Tải bản đầy đủ (.docx) (94 trang)

nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh cúm gia cầm và khả năng đáp ứng miễn dịch của gà, vịt đối với vacxin cúm h5n1 tại tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (988.98 KB, 94 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bệnh cúm gia cầm (CGC) thể độc lực cao (HPAI - Highly Pathgenic
Avian Influenza) là một bệnh truyền nhiễm cấp tính do vi rút, lây lan nhanh
và có tỷ lệ chết cao ở gia cầm, được OIE xếp vào những bệnh truyền nhiễm
nguy hiểm nhất của động vật.
Virus CGC thuộc họ Orthromyxoviridae gây ra, là virus ARN phân
mảnh có khả năng đột biến mạnh, với hai loại kháng nguyên bề mặt H (từ H1
đến H16) và N (từ N1 đến N9) đóng vai trò quan trọng trong sinh bệnh học và
miễn dịch học (Tô Long Thành, 2005, 2009).
Nguyên nhân của HPAI là do virus cúm type A - loại virus có khả năng
gây biến chủng rất mạnh. Bệnh lây lan nhanh chóng trong các đàn gia cầm
với tỷ lệ lây nhiễm và tỷ lệ chết cao. Không những thế bệnh còn có khả năng
lây truyền sang các loài động vật khác, đặc biệt nguy hiểm là bệnh có khả
năng lây lan sang người, trường hợp nhiễm nặng có thể gây tử vong. Hiện nay
cả thế giới đang phải đối mặt với nguy cơ xảy ra một vụ đại dịch cúm ở người
mà nguyên nhân là do các chủng vi rút cúm gia cầm biến đổi thành những
dạng mới thích nghi gây bệnh trên người.
Bệnh cúm gia cầm được phát hiện vào năm 1878 tại Italia, sau đó đã
xảy ra ở khắp nơi trên thế giới, gây thiệt hại kinh tế rất lớn. Ở Việt Nam, từ
cuối năm 2003 bệnh đã xuất hiện và bùng phát ở nhiều địa phương trong cả
nước trong đó có tỉnh Bắc Ninh gây ra những hậu quả nghiêm trọng, ảnh
hưởng đến đời sống kinh tế, chính trị - xã hội, làm thiệt hại nặng nề cho
ngành chăn nuôi gia cầm nước ta, nhiều cơ sở chăn nuôi công nghiệp quy mô
lớn, nhiều trang trại và hộ chăn nuôi gia đình đã bị phá sản.
Các biện pháp phòng chống dịch được áp dụng triệt để ngay từ đầu như
tiêu hủy toàn bộ đàn gia cầm mắc bệnh; cấm buôn bán, vận chuyển gia cầm
1
2
bệnh và gia cầm trong vùng có dịch; tiêu độc, khử trùng, tăng cường các biện


pháp an toàn sinh học… đã góp phần khống chế các đợt dịch, song rất tốn kém,
gây ô nhiễm môi trường và không mang lại hiệu quả mong muốn trong điều
kiện chăn nuôi nông hộ nhỏ lẻ như ở Việt Nam. Cho đến nay bệnh cúm gia
cầm chưa được khống chế hoàn toàn và vẫn tái phát lẻ tẻ ở nhiều địa phương
Tại thời điểm hiện tại, tiêm phòng vaccin cúm gia cầm cho toàn bộ đàn
gia cầm là một biện pháp được FAO, OIE khuyến cáo như là một công cụ bổ
xung hữu hiệu trong chiến lược phòng chống bệnh cúm gia cầm. Hiện nay,
một số quốc gia như Mexicco, Trung Quốc, Pakistan… đã sử dụng vaccin để
phòng chống cúm và đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ. Trên cơ sở đó,
từ cuối năm 2005 Việt Nam đã nhập vaccin cúm gia cầm của Trung Quốc để
triển khai tiêm phòng cho toàn bộ đàn gia cầm và thuỷ cầm trong cả nước
trong đó có tỉnh Bắc Ninh.
Việc đánh giá thực trạng chăn nuôi, giám sát sự lưu hành của virus và
đáp ứng miễn dịch của gia cầm đối với vaccin cúm cũng như khảo sát khả
năng bảo hộ của vaccin trong điều kiện thực địa là yếu tố quan trọng góp
phần đưa ra những chiến lược phù hợp trong phòng chống và tiến tới thanh
toán dịch cúm gia cầm ở Việt Nam.
Xuất phát từ tình hình và yêu cầu thực tế đó, chúng tôi tiến hành thực hiện
đề tài: “Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh cúm gia cầm và khả năng
đáp ứng miễn dịch của gà, vịt đối với vacxin cúm H5N1 tại tỉnh Bắc Ninh”.
Từ kết quả của những nghiên cứu này, hy vọng sẽ giúp các cơ sở chăn
nuôi gia cầm trong tỉnh Bắc Ninh có thể chủ động xây dựng lịch dùng vacxin
phòng bệnh cúm gia cầm hợp lý và khoa học cho đàn gia cầm của mình, đồng
thời cũng giúp cho công tác phòng và chống cúm gia cầm ở nước ta ngày một
tốt hơn.
2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài
- Xác định được một số đặc điểm dịch tễ bệnh cúm gia cầm ở tỉnh Bắc Ninh.
2
3
- Đánh giá được khả năng đáp ứng miễn dịch của gà, vịt được tiêm vacxin

H5N1 tại tỉnh Bắc Ninh.
- Đánh giá tính khả thi của chương trình tiêm phòng vacxin cho đàn gà,
vịt tại tỉnh Bắc Ninh.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Các kết quả nghiên cứu tại Bắc Ninh có thể dùng làm tài liệu tham
khảo, bổ sung thêm số liệu vào kết quả đánh giá hiệu quả của việc tiêm phòng
trong công tác phòng chống dịch cúm gia cầm ở Việt Nam.
- Các kết quả sẽ thu được cũng là cơ sở định hướng và đưa ra những kế
hoạch cho công tác phòng dịch và chương trình tiêm phòng vacxin cúm gia
cầm trong địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng và cho cả nước nói chung trong
thời gian tiếp theo.
4. Địa điểm nghiên cứu
- Các cơ sở và hộ chăn nuôi gia cầm của tỉnh Bắc Ninh.
- Chi cục thú y tỉnh Bắc Ninh và một số trạm thú y huyện.
- Trung tâm chẩn đoán thú y Trung Ương.
5. Thời gian nghiên cứu đề tài.
Từ tháng 12 năm 2010 đến tháng 8 năm 2011.
3
4
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ BỆNH CÚM GIA CẦM
Bệnh cúm ở gia cầm (Avian Influenza) thường gọi là bệnh cúm gia cầm
hoặc bệnh cúm gà, là một bệnh truyền nhiễm gây ra bởi virus cúm type A
thuộc họ Orthomyxoviridae. Bệnh thường xảy ra nặng ở gà, vịt, lợn, một số
động vật có vú khác và có thể lây sang người. Biểu hiện của bệnh chủ yếu ở
đường tiêu hoá và đường hô hấp.
Trước đây bệnh còn được gọi là bệnh dịch tả gà (Fowl plague), nhưng
từ Hội nghị Quốc tế lần thứ nhất về bệnh cúm gia cầm tại Beltsville (Mỹ),
năm1981 đã thay thế tên này bằng tên bệnh cúm động lực cao ở gia cầm

