải đồng thời tuân
theo những quy định pháp lý quốc tế cơ bản và cũng phải tuân theo pháp luật do nước mình và nước đối
tác quy định. Trên thế giới cũng hình thành những luật pháp quốc tế như Nguyên tắc Hợp đồng Thương
mại Quốc tế (PICC).
Ba là nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi quốc gia, cả hai
bên phải đưa ra những cam kết bình đẳng, khơng gây tổn hại đến lợi ích của đối phương cũng như khơng
được can thiệp vào bộ máy chính trị cũng như những việc nội bộ của quốc gia đó, phải tôn trọng quyền
quyết định sự phát triển của quốc gia, kể cả Liên hợp quốc cũng khơng có quyền can thiệp vào nội bộ
quốc gia, điều này đã được nêu rõ khi Liên hợp quốc thành lập theo khoản 7 Điều 2 Hiến chương Liên
Hợp Quốc: “Tổ chức Liên hợp quốc khơng có quyền can thiệp vào cơng việc thực chất thuộc thẩm quyền
nội bộ của bất kỳ quốc gia nào”.
Cuối cùng là nguyên tắc giữ vững độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa và đây cũng là nguyên
tắc đầu tiên trong việc phát triển ngoại thương của Việt Nam. Tất cả mục đích phát triển mở rộng kinh tế
đối ngoại chung quy là nhằm gia tăng, củng cố hệ thống, bộ máy độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Mọi
hoạt động đều lấy mục tiêu đó làm đầu, tránh để vì lợi ích kinh tế nhất thời mà đi sai lệch với chủ trương
của Đảng. Về kinh tế, lấy bản thân kinh tế của đất nước làm gốc từ đó phát triển, không để bị phụ thuộc
vào một quốc gia nào, cần giữ sự ổn định cũng như phát triển bền vững, đây cũng là yếu tố quan trọng để
Việt Nam có thể thu hút vốn đầu tư nước ngồi. Về chính trị, ta phải đấu tranh để giữ gìn thể chế chính trị
đi theo hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng và nhà nước cũng như nhân dân ta đã chọn. Cịn về xã hội, đảm

bảo trật tự an tồn xã hội, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tránh để những yếu tố ngoại lai xâm nhập và
ảnh hưởng đến văn hóa nước nhà, đi theo phương châm “hịa nhập nhưng khơng hịa tan”. Do đó, mọi
hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại phải cố gắng giữ nguyên những nguyên tắc, mục tiêu, đồng

