1
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BQL Ban quản lý
BVTV Bảo vệ thực vật
CBCNV Cán bộ công nhân viên
CCR Chứng chỉ rừng
CoC Chuỗi hành trình sản phẩm
CTLN Công ty lâm nghiệp
Cty Công ty
ĐDSH Đa dạng sinh học
D
tb
Đường kính trung bình
FIPI Viện điều tra quy hoạch rừng
FSC Đánh giá bền vững tài nguyên rừng
GTBTC Giá trị bảo tồn cao
HCM Hồ Chí Minh
HT Hiện trường
H
tb
Chiều cao trung bình
Kh Khoảnh
KHĐG Kế hoạch đánh giá
KHKT Kế hoạch kỹ thuật
KHQLR Kế hoạch quản lý rừng
KHXTTS Kế hoạch xúc tiến tái sinh
KTTC Kế toán tài chính
LNQG Lâm nghiệp quốc gia
LSNG Lâm sản ngoài gỗ
LT Lâm trường
QĐ Quyết định
QLRBV Quản lý rừng bền vững
TB Trung bình
TCT Tổng công ty
TP Trong phòng
TV Tham vấn
1
1
2
UBND Uỷ ban nhân dân
GSĐG Giám sát đánh giá
DANH MỤC CÁC BẢNG
2
2
3
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BẢN ĐỒ
34
Bản đồ quản lý tài nguyên rừng 58
3
3
4
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng vừa là một hiện tượng tự nhiên, vừa là một hiện tượng lịch sử, tài
nguyên có thể tái tạo, đóng vai trò vô cùng quan trọng với đời sống con người. Khi
tác động con người đang làm diện tích rừng bị giảm đi đáng kể, thì việc phát triển
bền vững (PTBV) nguồn tài nguyên này có ý nghĩa rất lớn. Ý nghĩa thể hiện ở sự
duy trì kéo dài năng lực sản xuất của rừng đáp ứng các nhu cầu của xã hội loài
người. Phát triển, lợi dụng rừng chính là một phạm trù trong PTBV.
Quản lý rừng bền vững (QLRBV) là một bộ phận không thể tách rời của
PTBV, trở thành cao trào, đặc biệt đối với các nước nhiệt đới trong đó có Việt Nam,
thì tầm quan trọng của QLRBV càng được cảm nhận rõ rét. Đây là vấn đề nhận thức
của quốc gia về giải pháp bảo vệ rừng của mình, mà vẫn sử dụng tối đa các lợi ích
từ rừng, nhận thức của chủ rừng về quyền xuất khẩu lâm sản của mình vào mọi thị
trường thế giới và quyền bán lâm sản với giá cao. QLRBV là một trong những biện
pháp hữu hiệu nhất trong bảo vệ và phát triển rừng.
Khi đơn vị quản lý rừng được cấp chứng nhận QLRBV thì chứng chỉ rừng
(FM-FSC) chính là sự xác nhận bằng văn bản về việc đơn vị đã đã được sản xuất
trên cơ sở rừng được tái tạo lâu dài, không gây ảnh hưởng xấu đến các chức năng
sinh thái của rừng, môi trường xung quanh và không làm suy giảm tính đa dạng
sinh học. Có thể nói chứng chỉ rừng không chỉ làm thay đổi giá trị của hàng hóa mà
trong nhiều trường hợp nó còn làm thay đổi thái độ của doanh nghiệp với rừng nói
riêng và môi trường nói chung.
Quá trình sản xuất từ khâu khai thác đến sản phẩm và tiêu thụ cần phải trải
qua nhiều bước, bao gồm khai thác, chế biến, phân phối và tiêu thụ, được gọi là
chuỗi hành trình sản phẩm (Chain of Custody - CoC). Kiểm chứng từng bước trong
quá trình này sẽ giúp cho đơn vị chứng minh được với khách hàng rằng các sản
phẩm đã được chứng chỉ mà họ bán thực sự có nguồn gốc từ các khu rừng được cấp
chứng chỉ. Việc đạt chứng chỉ CoC là yêu cầu bắt buộc với việc dãn nhãn và bán
sản phẩm từ gỗ FSC, đặc biệt khi đơn vị bán gỗ sang các thị trường Châu Âu, Anh
và các quốc gia khác.
4
4
5
Trong QLRBV thì việc lập kế hoạch quản lý rừng (KHQLR) là một hoạt động
không thể thiếu, điều này được chỉ rõ trong bộ tiêu chuẩn Quốc gia QLRBV của
Việt Nam KHQLR bao gồm nhiều nội dung nhưng vấn đề quản lý khai thác giữ
vai trò quan trọng nhất. Trong bộ tiêu chuẩn Việt Nam về QLRBV (gồm 10 tiêu
chuẩn, 56 tiêu chí và khoảng 160 chỉ số) có nhiều tiêu chuẩn và tiêu chí liên quan
đến lập kế hoạch quản lý rừng, trong đó tiêu chuẩn 7 yêu cầu chủ rừng phải xây
dựng kế hoạch quản lý.
Nhiều nước trên thế giới đã khá thành công trong việc cấp chứng chỉ rừng,
chứng chỉ CoC, góp phần đáng kể trong QLRBV. Ở Việt Nam khái niêm QLRBV,
chứng chỉ rừng, chứng chỉ CoC còn rất mới mẻ và còn ít kinh nghiệm. Tính tới thời
điểm hiện nay phần lớn các đơn vị kinh doanh lâm nghiệp vẫn chưa được cấp chứng
chỉ rừng vì hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị này vẫn chưa đạt được
các tiêu chuẩn tối thiểu theo quy định để được FSC cấp chứng chỉ rừng và chứng
chỉ CoC. Bên cạnh đó các đơn vị chưa nhận dược một hướng dẫn cụ thể về việc tiến
hành đánh giá các tiêu chuẩn QLRBV và tiêu chuẩn CoC. Do đó để các đơn vị kinh
doanh đảm bảo sản xuất bền vững, cạnh tranh hội nhập được với thế giới thì đòi hỏi
các đơn vị cần nhận thức được vấn đề này.
Công ty lâm nghiệp Vĩnh Hảo là đơn vị hoạt động sản xuất trong lĩnh vực
lâm nghiệp thuộc tỉnh Hà Giang. Công ty mong muốn được cấp chứng chỉ rừng,
giúp công ty quản lý rừng theo hướng tiên tiến, bền vững lâu dài, tuy nhiên các hoạt
động sản xuất công ty chưa được đánh giá theo các tiêu chuẩn quốc gia QLRBV và
chuỗi hành trình sản phẩm. Để góp phần giải quyết những tồn tại trên cả về mặt lý
luận và thực tiễn tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Đánh giá quản lý rừng, chuỗi
hành trình sản phẩm và lập kế hoạch quản lý rừng tiến tới chứng chỉ rừng tại
Công ty lâm nghiệp Vĩnh Hảo, tỉnh Hà Giang”
5
5
6
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Trên thế giới
1.1.1. Khái niệm về phát triển bền vững và quản lý rừng bền vững
Phát triển bền vững là một khái niệm mới nhằm định nghĩa một sự phát triển
về mọi mặt trong hiện tại mà vẫn phải bảo đảm sự tiếp tục phát triển trong tương lai
xa. Khái niệm này hiện đang là mục tiêu hướng tới nhiều quốc gia trên thế giới, mỗi
quốc gia sẽ dựa theo đặc thù kinh tế, xã hội, chính trị, địa lý, văn hóa để hoạch
định chiến lược phù hợp nhất với quốc gia đó.
Thuật ngữ "PTBV" xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn phẩm
Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài
nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn giản: "Sự phát triển của
nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng
những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học".