(Highly pathogenic avian influenza viết tắt là HPAI) để chỉ virus cúm typ A
có độc lực mạnh (Cục thú y, 2004) [7].
Bệnh cúm gia cầm HPAI là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, có tốc độ
lây lan rất nhanh với tỉ lệ chết cao trong đàn gia cầm nhiễm bệnh. Virus gây
bệnh cúm gia cầm chủ yếu là loại H5, H7 và H9, gây bệnh cho gà, vịt, ngan,
ngỗng, đà điểu, các loại chim. Virus còn gây bệnh cho cả con người và có thể
thành đại dịch, vì thế bệnh cúm gia cầm đang ngày càng trở nên nguy hiểm
hơn bao giờ hết (Cục thú y, 2005) [8], (Lê Văn Năm, 2004) [29].
1.2. LỊCH SỬ BỆNH CÚM GIA CẦM
Năm 412 trước công nguyên, Hippocrate đã mô tả về bệnh cúm. Năm
1680 một vụ đại dịch cúm đã được mô tả kỹ và từ đó đến nay đã xảy ra 31 vụ
đại dịch. Trong hơn 100 năm qua đã xảy ra 4 vụ đại dịch cúm vào các năm
1889, 1918, 1957, 1968 (Cục thú y, 2004) [7].
Năm 1878 ở Italy đã xảy ra một bệnh gây tử vong rất cao ở đàn gia cầm
và được gọi là bệnh dịch tả gia cầm (Fowl plague), bệnh lần đầu tiên được
Porroncito mô tả và ông nhìn nhận một cách sáng suốt rằng tương lai sẽ là
4
5
một bệnh quan trọng và nguy hiểm. Năm1901, Centanni và Savunozzi đã đề
cập đến ổ dịch này và xác định được căn nguyên siêu nhỏ qua lọc (Filterable
agent) là yếu tố gây bệnh. Đến năm 1955 Achafer đã xác định được căn
nguyên gây bệnh thuộc nhóm virus cúm typ A thông qua kháng nguyên bề
mặt là H7N1 và H7N7 gây chết nhiều gà, gà tây và chim hoang ở Bắc Mỹ,
Nam Mỹ, Châu Phi, Trung Cận Đông (Lê Văn Năm, 2004) [29].
Năm1963, virus cúm typ A được phân lập từ gà tây ở Bắc Mỹ do loài
thuỷ cầm di trú dẫn nhập virus vào đàn gà. Cuối thập kỷ 60, phân typ H1N1
thấy ở lợn và có liên quan đến những ổ dịch ở gà tây. Mối liên hệ giữa lợn và
gà tây là những dấu hiệu đầu tiên về virus cúm ở động vật có vú có thể lây
nhiễm và gây bệnh cho gia cầm. Những nghiên cứu đều cho rằng virus cúm
typ A phân typ H1N1 đã ở lợn và truyền cho gà tây, ngoài ra phân typ H1N1

ở vịt còn truyền cho lợn (Cục thú y, 2004) [7].
Năm 1971, Beard đã mô tả khá kỹ virus gây bệnh và đặc điểm bệnh lý
lâm sàng của gà trong các ổ dịch cúm gà, gà tây khá lớn xảy ra ở Mỹ mà
chủng gây bệnh là H7N1. Từ năm 1960 - 1979 bệnh được phát hiện ở Canada,
Mehico, Achentina, Braxin, Nam Phi, ý, Pháp, Anh, Hà Lan, Australia,
Hồng Kông, Nhật Bản, các nước vùng Trung Cận Đông, các nước thuộc liên
hiệp Anh và Liên Xô (Đào Yến Khanh, 2005) [25].
Các công trình nghiên cứu có hệ thống về bệnh cúm gia cầm lần lượt
được công bố ở Australia năm 1975, ở Anh năm 1979, ở Mỹ năm 1983 -
1984, ở Ailen năm 1983 - 1984 về đặc điểm sinh học, bệnh học và dịch tễ
học, các phương pháp chẩn đoán miễn dịch và biện pháp phòng chống bệnh
(Đào Yến Khanh, 2005) [25].
Sự lây nhiễm từ chim hoang dã sang gia cầm đã có bằng chứng từ trước
năm 1970 nhưng chỉ được công nhận khi xác định được tỉ lệ nhiễm virus cúm
cao ở một số loài thuỷ cầm di trú (Cục thú y, 2004) [7].
5
6
Từ sau khi phát hiện ra virus cúm typ A, các nhà khoa học thấy rằng
virus cúm có ở nhiều loài chim hoang dã và gia cầm nuôi ở những vùng khác
nhau trên thế giới. Bệnh xảy ra nghiêm trọng nhất với gia cầm thuộc phân typ
H5 và H7 như ở Scotland năm 1959 là H5N1, ở Mỹ năm 1983 - 1984 là
H5N2 (Cục thú y, 2004) [7].
Đến nay, dịch cúm gia cầm đã xảy ra ở khắp các châu lục với mức độ
ngày càng nguy hiểm hơn đối với các loài gia cầm và sức khoẻ của cộng
đồng, đã thôi thúc Hiệp hội các nhà chăn nuôi gia cầm tổ chức hội thảo
chuyên đề về bệnh cúm gà. Hội thảo lần đầu tiên tổ chức vào năm 1981, lần
thứ 2 tại Ailen năm 1987, lần thứ 3 cũng tại Ailen năm 1992. Từ đó đến nay
trong các hội nghị về dịch tễ trên thế giới, bệnh cúm gia cầm luôn là một
trong những nội dung được coi trọng (Lê Văn Năm, 2004) [29].
1.3. TÌNH HÌNH DỊCH CÚM GIA CẦM

* Tình hình dịch cúm gia cầm trên thế giới
Virus cúm gia cầm phân bố khắp toàn cầu, vì vậy dịch bệnh đã xảy ra ở
nhiều nước trên thế giới.
Năm 1983 - 1984 ở Mỹ, dịch cúm gà xảy ra do chủng virus H5N2 ở 3
bang Pensylvania, Virginia, Newtersey làm chết và tiêu huỷ hơn 19 triệu gà
(Phạm Sỹ Lăng, 2004) [26]. Cũng trong thời gian này tại Ireland người ta đã
phải tiêu huỷ 270 nghìn con vịt tuy không có triệu chứng lâm sàng nhưng đã
phân lập được virus cúm chủng độc lực cao (HPAI) để loại trừ bệnh một cách
hiệu quả, nhanh chóng.
Năm 1977 ở Minesota đã phát hiện dịch trên gà tây do chủng H7N7.
Năm 1986 ở Australia dịch cúm gà xảy ra tại bang Victoria do chủng H5N2.
Năm 1997 ở Hồng Kông dịch cúm gà xảy ra do virus cúm typ A subtyp
H5N1. Toàn bộ đàn gia cầm của lãnh thổ này đã bị tiêu diệt vì đã gây tử vong
cho con người (Cục thú y, 2004) [7]. Như vậy đây là lần đầu tiên virus cúm
6
7
gia cầm đã vượt “rào cản về loài” để lây cho người ở Hồng Kông làm cho 18
người nhiễm bệnh, trong đó có 6 người chết.
Năm 2003, ở Hà Lan dịch cúm gia cầm xảy ra với quy mô lớn do chủng
H7N7, 30 triệu gia cầm bị tiêu huỷ, 83 người lây nhiễm và 1 người chết, gây
thiệt hại về kinh tế hết sức nghiêm trọng (Phạm Sỹ Lăng, 2004) [27].
Từ cuối năm 2003 - 2005 đã có 11 nước và vùng lãnh thổ xuất hiện
dịch cúm gia cầm H5N1 gồm Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Campuchia,
Lào, Indonesia, Trung Quốc, Malaysia, Hồng Kông và Việt Nam. Ngoài ra có
7 nước và vùng lãnh thổ khác có dịch cúm gia cầm các chủng khác là
Pakistan, Hoa Kỳ, Canada, Nam Phi, Ai Cập, Cộng hoà Dân chủ Nhân dân
Triều Tiên và Đài Loan. Vào cuối tháng 3/2005 tại Myanmar đã phát hiện
hàng ngàn gà chết nghi bệnh cúm gia cầm. Sau khi dịch cúm gia cầm bùng
phát, một số nước công bố khống chế được dịch, một số nước lại bị tái phát
trở lại, đây là lần đầu tiên trong lịch sử dịch cúm gia cầm xảy ra nhanh trên