h


thời phải linh hoạt, khơn khéo trong các chính sách để nắm lấy thời cơ phát triển cũng như mang lại nhiều
hợp tác có lợi cho nước nhà. Hợp tác trong mở rộng và nâng cao kinh tế đối ngoại đều là do sự chuyển
dịch của thời đại, tác động từ những thành tựu của những cuộc cách mạng khoa học đi trước, mọi quốc
gia cần phải thúc đẩy những lợi thế của nước mình trong thị trường quốc tế, tận dụng những thành tựu
khoa học mà con người đã tạo ra, đào tạo nhân lực có chun mơn, phát triển phân công lao động.
3.1.2: Xây dựng chiến lược và lộ trình hội nhập KTQT phù hợp:
3.1.2.1 Chiến lược:
Xây dựng chiến lược hội nhập kinh tế, quốc tế bao gồm những phương hướng, mục tiêu và các giải pháp,
phù hợp với thực tế của đất nước.
Hội nhập kinh tế quốc tế có tầm ảnh hưởng to lớn đến các ngành kinh tế của nhiều quốc gia, vì thế khơng
một quốc gia nào tránh được hoặc đi ngược lại với hội nhập, trong đó kể cả Việt Nam. Ta cần đồng thời
thấy rõ về mặt tích cực và mặt tiêu cực về hội nhập kinh tế, tuy nhiên, lấy cái tích cực, thuận lợi làm nền.
Ta có thể tiếp cận với khoa học-cơng nghệ, mở rộng thị trường từ đó tăng trưởng được nền kinh tế nước
nhà. Bên cạnh đó, ta cũng phải xét thêm về mặt hạn chế, tiêu cực của hội nhập kinh tế. Đó là những biến
động khó lường về cả mặt tài chính và tiền tệ, có thể ảnh hưởng trực tiếp đến cả văn hóa, và những thách
thức về chính trị và an ninh tổ quốc. Tiếp đó, nhà nước là một chủ thể tham gia hội nhập nhưng không
phải duy nhất, mà người dân sẽ đóng vai trị trung tâm, là nịng cốt trong sự nghiệp hội nhập kinh tế, nhà
nước chỉ đóng vai trị dẫn dắt các chủ thể khác như doanh nghiệp, đội ngũ trí thức tham gia tiến trình hội
nhập vươn ra thế giới.
Sau đó, ta mới xét đến các vấn đề như sau: thứ nhất, nắm được bối cảnh quốc tế, các xu thế kinh tế, chính
trị thế giới, tác động của tồn cầu hóa, cách mạng cơng nghiệp để đánh giá đúng, đặc biệt là cách mạng
công nghiệp 4.0. Trong bối cảnh xu hướng liên kết kinh tế tăng mạnh qua các hiệp định thương mại tự do
(FTA), hiệp định Đối tác tồn diện và tiến bộ xun Thái Bình Dương (CPTT),…. ngồi ra, vai trị của

các cơng ty xun quốc gia và các nước lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Nga và EU trong các quyết
định dẫn dắt các liên kết kinh tế quốc tế.
Thứ hai, cần làm rõ vị trí của Việt Nam để xác định khả năng điều kiện và mức độ hội nhập. Nước ta đã
có những bước tiến trong việc đẩy nhanh q trình và địa bàn; nhưng bên cạnh đó việc chuẩn bị chưa
được hoàn thiện so với những việc này. Những vấn đề mang tính rộng lớn như pháp lý, năng lực thể chế,
nguồn lực về con người thì những doanh nghiệp ở nước ta vẫn chưa nhận thức rõ và còn khá mơ hồ, chưa
dành nhiều sự quan tâm về các thông tin được cập nhật trên thị trường thế giới, Ví dụ chẳng hạn như các
FTA mới (hiệp định thương mại tự do mới) đòi hỏi phải điều chỉnh luật lệ, chính sách khơng chỉ về kinh
tế, thương mại mà cả các vấn đề phi thương mại, như quyền của người lao động, tiêu chuẩn lao động, tự
do hiệp hội – cơng đồn, mơi trường, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm chính phủ. Đây là sự chưa chủ
động tham gia trong các kế hoạch sản xuất kinh doanh cũng như chiến lược hội nhập quốc tế. Biết được
những hạn chế tồn tại này, ta cần đưa ra phương án, mục tiêu cụ thể để có thể xử lý cũng như khắc phục
kịp thời để nâng cao giá trị kinh tế đất nước cũng như tham gia vào cuộc chạy đua kinh tế và doanh
nghiệp giữa các quốc gia. Nghiên cứu kinh nghiệm về hội nhập quốc tế của các nước đi trước nhằm đúc
kết những bài học thành công cũng như thất bại.