Con người càng nhân thức rừng cần được quản lý tốt để cung cấp ổn định và
lâu dài các lợi ích cho con người. Vấn đề được quan tâm là phải quản lý như thế nào
để các lợi ích trên các mặt kinh tế, môi trường, xã hội được đảm bảo bền vững, với
một loạt các công ước, chương trình lớn quy mô toàn cầu được ra đời cùng hướng
tới vấn đề này. Cuối thế kỷ XX, những người sử dụng và kinh doanh gỗ chỉ buôn
bán sử dụng gỗ có nguồn gốc từ các khu rừng đã được quản lý bền vững, từ đó một
loạt tổ chức hoạt động về QLRBV ra đời. Cộng đồng quốc tê tổ chức nhiều hội
nghị, đề xuất và cam kết nhiều công ước bảo vệ và phát triển rừng: Chiến lược bảo
tồn quốc tế (1980); Tổ chức quốc tế về gỗ nhiệt đới (ITTO); Hội nghị của Liên hợp
quốc về môi trường và phát triển (UNCED, Riodejaneiro, 1992); Công ước buôn
bán động thực vật quý hiếm (CITES); Công ước đa dạng sinh học (CBD) Các
định nghĩa QLRBV được đưa ra như sau:
Tổ chức Quốc tế về Gỗ Nhiệt đới Tổ chức (ITTO) cho rằng: “QLRBV là quá
trình quản lý những lâm phận ổn định nhằm đạt được một hoặc nhiều mục tiêu
6
6
7
quản lý đề ra một cách rõ ràng như đảm bảo sản xuất liên tục những sản phẩm và
dịch vụ rừng mong muốn mà không làm giảm đáng kể những giá trị di truyền và
năng suất tương lai của rừng và không gây ra những tác động không mong muốn
đối với môi trường tự nhiên và xã hội”.
Theo tiến trình Hensinki, QLRBV là sự quản lý rừng và đất rừng theo cách
thức và mức độ phù hợp để duy trì tính đa dạng sinh học, năng suất, khả năng tái
sinh, sức sống của rừng trong quá trình thực hiện và trong tương lai, các chức năng
sinh thái , kinh tế và xã hội của rừng ở cấp địa phương, cấp quốc gia và toàn cầu và
không gây ra những tác hại đối với hệ sinh thái khác.
Các đinh nghĩa trên tựu trung lại có các vấn đề chính là: quản lý rừng ổn định
bằng các biện pháp phù hợp nhằm đạt các mục tiêu đề ra, bảo đảm bền vững về
kinh tế, xã hội và môi trường.
Trong số này, FSC là tổ chức uy tín nhất và có phạm vi rộng nhất toàn thế giới
được thành lập năm 1993, bởi một nhóm gồm 130 thành viên khác nhau từ 25 quốc
gia, bao gồm đại diện của các cơ quan môi trường, các thương gia, các cộng đồng
dân bản xứ, ngành công nghiệp và các cơ quan cấp chứng chỉ. Đặc biệt, FSC có đối
tượng áp dụng cả cho rừng tự nhiên và rừng trồng, cả cho rừng ôn đới, nhiệt đới và
mọi đối tượng khác. Chứng chỉ QLRBV của FSC được các thị trường khắt khe trên
thế giới như Bắc Mỹ, Tây Âu đều chấp nhận thông thương với giá bán cao, do đó
tuy các tiêu chí QLRBV của FSC cao, tỷ mỉ nhưng vẫn được nhiều nước từ nước
đang phát triển đến nước công nghiệp tiên tiến hưởng ứng tự nguyện tham gia và
đang trở thành cao trào QLRBV trong hội nhập quốc tế. Hiện nay có 23 tổ chức độc
lập được FSC ủy quyền cấp chứng chỉ FSC, thời hạn chứng chỉ mỗi lần cấp có hiệu
lực 5 năm và luôn kiểm tra chất lượng.
Tiêu chuẩn QLRBV của FSC có 10 nguyên tắc, 56 tiêu chí. Đã có 26 bộ tiêu
chuẩn quốc gia hoặc vùng trên thế giới được FSC phê duyệt cho áp dụng. Trong
QLRBV, các nguyên lý được đặt ra là:
Nguyên lý thứ nhất: Sự bình đẳng giữa các thế hệ trong sử dụng tài nguyên rừng.
Nguyên lý thứ hai: Trong QLRBV, ở đâu có những nguy cơ suy thoái nguồn tài
nguyên rừng và chưa có đủ cơ sở khoa học thì chưa nên sử dụng biện pháp phòng
ngừa về suy thoái môi trường.
7
7
8
Nguyên lý thứ ba: Sự bình đẳng và công bằng trong sử dụng tài nguyên ở
cùng thế hệ.
Nguyên lý thứ tư: Tính hiện quả sử dụng tài nguyên rừng, nhất là về mặt
kinh tế và sinh thái.
Để xác nhận QLRBV của chủ rừng cần được xác nhận bằng văn bản rằng một
đơn vị quản lý rừng được cấp chứng chỉ QLRBV đã được sản xuất trên cơ sở rừng
được tái tạo lâu dài, không gây ảnh hưởng xấu đến các chức năng sinh thái của
rừng, môi trường xung quanh và không làm suy giảm tính đa dạng sinh học. Đó
chính là ý tưởng cấp chứng chỉ rừng được FSC đề cập như là một “công cụ hữu
hiệu, giúp cải thiện quản lý rừng của thế giới”; “là công cụ chính sách mạnh mẽ
nhất” trong quản lý rừng.
Bên cạnh chứng chỉ rừng do FSC cấp, cũng có nhiều quy trình chứng chỉ
rừng được khởi thảo như Bắc Âu đã khởi thảo nhiều quy trình chứng chỉ rừng như
PEFC (Chương trình chứng nhận các tổ chức chứng chỉ rừng), SFI. Ở Châu Á cũng
có các Chương trình chứng chỉ quốc gia như Hội đồng chứng chỉ gỗ (MTCC) ở
Malaysia, Viện dán nhãn sinh thái Lambaga (LEI) ở Indonesia.
PEFC đưa ra cơ chế đảm bảo với những người thu mua sản phẩm gỗ và giấy
rằng họ đang xúc tiến công tác QLRBV. PEFC là chương trình quy mô toàn cầu về
đánh giá và công nhận lẫn nhau của các tổ chức chứng chỉ rừng quốc gia đã được
phát triển trong quá trình có các bên tham gia
Hội đồng chứng nhận gỗ Malaysia (MTCS), sử dụng phương pháp theo từng
giai đoạn khi ngày càng nhiều thách thức lớn trong quản lý các khu rừng nhiệt đới
phức tạp. MTCS sử dụng tiêu chuẩn của Malaysia và các tiêu chí cho chứng chỉ
quản lý rừng bao gồm 9 quy tắc, 47 tiêu chuẩn và 6 tiêu chí. MTCS có 10 thành
viên, chỉ hoạt động trong phạm vi lãnh thổ Malaysia với diện tích rừng được chứng
nhận là 4.8 triệu ha.
Tổ chức Lembaga Ekolanbel Indonesia (LEI) được thành lập năm 1994 là
một tổ chức không được chính thức công nhận bởi FSC vì LEI không phải là cơ
quan cấp chứng chỉ, song LEI là một cơ quan thừa nhận một cách chính thức các cơ
quan cấp chứng chỉ ở Indonesia.
8
8
9
Ở Châu Mỹ: Đến thời điểm tháng 12 năm 2005, diện tích rừng được FSC cấp
chứng chỉ là 29.252.921 ha với 332 chứng chỉ, trong số này Canada dẫn đầu với
15.231.115 ha và 26 giấy chứng chỉ, tiếp theo là Mỹ với 5.671.251 ha và 97 chứng chỉ và
Braxin với 3.455.582 ha và 60 chứng chỉ. Các diện tích được cấp chứng chỉ cũng chủ
yếu là rừng trồng và rừng nửa tự nhiên. Về chứng chỉ CoC, hiện Châu Mỹ có 941 giấy
chứng nhận trong đó Mỹ dẫn đầu với 475 giấy, tiếp sau đó là Chi Lê và Braxin.
