Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
ĐỖ VĂN MÃO
ĐÁNH GIÁ QUẢN LÝ RỪNG, CHUỖI HÀNH TRÌNH
SẢN PHẨM VÀ LẬP KẾ HOẠCH QUẢN LÝ TIẾN TỚI
CHỨNG CHỈ RỪNG TẠI TRUNG TÂM LÂM NGHIỆP
TAM ĐẢO TỈNH VĨNH PHÚC
Chuyên ngành: LÂM HỌC
Mã số: 60.62.60
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. VŨ NHÂM
THÁI NGUYÊN - 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan:
Đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi
Các số liệu sử dụng trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng.
Kết quả nêu trong luận án là trung thực, khách quan
và chưa có ai công bố trong bất cứ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 09 năm 2011
Đỗ Văn Mão
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình đào tạo Cao học hệ chính quy khoá học 2009-
2011, được sự đồng ý của thầy giáo hướng dẫn và khoa Sau Đại học - trường Đại
học Nông Lâm Thái Nguyên , tôi thực hiện bảo vệ luận văn thạc sĩ khoa học Lâm nghiệp
“Đánh giá quản lý rừng, chuỗi hành trình sản phẩm và lập kế hoạch quản lý tiến tới
chứng chỉ rừng tại Trung tâm lâm nghiệp Tam Đảo - tỉnh Vĩnh Phúc” .
Tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến thầy giáo PGS.TS.Vũ Nhâm, đã
hướng dẫn, chỉ bảo, truyền đạt kinh nghiệm quý báu và giúp đỡ tôi hoàn thành luận
văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Sau đại học trường Đại học
Nông Lâm Thái Nguyên, Ban lãnh đạo và cán bộ Trung tâm lâm nghiệp Tam Đảo
cùng gia đình, bạn bè đã giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập và thực hiện luận văn.
Do còn hạn chế về nhiều mặt nên luận văn sẽ có nhiều thiếu sót. Tôi rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến và thảo luận.
Tôi xin chân thành cám ơn !
Thái Nguyên, tháng năm 2011
Tác giả
Đỗ Văn Mão
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
iii
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 4
1.1. Trên thế giới 4
1.1.1. Quản lý rừng bền vững 4
1.1.2. Chứng chỉ rừng và chứng chỉ chuỗi hành trình sản phẩm 6
1.1.3. Kế hoạch quản lý rừng 12
1.2. Ở Việt nam 13
1.2.1. Tiến trình CCR 13
1.2.2. Các công trình nghiên cứu và hoạt động QLRBV ở Việt nam 15
1.2.3. Kế hoạch quản lý rừng 19
CHƢƠNG 2: MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 22
2.1. Mục tiêu 22
2.1.1. Mục tiêu tổng quát 22
2.1.2. Mục Tiêu cụ thể 22
2.2 Nội dung nghiên cứu 22
2.2.1. Đánh giá quản lý rừng theo tiêu chuẩn QLRBV của Việt nam 22
2.2.2. Đá nh giá quả n lý chuỗ i hà nh trình sả n phẩ m theo tiêu chí củ a Việ t nam 22
2.2.3. Đá nh giá điề u kiệ n cơ bả n và tình quản lý rừng của Trung tâm 22
2.2.4. Dự báo nhu cầu lâm sản, yêu cầu bảo vệ môi trường và an sinh xã hội . 23
2.2.5. Lập kế hoạch quản lý rừng 23
2.3. Đối tượng nghiên cứu 23
2.4. Phương pháp nghiên cứu 23
2.4.1. Quan điể m, phương phá p luậ n nghiên cứ u 23
2.4.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể 23
CHƢƠNG 3: ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN CỦA HUYỆN TAM ĐẢO VÀ CỦA TRUNG
TÂM LÂM NGHIỆP TAM ĐẢO 32
3.1. Huyện Tam Đảo 32
3.1.1. Điều kiện tự nhiên 32
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
iv
3.1.2. Điều kiện kinh tế, xã hội 35
3.2. Trung tâm lâm nghiệp Tam Đảo 37
3.2.1 Sự hình thành Trung tâm 37
3.2.2. Hiện trạng quản lý và sử dụng đất đai năm 2010 38
3.2.3. Hiện trạng về tổ chức và lao động 39
3.2.4. Đánh giá chung 40
CHƢƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 43
4.1. Đánh giá quản lý rừng (FM) của Trung tâm lâm nghiệp Tam Đảo và phát
hiện những khiếm khuyết trong quản lý 43
4.1.1. Tiêu chuẩn được sử dụng để đánh giá. 43
4.1.2. Kết quả đánh giá các tiêu chí, chỉ số theo thang điểm và tổng hợp theo
tiêu chuẩn 43
4.1.3. Xác định các lỗi chưa tuân thủ và khiếm khuyết trong quản lý rừng và
cách khắc phục 45
4.1.4. Nhận xét 51
4.2. Đánh giá Chuỗi hành trình sản phẩm (CoC) 52
4.3. Lập kế hoạch quản lý rừng Trung tâm lâm nghiệp Tam Đảo 56
4.3.1. Những căn cứ lập KHQLR 56
4.3.2. Mục tiêu quản lý rừng 57
4.3.3. Bố trí sử dụng đất đai theo mục đích sử dụng 58
4.3.4. Kế hoạch sản xuất kinh doanh trung hạn chu kỳ 2012- 2018 cung cấp gỗ
nguyên liệu 60
4.3.5. Phân tích hiệu quả 87
KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KHUYẾN NGHỊ 90
5.1. Kết luận 90
5.2. Tồn tại 91
5.3. Khuyến nghị 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO 93
PHỤ LỤC 95
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
v
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CCR Chứng chỉ rừng
CoC Chuỗi hành trình sản phẩm
CTLN Công ty lâm nghiệp
FSC Hội đồng quản trị rừng
GTZ Tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức
ITTO Tổ chức gỗ nhiệt đới
KHQLR Kế hoạch quản lý rừng
KTXH Kinh tế xã hội
NWG Tổ Công tác Quốc gia về chứng chỉ FSC ở Việt Nam
OTC Ô tiêu chuẩn
PCCCR Phòng cháy chữa cháy rừng
QLRBV Quản lý rừng bền vững
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
UBND Ủy ban nhân nhân
WWF Quỹ quốc tế về bảo vệ thiên nhiên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
vi
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Hiện trạng cơ cấu sử dụng đất huyện Tam Đảo năm 2010 33
Bảng 3.2. Hiện trạng rừng và đất lâm nghiệp huyện Tam Đảo 34
Bảng 3.3: Hiện trạng sử dụng đất của Trung tâm và các hộ gia đình tham gia CCR