diện rộng và diễn biến phức tạp ở các nước Châu Á. Hiện nay trên thế giới
dịch cúm gia cầm đã xảy ra ở 58 nước và vùng lãnh thổ [Theo http:// www.
vietnamnet. vn. ngày 28/11/2006].
* Tình hình dịch cúm gia cầm trong nước
Cuối năm 2003, dịch cúm gia cầm phát tại trại gà giống của Công ty
C.P (Thái Lan) ở xã Thủy Xuân Tiên, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây gây
ốm, chết 8000 gà trong 4 ngày. Sau đó dịch đã nhanh chóng lây lan ra hầu hết
các tỉnh trong cả nước. Cho đến nay ở Việt Nam cúm gia cầm đã xảy ra thành
4 đợt dịch chủ yếu.
- Đợt dịch thứ nhất từ tháng 12/2003 đến 30/3/2004:
Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta dịch cúm gia cầm xuất hiện vào cuối
tháng 12 năm 2003 ở tỉnh Hà Tây, Long An và Tiền Giang. Dịch lây lan rất
nhanh, bình quân mỗi ngày có khoảng 150 - 230 xã của 15 - 20 huyện phát
7
8
sinh ổ dịch mới thuộc 57 tỉnh, thành trong cả nước. Làm chết và tiêu huỷ
hàng ngày từ 2 - 3 triệu con gia cầm các loại, có ngày lên đến 4 triệu con
(Cục thú y, 2004)[6]. Tổng số xã phường có dịch là 2.574 (chiếm 24,6% số xã
phường trong cả nước) thuộc 381 quận, huyện, thị xã (chiếm 60%), số gia cầm
chết và tiêu huỷ là 43,9 triệu con, chiếm 16,79% tổng đàn, trong đó gà chiếm
30,4 triệu con, thuỷ cầm chiếm 13,5 triệu con. Ngoài ra cũng có 14,76 triệu con
chim cút và các loại chim khác bị chết và tiêu hủy (Phạm Sĩ Lăng, 2005) [16].
Thiệt hại ước tính khoảng 1300 tỷ đồng (Nguyễn Tiến Dũng, 2006) [12].
- Đợt dịch thứ hai từ tháng 4 đến tháng 11/2004:
Trong giai đoạn này, dịch phát ra rải rác với quy mô nhỏ ở các hộ gia
đình chăn nuôi gia cầm; bệnh xuất hiện ở 46 xã, phường tại 32 huyện, quận,
thị xã thuộc 17 tỉnh. Thời gian cao điểm nhất là tháng 7 sau đó giảm dần, đến
tháng 11 cả nước chỉ có 1 điểm phát dịch. Tổng số gia cầm tiêu huỷ trong
giai đoạn này là 84.078 con, trong đó 55.999 gà, 8.132 vịt và 19.947 con
chim cút (Phạm Sĩ Lăng, 2005) [16].

- Đợt dịch thứ ba từ tháng 12/2004 đến tháng 5/2005:
Trong khoảng thời gian này dịch đã xuất hiện ở 670 xã tại 182 huyện
thuộc 36 tỉnh, thành phố (15 tỉnh phía Bắc, 21 tỉnh phía Nam). Tổng số tiêu
huỷ là 1.847.213 con trong đó số gia cầm tiêu huỷ là 470.495 gà, 825.689
vịt, ngan và 551.029 chim cút, bệnh xuất hiện nặng nhất là tỉnh Long An,
Tiền Giang, Bạc Liêu, Đồng Tháp (Trần Công Xuân và cộng sự, 2005) [30].
Sau đó dịch lại tái phát từ đầu tháng 10/2005 đến tháng 12/2005: Dịch
xảy ra ở cả 3 miền với 285 xã phường của 100 huyện thuộc 24 tỉnh,
thành tái phát. Trong đó miền Nam có 3 tỉnh (Bạc Liêu, Đồng Tháp, Long An),
miền Trung có 3 tỉnh (Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Trị) và 18 tỉnh thuộc
miền Bắc (Hà Nội, Bắc Giang, Hòa Bình, Thái Bình, H
ư
ng
Yên, Hải
D
ư
ơng,
Phú Thọ, Bắc Ninh, Bắc Kạn, Vĩnh Phúc, Hải Phòng, Sơn La, Quảng
8
9
Ninh, Yên Bái, Thái Nguyên, Ninh Bình, Cao Bằng và Hà Giang). Tổng
số gia cầm ốm chết, buộc tiêu huỷ và tiêu hủy tự nguyện là 3.735.620 con,
trong đó có 1.245.282 con gà, 2.005.557 vịt, ngan và 484.781 chim cút, bồ
câu, chim cảnh. Đến ngày 08 tháng 01 năm 2006 tất cả các tỉnh thành trong cả
nước đã tạm thời khống chế được dịch và không phát sinh dịch sau 21 ngày
(Tô Long Thành, 2006) [27].
- Đợt dịch thứ 4 bắt đầu và kéo dài trong suốt năm 2007
Sau hơn một năm Việt Nam không có dịch thì ngày 19 tháng 12 năm
2006 dịch cúm gia cầm lại tái phát ở các địa phương thuộc 2 tỉnh Bạc Liêu và
Cà Mau đưa Việt Nam lên nguy cơ mới của đại dịch lần thứ 4 (Lê Văn Năm,

2007) [21]. Dịch không tập trung mà rải rác, lẻ tẻ ở khắp nơi và có thể chia
nhiều đợt. Đợt 1 từ 19/12/2006 đến 7/3/2007 dịch lây lan ra 83 xã phường
của 33 quận, huyện thuộc 11 tỉnh, thành gồm Cà Mau, Bạc Liêu, Hậu Giang,
Cần Thơ, Trà Vinh, Vĩnh Long, Kiên Giang, Sóc Trăng, Hà Nội, Hải Dương
và Hà Tây. Tổng số gia cầm mắc bệnh, chết và tiêu hủy là 103.094 con,
trong đã có 13.622 gà; 89.472 ngan, vịt. Đợt 2 từ 1/5/2007 đến 23/8/2007,
dịch xảy ra đầu tiên tại Nghệ An sau đó lan ra 167 xã,
phường
của 70
quận, huyện thuộc 23 tỉnh thành trong cả nước. Tổng số gia cầm mắc bệnh,
chết và tiêu hủy là 294.849 con gia cầm trong đó có 21.525 gà bằng 7,31%,
264.549 vịt bằ ng 89 ,71 % và 8.775 ngan bằng 2,98%. Nặng nhất là Nam
Định với 26 xã phường thuộc 6 huyện thành và Nghệ An 26 xã phường thuộc
5 huyện thành. Riêng tỉnh Đồng Tháp dịch đã 3 lần xuất hiện trên đàn gia
cầm (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2007) [3].
- Từ đầu năm 2008 đến nay dịch vẫn xảy ra lẻ tẻ, rải rác với 74 đàn
gia cầm tại 57 xã,
phường
của 40 huyện thị thuộc 21 tỉnh phát dịch. Tổng số
gia cầm tiêu hủy là 60.090 con, trong đó có 23.498 gà, 36.592 thủy cầm.
(Văn Đăng Kỳ, 2008) [32].
9
10
Về phân bố địa lý: Các đợt dịch phát ra tập trung ở khu vực Đồng bằng
Sông Cửu Long và Đồng bằng Sông Hồng. Những vùng này có nhiều hệ
thống sông ngòi, kênh rạch, mật độ chăn nuôi cao, tổng đàn gia cầm lớn và
việc buôn bán, vận chuyển, tiêu thụ gia cầm cao hơn các vùng khác.
Về thời gian xảy ra dịch: Dịch phát ra nặng vào vụ Đông Xuân, cao
điểm vào cuối tháng 1 đầu tháng 2. Trong thời gian này thời tiết thay đổi, độ
ẩm cao, nhiệt độ thường xuống thấp, tạo điều kiện thuận lợi cho virus cúm tồn