Ở Nam Mỹ: Có tổng số hơn 7 triệu ha rừng được cấp chứng chỉ FSC, trong
đó Bolivia, Braixin là 2 quốc gia có diện tích rừng được cấp CCR lớn nhất, chủ yếu
là rừng trồng và rừng nửa tự nhiên. Hiện nay Braxin, Bolivia, Costa Rica, Uruguay,
Guatêmala là các quốc gia xuất khẩu một khối lượng lớn nhất thế giới gỗ có chứng
chỉ FSC, mà Việt Nam là một trong những thị trường nhập khẩu lớn nhất.
Ở Châu Á – Thái Bình Dương: Hiện có 2.577.151 ha rừng với 63 giấy chứng
chỉ FSC, trong số đó Úc, Trung Quốc, Indonesia, Nhật Bản Australia và New
Zealand là những quốc gia dẫn đầu về diện tích và số chứng chỉ được cấp. Một số
nước Đông Nam Á như Indonesia, Malaysia cũng đã xây dựng các quy trình CCR
quốc gia, đồng thời họ cũng đã có một số khu rừng tự nhiên được FSC cấp chứng
chỉ. Ngoài ra các nước khác như Papua Niu- Ghi nê, Quần đảo Solomon cũng đã có
nhiều khu rừng được cấp chứng chỉ, mà hiện cung cấp khá nhiều gỗ có CCR FSC
cho các doanh nghiệp sản xuất đồ mộc xuất khẩu của Việt Nam. Các nước khác như
Thái Lan cũng có một vài diện tích rừng nhỏ được FSC cấp chứng chỉ gần đây.
Như vậy, rõ ràng CCR ở khu vực Nam Mỹ, Châu Á - Thái Bình Dương và Châu Phi
tiến rất chậm, diện tích được chứng chỉ mới chỉ chiếm diện tích rất nhỏ đã được
chứng chỉ của thế giới, chủ yếu là chứng chỉ FSC. Nguyên nhân là các nước trong
các khu vực này phần lớn là kém phát triển, quản lý rừng còn ở trình độ thấp, các
chủ rừng không có đủ nguồn lực cải thiện quản lý rừng để đạt tiêu chuẩn CCR, và
chi phí cho CCR cũng là một yếu tố hạn chế.
1.1.2. Chứng chỉ chuỗi hành trình sản phẩm FSC/CoC
Chứng chỉ rừng (CCR) có 2 phần là chứng chỉ quản lý rừng và chứng chỉ
chuỗi hành trình sản phẩm (CoC). Hiện có nhiều định nghĩa khác nhau về CCR,
nhưng đều bao hàm hai nội dung cơ bản là đánh giá độc lập chất lượng quản lý rừng
theo một bộ tiêu chuẩn quy định, và cấp giấy chứng chỉ có thời hạn.
9
9
10
Chứng chỉ rừng là sự xác nhận bằng giấy chứng chỉ rằng đơn vị quản lý
rừng được chứng chỉ đã đạt những tiêu chuẩn về quản lý rừng bền vững do tổ chức
chứng chỉ hoặc được uỷ quyền chứng chỉ quy định. Nói cách khác , chứng chỉ rừng
là quá trình đánh giá quản lý rừng để xác nhận rằng chủ rừng đã đạt các yêu cầu về
quản lý rừng bền vững.
Một trong những động lực quan trọng của chứng chỉ rừng là thâm nhập thị
trường tiêu thụ sản phẩm rừng đòi hỏi có chứng chỉ, vì vậy chứng chỉ rừng thường
gắn với chứng chỉ chuỗi hành trình (CoC)- xác nhận sản phẩm có nguồn gốc từ
rừng được chứng chỉ. Chủ rừng được chứng chỉ theo quy trình nào thì được cấp
giấy chứng chỉ và các sản phẩm làm ra được mang nhãn mác của quy trình đó. Hiện
nay trên thế giới có 2 quy trình CCR quốc tế lớn là Hội đồng quản trị rừng (FSC) và
Chương trình phê duyệt các quy trình chứng chỉ rừng (PEFC), chiếm trên 60% diện
tích rừng được chứng chỉ của thế giới.
Ngày nay toàn thế giới ngày càng quan tâm đến tình trạng diện tích và chất
lượng rừng ngày một suy giảm, ảnh hưởng lớn đến môi trường sống và khả năng
cung cấp sản phẩm rừng cho phát triển bền vững cũng như nhu cầu hàng ngày của
người dân. Vấn đề cần được giải quyết là làm thế nào quản lý kinh doanh rừng phải
vừa đảm bảo tốt lợi ích kinh tế, vừa đem lại lợi ích thiết thực cho các cộng đồng dân
cư sống trong rừng, vừa không gây tác động xấu đến môi trường sống, tức là thực
hiện được quản lý rừng bền vững. Như vậy, có thể nói quản lý rừng bền vững là
mục tiêu, còn chứng chỉ rừng chỉ là một trong những công cụ hay biện pháp chủ yếu
để đạt mục tiêu đó. Chứng chỉ rừng là cần thiết vì:
Cộng đồng quốc tế, chính phủ, các cơ quan chính phủ, các tổ chức môi
trường, xã hội v.v đòi hỏi các chủ sản xuất kinh doanh rừng phải chứng minh rằng
rừng của họ đã được quản lý bền vững.
Người tiêu dùng sản phẩm rừng đòi hỏi các sản phẩm lưu thông trên thị
trường phải được khai thác từ rừng đã được quản lý bền vững.
Người sản xuất muốn chứng minh rằng các sản phẩm rừng của mình, đặc
biệt là gỗ, được khai thác từ rừng được quản lý một cách bền vững.
10
10
11
Chứng chỉ rừng cần thiết để xác nhận QLRBV của chủ rừng, cũng như
chứng chỉ ISO để xác nhận quản lý chất lượng sản xuất công nghiệp. Có thể ví thực
hiện QLRBV như một quá trình “học”, còn chứng chỉ rừng như một kỳ thi, chủ
rừng được cấp chứng chỉ tức là đã “thi đỗ” bằng QLRBV.
Mục tiêu của chứng chỉ rừng trước hết là thúc đẩy QLRBV, ngăn chặn tình
trạng giảm diện tích và suy thoái rừng đang diễn ra ngày một gay gắt, đặc biệt là
rừng nhiệt đới ở các nước đang phát triển. Tuy nhiên, tổng diện tích cũng như tỷ lệ
rừng nhiệt đới được chứng chỉ cho đến nay còn rất nhỏ bé nên không gian tác động
của CCR đối với rừng nhiệt đới con rất hạn chế, khiến một số tác giả cho là đã thất
bại. Mặc dù vậy CCR có tác động đáng kể đến chất lượng quản lý rừng, thương mại
gỗ của thế giới, và cách thức quản lý nhà nước về lâm nghiệp.
Trước hết CCR tác động trực tiếp đến QLR. Muốn được cấp chứng chỉ rừng
thì phải đạt tiêu chuẩn QLRBV. Do có sự khác nhau rất lớn giữa các quốc gia và các
vùng về trình độ quản lý rừng nên mức độ tác động của CCR cũng rất khác nhau: ở
khu vực ôn đới, gồm phần lớn các nước đã phát triển, quản lý rừng hầu như đã đạt
trình độ bền vững nên tác động của CCR thường không đáng kể, việc thực hiện
CCR diễn ra nhanh chóng, trái lại ở khu vực nhiệt đới gồm phần lớn là các nước
đang phát triển, trình độ quản lý rừng còn thấp, muốn đạt CCR thì phải trải qua quá
trình cải thiện quản lý rừng và giải quyết nhiều vấn đề kinh tế xã hội bức xúc, do đó
CCR thực sự đã có những tác động đáng kể. Nói chung bộ tiêu chuẩn của tất cả các
quy trình CCR đều yêu cầu một trình độ quản lý rừng cao hơn nhiều so với trình độ
của rất nhiều nước đang phát triển nhiệt đới, và những tác động của CCR như trình
bày dưới đây chủ yếu liên quan đến khu vực này của thế giới. CCR tác động đến
quản lý rừng về các mặt:
* Cải tiến kế hoach quản lý: Để thực hiện tiêu chuẩn QLRBV thì chủ rừng
phải xây dựng một kế hoạch quản lý toàn diện trên cơ sở những khảo sát đánh giá
về hiện trạng kinh tế xã hội và môi trường và những số liệu chính xác về điều tra
rừng. Kế hoạch phải bao gồm đầy đủ các nội dung như mục tiêu quản lý, mô tả tài
nguyên, hệ quản lý lâm sinh, định mức khai thác, phương pháp đánh giá sinh trưởng
11
11
12
và động thái của rừng, xác định và bảo vệ các hệ sinh thái đặc biệt và các khu rừng
có giá trị bảo tồn cao, kỹ thuật khai thác giảm thiểu tác động, giám sát đánh giá, đào
tạo huấn luyện nhân viên (chi tiết về kế hoạch quản lý xin xem Tiêu chuẩn 7 của Bộ
tiêu chuẩn FSC Việt Nam). Khi thực hiện tiêu chuẩn QLRBV để được chứng chỉ thì
việc xây dựng kế hoạch quản lý là việc đầu tiên chủ rừng phải làm và tài liệu đầu
tiên tổ chức chứng chỉ cần kiểm tra chính là bản kế hoạch quản lý rừng.