theo nhóm 38
Bảng 4.1: Các lỗi chưa tuân thủ và khuyến nghị khắc phục (7 lỗi) 46
Bảng 4.2: Những quan sát phát hiện và khuyến nghị khắc phục 50
Bảng 4.3: Bố trí đất đai theo mục đích sử dụng 59
Bảng 4.4. Hiện trạng rừng trồng Keo của Trung tâm và hộ gia đình 61
Bảng 4.5: Diện tích thực và diện tích chuẩn kết cấu theo tuổi 62
Bảng 4.6: Điều chỉnh diện tích rừng trồng Keo tai tượng theo tuổi thông qua khai
thác rừng 63
Bảng 4.7: Trữ lượng rừng trồng Keo tai tượng năm 2011 65
Bảng 4.8: Trữ lượng và sản lượng khai thác rừng trồng Keo giai đoạn 2012 - 2018 66
Bảng 4.9: Kế hoạch trồng rừng giai đoạn 2012 -2018 70
Bảng 4.10: Kế hoạch trồng rừng năm 2012 70
Bảng 4.11: Kế hoạch chăm sóc trong 1 chu kỳ kinh doanh: 2012-2018 72
Bảng 4.12: Kế hoạch cấp phát dụng cụ phòng cháy, chữa cháy trong giai đoạn
2012- 2018 75
Bảng 4.13: Hiệu quả kinh tế kinh doanh cho 1ha rừng trồng Keo 88
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
vii
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1: Các nhân tố tác động vào quản lý rừng 8
Hình 1.2: Mối quan hệ giữa CCR và thị trường 10
Hình 2.1. Sơ đồ khung đánh giá QLR tại Trung tâm lâm nghiệp Tam Đảo 30
Sơ đồ 3.1: Hệ thống tổ chức quản lý rừng Trung tâm lâm nghiệp Tam Đảo 42
Hình 4.1: Biểu đồ điều chỉnh diện tích khai thác rừng trồng 65
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, nhân loại đứng trước thảm hoạ
suy thoái môi trường trên toàn cầu nên đã đề ra nhiều giải pháp bảo vệ và phục hồi
môi trường, trong đó có phong trào quản lý rừng bền vững. QLRBV là sáng kiến
của cộng đồng quốc tế do những người chế biến, tiêu thụ gỗ cam kết chỉ sử dụng và
lưu thông trên mọi thị trường thế giới những sản phẩm gỗ nào được khai thác hợp
pháp từ các khu rừng đã được quản lý bền vững. Muốn vậy, chứng chỉ rừng và
chứng chỉ gỗ được áp dụng như là một công cụ hữu hiệu để buộc mọi chủ rừng đảm
bảo quản lý rừng bền vững về cả 3 phạm trù: kinh tế, môi trường, xã hội.
Hợp tác về lâm nghiệp trong khối ASEAN những năm vừa qua tập trung chủ
yếu vào quá trình QLRBV, từ đó một diện tích tuy còn hạn chế nhưng đã được cấp
chứng chỉ đầu tiên tại Malaysia, Indonesia, Philippines, Thái lan, trong 3 năm vừa
qua. Động lực kích thích các chủ rừng phấn đấu để đạt được chứng chỉ rừng là
không những được quyền xuất khẩu vào mọi thị trường quốc tế, mà còn được
hưởng giá cao so với gỗ nội địa. Có thể coi chứng chỉ rừng chính là chứng chỉ ISO-
9000, ISO-1400 nhưng đặc thù cho các doanh nghiệp quản lý kinh doanh rừng, sản
xuất gỗ và lâm sản. Chính vì vậy tổ chức cấp chứng chỉ rừng phải là các tổ chức phi
chính phủ, phi lợi nhuận quốc tế mới đảm bảo tính khách quan, công bằng và các tổ
chức cấp chứng chỉ phải dựa trên bộ tiêu chuẩn có đủ các tiêu chí quản lý rừng bền
vững tương đương nhau ở mọi vùng cả về kinh tế, môi trường và xã hội.
Khái niệm về quản lý rừng bền vững đã được hình thành từ đầu thế kỷ thứ
18. Ban đầu chỉ chú trọng đến khai thác, sử dụng gỗ được lâu dài, liên tục. Cùng với
sự tiến bộ của khoa học, kỹ thuật và phát triển kinh tế-xã hội quản lý rừng bền vững
đã chuyển từ quản lý kinh doanh gỗ sang quản lý kinh doanh nhiều mặt tài nguyên
rừng, quản lý hệ thống sinh thái rừng và cuối cùng là quản lý rừng bền vững trên cơ
sở các tiêu chuẩn, tiêu chí được xác lập chặt chẽ, toàn diện về các lĩnh vực kinh tế,
xã hội và môi trường
- Quản lý rừng bền vững là việc đóng góp của công tác lâm nghiệp đối với sự
phát triển. Sự phát triển đó phải mang lợi ích kinh tế, môi trường và xã hội, có thể
cân bằng giữa nhu cầu hiện tại và tương lai
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
- „Quản lý rừng bền vững‟ hiện nay được xem như tổng hợp của hoạt động sản
xuất bao gồm bảo vệ nguồn nước, đất, các khu văn hóa cũng như cây rừng cho gỗ.
- Định nghĩa về quản lý rừng bền vững của Uỷ ban Quốc Tế về Môi Trường
và Phát Triển được đưa ra vào năm 1987 được chấp nhận rộng rãi. Đó là: „Quản lý
bền vững là việc đáp ứng được nhu cầu hiện tại mà không ảnh hướng tới khả năng
tái tạo để đáp ứng nhu cầu tương lai‟.
- Có nhiều quan điểm khác về vấn đề quản lý rừng bền vững, nhưng tựu
chung đều có ý nghĩa như sau: „Quản lý rừng bền vững là quá trình quản lý rừng để
đạt được 1 hay nhiều mục tiêu cụ thể đồng thời xem xét đến việc phát triển sản xuất
dịch vụ và sản phẩm lâm nghiệp, đồng thời không làm giảm giá trị hiện có và ảnh
hưởng đến năng suất sau này, cũng như không gây ra các tác động xấu đến môi
trường tự nhiên và xã hội‟.
Trên thế giới, nhiều nước đã khá thành công trong việc cấp CCR. Ở Việt
Nam khái niệm QLRBV còn khá mới mẻ với nhiều đơn vị lâm nghiệp. Tính tới
tháng 6/2011, các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu gỗ mới chỉ được cấp gần 205
chứng chỉ CoC, nhưng mới chỉ có 1 chứng chỉ FSC về QLRBV cho Công ty TNHH
rừng trồng Quy Nhơn và 1 chứng chỉ FSC theo nhóm của Tổng công ty Giấy Việt
nam. Còn lại phần lớn các hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh doanh
lâm nghiệp vẫn chưa đạt được các tiêu chuẩn tối thiểu theo quy định để được FSC
cấp chứng chỉ. Bên cạnh đó các đơn vị chưa nhận được một hướng dẫn cụ thể về
việc tiến hành đánh giá các tiêu chuẩn QLR và tiêu chuẩn CoC.