tại, phát triển và lây lan. Đồng thời giai đoạn này là lúc mật độ chăn nuôi gia
cầm và hoạt động vận chuyển gia cầm, sản phẩm gia cầm diễn ra sôi động
nhất trong năm cũng là điều kiện thuận lợi cho sự bùng phát và lây lan dịch.
Về loài mắc bệnh: Đợt dịch thứ nhất và thứ hai tỉ lệ gà mắc bệnh cao
hơn vịt, ngan. Nhưng đợt dịch thứ 3 đã có sự thay đổi lớn khi các thống kê
cho thấy tỉ lệ mắc bệnh, chết và tiêu huỷ ở vịt cao gần gấp 2 lần gà. Điều này
cho thấy mầm bệnh đã lây lan, tồn tại trong đàn thuỷ cầm, có thể tăng độc lực
và bột phát thành đợt dịch thứ 3. Tỉ lệ dương tính huyết thanh ở đàn thuỷ cầm
tăng từ 15% trong đợt 2 lên 39,6% trong đợt 3.
Về loại hình, quy mô và mức độ dịch: Dịch phát ra ở tất cả các loại hình
chăn nuôi, tỉ lệ mắc bệnh cao nhất ở loại hình chăn nuôi hỗn hợp các loài gia
cầm (đặc biệt chăn nuôi gà lẫn với vịt) và giảm dần ở những trại chăn nuôi gà
có số lượng lớn. Qui mô của dịch đợt 1 là lớn nhất, trong đợt 2, 3 và 4 mặc dù
dịch vẫn xảy ra ở nhiều tỉnh, thành phố nhưng quy mô giảm đi nhiều (Dự án
sử dụng vacxin ) [9].
* Tình hình dịch cúm gia cầm ở Bắc Ninh
Tại Bắc Ninh, bệnh cúm gia cầm xuất hiện lần đầu tiên vào ngày
27/1/2004 tại thành phố Bắc Ninh, rồi nhanh chóng lan sang các huyện khác
trong tỉnh. Trận đại dịch gần đây nhất xảy ra vào ngày 14/11/2005 làm chết
và tiêu hủy 44102 con gia cầm trong đó 39666 con gà và 4336 con ngan, vịt.
10
11
1.4. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA VIRUS CÚM TYP A
1.4.1. Đặc điểm cấu tạo, hình thái và cấu trúc
Virus cúm gia cầm thuộc họ Orthomyxoviridae, là họ virus đa hình
thái, có vỏ ngoài, genom là ARN sợi đơn, âm, phân đoạn (Swayne D.E,
Suarez D.L, 2000) [48]. Trước đây các virus Orthomyxo và Paramyxo đều
được xếp chung vào một họ là Myxoviridae do chúng có cấu trúc và khả năng
gây bệnh giống nhau, nhưng về sau chúng được tách ra thành 2 họ riêng là
Orthomyxoviridae và Paramyxoviridae do phát hiện thấy chúng có nhiều đặc

điểm cơ bản không giống nhau. Chữ “Myxo” có nghĩa là chất nhầy, nguồn
gốc của phần này là do phần ngoài của protein của virus có mang các loại
đường và phần ngọn của các mạch nối đường chính là một loại acid: Acid
Sialic hay còn gọi là acid neuraminidic. Chữ “Ortho” có nghĩa là chính thống,
nói lên loại Myxovirus được phát hiện và đặt tên trước.
Có ba type virus cúm được ký hiệu là A, B và C được phân biệt với
nhau qua bản chất kháng nguyên NP (Nucleoprotein) và M (Matric antigen).
Type A gây cúm ở tất cả các loài gia cầm, type B và C gây cúm điển hình ở
người và động vật (Lê Văn Năm, 2004) [18]. Tuy nhiên các nhà nghiên cứu
cũng tìm thấy virus cúm type A ở người, lợn, ngựa và một số động vật có vú khác.
Theo Nguyễn Tiến Dũng (2006) [12] thì virus cúm thuộc họ Orthomyxoviridae
được chia làm 5 giống khác nhau dựa trên cấu trúc kháng nguyên của hai loại
protein NP và M, đó là Influenza A, Influenza B, Influenza C, Thogotovirus
và Isavirus.
Virus cúm gia cầm có kích thước trung bình, đường kính 80-120nm,
dài 200 - 300 nm, trọng lượng phân tử 4,6-6,4 Dal. Trên kính hiển vi điện tử
tương phản âm có dạng gần như hình cầu hoặc các hạt mỏng, một số ít virus
có dạng hình sợi có thể dài hơn một vài nanomet (nm), có vỏ bọc là
glycoprotein gồm protein gây ngưng kết hồng cầu (kháng nguyên bề mặt) -
11
12
Haemagglutinin (viết tắt là H) và protein enzym có thụ thể - Neuraminidae
(viết tắt là N). Đây là kháng nguyên có vai trò quan trọng trong miễn dịch bảo
hộ và có tính đa dạng cao.
Kawaoka (1988) và Murphy mô tả khá chi tiết hình thái và cấu trúc của
virus cúm và nhấn mạnh rằng ARN của virus là sợi đơn, âm và chia thành 8
đoạn kế tiếp nhau mang 10 mật mã cho 10 loại virion protein khác nhau: HA,
NA, NP, M1, M2, PB1, PB2, PA, NS1 và NS2. Tất cả 8 đoạn của sợi ARN có
thể tách và phân biệt rõ ràng thông qua phương pháp điện di polyacrilamid
gel. Các protein có vỏ bọc nối 8 đoạn này với nhau, được bọc bên ngoài bằng

các protein và có màng lipit ở ngoài cùng.
Người ta lấy hai loại protein bề mặt là H (Haemagglutinin) và N
(Neuraminidae) để phân loại virus cúm type A. Theo các tác giả Tô Long
Thành (2004) [24], Ilaria Capua và Stefano Marangon (2004) [31], Nguyễn
Tiến Dũng và cộng sự (2005) [10], Hoàng Thuỷ Long và Nguyễn Thị Hồng
Hạnh (2005) [17], Bùi Quý Huy (2004) [15], Phạm Sĩ Lăng (2005) [16] có 15
loại protein H khác nhau về tính kháng nguyên được ký hiệu từ H1 đến H15
và có 9 loại protein N cũng khác nhau về tính kháng nguyên được ký hiệu từ
N1 đến N9. Theo Lê Văn Năm (2007)[21], Lisa F.P.Ng và cộng sự (2007)
[44] có 16 loại protein H và 9 loại protein N. Năm 2005, Fouchier và cộng sự
[42] đã phân lập được protein H16 từ Hải Âu đen ở Hà Lan và Thuỵ Điển do
đó có tổng cộng là 16 subtype HA (Nguyễn Tiến Dũng, 2006) [12].
Protein Haemagglutinin hay HA là một glucoprotein dưới dạng Trimer.
Mỗi monomer gồm hai phần là HA1 và HA2. Hai phần của protein này được
nối với nhau bằng một chuỗi các acid amine trong đó có arginin. Tại vị trí này
các men cắt protein có sẵn trong cơ thể (trên các màng niêm mạc) của ký chủ
sẽ cắt HA ra làm đôi, tạo điều kiện cho virus bám vào thụ thể của tế bào ký
12
13
chủ. Do vậy đoạn này được gọi là cleavage site của HA. Do các emzym
protease chỉ cắt protein tại các acid amine basic nên nếu vị trí này càng nhiều
acid amine basic thì khả năng bị cắt đôi của HA lại càng cao dẫn đến khả
năng để virus bám vào thụ thể tế bào và bắt đầu quá trình xâm nhập vào tế
bào càng lớn. Dựa trên cơ sở này người ta đã phân loại virus có độc lực cao là
loại virus có nhiều acid amine basic tại vị trí cleavage và ngược lại.
Protein NA chính là một loại enzym có tên là Neuraminidae. Khi virus
xâm nhập vào cơ thể, các mạch đường của protein HA và thụ thể của tế bào sẽ
liên kết với nhau, gắn virus vào bề mặt tế bào. Sau đó nhờ NA cắt mối liên
kết này đi làm cho virus có thể vào bên trong, tiếp theo HA được cắt đôi hoặc
nếu không như vậy thì virus sẽ bị rời ra khỏi tế bào.