* Ứng dụng khoa học kỹ thuật: Tiêu chuẩn QLRBV yêu cầu chủ rừng phải
luôn quan tâm cải tiến hoặc áp dụng công nghệ tiên tiến hiệu quả cao trong mọi
hoat động quản lý rừng như điều tra quy hoạch rừng, những hoạt động lâm sinh,
khai thác chế biến v.v. Chỉ có thể trên cơ sở ứng dụng công nghệ cao chủ rừng mới
có thể đạt hiệu quả cao và bền vững trong sản xuất kinh doanh rừng, một trong
những tiêu chuẩn quan trọng nhất của CCR.
* Bảo vệ rừng và bảo tồn đa dạng sinh học: Ở Việt Nam nhiệm vụ bảo tồn
rừng và đa dạng sinh học không được đạt ra đối với rừng sản xuất, nhưng tiêu chuẩn
QLRBV của tất cả các quy trình CCR đều có yêu cầu về bảo tồn rừng và đa dang
sinh học đối với quản lý rừng sản xuất, kể cả rừng trồng. Bộ tiêu chuẩn FSC có tới 7
tiêu chí (thuộc các Tiêu chuẩn 6 và 9) nói về yêu cầu bảo tồn các hệ sinh thái đặc
biệt và đa dạng sinh học. Chứng chỉ rừng ở các nước Châu Âu đã có tác dụng đáng
kể đến việc phục hồi rừng thứ sinh trở lại gần giống hơn với rừng tự nhiên có đa
dạng sinh học cao hơn.
* Góp phần giải quyết các vấn đề xã hội: Có các báo cáo là CCR đã có tác
dụng khuyến khích sử dụng lao động tại chỗ, giải quyết việc làm cho người địa
phương. Nhiều người được trở thành công nhân lâm nghiệp hoặc làm hợp đồng cho
các chủ rừng, nhờ vậy có thêm thu nhập, đời sống được cải thiện. Tuy nhiên mức độ
của tác động này thường chỉ thấy rõ ở các nước nghèo vùng nhiệt đới, còn ở các
nước đã phát triển khu vực ôn đới thì không đáng kể. Trong nhiều trường hợp CCR
ở khu vực nhiệt đới cũng có tác động đến các quyền của công nhân lâm nghiệp: các
chủ rừng được chứng chỉ đạt mức cao hơn về chăm sóc sức khoẻ, an toàn lao động
so với quy định của nhà nước.
12
12
13
* Tăng cường giám sát đánh giá và thông tin tư liệu: Giám sát đánh giá là
một nội dung hết sức quan trọng của QLRBV. Ở những nơi công tác giám sát đánh
giá còn yếu thì CCR đã có tác dụng rõ rệt là đưa công việc GSĐG trở thành nhiệm
vụ thường xuyên của quản lý rừng. Bộ tiêu chuẩn FSC giành toàn bộ Tiêu chuẩn 8
để quy định về GSĐG. Cùng với việc tăng cường GSĐG, chủ rừng còn phải lập hệ
thống thông tin tư liệu phục vụ cho công tác quản lý hàng ngày cũng như cho quá
trình CCR, một yêu cầu bắt buộc của tất cả các quy trình CCR
* Nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ công nhân viên: Việc
thực hiện tiêu chuẩn QLRBV đòi hỏi chủ rừng phải có đội ngũ cán bộ công nhân
viên được đào tạo tấp huấn về nhiều mặt như trình độ quản lý, xây dựng kế hoạch,
bảo tồn, giám sát đánh giá, thông tin tư liệu, phân tích thị trường v.v. Các bộ tiêu
chuẩn CCR đều có yêu cầu về đào tạo tập huấn cán bộ tương xứng với nhiệm vụ
được giao.
Với bất kỳ một chương trình cấp chứng chỉ rừng nào việc xem xét mối liên
hệ của một sản phẩm gỗ từ một khu rừng được cấp chứng chỉ đến khi được chế biến
thành sản phẩm cuối cùng và được đem tiêu thụ tại thị trường là một việc rất cần
thiết vì nó cung cấp các cơ sở cho việc dán nhãn sản phẩm. Khái niệm này được gọi
là chuỗi hành trình sản phẩm (Chain of Custody) - CoC. Chuỗi hành trình sản
phẩm được dùng chính thức để tăng cường hiệu lực luật lâm nghiệp, bảo đảm rằng
tất cả quyền lực chính phủ và thuế đã được áp dụng và để chứng tỏ rằng các sản
phẩm được dán nhãn có nguồn gốc từ các khu rừng đã được cấp chứng chỉ.
Chuỗi hành trình sản phẩm cũng đã trở thành yêu cầu một số thi trường. Liên minh
Châu Âu EU gần đây giới thiệu 1 hệ thống giấy phép như một phần của công tác
tăng cường hiệu lực luật rừng, sáng kiến hành chính và thương mại (FLEGT). Theo
hệ thống này nhập khẩu gỗ vào EU phải chứng minh nguồn gốc hợp pháp (xác định
bởi các nước xuất khẩu trên cơ sở luật pháp hiện hành). Do vậy, dây chuyền cung
cấp sản phẩm gỗ từ rừng thông qua việc vận chuyển, lưu kho và chế biến cần được
công khai và kiểm tra tới tận biên giới của EU.
Phần lớn các nước nhiệt đới dùng hệ thống theo dõi hành trình dựa trên giấy
13
13
14
tờ thông thường với các nhãn vật lý trên sản phầm gỗ, nhưng gần đây các hệ thống
thuận lợi hơn đã được phát triển chứng tỏ tính hiệu quả và đáng tin cậy của dây
chuyền cung cấp.
Giá trị của chứng chỉ quản lý rừng không lớn nếu không được tiếp tục bằng
chứng chỉ chuỗi hành trình sản phẩm (CoC). Trong phần này sẽ xem quá trình hình
thành một sản phẩm rừng bắt đầu từ nguyên liệu khai thác từ một khu rừng được
cấp chứng chỉ đến khi được đem tiêu thụ tại thị trường. Đây là bộ phận rất quan
trọng của bất kỳ một chương trình cấp chứng chỉ rừng nào vì nó cung cấp các cơ sở
cho việc dán nhãn sản phẩm.