Tài liệu cơ bản để FSC chứng nhận quản lý rừng cho chủ rừng là Bộ tiêu
chuẩn QLRBV gồm 10 tiêu chuẩn và 56 tiêu chí. QLRBV đòi hỏi chủ rừng phải lập
kế hoạch quản lý rừng (KHQLR) chi tiết, rõ ràng và giám sát chặt chẽ các hoạt
động lâm nghiệp. Tất cả các hoạt động từ xây dựng, phát triển rừng đều tuân theo
kế hoạch được lập, trong đó kế hoạch khai thác giữ vai trò quan trọng nhất.
Trung tâm lâm nghiệp Tam Đảo là đơn vị hoạt động sản xuất trong lĩnh vực
lâm nghiệp thuộc sở Nông Nghiệp & Phát Triển Nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc. Ngoài
chức năng do Sở Nông Nghiệp & Phát Triển Nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc giao, Trung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
tâm còn dịch vụ cho các hộ gia đình trong huyện Tam Đảo trong sản xuất lâm
nghiệp. Nhận thức được việc cần quản lý rừng theo hướng tiên tiến, Trung tâm
mong muốn được đánh giá quản lý rừng và chuỗi hành trình sản phẩm tiến tới CCR.
Trung tâm cũng cần được tư vấn, hỗ trợ phương pháp đánh giá để xác định được
những tiêu chuẩn chưa đạt, điều chỉnh hoạt động lâm nghiệp đáp ứng tiêu chuẩn và
tiêu chí QLRBV. Để góp phần giải quyết những tồn tại trên cả về mặt lý luận và
thực tiễn tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Đánh giá quản lý rừng, chuỗi hành trình sản
phẩm và lập kế hoạch quản lý tiến tới chứng chỉ rừng tại Trung Tâm lâm nghiệp
Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Trên thế giới
1.1.1. Quản lý rừng bền vững
Nỗ lực đầu tiên trong quản lý rừng bền vững được thực hiện là thành lập hệ
thống rừng trang trại tại Hoa Kỳ (ATFS) năm 1941, là một chương trình của Trung
tâm rừng hộ gia đình của Tổ chức Lâm nghiệp Hoa Kỳ, được cam kết duy trì các
khu rừng, khu vực đầu nguồn và nơi cư trú phù hợp thông qua năng lực của đơn vị
quản lý tư nhân. ATFS đã xây dựng các hướng dẫn và các tiêu chuẩn cho các chủ sở
hữu để đáp ứng nhu cầu trở thành trang trại có rừng được chứng nhận. Theo các tiêu
chuẩn và hướng dẫn này, các chủ sở hữu tư nhân phải xây dựng kế hoạch quản lý
dựa trên các tiêu chuẩn môi trường chặt chẽ và phải thông qua xét duyệt của cán bộ
lâm nghiệp tình nguyện của ATFS năm năm một lần. ATFS đã công nhận 24 triệu
mẫu Anh đất rừng thuộc sở hữu tư nhân và 90473 chủ sở hữu rừng từ nhân, những
người cam kết quản lý tốt rừng của mình, tại 46 bang.
Tiếp đó là Hội đồng Quản trị rừng (FSC) được thành lập năm 1993, bởi một
nhóm gồm 130 thành viên khác nhau từ 25 quốc gia, bao gồm đại diện của các cơ
quan môi trường, các thương gia, các cộng đồng dân bản xứ, ngành công nghiệp và
các cơ quan cấp chứng chỉ. Nhiệm vụ của FSC là thúc đẩy việc quản lý rừng trên
thế giới một cách hợp lý về mặt môi trường, có ích về mặt xã hội và có thể thực
hiện được về mặt kinh tế. FSC đã đẩy mạnh việc áp dụng những Nguyên tắc và
Tiêu chí về Quản lý rừng đối với tất cả các loại rừng trên Thế giới thông qua một
chương trình ủy nhiệm tình nguyện cho các cơ quan cấp chứng chỉ. Cùng với sự ra
đời của FSC, một loạt các tổ chức khác cũng được thành lập: PAN-EUROPEAN
cho rừng tự nhiên toàn châu Âu (Helsinki); CIFOR (Trung tâm nghiên cứu lâm
nghiệp quốc tế) cho rừng tự nhiên nói chung; ITTO (tổ chức quốc tế về gỗ nhiệt
đới) cho rừng tự nhiên nhiệt đới Cộng đồng quốc tế đã tổ chức nhiều hội nghị, đề
xuất và cam kết nhiều công ước bảo vệ và phát triển rừng: Chiến lược bảo tồn quốc
tế (1980); Hội nghị của Liên hợp quốc về môi trường và phát triển (UNCED,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Riodejaneiro, 1992); Công ước buôn bán động thực vật quý hiếm (CITES); Công
ước đa dạng sinh học (CBD) Nhiều định nghĩa QLRBV được đưa ra, tuy nhiên
hai định nghĩa phổ biến và được công nhận rộng rãi nhất là của ITTO và trong tiến
trình Hensinki.
Theo ITTO: “Quản lý rừng bền vững là quá trình quản lý những lâm phận ổn
định nhằm đạt được một hoặc nhiều mục tiêu quản lý đề ra một cách rõ ràng như
đảm bảo sản xuất liên tục những sản phẩm và dịch vụ rừng mong muốn mà không
làm giảm đáng kể những giá trị di truyền và năng suất tương lai của rừng và không
gây ra những tác động không mong muốn đối với môi trường tự nhiên và xã hội”
Theo tiến trình Hensinki: “Quản lý rừng bền vững là sự quản lý rừng và đất
rừng theo cách thức và mức độ phù hợp để duy trì tính đa dạng sinh học, năng suất,
khả năng tái sinh, sức sống của rừng trong quá trình thực hiện và trong tương lai,
các chức năng sinh thái, kinh tế và xã hội của rừng ở cấp địa phương, cấp quốc gia
và toàn cầu và không gây ra những tác hại đối với hệ sinh thái khác”.
Trên thế giới đã có các bộ tiêu chuẩn quản lý bền vững cấp quốc gia và cấp
quốc tế của tiến trình Helsinki, tiến trình Montreal. FSC và ITTO đã có bộ tiêu chuẩn
của quản lý rừng được vận dụng rất rộng rãi để đánh giá quản lý rừng ở nhiều nước.