h


Thứ ba, chiến lược hội nhập kinh tế phải đi đơi với hội gắn hội nhập tồn diện, điều chỉnh linh hoạt ứng
phó kịp thời với sự biến đổi của thế giới. Đây là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa để có thể giữ an tồn
trong hành trình hội nhập kinh tế, tránh được những biến đổi bất ngờ gây tổn hại cho nền kinh tế. Ví dụ
như về những biến động trên thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường hàng hóa quốc tế, xung đột, tranh
chấp sẽ tác động nhanh hơn, mạnh hơn đến nền kinh tế nước ta, ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định và
phát triển bền vững của ta; thách thức về bảo đảm an ninh, giữ gìn bản sắc dân tộc, sự phát triển không
đều… Ta cần nắm rõ đến kịp thời ứng phó với những biến đổi khó lường trên.
Tiếp theo là nước ta cần tích cực trong việc chủ động tham gia các liên kết quốc tế trong đó các bên phải
thực hiện đầy đủ các cam kết trong liên kết trong phạm vi như khu vực hoặc quốc tế. Từ khi giành được
độc lập đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ với 189 quốc gia, quan hệ kinh tế hơn 221 thị trường kinh
tế nước ngồi có quan hệ gắn bó thân thiết với Cuba, điều này có nghĩa mở rộng thị trường tiêu thụ hàng

hóa cho nước ta cũng như thu về rất nhiều hợp đồng thương mại có giá trị, ký kết nhiều hiệp định, khuyến
khích và bảo hộ đầu tư hiệp định chống thu thuế hai lần. Là thành viên của nhiều tổ chức và diễn đàn
quốc tế như: Liên hợp quốc (1977),WTO (2007), ASEAN (1995), APEC (1998),... và nhiều tổ chức kinh
tế khác nữa. Với tư cách là một thành viên chính thức của những tổ chức trên. Việt Nam đang nỗ lực, cố
gắng hoàn thành đầy đủ trách nhiệm cũng như nghiêm túc với các cam kết và tích cực tham gia các hoạt
động liên quan đến các tổ chức này như là cắt giảm thuế quan, mở cửa dịch vụ, đầu tư. Việc tích cực tham
gia đầy đủ các hoạt động trong các tổ chức quốc tế góp phần nâng cao vị thế của quốc gia, sự uy tín và vai
trò của Việt Nam càng được khẳng định, tạo được sự tin cậy, tôn trọng từ nhiều quốc gia.
Cuối cùng, lộ trình hội nhập cần được rõ thời gian, mức độ, bước đi trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc
tế, xác định các ngành, các lĩnh vực cần ưu tiên nhằm tập trung các nguồn lực để hình thành các lĩnh vực
nòng cốt, các nhân tố đột phá trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế như hồn thiện bộ máy thể chế luật
pháp, cần có sự đổi mới để phù hợp với các nguyên tắc chung trên thị trường thế giới. Đó là cơ sở then
chốt để nước ta có thể tham gia được vào thị trường nước ngoài cũng như tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp có nơi để tiêu thụ sản phẩm.
3.1.2.2 Lộ trình
Về lộ trình, ta có ví dụ cụ thể về sự tham gia và đóng góp cũng như vai trị về lĩnh vực mơi trường của
nước ta hiện nay, thì bộ Tài nguyên và Môi trường đã triển khai một số định hướng như:
Một là, thay đổi, hồn thiện các chính sách, chủ trương để phát triển bền vững, có thể kể đến như tiếp tục
thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa X theo nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội theo Nghị quyết Đại
hội XI và XII của Đảng.
Hai là thắt chặt luật pháp để hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như phù hợp với cam kết thế giới.
Ba là cải cách hành chính cũng như hiệu suất làm việc của bộ máy nhà nước, phải rà soát cũng như loại
bỏ những thủ tục hành chính khơng cần thiết, tăng cường quản lý, giám sát của các hệ thống cơ quan nhà
nước, luôn công khai, minh bạch về các chính sách, tránh gây sự hoang mang, lo lắng cho người dân cũng
như tránh mọi bất lợi cho các doanh nghiệp.
Bốn là tiếp tục kêu gọi nguồn lực, vốn đầu từ nước ngoài, hiệu quả kinh tế xã hội, môi trường.