Chuỗi hành trình sản phẩm (CoC) là một hệ thống xác minh và theo dõi toàn
bộ quá trình từ nguyên liệu gỗ có chứng chỉ QLR đến sản phẩm cuối cùng là hàng
hoá tiêu dùng bán trên thị trường. Nhờ áp dụng CoC người ta có thể truy tìm nguồn
gốc ban đầu của sản phẩm. Quá trình theo dõi này trong thực tế khá phức tạp vì
trong công nghiệp chế biến gỗ, nguyên liệu phải đi qua rất nhiều công đoạn khác
nhau như vận chuyển, buôn bán, chế biến v.v., và trải qua nhiều chủ sở hữu khác
nhau từ khi cây gỗ đựợc khai thác từ rừng. Chuỗi hành trình sản phẩm (CoC) kết
hợp việc cấp giấy chứng nhận được dùng để cung cấp thông tin về hành trình của gỗ
từ rừng, qua lưu kho và vận chuyển tới người sử dụng cuối cùng và để chứng thực
rằng nguyên liệu gỗ thô có nguồn gốc tài nguyên hợp pháp, quản lý bền vững hoặc nếu
14
14
15
không thì nguồn gốc có thể chấp nhận được. Chuỗi hành trình sản phẩm được coi là
công cụ chủ yếu đấu tranh với việc khai thác gỗ bất hợp pháp và buôn bán gỗ lậu.
Theo quy định của đánh giá CoC thì việc kiểm soát nguồn gốc gỗ phải thông
suốt liên kết nhau thành một chuỗi thành các công đoạn cơ bản: từ rừng, đến vận
chuyển gỗ về nhà máy, cưa xẻ, sấy, lắp ráp, lưu kho và phân phối. Hệ thống CoC sẽ
hỗ trợ đơn vị kinh doanh lâm nghiệp:
- Bảo đảm về các sản phẩm gỗ bán ra và nguồn gốc của gỗ.
- Cải thiện các hệ thống tài liệu nội bộ của đơn vị và giúp đơn vị chuẩn bị để
đạt được chứng chỉ ISO hoặc chứng nhận khác.
- Nếu là Công ty chế biến gỗ, hệ thống CoC có thể giúp cải thiện hiệu quả
sản xuất của nhà máy và giúp cho việc sử dụng số vốn đầu tư vào gỗ nguyên liệu
hiệu quả hơn.
- Đáp ứng được các yêu cầu của khách hàng về hệ thống CoC
- Hệ thống CoC đã hoặc sẽ là yêu cầu bắt buộc đối với các sản phẩm gỗ xuất
khẩu sang Châu Âu, Anh và các quốc gia khác.
- Hệ thống CoC là yêu cầu cần thiết đối với việc dán nhãn và bán sản phẩm
làm từ gỗ được chứng chỉ.
Các tiêu chuẩn FSC áp dụng chứng nhận FSC-CoC hiện đang áp dụng:
+ Tiêu chuẩn: FSC-STD-40-004 (Ver. 02) - Tiêu chuẩn chuỗi hành trình sản
phẩm đối với các Công ty cung cấp và chế biến sản phẩm có chứng nhận FSC.
+ Tiêu chuẩn: FSC-STD-40-005 (Ver. 02) - Tiêu chuẩn FSC dành cho các
Công ty đánh giá nguồn gỗ có kiểm soát FSC.
+ Tiêu chuẩn: FSC-STD-30-010 (Ver. 02) - Tiêu chuẩn gỗ có kiểm soát FSC
dành cho các tổ chức quản lý rừng.
+ Tiêu chuẩn: FSC-STD-40-201(Ver. 02) - Các yêu cầu dán nhãn FSC trên
sản phẩm.
Một hệ thống CoC của FSC có 5 yêu cầu, hiện nay trên thị trường có một số
hình thức CoC, phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu mà doanh nghiệp sở hữu (mua
vào và xuất ra). Hình thức CoC được lựa chọn sẽ quyết định việc xây dựng và thực
hiện hệ thống CoC cho doanh nghiệp đó Quy trình FSC có hai hình thức CoC chính là:
- Doanh nghiệp sử dụng 100 % nguyên liệu có chứng chỉ FSC.
15
15
16
- Doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm có sử dụng một tỷ lệ % nguyên liệu
chưa có chứng chỉ FSC trộn lẫn với nguyên liệu đã có chứng chỉ FSC.
Tuy nhiên, cho dù đơn vị sản xuất 100% gỗ có nguồn gốc FSC và sản xuất
riêng gỗ không có chứng chỉ FSC thì việc xác nhận và truy tìm nguồn gốc
(identification and traceability) vẫn phải bắt buộc được thực hiện.
Ở Brazil hệ thống kiểm tra của Chính phủ sử dụng để thầm tra tính hợp pháp
và nguồn gốc gỗ, sản phẩm gỗ dựa 2 văn bản chính thức và bắt buộc.
Ở Cameroon việc kiểm tra trước khi khai thác, triển vọng khai thác và thể
tích khai thác được cấp phép cung cấp nền tảng thành lập hệ thống chuỗi hành trình
của Chính phủ. Trong rừng, công ty khai thác hoàn thành Bản đăng ký khai thác
DF10 nêu tên công ty, đơn vị quản lý rừng và dữ liệu về gỗ riêng lẻ như loại cây,
đường kính (ngọn, gốc, trung bình), chiều dài, thể tích và giá trị.
Các dữ liệu đặc tính gỗ tròn nêu trong DF10 được sơn tại một đầu mút của
gỗ để dễ dàng nhận biết đặc tính vật lý của gỗ khi tới nhà máy đầu tiên hoặc cảng
xuất khẩu và hoá đơn vận chuyển gỗ được dùng để kiểm tra sự chuyển giao gỗ từ
khu rừng tới địa điểm vận chuyển gỗ.
Các hoá đơn vận chuyển gỗ có nêu tên công ty, đơn vị quản lý rừng, nơi đến,
sổ đăng ký xe tải và dữ liệu về gỗ riêng lẻ như: nhóm gỗ (quy định theo DF10), loại
cây, đường kính (chóp, đáy) chiều dài và thể tích.
Ở Malaysia: Tất cả các rừng bảo tồn ở Peninsular Malaysia và một vài khu
rừng trồng ở Sabah và Sarawak đã được cấp chứng chỉ, chủ yếu bởi Hội đồng
chứng chỉ gỗ Malaysia. Với các khu vực được chứng chỉ, rất dễ theo dõi gỗ tròn tới
tận gốc đốn, ở các rừng khác, gỗ tròn có thể được theo dõi tới vùng được chứng chỉ,
tại đó gỗ đã được khai thác.
Hiện nay, ITTO hiện đang tiếp tục hỗ trợ các nước sản xuất tìm kiếm các
phương pháp cải tiến phù hợp luật pháp. Các công ty gỗ nên được khuyến khích
giới thiệu các hệ thống kiểm tra chuỗi hành trình của riêng mình, nhưng điều này
còn đòi hỏi chính phủ thiết lập hoặc cải tiến cơ cấu kiểm tra và giám sát.
Mặc dù thị phần sản phẩm FSC liên tục tăng trưởng, nhưng nguồn nguyên
16
16
17
liệu có chứng chỉ cung cấp vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu. Tạo điều kiện cho các
nhà sản xuất cung cấp các sản phẩm có gắn nhãn FSC, FSC đã giới thiệu loại nhãn
“FSC Mixed Sources”, cho phép doanh nghiệp sản xuất được pha trộn nguyên liệu
được chứng chỉ FSC với nguyên liệu không có chứng chỉ. Phần nguyên liệu không
có chứng chỉ phải thực hiện đúng theo các tiêu chuẩn kiểm soát được gọi là FSC
Controlled Wood, phải tránh năm nguồn gốc sau:
- Gỗ khai thác trái phép.
- Gỗ khai thác vi phạm các quyền truyền thống.
- Gỗ khai thác trong rừng được chứng nhận có giá trị bảo tồn cao (đặc biệt có
giá trị cần bảo vệ) và đang bị đe dọa.
- Gỗ khai thác từ rừng tự nhiên chuyển đổi.
- Gỗ khai thác từ những cây biến đổi gen.