Tuy nhiên, theo bản báo cáo của ITTO đã thừa nhận FSC “Gần như là
chương trình duy nhất về gắn nhãn hiệu và ủy quyền đối với lâm phẩm trên toàn thế
giới”. Số lượng ít ỏi các cơ quan được cấp chứng chỉ rừng do FSC ủy quyền trước
đây đã là một hạn chế trong việc phát triển vấn đề cấp chứng chỉ gỗ, và ngày này đa
được FSC khắc phục hiệu quả bằng việc gia tăng ủy quyền cho các tổ chức cấp
chứng chỉ rừng. Hiện nay có 18 tổ chức độc lập được FSC ủy quyền cấp chứng chỉ
FSC, thời hạn chứng chỉ mỗi lần cấp có hiệu lực 5 năm và luôn kiểm tra chất lượng.
Tiêu chuẩn quản lý rừng bền vững của FSC có 10 nguyên tắc, 56 tiêu chí. Các tiêu
chí vẫn luôn được xem xét, cân nhắc để chỉnh sửa thông qua đề đạt của các thành
viên FSC và lấy biểu quyết trong các kỳ đại hội.
Hội đồng PEFC (Chương trình chứng nhận các tổ chức chứng chỉ rừng) là
một tổ chức độc lập, phi lợi nhuận, phi chính phủ, được thành lập năm 1999, hoạt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
động thúc đẩy quản lý rừng bền vững thông qua việc chứng nhận độc lập bởi bên
thứ ba. PEFC đưa ra cơ chế đảm bảo với những người thu mua sản phẩm gỗ và giấy
rằng họ đang xúc tiến công tác quản lý rừng bền vững. PEFC là chương trình quy
mô toàn cầu về đánh giá và công nhận lẫn nhau của các tổ chức chứng chỉ rừng
quốc gia đã được phát triển trong quá trình có các bên tham gia.
1.1.2. Chứng chỉ rừng và chứng chỉ chuỗi hành trình sản phẩm
Theo Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hoá (ISO, 1991) chứng chỉ là sự cấp giấy
xác nhận một sản phẩm, một quá trình hay một dịch vụ đã đáp ứng các yêu cầu nhất
định. Chứng chỉ rừng (CCR) có 2 phần là chứng chỉ quản lý rừng và chứng chỉ
chuỗi hành trình sản phẩm (CoC). Hiện có nhiều định nghĩa khác nhau về CCR,
nhưng đều bao hàm hai nội dung cơ bản là a) đánh giá độc lập chất lượng quản lý
rừng theo một bộ tiêu chuẩn quy định, và b) cấp giấy chứng chỉ có thời hạn.
Chứng chỉ rừng là sự xác nhận bằng giấy chứng chỉ rằng đơn vị quản lý
rừng được chứng chỉ đã đạt những tiêu chuẩn về quản lý rừng bền vững do tổ chức
chứng chỉ hoặc được uỷ quyền chứng chỉ quy định. Nói cách khác , chứng chỉ rừng
là quá trình đánh giá quản lý rừng để xác nhận rằng chủ rừng đã đạt các yêu cầu về
quản lý rừng bền vững.
Ba thành phần có vai trò trong việc chứng chỉ rừng:
1. Người chứng chỉ: là một tổ chức thứ ba, trung gian, hoàn toàn độc lập
2. Người có lợi ích trực tiếp hoặc gián tiếp từ rừng như chính phủ, chính
quyền địa phương, cộng đồng dân cư, các tổ chức môi trường, xã hội v.v. gọi chung
là các bên liên quan.
3. Người được chứng chỉ, gồm các lâm trường, công ty hay doanh nghiệp
lâm nghiệp, chủ rừng cộng đồng hoặc cá thể.
Một trong những động lực quan trọng của chứng chỉ rừng là thâm nhập thị
trường tiêu thụ sản phẩm rừng đòi hỏi có chứng chỉ, vì vậy chứng chỉ rừng thường
gắn với chứng chỉ chuỗi hành trình - xác nhận sản phẩm có nguồn gốc từ rừng được
chứng chỉ. Chủ rừng được chứng chỉ theo quy trình nào thì được cấp giấy chứng chỉ
và các sản phẩm làm ra được mang nhãn mác của quy trình đó. Hiện nay trên thế
giới có 2 quy trình CCR quốc tế lớn là Hội đồng quản trị rừng (FSC) và Chương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
trình phê duyệt các quy trình chứng chỉ rừng (PEFC), chiếm trên 60% diện tích
rừng được chứng chỉ của thế giới.
1) Tại sao cần chứng chỉ rừng?
Ngày nay toàn thế giới ngày càng quan tâm đến tình trạng diện tích và chất
lượng rừng ngày một suy giảm, ảnh hưởng lớn đến môi trường sống và khả năng
cung cấp sản phẩm rừng cho phát triển bền vững cũng như nhu cầu hàng ngày của
người dân. Vấn đề cần được giải quyết là làm thế nào quản lý kinh doanh rừng phải
vừa đảm bảo tốt lợi ích kinh tế, vừa đem lại lợi ích thiết thực cho các cộng đồng dân
cư sống trong rừng, vừa không gây tác động xấu đến môi trường sống, tức là thực
hiện được quản lý rừng bền vững. Như vậy, có thể nói quản lý rừng bền vững là
mục tiêu, còn chứng chỉ rừng chỉ là một trong những công cụ hay biện pháp chủ yếu
để đạt mục tiêu đó. Chứng chỉ rừng là cần thiết vì:
- Cộng đồng quốc tế, chính phủ, các cơ quan chính phủ, các tổ chức môi
trường, xã hội v.v đòi hỏi các chủ sản xuất kinh doanh rừng phải chứng minh rằng
rừng của họ đã được quản lý bền vững.
- Người tiêu dùng sản phẩm rừng đòi hỏi các sản phẩm lưu thông trên thị
trường phải được khai thác từ rừng đã được quản lý bền vững.
- Người sản xuất muốn chứng minh rằng các sản phẩm rừng của mình, đặc
biệt là gỗ, được khai thác từ rừng được quản lý một cách bền vững.
Chứng chỉ rừng cần thiết để xác nhận QLRBV của chủ rừng, cũng như
chứng chỉ ISO để xác nhận quản lý chất lượng sản xuất công nghiệp. Có thể ví thực
hiện QLRBV như một quá trình “học”, còn chứng chỉ rừng như một kỳ thi, chủ
rừng được cấp chứng chỉ tức là đã “thi đỗ” bằng QLRBV.