h



Năm là, bên cạnh việc phát triển kinh tế từ tài nguyên thiên nhiên, cũng cần chú trọng đến vấn đề bảo vệ
mơi trường, hồn thiện, thắt chặt về luật pháp liên quan đến vấn đề môi trường cũng như tun truyền,
khuyến khích pháp luật về tài ngun mơi trường, áp dụng những tiêu chuẩn quốc tế vào các điều kiện ở
Việt Nam. Cuối cùng đẩy mạnh hợp tác với các nước đã ký kết, thực hiện đúng phương chấm đa dạng hóa
trong quan hệ kinh tế.
3.2. Phương hướng nâng cao hiệu quả hội nhập ktqt trong phát triển của Việt Nam
3.2.1 Nhận thức sâu sắc về thời cơ và thách thức do hội nhập kinh tế quốc tế mang lại:
3.2.1.1.Nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế:
Sở hữu tầm quan trọng cốt lõi và ảnh hưởng to lớn đến những vấn đề mấu chốt của hội nhập: Thứ nhất,
phát triển kinh tế - xã hội, làm gia tăng sức mạnh tổng hợp đất nước. Góp phần hồn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Thứ hai, mở cửa thị trường, thúc đẩy xuất khẩu, thu
hút được lượng lớn vốn đầu tư, công nghệ, khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm quản trị cùng nhiều nguồn lực
quan trọng khác; trong ảnh hưởng đến việc làm; nâng cao dân trí và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân. Từ đó, nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng của hội nhập kinh tế quốc tế, tạo suốt thời gian
vừa qua, Đảng đã nhất quán chủ trương tiếp tục đẩy mạnh tác động sâu đến nền kinh tế khu vực và toàn
cầu.
Sự nhận thức quy luật vận động khách quan của lịch sử xã hội: Trong bối cảnh cách mạng khoa học kỹ
thuật ngày càng phát triển và có vai trị quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội của thế giới thì việc đề
ra chủ trương hợp tác đối với các nước quốc tế là một nhu cầu cấp thiết cho quá trình đổi mới của Việt
Nam.
Cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng để xây dựng chủ trương và chính sách phát triển thích ứng: Ở đại
hội VI, Đảng đã đưa ra chủ trương tận dụng những điều kiện thuận lợi về mặt kinh tế và kỹ thuật, tham
gia ngày càng nhiều vào quá trình trao đổi và hợp tác quốc tế thông qua "Hội đồng tương trợ kinh tế và
thương mại với một số nước láng giềng". Đại hội VII, Đảng ta định hướng "đa phương hoá, mở rộng hợp
tác với các nước và một số tổ chức kinh tế". Tại Đại hội VIII, thuật ngữ "hội nhập" bắt đầu được sử dụng
trong nhiều nghị quyết của Đảng: "Phát triển một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và tồn cầu". Từ
đó, dựa trên sự hiểu biết về tình hình kinh tế quốc tế để đề ra chủ trương và chính sách phù hợp.
Từ những cái nhận thức đó, cấp bách nhất cần phải thấy rằng hội nhập kinh tế: Là một thực tiễn khách
quan, là xu hướng tất yếu của lịch sử, không một quốc gia nào lại tránh né hay ngoảnh lưng với hội nhập.
Việt Nam cũng khơng thể đứng ngồi lề dòng chảy của lịch sử, hội nhập quốc tế khơng chỉ là "khẩu hiệu

thời thượng" mà cịn chính là "phương thức tồn tại và phát triển" của đất nước chúng ta hiện nay.
3.2.1.2. Thực chất:
Hợp tác kinh tế quốc tế là việc thúc đẩy q trình tồn cầu hố kinh tế trên cơ sở mỗi nước thành viên gia
nhập phải tự nguyện tuân thủ các thoả thuận, nguyên tắc đã được ký kết dựa trên nguyên tắc bình đẳng
cùng có lợi. Vì nhận thức về hội nhập kinh tế có tác động đa chiều và đa phương tiện nên ta cần nắm rõ cả
mặt tích cực và tiêu cực của nó
3.2.1.2.1. Tác động tích cực:

h


Đó là những tác động thúc đẩy của hội nhập kinh tế quốc tế tới tăng trưởng, tái cơ cấu kinh tế, tiếp cận
khoa học công nghệ, mở rộng thị trường:
Đầu tiên, trên cơ sở những hiệp định đã ký kết, nhiều chương trình về kinh tế, khoa học kĩ thuật, văn hoá,
giáo dục. .. được hợp tác chặt chẽ giữa các nước thành viên để mỗi quốc gia thành viên có cơ hội và điều
kiện tốt nhằm phát huy tối đa ưu thế quốc gia trong phân công lao động quốc tế, từng bước chuyển đổi cơ
cấu sản xuất và cơ cấu xuất nhập khẩu theo hướng hiệu quả cao; tạo điều kiện cho việc xây dựng mối
quan hệ thương mại và kêu gọi đầu tư nước ngoài, mở rộng thị trường nội địa và nhập khẩu.
Thứ hai, Tạo ra sự ổn định dần dần để cùng tăng trưởng thông qua sự phối hợp hiệu quả trong việc thực
hiện mối quan hệ kinh tế quốc tế giữa từng quốc gia thành viên, thúc đẩy việc xây dựng cơ sở dài hạn cho
việc củng cố và mở rộng hơn nữa quan hệ toàn cầu, khu vực, và song phương.
Thứ ba, tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế tạo cơ hội cho chúng ta tiếp thu những giá trị tinh hoa của nhân
loại, tiếp tục phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc trong xây dựng con người xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, hình thành cơ cấu kinh tế quốc tế mới với các ưu thế về thị trường, nguồn lực sẽ giúp giải quyết
công ăn việc làm, nâng mức sống cho người dân và tăng phúc lợi xã hội.
Thứ năm, tạo sức lan tỏa, phát triển các tiến bộ khoa học công nghệ và thay đổi cơ cấu kinh tế, phương
thức quản lý kinh tế; tiếp thu kinh nghiệm quản lý từ những nước khác.
Thứ sáu, tạo cơ hội để các nước tìm kiếm cho mình một vị trí thích hợp trong trật tự thế giới mới, góp
phần tăng cường uy tín và vị thế; có năng lực đảm bảo an ninh, hồ bình, ổn định và thúc đẩy ở cấp độ
khu vực và thế giới.

Cuối cùng, giúp xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật quốc gia về kinh tế tương thích với chuẩn mực
và thơng lệ quốc tế; qua đó tăng cường tính chủ động, tích cực trong hội nhập kinh tế quốc tế.
3.2.1.2.2 Tác động tiêu cực:
Đó chính là những thách thức về sức ép cạnh tiền tệ, thị trường hàng hóa quốc tế, hay những thách thức
về chính trị, an ninh, văn hóa. Nhận thức này là cơ sở để đề ra đối sách thích hợp nhằm tận dụng ưu thế
và khắc chế tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế, phù hợp với điều kiện thực tiễn.Tại Hội nghị
đại biểu tồn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994) , Đảng cũng đã chỉ rõ nhiều thách thức và các
nguy cơ to lớn trong công cuộc đổi mới phát triển CNXH ở Việt Nam.
Một là, nguy cơ tụt hậu xa hơn nữa về phát triển so với nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới vẫn
là nguy cơ thường trực và khó khắc phục: Mặc dù Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục và
ổn định bình quân 7% trong suốt 20 năm qua, nhưng thực tế cho thấy: Xét về con số tuyệt đối, GDP của
thế giới đã và đang tăng lên hàng ngày so với GDP của Việt Nam. Trong khi 30 năm trước, GDP thế giới
là 3.900 USD cao hơn GDP của Việt Nam thì nay đã là 7.500 USD.
Hai là, nguy cơ lệch hướng xã hội chủ nghĩa: Nguy cơ xa rời chủ nghĩa xã hội thể hiện ở một số biểu
hiện như hiệu lực lãnh đạo của Đảng cộng sản và pháp quyền xã hội chủ nghĩa giảm sút, tình trạng vi

h



×