1.1.3 Lập kế hoạch quản lý rừng (KHQLR)
Lập KHQLR là một hoạt động không thể thiếu trong QLRBV, là công việc
đầu tiên cần tiến hành trước khi thực hiện quản lý một khu rừng. QLRBV đòi hỏi
một phương pháp lập kế hoạch quản lý rừng lồng ghép và việc giám sát chặt chẽ
các hoạt động lâm nghiệp và được thực hiện bao gồm 10 nhiệm vụ như: Lập bản đồ
chức năng rừng dựa trên các kết quả khảo sát chuyên đề và ảnh vệ tinh
1.2. Tại Việt Nam
1.2.1. Vấn đề QLRBV
Quan niệm QLRBV ở Việt Nam mới được hình thành từ những năm cuối
thập niên 80 của thế kỷ 20. Từ đó đến nay, vấn đề QLRBV luôn là một yếu tố chủ
chốt trong các chính sách, chiến lược và kế hoạch hành động của Việt Nam.
Việt Nam được xem là nước có diện tích rừng tự nhiên tương đối lớn trong
vùng Đông Nam Á. Năm 1943, diện tích rừng khoảng 14,3 triệu ha, tỷ lệ che phủ
khoảng 43%. Theo số liệu của Bộ NN&PTNT, tổng diện tích rừng của cả nước hiện
nay là 13.258.843 ha, trong đó diện tích rừng tự nhiên là 10.339.305 ha, rừng trồng
chiếm 2.919.538 ha, độ che phủ 39,1%. Tuy diện tích rừng có tăng lên trong những
năm gần đây do thực hiện các chương trình trồng rừng, khoanh nuôi xúc tiến tái
17
17
18
sinh tự nhiên nhưng chất lượng rừng vẫn tiếp tục bị suy giảm, do việc khai thác
rừng tự nhiên không đúng quy trình, khai thác bất hợp pháp.
Từ năm 1993, nhờ nỗ lực to lớn của Nhà nước và nhân dân thông qua các
Chương trình lớn như: 327, 661 trên 2 triệu ha rừng đã được phục hồi. Song đó mới
là con số về số lượng, nếu rừng không được quản lý bền vững thì việc mất rừng sẽ
song song diễn ra với quá trình phục hồi rừng, và chất lượng rừng cũng như các
chức năng phòng hộ môi trường, xoá đói giảm nghèo cũng không thể phát huy
được. Chính vì vậy, quá trình QLRBV đang là 1 phong trào rộng lớn quy mô toàn
cầu, và là chủ đề chính trong hợp tác lâm nghiệp của ASEAN. Chiến lược lâm
nghiệp quốc gia (LNQG) giai đoạn 2006-2020 đang được xây dựng và sẽ được thực
hiện từ đầu năm 2006, trong 3 Chương trình phát triển ưu tiên của chiến lược
LNQG (2006-2020) thì Chương trình QLRBV là Chương trình thứ nhất. Để
QLRBV trước hết cần tạo ra các điều kiện cần và đủ về rừng, về pháp luật, và về xã
hội, thị trường, trước hết cần xác định được một lâm phận ổn định không chỉ trên
quy hoạch, trên bản đồ, mà phải cả trên thực địa của cả nước và từng khu rừng.
Mục tiêu chính của QLRBV là nâng cao năng lực quản lý và hiệu quả quản
lý của chủ rừng đối với từng khu rừng cụ thể, sử dụng tối đa các lợi ích kinh tế, lợi
ích môi trường và lợi ích xã hội của rừng, nhưng ổn định và bền vững lâu dài. Quốc
tế và từng quốc gia có các bộ tiêu chuẩn chủ để chủ rừng so sánh, phấn đấu cho đạt
tiêu chuẩn QLRBV, khi đó sẽ được cấp chứng chỉ rừng và cho lâm sản khai thác từ
các khu rừng này. Các sản phẩm có chứng chỉ QLRBV được mọi thị trường thế giới
tiêu thụ ưu tiên với giá cao. Vì vậy trong chiến lược LNQG 2006-2020, Chương
trình QLRBV là Chương trình được phân kỳ thành giai đoạn 2006-2010, 2011-2020
và xác định từng bước đi cho tới kết quả đạt chứng chỉ cho các đơn vị quản lý rừng
sản xuất theo một lộ trình xác định trong từng kế hoạch 5 năm. Đây là Chương trình
rất cơ bản để đưa quản lý lâm nghiệp Việt Nam vào ổn định, hiệu quả, đem lại
không chỉ lợi ích kinh tế rõ rệt cho chủ rừng mà còn đảm bảo ổn định diện tích, chất
lượng rừng cùng các lợi ích môi trường, xã hội cho cộng đồng và quốc gia trong
quá tình hội nhập quốc tế.
Tất cả các quy trình CCR quốc tế đều là phi chính phủ, độc lập với chính phủ.
18
18
19
Điều này gây cảm giác có vẻ như CCR làm giảm quyền lực của nhà nước trong việc
kiểm soát ngành lâm nghiệp thông qua các chính sách và định chế truyền thống.
Việc thực hiện tiêu chuẩn QLRBV của các quy trình chứng chỉ rừng lại có những
nội dung vượt ra ngoài khuôn khổ chính sách của chính phủ, do vậy thời gian đầu
các cơ quan nhà nước tỏ ra không chấp nhận CCR, coi CCR là rào cản thương mại,
còn các chủ rừng nhà nước cũng không thấy hấp dẫn lắm với CCR, nhất là ở những
nơi chưa có áp lực của thị trường gỗ. Tuy nhiên, có một điểm thống nhất rất quan
trọng giữa quản lý nhà nước và CCR là đều có mục tiêu khuyến khích quản lý rừng
bền vững. Nhiều cán bộ nhà nước sau đó đã tham gia vào quá trình xây dựng tiêu
chuẩn quốc gia QLRBV do các tổ chức phi chính phủ khởi xướng nên đã hiểu nội
dung của QLRBV và biết rằng mục đích của CCR không có gì khác hơn là một
công cụ rất hiệu quả thúc đẩy QLRBV quy mô quốc gia và quốc tế. Kết quả là một
số cơ quan nhà nước bắt đầu điều chỉnh chính sách lâm nghiệp để hài hoà tiêu
chuẩn nhà nước với tiêu chuẩn CCR quốc tế để tạo điều kiện cho các chủ rừng thực
hiện tiêu chuẩn quốc tế. Chính phủ cũng bắt đầu thấy rằng rừng đã được cấp chứng
chỉ được quản lý tốt hơn nhiều so với rừng không được chứng chỉ, nhất là ở những
nước có trình độ quản lý rừng đang còn ở trình độ thấp. Ở Việt Nam, Bộ nông
nghiệp và Phát triển nông thôn đã giao cho Chương trình hỗ trợ ngành lâm nghiệp
(FSSP) biên soạn tài liệu Cẩm Nang Ngành Lâm Nghiệp, trong đó có chương Chứng
Chỉ Rừng đã trình bày chi tiết những vấn đề của CCR, đặc biệt là chứng chỉ FSC.
Quá trình xây dựng tiêu chuẩn QLRBV và đánh giá CCR luôn yêu cầu có sự
tham gia rộng rãi của các bên liên quan khác nhau, tạo ra những diễn đàn để các bên
liên quan thảo luận trao đổi thống nhất ý kiến, tức là làm cho tiếng nói của các tổ
chức môi trường và xã hội có trọng lượng hơn. Sự tham gia rộng rãi của các bên
liên quan trong CCR còn có tác dụng tăng cường tính minh bạch, công khai trong
quản lý bảo vệ rừng, góp phần đấu tranh chống tiêu cực trong ngành lâm nghiệp,
nhất là ở những nước mà tệ nạn tàn phá rừng còn phổ biến.
Năm 1998, Bộ Nông nghiệp và PTNT cùng 3 tổ chức quốc tế đồng tổ chức
19
19
20
phát động 1 phong trào QLRBV và chứng chỉ rừng rộng rãi trong cả nước. Tổ Công
tác Quốc gia về chứng chỉ FSC ở Việt Nam (NWG) đã được thành lập gồm 12
thành viên để thực hiện chương trình hành động mà hội thảo đề xuất, đồng thời xây
dựng tổ chức và năng lực làm việc để hoạt động lâu dài trong hệ thống thành việc
của FSC nhằm thúc đẩy tiến trình QLRBV và Chứng chỉ rừng tại Việt Nam. Ban
đầu NWG trực thuộc Cục lâm nghiệp thuộc Bộ nông nghiệp và Phát triển nông
thôn. Từ năm 2001, theo quy chế của FSC, NWG trở thành một tổ chức độc lập, phi
chính phủ, phi lợi nhuận thuộc Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam (nay là Viện Quản
lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng).