Thành phần hoá học của virus gồm ARN chiếm từ 0,8 - 1,1%, protein
chiếm 70 - 75%, lipid chiếm 20 - 24% và 5 - 8% là hydrocacbon.
Thành phần chính protein của virus chủ yếu là glycoprotein. Lipid tập
trung ở màng virus và chủ yếu là lipid có gốc photpho, số còn lại là cholesterol,
glucolipid và một số ít hydrocacbon gồm các loại men như galactose, mannose,
ribose, fructose, glucosamin.
Acid nhân của virus cúm gồm 8 đoạn gen có cấu tạo là ARN chuỗi đơn
âm. Chính vì bản chất các đoạn gen của virus là các đoạn ARN do đó không
có cơ chế tự sửa chữa khi sao chép sai lệch nên chúng rất dễ bị biến đổi. Đây
là điểm đặc biệt nguy hiểm và phức tạp của virus cúm gia cầm mà con người
không thể dự đoán trước được, điều này gây khó khăn cho công tác phòng
chống dịch bệnh và đe doạ sức khoẻ con người.
Theo Voyles (2002) [50] thì có 8 đoạn ARN sợi đơn, có chiều âm, đặc
tính này cho phép sự tổng hợp di truyền trong một tế bào bị nhiễm hai hay
nhiều virus và tạo ra nhiều loại virus mới khác với virus ban đầu.
13
14

Hình 1.1. Cấu trúc virus cúm A H5N1 Hình 1.2. Virus H5N1 nhìn qua KHV
vi điện tử
1.4.2. Đặc tính kháng nguyên của virus cúm typ A
Các loại kháng nguyên được nghiên cứu nhiều nhất là protein nhân
(Nucleoprotein, NP), protein đệm (matrix protein, M1), protein gây ngưng kết
hồng cầu (Hemagglutinin, HA) và protein enzim cắt thụ thể (Neuraminidase,
NA). NP và M1 là protein thuộc loại hình kháng nguyên đặc hiệu nhóm
(genus - specific antigen), ký hiệu là gs kháng nguyên; HA và NA là protein
thuộc loại hình kháng nguyên đặc hiệu typ và dưới typ (typ - specific
antigen), ký hiệu là ts kháng nguyên.
Một đặc tính quan trọng là virus cúm có khả năng gây ngưng kết hồng
cầu của nhiều loài động vật. Đó là sự kết hợp giữa mấu lồi kháng nguyên HA

trên bề mặt của virus cúm với thụ thể có trên bề mặt hồng cầu, làm cho hồng
cầu ngưng kết với nhau tạo thành mạng ngưng kết thông qua cầu nối virus,
gọi là phản ứng ngưng kết hồng cầu HA (Hemagglutination test).
Kháng thể đặc hiệu của kháng nguyên HA có khả năng trung hòa các
loại virus tương ứng, chúng là kháng thể trung hòa có khả năng triệt tiêu virus
gây bệnh. Nó có thể phong toả sự ngưng kết bằng cách kết hợp với kháng
nguyên HA. Do vậy thụ thể của hồng cầu không bám vào được để liên kết tạo
thành mạng ngưng kết. Người ta gọi phản ứng đặc hiệu KN - KT có hồng cầu
14
15
tham gia là phản ứng ngăn cản ngưng kết hồng cầu HI (Hemagglutination
inhibition test).
Phản ứng ngưng kết hồng cầu (HA) và phản ứng ngăn cản ngưng kết
hồng cầu (HI) được sử dụng trong chẩn đoán cúm gia cầm.
Theo Ito và Kawaoka (1998) [56], (Q) sự phức tạp trong diễn biến
kháng nguyên của virus cúm là sự biến đổi và trao đổi trong nội bộ gen dẫn
đến sự biến đổi liên tục về tính kháng nguyên (Horimoto và cộng sự, 1995)
[55]. (Q) Có 2 cách biến đổi kháng nguyên của virus cúm:
- Đột biến điểm (đột biến ngẫu nhiên hay hiện tượng trôi trượt, lệch lạc
về kháng nguyên - Antigenic drift). Đây là kiểu đột biến xảy ra liên tục
thường xuyên trong quá trình tồn tại của virus mà bản chất là do có sự thay
đổi nhỏ về trình tự nucleotit của gen mã hóa, đặc biệt đối với kháng nguyên H
và kháng nguyên N. Kết quả là tạo ra các phân type cúm hoàn toàn mới có
tính thích ứng với loài vật chủ khác nhau và có mức độ độc lực gây bệnh khác
nhau. Chính nhờ sự biến đổi này mà virus cúm A tạo nên 16 biến thể gen HA
(H1- H16) và 9 kháng nguyên N (N1 - N9) (Cục thú y, 2005) [8] (Q).
- Đột biến tái tổ hợp di truyền (hiện tượng thay ca - Antigenic Shift).
Hiện tượng tái tổ hợp gen ít xảy ra hơn so với hiện tượng đột biến điểm. Hiện
tượng này chỉ xảy ra khi 2 hoặc nhiều loại virus cúm khác nhau cùng nhiễm
vào một tế bào chủ do sự trộn lẫn 2 bộ gen của virus. Điều này tạo nên sự sai

khác cơ bản về bộ gen của virus cúm đời con so với virus bố mẹ. Khi hiện
tượng tái tổ hợp gen xuất hiện có thể sẽ gây ra các vụ dịch lớn cho người và
động vật với mức độ nguy hiểm không thể lường trước được. Vụ dịch năm
1918 - 1919 làm chết 40 - 50 triệu người mà tác nhân gây bệnh là virus H1N1
từ lợn lây sang người kết hợp với virus cúm người tạo ra chủng virus mới có
độc lực rất mạnh (Phạm Sỹ Lăng, 2004) [27].(Q)
15
16
Do hạt virus cúm A có cấu trúc là 8 đoạn gen nên về lý thuyết từ 2 virus
có thể xuất hiện 256 kiểu tổ hợp của virus thế hệ sau (Cục thú y, 2004) [7].(Q)
Khi nghiên cứu về đặc tính kháng nguyên của virus cúm thấy giữa các
biến thể tái tổ hợp và biến chủng subtyp về huyết thanh học không hoặc rất ít
có phản ứng chéo. Đây là điểm trở ngại lớn cho việc nghiên cứu nhằm tạo ra
vacxin cúm để phòng bệnh cho người và động vật (Ito và cộng sự, 1998 [57];
Kawoaka.I, 1991 [58]).(Q)
Khi xâm nhập nhiễm vào cơ thể động vật, virus cúm A kích thích cơ
thể sản sinh ra kháng thể đặc hiệu, trong đó quan trọng hơn cả là kháng thể
kháng HA, chỉ có kháng thể này mới có vai trò trung hòa virus và cho bảo hộ
miễn dịch. Một số kháng thể khác có tác dụng kìm hãm sự nhân lên của virus,
kháng thể kháng M2 ngăn cản chức năng M2, không cho quá trình bao gói
virus xảy ra (Lu.X và cộng sự, 1999) [61]; (Seo.S và cộng sự, 2001) [67].(Q)
1.4.3. Quá trình nhân lên và gây bệnh của virus
Virus xâm nhập vào tế bào nhờ chức năng của protein HA thông qua
hiện tượng ẩm bào (endocytosis) qua cơ chế trung gian tiếp hợp thụ thể. Thụ
thể liên kết tế bào của virus cúm có bản chất là axit sialic sẽ cắm sâu vào
glycoprotein hay glycolipit của vỏ virus.
Trong khoang ẩm bào, khi nồng độ pH được điều hòa để giảm xuống
mức thấp thì các enzim peptidase và enzim protease của tế bào tấn công và cắt
rời protein HA trên màng virus, làm hợp nhất màng tế bào và virus, giải
phóng nucleocapsid. Các nucleocapsid đi vào trong nguyên sinh chất rồi vào