Ngay từ thập kỷ 1990 ITTO đã đề ra mục tiêu đến năm 2000 tất cả các sản
phẩm rừng của nhóm các nước sản xuất thành viên phải có nguồn gốc từ rừng được
quản lý bền vững. Năm 1998 Liên kết WB -WWF đề ra mục tiêu đến năm 2005
toàn thế giới có 200 triệu ha rừng, gồm 100 triệu ha rừng nhiệt đới và 100 triệu ha
rừng ôn đới, được chứng chỉ. Tính đến nay, diện tích rừng được chứng chỉ bởi các
quy trình chủ yếu trên toàn thế giới là 341,95 triệu ha. Như vậy là tổng số diện tích
rừng được chứng chỉ đã vượt chỉ tiêu của Liên kết WB -WWF, nhưng diện tích
rừng nhiệt đới được chứng chỉ còn rất nhỏ bé, còn rất xa so với mục tiêu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
2) Chứng chỉ rừng bổ sung cho chính sách lâm nghiệp
Quản lý rừng thường chịu các tác động của:
- Luật pháp và chính sách về lâm nghiệp thông qua các quyết định, nghị
định, thông tư, chỉ thị, hướng dẫn v.v. của nhà nước và các hiệp định, công ước
quốc tế, gọi chung là những công cụ cứng.
- Cơ chế thị trường, các hình thức khuyến khích vật chất, tuyên truyền vận
động, khen thưởng v.v , gọi chung là những công cụ mềm.
Chứng chỉ rừng, bao gồm cả gắn nhãn sản phẩm, dựa vào động lực thị
trường là một công cụ mềm có ảnh hưởng rất lớn đến quản lý rừng.
+
Hình 1.1: Các nhân tố tác động vào quản lý rừng
(Nguồn: Cẩm Nang Ngành Lâm Nghiệp. Chương Chứng Chỉ Rừng, FSSP & GTZ 2006)
Từ khi xuất hiện đến nay CCR đã được hơn 18 năm tuổi và hiện nay trên thế
giới tồn tại nhiều quy trình chứng chỉ rừng khác nhau, và diện tích rừng có chứng
chỉ đã vượt con số 500 triệu ha.
Do việc hội nhập quốc tế ngày càng cao, thương mại quốc tế ngày càng mở
rộng, sản phẩm rừng của một quốc gia có thể và cần được đem bán ở nhiều thị
trường bên ngoài quốc gia đó. Do quan ngại việc sản xuất sản phẩm rừng có thể làm
Cam kết
quốc tế
Mục tiêu
phát triển
Chính
sách lâm
nghiệp
Quản lý
rừng
Phong trào
môi trƣờng
Thị trƣờng
SFR
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
suy kiệt tài nguyên rừng, gây tác hại cho môi trường sống, rất nhiều thị trường chỉ
chấp nhận mua sản phẩm nếu người sản xuất chứng minh được rằng mình đã thực
hiện QLRBV và đã được cấp chứng chỉ của một quy trình CCR có uy tín được
những thị trường đó công nhận. Những quy trình quốc tế đặc biệt quan trọng cho
CCR động lực thị trường đòi hỏi độ tin cậy cao, trong khi đó những quy trình quốc
gia nhằm cả hai mục tiêu là QLRBV và thị trường, nhưng những sản phẩm rừng có
chứng chỉ quốc gia thường khó được thị trường quốc tế chấp nhận. Để tăng uy tín
trên thị trường quốc tế, một số quy trình quốc gia tìm cách liên kết với các quy trình
quốc tế, chẳng hạn Hội Đồng Chứng Chỉ Gỗ Malaysia (MTCC) và Viện Nhãn Sinh
Thái Indonesia (LEI) với FSC, nhưng đến nay vẫn chưa đạt được một cơ chế chính
thức. Do đó sản phẩm có chứng chỉ MTCC và LEI vẫn không được các thị trường
quốc tế chấp nhận. Vì vậy, hiện nay tất cả những nước có quy trình quốc gia như
Canada, Indonesia, và Malaysia đều vẫn tìm kiếm chứng chỉ quốc tế và thực tế đều
đã có rừng có chứng chỉ quốc tế FSC. Hai quy trình CCR quốc tế có uy tín lớn nhất
hiện nay là FSC và PEFC.
3) Chứng chỉ rừng làm cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng
Thực tế đã chứng minh có thể sản xuất các sản phẩm rừng, đặc biệt là gỗ và
các sản phẩm từ gỗ, mà không làm suy giảm tài nguyên rừng và gây tác hại đến môi
trường sống nếu thực hiện QLRBV. Khái niệm thương mại và phát triển bền vững
được hình thành trên cơ sở cho rằng có thể sử dụng các biện pháp thương mại để
kiểm soát một cách có hiệu quả các tác hại về môi trường: phát triển một hệ thống
thị trường chỉ chấp nhận tiêu thụ các sản phẩm có chứng chỉ an toàn môi trường.
Cuối những năm 1980 nhiều tổ chức phi chính phủ vận động tẩy chay gỗ rừng nhiệt
đới để giảm nhu cầu trên thị trường thế giới. Sau đó chính quyền nhiều thành phố
lớn ở Hà Lan, Đức, Hoa Kỳ cũng có lệnh cấm sử dụng gỗ rừng nhiệt đới trong
những công trình xây dựng bằng vốn ngân sách do lo ngại làm suy kiệt rừng nhiệt
đới. Đến 1990 quốc hội Australia ban hành luật hạn chế nhập khẩu gỗ từ những
nước không thực hiện QLRBV. Biện pháp cấm và tẩy chay thương mại và sử dụng
gỗ rừng nhiệt đới cũng thường xuyên được thảo luận ở Hội đồng gỗ nhiệt đới quốc
tế (ITTC) trong suốt những năm 1988-1992. Nhiều thị trường rộng lớn Châu Âu và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
Bắc Mỹ bắt đầu thực hiện chính sách chỉ cho phép gỗ có chứng chỉ được tham gia.
Đến đầu những năm 2000 Nhóm G8 (các nước giầu nhất) tuyên bố các chính phủ
thành viên cam kết tìm biện pháp đáp ứng những nhu cầu về gỗ và nguyên liệu giấy
của mình chỉ từ những nguồn hợp pháp và bền vững. Những cam kết này sau đó đã
trở thành chính sách của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và Liên minh Châu
Âu (EU). Gần đây EU đã đề ra Kế hoạch hành động thi hành Luật lâm nghiệp, Quản
trị và Thương mại, trong đó công cụ thương mại được coi là chìa khoá để thực hiện
cam kết của các nước thành viên. Ở Việt Nam những doanh nghiệp xuất khẩu sản
phẩm gỗ và giấy hiện đang chịu áp lực rất lớn của thị trường đòi hỏi phải có CCR
FSC. Trên thị trường nảy sinh vấn đề người tiêu dùng sản phẩm rừng đòi hỏi sản
phẩm mà họ mua phải có nguồn gốc từ rừng đã được quản lý bền vững, người sản
xuất muốn chứng minh rừng của mình đã được quản lý bền vững. Chứng chỉ rừng
độc lập cung cấp thông tin tin cậy cho người tiêu dùng về những yêu cầu mà họ
quan tâm, tức là cầu nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Vì vậy, đối với
chứng chỉ rừng vấn đề quan trọng bậc nhất chính là độ tin cậy về đảm bảo tiêu
chuẩn, tính độc lập và khách quan của tổ chức chứng chỉ.