1.2.2. Các chính sách chính liên quan QLRBV
Trong chiến lược phát triển Lâm nghiệp giai đoạn 2006-2020 đã được ban
hành, trong đó quy định theo hướng phát triển rừng quốc gia với năm chương trình
lớn. Một lần nữa QLRBV là một trong ba chương trình trọng điểm của chiến lược
với mục tiêu 8,4 triệu ha rừng trồng sản xuất đến năm 2020 được cấp chứng chỉ.
Các vấn đề về QLRBV là một yếu tố chủ chốt trong các chính sách, chiến
lược và kế hoạch hành động của Việt Nam. Điều này được thể hiện trong các văn
bản pháp quy dưới đây:
+ Luật Đất đai, năm 2003 đã quy định: Việc sử dụng đất phải tôn trọng các
nguyên tắc sau đây: Tiết kiệm, có hiệu quả, bảo vệ môi trường và không làm tổn hại
đến lợi ích chính đáng của người sử dụng đất xung quanh (Điều 11).
+ Luật bảo vệ và phát triển rừng, năm 2004: Điều 9 đã quy định các hoạt
động để đảm bảo QLRBV: Các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng phải đảm bảo
PTBV về kinh tế, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh; phù hợp với chiến lược
phát triển kinh tế-xã hội, chiến lược phát triển lâm nghiệp; đúng quy hoạch, kế
hoạch bảo vệ và phát triển rừng của cả nước và địa phương; tuân theo quy chế quản
lý rừng do Thủ tướng Chính phủ quy định.
+ Luật Bảo vệ môi trường, năm 2005; trong Chương IV: Bảo tồn và sử dụng
hợp lý tài nguyên thiên nhiên, có 7 điều (từ Điều 28 đến Điều 34) đã đưa ra những
quy định liên quan tới QLRBV thuộc các lĩnh vực, như: Điều tra, đánh giá, lập quy
20
20
21
hoạch sử dụng tài nguyên thiên nhiên; Bảo vệ thiên nhiên; Bảo vệ đa dạng sinh học;
Bảo vệ và phát triển cảnh quan thiên nhiên; Bảo vệ môi trường trong khảo sát, thăm
dò, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên; Phát triển năng lượng sạch.
+ Quyết định số 18/2007/QĐ- TTg ngày 05/02/2007 của Thủ tướng chính
phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển Lâm nghiệp giai đoạn 2006-2020, có một
Chương trình ưu tiên phát triển được đặt lên hàng đầu là “Chương trình quản lý và
phát triển rừng bền vững” với mục tiêu “đến năm 2020, thiết lập, quản lý, bảo vệ, phát
triển và sử dụng bền vững 16,24 triệu hecta đất qui hoạch cho Lâm nghiệp ” Đây là
một mục tiêu đầy tham vọng và để đạt được mục tiêu này cần thiết phải xác lập
được những định hướng mới trong phát triển nguồn lực trong QLRBV thông qua
các chương trình đào tạo, hợp tác và nghiên cứu.
Dựa trên thực tiễn, NWG tiến hành các cuộc khảo sát và có các hội thảo để
từng tỉnh tự đánh giá hiện trạng quản lý rừng của các huyện và các lâm trường theo
các tiêu chí của bộ tiêu chuẩn QLRBV nhằm xem xét tính khả thi của bộ tiêu chuẩn
quốc gia đang dự thảo đồng thời đánh giá trình độ quản lý của các đơn vị. Trong
tình hình đó, Tổng công ty Giấy Việt Nam cũng đang trong quá trình hoàn thiện các
hoạt động quản lý rừng theo tiêu chuẩn của FSC để tiến tới được cấp chứng chỉ
rừng. Đối với việc cấp chứng chỉ CoC, Tổng công ty cũng hoàn thiện các yêu cầu
đối với chủ rừng để được cấp chứng chỉ sao cho các yêu cầu phù hợp với thực tiễn
của Việt Nam. Bao gồm 9 yêu cầu lớn mà chủ rừng cần thực hiện:
1) Các quy định về duy trì riêng rẽ gỗ tròn có chứng chỉ FSC
- Gỗ có FSC sau khi khai thác phải để riêng rẽ với gỗ không có chứng chỉ tại
bãi gom, bãi giao tại cửa rừng;
- Cần có các biển báo ghi rõ tên gỗ, khối lượng gỗ có FSC;
- Phải có một người chịu trách nhiệm theo dõi hồ sơ của toàn bộ lô gỗ này
cho đến khi được giao cho người mua.
2) Quy định về ghi chép, theo dõi khối lượng gỗ có FSC và bán hàng
- Công ty phải có quy định cụ thể về việc ghi chép khối lượng các loại gỗ có
FSC và không có FSC.
- Sau khi khai thác, vận chuyển ra bãi gom phải ghi chép đầy đủ vào thẻ kho,
21
21
22
chứng từ kế toán (gồm đại diện đội khai thác, thủ kho, v.v).
- Lưu ý: luôn ghi tình trạng môi trường của gỗ trên các tài liệu theo dõi.
3) Quy định về viết hóa đơn xuất gỗ FSC
- Phải có quy định rõ chặt chẽ rằng chỉ có gỗ khai thác từ khu vực rừng nằm
trong phạm vi của CCR FSC thì mới được bán là gỗ có FSC; tình trạng môi trường
của số gỗ này sẽ được ghi trên các hóa đơn, chứng từ bán hàng;
- Có mã số chứng chỉ FSC, loại nguyên liệu, khối lượng, số lượng gỗ, số xe
vận chuyển trên hóa đơn bán hàng và các chứng từ bán hàng liên quan;
- Các hóa đơn, chứng từ này phải được lưu trữ ở phòng kế toán của công ty.
4) Các thông tin trên hóa đơn
- Tên người bán;
- Tên, địa chỉ của người mua;
- Ngày viết hóa đơn;
- Mô tả sản phẩm bán;
- Số lượng, khối lượng sản phẩm bán ra;
- Số chứng nhận FSC/FM-CoC của bên bán;
- Thông tin trên các tài liệu vận chuyển và hóa đơn bán hàng phải khớp với nhau.
5) Nhân viên phụ trách quản lý và bán gỗ FSC
- Tùy theo tình hình giao nhận gỗ cụ thể cua công ty mà cử nhân viên chịu
trách nhiệm cho phù hợp;
- PGĐ kinh doanh, phòng kinh doanh, thủ kho, phòng kế toán, v.v.
6) Biểu mẫu sử dụng theo dõi và bán gỗ FSC
- Hợp đồng giao/bán gỗ giữa 2 bên mua và bán;
- Hợp đồng vận chuyển với đơn vị vận tải ( nếu có);
- Hóa đơn bán hàng ( phải ghi rõ khối lượng, loại gỗ, số xe vận chuyển);
- Biên bản giao gỗ tại bãi của người mua;
- Các lưu trữ về giao gỗ FSC phải để riêng rẽ;
- Gỗ FSC tại bãi của bên mua phải để riêng rẽ với các loại gỗ không có FSC.
7) Các quy định về duy trì chứng từ liên quan đến CCR
22
22
23
- Chuẩn bị các chứng từ cho kiểm tra hàng năm của cơ quan đánh giá: tất cả
các giấy tờ về khai thác gỗ FSC, vận chuyển ra bài gom, bãi giao, tóm tăt giao gỗ
hàng tháng, hóa đơn bán hàng, vận chuyển, v.v cho từng khách hàng:
- Các báo cáo riêng rẽ về khai thác gỗ FSC và không FSC và giao cho
khách hàng;
- Các báo cáo riêng rẽ về gỗ FSC và không FSC của TCT Giấy chuyển về
nhà máy chế biến;
- Báo cáo tương tự cuối mỗi năm, gồm cả nguồn mà TCT mua của các
nguồn khác;
- Các báo cáo này phải được lưu trữ tại phòng kế toán của các đơn vị có khai
thác và bán gỗ FSC cho TCT/và tại nhà máy chế biến.