trong nhân tế bào, chuẩn bị thực hiện quá trình tổng hợp ARN là nguyên liệu
hệ gen cho các virion mới.
Ngay sau quá trình trên, hệ thống enzim sao chép của virus lập tức tạo
nên các ARN thông tin (mARN). Các phân đoạn ARN hệ gen được “mũ hóa”
ở 10 - 13 nucleotit đầu 5’ với nguyên liệu lấy từ ARN tế bào nhờ vào hoạt
16
17
tính enzim PB2 của virus. Quá trình tổng hợp mARN đặc hiệu của virus có
thể bị kìm hãm bởi Actinomycin D hoặc các hợp chất Amanitin. Các mARN
sau sao chép trong nhân được chuyển vận ra nguyên sinh chất, được riboxom
trợ giúp tổng hợp nên protein cấu trúc và protein nguyên liệu. Protein H, N,
M2, ở lại trong nguyên sinh chất, được vận chuyển xuyên qua hệ thống võng
mạc nội mô (RE) và hệ golgi sau đó được cắm lên màng tế bào nhiễm. Protein
NS1, NP, M1 được chuyển vận vào nhân để bao bọc đệm lấy nguyên liệu
ARN hệ gen mới được tổng hợp [13, 44].(D)
Từ sợi ARN âm đơn của virus ban đầu thông qua cơ chế bổ xung thì
một đoạn ARN dương toàn vẹn được tạo thành. Sợi dương mới này lại làm
khuôn để tổng hợp nên sợi âm ARN mới làm nguyên liệu. Một số sợi âm
ARN mới làm nguyên liệu để lắp ráp virion mới, số khác lại làm khuôn để
tổng hợp ARN theo cơ chế như với sợi ARN của virus đầu tiên.
Các sợi ARN hệ gen được tạo ra là một sợi hoàn chỉnh về độ dài và
được các protein đệm (NS1, M1, NP) bao gói tạo nên ribonucleocapsid
(nucleoriboprotein) ngay trong nhân tế bào nhiễm, sau đó được chuyển vận ra
nguyên sinh chất rồi được chuyển vận đến vị trí màng tế bào có sự biến đổi
đặc hiệu với virus.
Cuối cùng là sự kết hợp của tổ hợp nucleoriboprotein với các protein
cấu trúc (HA, NA, M2) tạo nên các hạt virus hoàn chỉnh mới và được giải
phóng ra khỏi tế bào nhiễm theo hình thức nảy chồi.
Quá trình xâm nhập, phân chia và phát triển của virus diễn ra liên tục
làm cho số lượng hạt virus tăng lên theo cấp số nhân. Tế bào chủ không bị

dung giải, nhưng sẽ chết đi do mất trạng thái cân bằng vốn có, đồng thời bị
đầu độc bởi các sản phẩm sinh ra. Tế bào đích bị phá huỷ hàng loạt. Sự suy
giảm hô hấp khiến sức đề kháng của cơ thể giảm sút rõ rệt, làm kế phát các
bệnh vi khuẩn, virus khác (Alexander, 1993) [45].(Q)
17
18
1.4.4. Đặc tính nuôi cấy và lưu giữ virus cúm gà
Virus cúm gia cầm phát triển tốt trong xoang niệu nang của phôi trứng
gà ấp 9-11 ngày. Tiêm 0,1-0,3 ml huyễn dịch bệnh phẩm như não, phổi, ruột,
khí quản vào xoang niệu mô của phôi gà 9-11 ngày tuổi, hàn kín lại rồi tiếp
tục cho ấp ở 37
0
C trong vòng 2-3 ngày. Một số ít chủng virus có độc lực cao
có thể làm chết phôi trong vòng 18-24 giờ, nước trứng thu hoạch để ở 4
0
C qua
một đêm, virus nhân lên trong nước trứng có hiện tượng ngưng kết hồng cầu
gà. Nếu không gây ngưng kết thì cần lấy nước trứng nói trên tiêm lần sau cho
phôi trứng gà 9-11 ngày tuổi. Khả năng gây bệnh của virus rất cao nếu bảo
quản nước phôi đó ở nhiệt độ -70
0
C hoặc khi cho đông khô (Lê Văn Năm,
2004) [28].(Q)
Virus cúm gà cũng phát triển tốt trong tế bào xơ phôi gà (CEF) và tế
bào thận chó MDCK (Madin- Darby Canine Kidney cell) với điều kiện môi
trường nuôi cấy tế bào không chứa trypsin (Lê Văn Năm, 2004) [28].(Q)
1.4.5. Độc lực của virus cúm gia cầm
Độc lực hay còn gọi là khả ăng gây bệnh của virus hay của một sinh
vật. Tuy nhiên cần chú ý phân biệt giữa độc lực với khả năng gây nhiễm và
tính dễ lây ở chổ độc lục là khả năng gây ra vết thương, các triệu chứng và

khả năng gây nguy hiểm đến tính mạng sống của ký chủ. Virus H5N1 có tính
lây nhiễm cho người thấp nhưng khi ở người đã bị nhiễm thì phát bệnh rất
nặng và có tỷ lệ tử vong cao, tức là nó có độc lực cao đối với con người. Độc
lực của virus có thể xác định bằng 2 phương pháp:
- Độc lực của virus cúm thường được xác định thông qua trình tự các
nucleotide của cleavage site. Do các enzym protease chỉ cắt protein tại các
acid amine basic nên nếu vị trí này càng nhiều acid amine basic thì khả năng
bị cắt đôi của HA càng lớn, dẫn đến khả năng để virus bám vào thụ thể tế bào
và bắt đầu xâm nhập vào tế bào càng lớn. Dựa vào đó người ta phân loại virus
18
19
cúm có độc lực cao là loại virus cúm có nhiều acid amine basic tại vị trí
cleavage site và ngược lại virus cúm có độc lực thấp là loại có ít acid amine
basic tại vị trí cleavage site.
- Phương pháp thứ hai thực tế là các xét nghiệm trong phòng thí
nghiệm nhưng được tiến hành trên động vật. Các nhà khoa học sử dụng
phương pháp gây bệnh cho gà 3 - 6 tuần tuổi bằng cách tiêm tĩnh mạch nước
trứng đã được gây nhiễm virus. Sau đó đánh giá mức độ nhiễm bệnh của gà
để cho điểm (chỉ số IVPI- Intra Venous Pathogenicity Index). Điểm tối đa là 3
điểm và đó là virus có độc lực cao nhất. Theo quy định của Tổ chức Thú y
Thế giới (OIE), virus nào có chỉ số IVPI từ 1,2 trở lên thuộc loại có độc lực
cao, ngược lại nếu chỉ số này dưới 1,2 thì virus được coi là nhóm có độc lực
thấp. (Dẫn theo Nguyễn Tiến Dũng, 2004 [12]; OIE, 1992 [67]).(Q). Ngoài ra,
trên thực tế trong nhiều trường hợp bệnh lý, một số virus cúm được coi là có
độc lực trung bình.
* Nhóm virus có độc lực cao(HPAI):
Tại hội thảo Thế giới đầu tiên về bệnh cúm gà năm 1981 Bankowski và
cộng sự đã công bố rằng virus cúm gà có kháng nguyên bề mặt H7 thuộc loại
virus có độc lực cao. Nhưng ở Pensylvania (Mỹ) người ta đã chứng kiến trận
dịch cúm gà đã gây chết 75% số đầu con, nhưng khi phân lập virus gây bệnh