Chứng chỉ CoC
Hình 1.2: Mối quan hệ giữa CCR và thị trường
(Nguồn: Cẩm Nang Ngành Lâm Nghiệp. Chương Chứng Chỉ Rừng. FSSP & GTZ 2006)
Nhằm hỗ trợ cho phát triển chứng chỉ rừng Quỹ quốc tế bảo vệ thiên nhiên
(WWF) đã thành lập tổ chức gọi là Sáng kiến Rừng toàn cầu và Thương mại với
mục đích thúc đẩy thiết lập các Mạng lưới Rừng và Thương mại Toàn cầu (GFTN).
Thành viên của mạng lưới gồm các nhóm bảo vệ môi trường, công nghiệp gỗ, và
những nhà quản lý rừng cùng cam kết chỉ sản xuất và buôn bán những sản phẩm từ
rừng có chứng chỉ QLRBV. Hiện nay GFTN đã có mạng lưới thành viên ở nhiều
Rừng có
chứng chỉ
Gắn nhãn
sản phẩm
Thị trƣờng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
nước có thương mại gỗ rất phát triển như Australia, Bỉ, Braxin, Pháp, Đức, Hà Lan,
Nga, Anh, Italy, Nhật Bản, Mỹ. Để thúc đẩy thương mại sản phẩm rừng có chứng
chỉ thì phải tăng cường chứng chỉ rừng và chứng chỉ CoC. Do nhu cầu về sản phẩm
có chứng chỉ trên thị trường đang tăng nhanh, thế giới ngày càng tăng cường tẩy
chay sản phẩm khai thác bất hợp pháp hay không an toàn môi trường, trong khi đó
chứng chỉ rừng tiến triển rất chậm chạp ở nhiều nước đang phát triển nhiệt đới do trình
độ quản lý rừng ở các nước này hãy còn rất thấp kém, chưa đạt tiêu chuẩn CCR. Đây
cũng là tồn tại lớn nhất hiện nay của tất cả các quy trình CCR trên thế giới.
FSC là tổ chức uy tín nhất và chứng chỉ FSC được mọi thị trường chấp nhận,
kể các Bắc Mỹ, và Tây Âu. FSC được thành lập vào tháng 10/1993 tại Toronto -
Canada bởi một nhóm gồm 130 thành viên khác nhau từ 26 quốc gia, bao gồm đại
diện của các cơ quan môi trường, các thương gia, các cộng đồng dân bản xứ, đại
diện các ngành công nghiệp và các cơ quan cấp chứng chỉ. FSC cấp chứng chỉ
QLRBV cho rừng ôn đới, nhiệt đới, rừng tự nhiên, rừng trồng và đang mở rộng ra
rừng sản xuất lâm sản ngoài gỗ. Tổ chức này có trụ sở chính đặt tại thành phố Bonn
- Đức có cấu trúc quản trị duy nhất dựa trên các nguyên tắc sự tham gia, dân chủ,
công bằng. Năm 1994 các nguyên tắc và tiêu chí FSC cùng với Quy định FSC (hiện
tại gọi là Quy chế) đã được các thành viên sáng lập phê duyệt.
FSC có đại diện tại hơn 50 quốc gia. Thành viên FSC được chia thành nhóm
xã hội, nhóm môi trường và nhóm kinh tế, mỗi nhóm lại được chia ra thành nhóm
Bắc (các nước công nghiệp) và nhóm Nam (các nước đang phát triển). Bất kỳ ai hỗ
trợ cải thiện quản lý rừng trên thế giới đều có thể trở thành thành viên của FSC.
FSC ủy quyền cho 10 cơ quan trên thế giới cấp chứng chỉ có trụ sở tại Anh,
Mỹ, Hà Lan, Đức, Canada, Nam Phi, Thụy Sĩ. Tại Châu Á - Thái Bình Dương,
Công ty SmartWood/Rainforest Allliance và SGS Forestry thực hiện phần lớn việc
đánh giá và cấp CCR.
FSC xây dựng 10 tiêu chuẩn cho QLRBV. Từ các tiêu chuẩn đó, các quốc
gia, khu vực tham gia vào tiến trình QLRBV và CCR sẽ xây dựng các bộ tiêu chuẩn
quốc gia riêng để đánh giá và phù hợp với các điều kiện cụ thể của mình. Các bộ
tiêu chuẩn này cần phải được sự phê chuẩn của FSC trước khi được sử dụng để
đánh giá cấp chứng chỉ tại quốc gia hoặc khu vực đó.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
1.1.3. Kế hoạch quản lý rừng
- Kế hoạch quản lý rừng thuộc tiêu chuẩn 7 trong 10 tiêu chuẩn quản lý rừng
bền vững của FSC, là tiêu chuẩn có liên quan gần như xuyên suốt tất cả các hoạt
động quản lý rừng của đơn vị xin cấp CCR.
- Trong Kế hoạch quản lý rừng thể hiện được các nội dung cơ bản sau:
+ Những mục tiêu của kế hoạch quản lý rừng;
+ Mô tả những tài nguyên được quản lý, những hạn chế về môi trường, hiện
trạng sở hữu và sử dụng đất, điều kiện kinh tế xã hội, và tình hình vùng xung quanh;
+ Mô tả hệ quản lý lâm sinh và/hoặc những hệ khác trên cơ sở sinh thái của
khu rừng và thu thập thông tin thông qua điều tra tài nguyên;
+ Cơ sở của việc định mức khai thác rừng hàng năm và việc chọn loài;
+ Các nội dung quan sát về sinh trưởng và động thái của rừng;
+ Sự an toàn môi trường trên cơ sở những đánh giá về môi trường;
+ Những kế hoạch bảo vệ các loài nguy cấp, quý hiếm;
+ Những bản đồ mô tả tài nguyên rừng kể cả rừng bảo vệ (phòng hộ, đặc
dụng), những hoạt động quản lý trong kế hoạch và sở hữu đất;
+ Mô tả và biện luận về kỹ thuật khai thác và những thiết bị sử dụng.
- Những tiêu chí và chỉ số cần đạt được trong kế hoạch quản lý rừng
+ Kế hoạch quản lý rừng sẽ được định kỳ điều chỉnh nhằm kết hợp các kết
quả giám sát hoặc các thông tin khoa học kỹ thuật mới, cũng như đáp ứng những
thay đổi về môi trường và kinh tế - xã hội.
+ Kế hoạch 5 năm và hàng năm được điều chỉnh và có các giải pháp khắc
phục những yếu kém đã được phát hiện qua các cuộc khảo sát, áp dụng các tiến bộ
kỹ thuật mới và sự thay đổi của môi trường kinh tế - xã hội.