8) Các tài liệu cần lưu trữ
- Thẻ kho gỗ tròn, phiếu nhập gỗ, xuất gỗ bao gồm các thông tin: số chứng
nhận CCR, CoC, tên gỗ, loại gỗ, số xe nhập gỗ, xuất gỗ, ngày vận chuyển, hóa đơn
giao gỗ với chữ ký của lái xe hoặc người mua;
- Giấy tờ vận chuyển kèm theo bảng kê gỗ tròn có xác nhận của kiểm lâm địa
bàn hoặc UBND xã/huyện xác nhận loại gỗ, khu vực khai thác, m3 vận chuyển;
- Hóa đơn bán hàng VAT.
9) Tập huấn
- Phải lưu tài liệu về các khóa tập huấn ( nội dung tập huấn, danh sách học
viên tham gia, thời gian tập huấn.)
- Nhân viên phụ trách về FSC, CoC phải được tập huấn;
- Có kế hoạch tập huấn hàng năm;
- Các tài liệu về tập huấn phải lưu 5 năm.
Tính đến ngày 14/5/2010, số doanh nghiệp Việt Nam được cấp chứng chỉ
rừng theo các mức độ khác nhau tăng dần, cả nước đã có 205 doanh nghiệp, đã
chứng tỏ rằng các doanh nghiệp đã nhận thức được tầm quan trọng của chứng chỉ
rừng và đang chủ động thích ứng với những đạo luật mới về xuất khẩu gỗ vào thị
trường Mỹ và EU.
Trong bộ tiêu chuẩn Quốc gia QLRBV của Việt Nam (do Hội Khoa học Lâm
23
23
24
nghiệp Việt Nam xây dựng trên cơ sở bộ tiêu chuẩn của Hội đồng Chứng chỉ rừng
FSC) quốc tế thì việc lập KHQLR, đó là một hoạt động không thể thiếu trong
QLRBV. KHQLR bao gồm nhiều nội dung nhưng vấn đề quản lý khai thác giữ vai
trò quan trọng nhất. Trong bộ tiêu chuẩn Việt Nam về QLRBV có nhiều tiêu chuẩn
và tiêu chí liên quan đến lập kế hoạch quản lý rừng, trong đó tiêu chuẩn 7 yêu cầu
chủ rừng phải xây dựng kế hoạch quản lý rừng và kế hoạch phải thể hiện được
những nội dung chính sau:
+ Những mục tiêu của kế hoạch quản lý rừng.
+ Mô tả những tài nguyên được quản lý, những hạn chế về môi trường, hiện
trạng sở hữu và sử dụng đất, điều kiện kinh tế xã hội và tình hình vùng xung quanh.
+ Mô tả hệ thống quản lý lâm sinh và/hoặc những hệ thống khác trên cơ sở
sinh thái của khu rừng và thu thập thông tin thông qua điều tra tài nguyên.
+ Cơ sở của việc định mức khai thác rừng hàng năm và việc chọn loài.
+ Các nội dung quan sát về sinh trưởng và động thái của rừng.
+ Sự an toàn môi trường trên cơ sở những đánh giá về môi trường.
+ Những kế hoạch bảo vệ các loài quý hiếm đang có nguy cơ.
+ Những bản đồ mô tả tài nguyên rừng kể cả rừng bảo vệ, những hoạt động
trong kế hoạch, và sở hữu đất.
+ Mô tả và biện luận về kỹ thuật khai thác và những thiết bị sử dụng.
1.3. Thảo luận
Trên thế giới, QLRBV đã trở thành cao trào, được hầu hết các nước công
nghiệp tiên tiến và hàng loạt quốc gia đang phát triển có rừng tự nguyện tham gia.
Trong khi phần lớn diện tích rừng được cấp ở Châu Âu, Bắc Mỹ và Nam Mỹ thì
CCR ở khu vực Nam Mỹ, Châu Á - Thái Bình Dương và Châu Phi tiến rất chậm.
Trình độ quản lý rừng thấp, nguồn lực cải thiện quản lý, thêm đó là chi phí cho
CCR khá cao là một trong những hạn chế để các chủ rừng ở các lục địa này tiến tới
cấp chứng chỉ.
Ở Việt Nam, khi chuyển đổi các phương thức quản lý thông thường sang
24
24
25
phương thức QLRBV đòi hỏi sẽ phải thay đổi một loạt khuôn khổ chính sách ở cấp
trung ương; thái độ, quan điểm và sự đồng thuận của các sơ sở sản xuất kinh doanh
lâm nghiệp và ngay cả người dân địa phương. Tính phức tạp không chỉ thể hiện trên
khía cạnh chính sách, công nghệ mà còn về sinh thái, kinh tế, xã hội, đặc biệt là
nhận thức về CCR. Việc xác định các tiêu chuẩn QLRBV cho mỗi hệ sinh thái của
Việt Nam gặp khó khăn do tính đa dạng phức tạp của nó. Các lợi ích từ quản lý và
bảo vệ rừng chưa hấp dẫn người dân sống trong vùng rừng nên sự tham gia của họ
còn rất hạn chế. Nguồn vốn cho các hoạt động còn thiếu, thiếu cả cơ chế đảm bảo
tham gia của các đối tượng hữu quan vào quản lý rừng. Chi phí để đạt tiêu chuẩn
CCR lại quá cao, cao hơn so với giá bán gỗ đã được cấp chứng chỉ. Tuy vậy CCR tỏ
ra rất thích hợp và lợi ích cho các chủ rừng trồng gỗ nguyên liệu xuất khẩu .
Nhưng cần nhìn vào lợi ích trong tương lai, QLRBV là xu thế tất yếu đối với
đơn vị kinh doanh lâm nghiệp. Kinh nghiệm của Công ty TNHH rừng trồng Quy
Nhơn cho thấy có việc được chứng nhận FSC, khi có chứng nhận FSC thì việc kinh
doanh của họ đã có thêm nhiều thuận lợi, đặc biệt là được khách hàng chú ý nhiều
hơn. Chứng chỉ rừng không chỉ làm thay đổi giá trị của hàng hoá đem lợi ích đến
không chỉ cho doanh nghiệp chế biến lâm sản mà cả những đơn vị trồng rừng cũng
được hưởng nhiều quyền lợi khi có được chứng nhận này. Những khó khăn trở ngại
nêu trở thành những thách thức đối với các nhà lâm nghiệp trong quá trình chuyển
đổi quản lý rừng theo hướng bền vững mà trong đó nghiên cứu để tìm tòi một
phương pháp lập kế hoạch QLRBV là bước ban đầu rất quan trọng.
Đánh giá quản lý rừng phải căn cứ vào các tiêu chuẩn QLRBV, nhưng vận
dụng các tiêu chuẩn này cho các đơn vị cần linh hoạt, theo điều kiện thực tế đang
có. Mục tiêu của CTLN Vĩnh Hảo là quản lý sử dụng tài nguyên rừng bền vững.
Công ty chưa có đánh giá nào về quản lý rừng của mình theo bộ tiêu chuẩn QLRBV
của FSC, cũng như chưa có sự tư vấn hỗ trợ và chuyển giao kỹ năng đánh giá nào
của các chuyên gia. Đề tài “Đánh giá quản lý rừng, chuỗi hành trình sản phẩm
và lập kế hoạch quản lý tiến tới CCR rừng tại Công ty lâm nghiệp Vĩnh Hảo, tỉnh
Hà Giang” nhằm hỗ trợ Công ty tự đánh giá công tác quản lý rừng của mình để
thay đổi phương thức quản lý để có cơ hội nhận CCR.
Chương 2
25
25