là H5N2 lại không có kháng nguyên bề mặt H7. Điều này đã gây nhiều tranh
cãi giữa các nhà khoa học. Để giải quyết vấn đề này các nhà khoa học đã dựa
vào các chỉ số sau đây để khẳng định virus cúm gà có độc lực cao - HPAIV
(Hight Pathogenic Avian Influenza Virus): sau 10 ngày tiêm tĩnh mạch 0,2 ml
nước trứng gà đã gây nhiễm virus được pha loãng với tỷ lệ 1/10 cho gà mẫn
cảm từ 3 - 6 tuần tuổi phải làm chết từ 75% - 100% số gà thực nghiệm. Đồng
thời virus gây bệnh cúm (có thể là type phụ) phải làm chết từ 20% số gà mẫn
cảm thực nghiệm và phát triển tốt trên tế bào xơ phôi trong môi trường nuôi
cấy không có trypsin (Lê Văn Năm, 2004)[19](T).
19
20
Virus độc lực cao gây bệnh nhanh, thời gian ủ bệnh ngắn, tỷ lệ gia cầm
mắc bệnh chết cao, diễn biến phức tạp và có xu hướng lây lan nhanh ở tất cả
các loại gia cầm từ 4 tuần tuổi trở lên trên vùng địa lý rộng lớn với biểu hiện
tiêu chảy, hô hấp, thần kinh và giảm đẻ rất nặng.
* Nhóm virus có độc lực trung bình:
Là những chủng virus gây dịch cúm gà với triệu chứng lâm sàng rõ rệt
nhưng gây chết gà không quá 15% số gà bị nhiễm bệnh tự nhiên hoặc không
gây quá 20% số gà mẫn cảm thực nghiệm.
* Nhóm virus có độc lực thấp(LPAI):
Là những virus phát triển tốt trong cơ thể gà nhưng không gây ra dịch
cúm với các triệu chứng lâm sàng và không tạo ra bệnh tích đại thể, tốc độ lây
lan chậm, tỷ lệ ốm và chết không đáng kể (Lê Văn Năm,2005)[20](T) . Tuy
nhiên đây là mối nguy hiểm rất lớn cho ngành chăn nuôi gia cầm và đe dọa
tính mạng con người do chúng có khả năng biến chủng để tạo thành một loại
virus mới có độc lực cao hơn và nguy hiểm hơn.
Trong thực tế người ta chia virus cúm gà ra làm 2 loại: Loại virus có
độc lực thấp - LPAI (Light Pathogenic Avian Influenza). Loại virus có độc
lực cao - HPAI (Highly Pathogennic Avian Influenza).
Cho đến nay người ta thừa nhận chỉ có 2 biến chủng virus có cấu trúc

kháng nguyên H5, H7 được coi là loại có độc lực cao gây bệnh ở gia cầm,
nhưng không phải tất cả các chủng mang gen H5, H7 đều gây bệnh
(Horimoto.T và cộng sự, 1995) [55].(Q)
Thực tế chứng minh rằng các chủng có độc lực thấp trong quá trình lưu
hành trong thiên nhiên và trong đàn thủy cầm có thể đột biến nội gen hoặc đột
biến tái tổ hợp để trở thành các chủng có độc lực cao - HPAI (Collins RA và
cộng sự, 2002 [52]; Mo.I.P và cộng sự, 1997 [64]).(Q)
Theo Mary J. Pantin-Jackwood và cộng sự (2008) [31],(Q) tất cả các
virus cúm phân lập được của Việt Nam trong năm 2005 - 2007 không chỉ có
20
21
độc lực cao với gà, mà còn gia tăng đáng kể độc lực đối với vịt so với các
virus phân lập trước đó. Sự tăng độc tính này là hệ quả của sự gia tăng virus
nhân lên trong các cơ quan nội tạng và sự tăng thích nghi ở diện rộng hơn của
virus đối với các cơ quan nội tạng. Sự thay đổi độc tính của các virus đang
lưu hành có ảnh hưởng lớn tới dịch tễ học của virus vỡ công tác khống chế.
1.4.6. Phân loại virus
Theo Nguyễn Tiến Dũng (2008) [15],(Q) virus cúm gia cầm được phân
loại như sau:
* Phân loại theo kháng nguyên:
Khi dùng phản ứng kết tủa trên thạch hoặc kết hợp bổ thể, người ta thấy
có 3 nhóm virus khác nhau và đặt tên cho 3 nhóm virus là A, B và C. Vào
năm 1941 Hirst đã phát hiện thấy virus cúm có khả năng ngưng kết hồng cầu,
khi ông quan sát việc thu hoạch virus sau khi cấy trên trứng gà có phôi và khả
năng này bị kháng thể kháng virus cúm ngăn trở hay ức chế. Dùng phản ứng
này người ta thấy virus cúm typ A lại có nhiều loại khác nhau. Trên cơ sở kết
quả của phản ứng ức chế ngưng kết hồng cầu, khi phát hiện ra rằng kháng thể
kháng ngưng kết hồng cầu là kháng thể được tạo ra để chống lại protein HA
nhưng không ức chế toàn bộ các virus typ A. Từ đó virus typ A được chia
thành các typ phụ (subtype) trên cơ sở có phản ứng HI đặc hiệu.

Cho đến năm 2004, tổng số subtyp chia theo khả năng ngưng kết hồng
cầu là 16. Với protein NA, người ta phát hiện ra 9 loại NA có tính kháng
nguyên khác nhau và được đặt tên là từ N1 cho đến N9. Virus cúm typ A là
kết quả của sự tổ hợp giữa 2 loại protein này. Chính vì vậy chúng ta có virus
cúm đặt tên là HxNy (x có giá trị từ 1 đến 16 và y có giá trị từ 1 đến 9). Việc
phân loại virus như trên do Ủy ban định danh quốc tế về virus tiến hành.
Các loại virus cúm có cùng danh hiệu nhưng không chắc có cùng nguồn
gốc và về gen di truyền chúng có sự khác nhau, nói cách khác là rất đa dạng.
Với virus cúm H5N1 đang gây bệnh đại dịch cho gia cầm, có nguồn gốc từ
21
22
Châu Á và được gọi tên đầy đủ là “ virus H5N1 dòng Châu Á” nhằm phân
biệt với các loại H5N1 khác. Virus H5N1 dòng Châu Á lại được phân loại chi
tiết hơn nữa. Có 2 kiểu phân loại virus H5N1 dòng Châu Á (theo quy định của
WHO) đó là:
- Phân loại theo kiểu gen: Virus cúm dòng Châu Á phải có 2 đoạn
RNA chịu trách nhiệm tổng hợp Protein HA và NA có nguồn gốc từ virus
cúm H5N1 phân lập từ ngỗng ở Quảng Đông (Trung Quốc) vào năm 1996.
Tùy theo nguồn gốc của 6 đoạn gen còn lại mà người ta đặt tên kiểu gen cho
loại virus đó.
- Phân loại theo nhóm kháng nguyên (clade): do sự biến đổi di truyền
liên tục nên protein HA của virus cúm H5N1 dòng Châu Á có tính kháng
nguyên thay đổi.
Thí dụ: làm phản ứng HI (ức chế ngưng kết hồng cầu) giữa virus chủng
A/Goose/Guangdong/1/96 với kháng thể kháng chính nó, ta có hiệu giá kháng
thể HI là 8log
2
chẳng hạn. Lấy một virus khác (H5N1 dòng Châu Á) làm phản
ứng với kháng thể này, hiệu giá kháng thể là 7 log
2