+ Lưu giữ các báo cáo đánh giá hiệu quả thực hiện kế hoạch hàng năm và 5
năm của đơn vị cũng như kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
+ Thường xuyên áp dụng những công nghệ mới, thích hợp có liên quan đến
quản lý kinh doanh rừng. Có danh mục những công nghệ mới được áp dụng.
+ Hệ thống cơ sở dữ liệu và cung cấp thông tin được vận hành tốt và thường
xuyên được cập nhật, nâng cấp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
+ Công nhân lâm nghiệp được đào tạo và giám sát thích hợp để đảm bảo thực
hiện thành công kế hoạch quản lý.
+ Tất cả công nhân và người lao động thường xuyên được đào tạo và đào tạo
lại theo định kỳ phù hợp với nhu cầu sử dụng của đơn vị. Có kế hoạch đào tạo tập
huấn và lưu giữ tài liệu về danh mục lớp, số người được đào tạo, tập huấn.
+ Chủ rừng tổ chức giám sát thường xuyên công việc của công nhân và ngư-
ời lao động. Có hệ thống giám sát, có quy định cụ thể trách nhiệm giám sát của tổ
chức, cá nhân.
+ Trong khi giữ bí mật thông tin, những người quản lý phải thông báo rộng
rãi bản tóm tắt những điểm cơ bản của kế hoạch quản lý.
1.2. Ở Việt nam
1.2.1. Tiến trình CCR
Việt nam tham gia quá trình này từ năm 1998 tới nay, tuy mới hình thành
nhưng được sự hưởng ứng của các cấp quản lý chính quyền, sự hăng hái tự nguyện
của mọi chủ rừng, tiến trình QLRBV đã đạt được một số tiến bộ đáng kể, đặc biệt là
tại các vùng khai thác gỗ, chế biến gỗ xuất khẩu. Ngày nay, biến đổi khí hậu đang
đe doạ sự tồn vong của loài người thì QLRBV là biện pháp chủ động của con người
để ngăn chặn giảm thiểu nguyên nhân thay đổ khí hậu.
Tháng 2/1998, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng 3 tổ chức quốc
tế phát động 1 phong trào QLRBV và CCR rộng rãi trong cả nước, thông qua hội
thảo quốc gia ngày 10-12/02/1998 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Tổ Công tác Quốc
gia về chứng chỉ FSC ở Việt Nam (NWG) đã được thành lập gồm 12 thành viên
thực hiện chương trình hành động, đồng thời xây dựng tổ chức để hoạt động lâu dài
trong hệ thống thành viên của FSC nhằm thúc đẩy tiến trình QLRBV và CCR tại
Việt Nam. Ban đầu NWG trực thuộc Cục lâm nghiệp thuộc Bộ nông nghiệp và Phát
triển nông thôn. Từ năm 2001, theo quy chế của FSC, NWG trở thành một tổ chức
độc lập, phi chính phủ, phi lợi nhuận thuộc Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam (nay là
Viện Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
Các hoạt động chủ yếu của NWG là:
- Dựa trên cơ sở 10 tiêu chuẩn và 56 tiêu chí của FSC, hoàn thành dự thảo
tiêu chuẩn quốc gia với 160 chỉ số phản ánh các đặc thù của Việt Nam, song vẫn
đảm bảo các tiêu chuẩn chất lượng của FSC. Đây là dự thảo lần 9 đã lấy ý kiến
nhiều chủ rừng, các cơ quan tổ chức liên quan, đã 2 lần mời chuyên gia FSC sang
dự hội thảo góp ý. Đang chờ ý kiến FSC thẩm định.
- Tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho chủ rừng, các bên liên
quan và cộng đồng dân cứ sống trong rừng, gần rừng.
- Nâng cao năng lực quản lý cho chủ rừng, năng lực hoạt động cho chuyên
gia Viện QLRBV và cán bộ lâm nghiệp.
- Đánh giá chất lượng quản lý rừng khu rừng.
- Tổ chức mạng lưới các mô hình QLRBV tự nguyện.
Năm 2001, Chiến lược lâm nghiệp quốc gia (NFS) giai đoạn 2001-2010 đã
xác định quản lý và phát triển rừng theo hướng bền vững là hướng đi chủ chốt. Vào
đầu năm 2007, Chiến lược phát triển Lâm nghiệp giai đoạn 2006-2020 đã được ban
hành, trong đó quy định theo hướng phát triển rừng quốc gia với năm chương trình
lớn. Một lần nữa QLRBV là một trong ba chương trình trọng điểm của chiến lược
với mục tiêu 30% (8,4 triệu ha) diện tích rừng trồng sản xuất đến năm 2020 được
cấp chứng chỉ.
Như vậy, các vấn đề về QLRBV là một yếu tố chủ chốt trong các chính sách,
chiến lược và kế hoạch hành động của Việt Nam.
+ Quyết định số 18/2007/QĐ- TTg ngày 05/02/2007 của Thủ tướng chính
phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển Lâm nghiệp giai đoạn 2006-2020, có một
Chương trình ưu tiên phát triển được đặt lên hàng đầu là “Chương trình quản lý và
phát triển rừng bền vững” với mục tiêu “đến năm 2020, thiết lập, quản lý, bảo vệ,
phát triển và sử dụng bền vững 16,24 triệu hecta đất qui hoạch cho Lâm nghiệp ”.
Đây là một mục tiêu đầy tham vọng và để đạt được mục tiêu này cần thiết phải xác
lập được những định hướng mới trong phát triển nguồn lực trong QLRBV thông
qua các chương trình đào tạo, hợp tác và nghiên cứu 5 chương trình trọng điểm của
Chiến lược là:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
Quản lý và phát triển rừng bền vững
Bảo vệ rừng, bảo tồn ĐDSH và phát triển dịch vụ môi trường.
Chế biến thương mại lâm sản.
(4) Nghiên cứu, giáo dục đào tạo và khuyến lâm.
(5) Đổi mới thể chế chính sách, kế hoạch, giám sát ngành
Theo Nguyễn Ngọc Lung, chứng chỉ rừng là hệ quả cuối cùng của Quản lý
rừng bền vững, vì nếu Quản lý rừng chưa đạt được các tiêu chuẩn bền vững thì
không có Chứng chỉ rừng. Trong điều kiện ở Việt Nam khi diện tích đất chưa ổn
định, độ che phủ chưa đủ, chất lượng và năng suất rừng còn thấp so với tiềm năng,
quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp chưa đủ tầm nhìn nên luôn phải điều chỉnh. Vì
vậy trong chương trình quản lý rừng bền vững cần thiết kế thêm một giai đoạn là
“xây dựng các điều kiện cần và đủ” để tiến hành quản lý bền vững hai đối tượng
rừng tự nhiên và rừng trồng. Phải song song vừa xây dựng điều kiện, vừa tiến hành
quản lý rừng bền vững theo các tiêu chí tiên tiến quốc tế lại phù hợp với pháp luật
và truyền thống quốc gia.