người ta vẫn cho virus đó
là cùng nhóm kháng nguyên. Tuy nhiên, nếu hiệu giá kháng thể lệch 2log trở
lên thì virus sẽ thuộc nhóm kháng nguyên khác.
1.4.7. Sức đề kháng của virus cúm gia cầm
Virus cúm gia cầm tương đối nhạy cảm với các chất hóa học như
formalin, ete, sodium desoxycholat, hydroxylamone.
Virus không bền vững với nhiệt độ: Ở 50- 60
0
C chỉ trong vài phút là
virus mất hết độc tính, ở 70
0
C virus nhanh chóng bị tiêu diệt. Ở nhiệt độ thấp
virus có thể tồn tại trong phân ít nhất là 3 tháng. Trong nước, virus có thể
sống tới 4 ngày ở nhiệt độ 30
0
C và trên 30 ngày ở nhiệt độ 0
0
C. Đặc biệt là
virus có thể tồn tại không hạn định ở nơi nguyên liệu bị đông lạnh. Trong điều
kiện lạnh 4
0
C virus vẫn giữ được khả năng gây bệnh trong phân tới 30- 35
22
23
ngày và 7 ngày ở nhiệt độ 20
0
C. Virus giữ tính gây bệnh lâu nhất trong vòng
48 giờ trên bề mặt các vật thể(Bean và cộng sự, 1982)[34](T)
Trong phủ tạng gà, virus tồn tại từ 24- 39 ngày. Ánh nắng chiếu trực
tiếp virus sống được 40 giờ còn trong điều kiện ánh sáng chiếu ở mức bình

thường sống được 15 ngày. Theo WHO (2004)[52](T) nghiên cứu gần đây
nhất thấy rằng virus H5N1 phân lập từ vịt có thể sống sót được 6 ngày ở nhiệt
độ 37
0
C.
Do cấu trúc vỏ ngoài của virus là lipit nên chúng mẫn cảm với các chất
dung môi và chất tẩy rửa như formaldehyde, axit, β - propiolacton, ethanol.
Sau khi tẩy vỏ, các hóa chất như phenolic, NH4+, axit loãng, natrihypochlorit
và hydroxylanine có thể phá hủy virus cúm gia cầm. Người ta thường dùng
các hóa chất này như các chất sát trùng hữu hiệu để tẩy uế chuồng trại, dụng
cụ và các thiết bị chăn nuôi [16].(D)
1.4.8. Miễn dịch chống bệnh cúm gia cầm
Miễn dịch là trạng thái đặc biệt của cơ thể không mắc phải tác động có
hại của yếu tố gây bệnh, trong khi đó các cơ thể cùng loài hoặc khác loài lại bị
tác động trong điều kiện sống như nhau. Miễn dịch chống virus của các loài
động vật nói chung và của gia cầm nói riêng có 2 loại là miễn dịch đặc hiệu
và không đặc hiệu.
* Miễn dịch không đặc hiệu:
Miễn dịch không đặc hiệu có vai trò quan trọng khi miễn dịch đặc hiệu
chưa phát huy tác dụng. Khi mầm bệnh (virus cúm) xâm nhập và cơ thể gia
cầm, ngay lập tức chúng sẽ gặp phải rất nhiều những hàng rào bảo vệ ngăn
cản làm giảm số lượng và khả năng gây bệnh của virus. Những hàng rào bảo
vệ đó chính là yếu tố miễn dịch đầu tiên của cơ thể gia cầm. Chúng rất phát
triển, bao gồm:
- Hàng rào vật lý như da, niêm mạc và các dịch tiết có tác dụng bảo vệ
cơ thể ngăn cản tác nhân gây bệnh xâm nhập vào cơ thể.
23
24
- Khi mầm bệnh qua hàng rào da và niêm mạc nó gặp phải hàng rào
hóa học là kháng thể dịch thể tự nhiên không đặc hiệu.

+ Bổ thể: Bổ thể có tác dụng làm tan màng vi khuẩn, làm tăng khả năng
thực bào của đại thực bào (opsonin hóa), ngoài ra bổ thể cũng có vai trò nhất
định trong cơ chế đáp ứng miễn dịch đặc hiệu (nhiều trường hợp sự tương tác
giữa kháng nguyên và kháng thể cần sự có mặt của bổ thể) (Nguyễn Như Thanh,
1997) [30].(Q)
+ Interferol (IFN): Do nhiều loại tế bào tiết ra nhưng nhiều nhất là tế
bào diệt tự nhiên (NK). Khi Interferol được sản sinh ra, nó gắn vào tế bào bên
cạnh và cảm ứng tế bào đó sản sinh ra protein AVP (anti virus protein), do đó
khi virus xâm nhập vào tế bào nhưng không nhân lên được.
- Hàng rào tế bào gồm:
+ Tiểu thực bào, quan trọng nhất là bạch cầu đa nhân trung tính chiếm
60 - 70% tổng số bạch cầu ở máu ngoại vi, nó thực bào những phân tử nhỏ và
vi khuẩn ngoài tế bào.
+ Đại thực bào là các tế bào lớn có khả năng thực bào, khi được hoạt
hóa nó sẽ nhận biết và loại bỏ các vật lạ, ngoài ra nó còn giữ vai trò quan
trọng trong sự trình diện kháng nguyên tới tế bào T và kích thích tế bào T sản
sinh ra IL - 1. Đại thực bào còn tiết ra interferol có hoạt tính kháng virus,
lysozyme và các yếu tố khác có tác dụng kích thích phản ứng viêm.
+ Các tế bào diệt tự nhiên (NK) là một quần thể tế bào lâm ba cầu có
nhiều hạt với kích thước lớn. Các tế bào này có khả năng tiêu diệt các tế bào
đã bị nhiễm virus và các tế bào đích đã biến đổi, nó còn tiết ra interferol làm
tăng khả năng thực bào của đại thực bào.
* Miễn dịch đặc hiệu:
Khi kháng nguyên xâm nhập vào cơ thể, cơ thể sẽ sản sinh ra kháng thể
đặc hiệu để loại trừ kháng nguyên đó. Kháng thể đặc hiệu có thể là kháng thể
24
25
dịch thể (miễn dịch dịch thể) hoặc có thể là kháng thể tế bào - limpho T (miễn
dịch tế bào).
- Miễn dịch đặc hiệu dịch thể: Do tế bào limpho B đảm nhiệm, nó tiết

ra các loại globulin miễn dịch (Ig) gồm có 3 lớp chính là IgM, IgG, IgA. IgG
của gia cầm lớn hơn của động vật có vú nên thường được gọi là IgY.
Các limpho bào bắt nguồn từ tế bào nguồn ở tủy xương đi tới túi
Fabricius(Fab), ở đây chúng được huấn luyện để trở thành các limpho B, sau
đó di tản đến các cơ quan limpho ngoại biên, chúng khu trú ở các tâm điểm
mầm và vùng tủy của lách, hạch bạch huyết.
Mỗi tế bào B đều có một kháng thể khác nhau trên bề mặt của nó. Khi
tế bào B đã có thể sản sinh IgM trên bề mặt thì nó cũng có thể có khả năng
sản sinh một kháng thể khác lớp khác, nhưng dù là lớp nào thì tất cả kháng
thể do tế bào đó sản sinh ra đều có khả năng nhận biết cùng loại kháng
nguyên ấy mà thôi. Tức là vùng Fab của phân tử kháng thể không thay đổi mà
chỉ có vùng Fc là khác nhau tùy vào lớp kháng thể.
Trong hạch lâm ba các limpho B có thể gặp một kháng nguyên và được
nhận biết bởi các kháng thể có trên bề mặt của chúng. Sau khi đã nhận biết
kháng nguyên và được kích thích bởi các cytokines do tế bào T tiết ra, chúng
được biệt hóa thành tương bào (plasma) để sản sinh kháng thể.
Đáp ứng của kháng thể khi gặp kháng nguyên lần đầu tiên được gọi là
đáp ứng tiên phát (sơ cấp). Sau khi xuất hiện vài ngày, hàm lượng kháng thể
trong máu mới tăng và các kháng thể đầu tiên chủ yếu là IgM. Đáp ứng tiên
phát cũng có thể có IgG nhưng với hàm lượng thấp.
Kháng thể dịch thể chỉ có tác dụng với virus khi nó còn ở ngoài tế bào,
lớp IgM và IgG kết hợp với virus với sự tham gia của bổ thể làm tiêu diệt
virus, 2 lớp kháng thể này còn ngăn virus không cho kết hợp với Recepter của
tế bào tương ứng, ngăn cản sự hòa màng giữa vỏ virus và màng tế bào.
25

×