Theo Lê Khắc Côi, chứng chỉ rừng là thách thức và cơ hội cho ngành Lâm
nghiệp Việt Nam khi Việt Nam là một trong những nước xuất khẩu nội thất quan
trọng trên thị trường thế giới và ngành chế biến gỗ Việt Nam trở thành một nhà
nhập khẩu lớn gỗ được chứng nhận từ bên ngoài. Tiếp theo do trữ lượng và diện
tích rừng của các đơn vị quản lý rừng không cao, chi phí chứng nhận cho từng đơn
vị m
3
gỗ hay ha rừng thường ở mức cao vượt quá khả năng của các đơn vị quản lý
rừng. Tất cả những lý do trên khiến cho quá trình chứng nhận khiến cho quá trình
chứng nhận của các đơn vị quản lý rừng khó khả thi về mặt kinh tế.
1.2.2. Các công trình nghiên cứu và hoạt động QLRBV ở Việt nam
1.2.2.1. Một số công trình nghiên cứu về quản lý rừng bền vững
Các công trình nghiên cứu về QLRBV ở Việt nam chưa nhiều. Hai công
trình nghiên cứu về QLRBV có thể kể đến là:
1) Công trình nghiên cứu về Xây dựng các bước đánh giá QLRBV để cấp
CCR theo tiêu chuẩn của FSC. Công trình nghiên cứu thuộc cấp Bộ Nông nghiệp &
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
phát triển nông thôn quản lý, Trường Đại học lâm nghiệp là cơ quan chủ trì và do
PGS.TS Vũ Nhâm làm chủ nhiệm. Đề tài tiến hành từ năm 2001 đến 2002 kết thúc.
Sản phẩm chính của đề tài là Thiết lập được tiến trình đánh giá QLRBV cho một
chủ rừng ở Việt nam.
Tiến trình đánh giá qua 8 bước sau:
Bước 1: CR hoặc cơ quan quản lý Lâm nghiệp nhà nước có nhu cầu ĐGR
liên hệ ban đầu với NWG để được giải thích, thảo luận và cung cấp các thông tin
ban đầu liên quan đến ĐGR của mình.
Bước 2: CR hoặc CQLN đề nghị bằng văn bản tới NWG yêu cầu được ĐGR
và cung cấp các thông tin cần thiết ban đầu cho NWG.
Bước 3: NWG xử lý các thông tin ban đầu nhận được từ CR hoặc CQLN,
yêu cầu được bổ sung thêm các thông tin nếu cần.
Bước 4: NWG cử người đại diện đến khảo sát sơ bộ tình hình rừng và hoạt
động quản lý của CR bằng cách thăm hiện trường và phỏng vấn một số cán bộ chủ
chốt trong bộ máy quản lý của CR và hộ dân. Trên cơ sở đó lập một bản thiết kế các
nội dung và chương trình: TTĐGR, dự toán chi phí và ký hợp đồng với CR
Bước 5: NWG thành lập Đoàn TTĐGR, cử trưởng đoàn và cùng với Đoàn
xây dựng kế hoạch TTĐGR chi tiết. Thông báo nhân sự và kế hoạch hoạt động của
Đoàn TTĐGR cho CR và các cơ quan địa phương có liên quan.
Bước 6: Đoàn TTĐGR tới địa bàn của CR và bắt đầu thực hiện kế hoạch
TTĐGR dựa trên cơ sở đối chiếu các hoạt động thực tế của CR với các tiêu chuẩn,
tiêu chí và chỉ số của Bộ TCQG về QLRBV và CCR.
Bước 7: Sau khi đã hoàn thành công việc TTĐGR tại hiện trường của CR
Đoàn TTĐGR xây dựng báo cáo dự thảo tổng hợp và chuyên đề. Các báo cáo dự
thảo này được gửi cho NWG.
Bước 8: NWG gửi bộ báo cáo dự thảo tới CR để họ bình luận, giải trình và bổ
sung những điểm còn chưa thoả đáng trong báo cáo và phản hồi lại bằng văn bản.
Bộ báo cáo dự thảo, văn bản phản hồi của CR và các ý kiến của Hội đồng
thẩm định là tư liệu cơ bản để NWG xây dựng một bộ báo cáo chính thức về kết qủa
TTĐGR đối với hoạt động QLRBV của CR.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
2) Một số đề tài nghiên cứu Đánh giá QLRBV cho một số công ty lâm
nghiệp do các nghiên cứu viên tiến hành để xây dựng luận văn Thạc sĩ, như:
- Đánh giá quản lý rừng, chuỗi hành trình sản phẩm và lập kế hoạch quản lý
tại Công ty lâm nghiệp Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.
- Đánh giá quản lý rừng, chuỗi hành trình sản phẩm và lập kế hoạch quản lý
tại Công ty lâm nghiệp Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình.
- Lập kế hoạch quản lý rừng theo nguyên tắc quản lý rừng bền vững của FSC
tại Xí nghiệp lâm nghiệp Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình
- Lập kế hoạch quản lý rừng theo nguyên tắc quản lý rừng bền vững của FSC
gtại Xí nghiệp lâm nghiệp Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình
Các kết quả nghiên cứu đã giúp cho các chủ rừng nâng cao được nhận thức
về QLRBV cũng như sơ bộ đánh giá được khiếm khuyết trong quản lý rừng để có
giải pháp khắc phục.
1.2.2.2. Các hoạt động về QLRBV
- Hoạt động của Tổ công tác quốc gia trước đây (nay là Viện QLRBV&CCR) về
QLRBV.
+ Tuyên truyền tập huấn đào tạo về QLRBV do NWG thực hiện với sự hỗ
trợ Quỹ rừng nhiệt đới (TFT), Dự án cải cách hành chính của GTZ, WWG Đông
Dương tại các hội nghị, hội thảo quốc gia, vùng, tỉnh.
+ Xây dựng kế hoạch chiến lược và các hoạt động QLRBV thể hiện trong
Chiến lược phát triển lâm nghiệp giai đoạn 2006 - 2010.
+ Xây dựng lộ trình thực hiện QLRBV theo hai giai đoạn 2006-2010 và sau
năm 2010.
Dựa trên thực tiễn, Tổ công tác quốc gia tiến hành các khảo sát nhằm xem
xét tính khả thi của bộ tiêu chuẩn quốc gia đang dự thảo, đồng thời đánh giá trình
độ quản lý của các đơn vị.
- Hiện nay một số chương trình dự án về CCR đã và đang được thực hiện:
+ Dự án điều tra xây dựng kế hoạch QLRBV tại huyện Kon-Plong (Kontum)
2000- 2002 do JICA tài trợ.
+ Dự án hỗ trợ lâm trường Hà Nừng, Lâm trường Sơ pai (Gia Lai) do WWF
Đông Dương tài trợ.