Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Quan niệm của Hồ Chí Minh về sự nghiệp giải phóng con người Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.16 KB, 16 trang )

Đề bài: Quan niệm của Hồ Chí Minh về sự nghiệp giải phóng con người
Việt Nam.

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
NỘI DUNG...............................................................................................................2
2.1. Giải phóng con người trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc..............2
2.2 Xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa để giải phóng triệt để con người
................................................................................................................................8
KẾT LUẬN............................................................................................................14
DANH MỤC THAM KHẢO................................................................................15


MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhân vật vĩ đại của lịch sử Việt Nam, được tôn
vinh là người lãnh đạo đấu tranh giành độc lập, tự do và giải phóng dân tộc. Ơng là
người đặt nền móng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam, bằng cách tham
gia vào nhiều cuộc đấu tranh và chiến đấu từ những năm 1920 đến khi ông qua đời
vào năm 1969.
Trong q trình đấu tranh giải phóng dân tộc, chủ tịch Hồ Chí Minh ln có
những quan niệm và tư tưởng sâu sắc về sự giải phóng con người Việt Nam. Người
tin rằng giải phóng con người Việt Nam phải đi đôi với nhau, và chỉ khi mà dân tộc
được giải phóng thì con người mới có thể được thực sự tự do và phát triển.
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc Việt Nam là mục tiêu cao cả
nhất của đấu tranh giải phóng. Tuy nhiên, Người cũng hiểu rằng giải phóng dân tộc
chỉ là bước đầu tiên trong q trình giải phóng con người Việt Nam. Cùng với đó,
ơng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phải đấu tranh cho quyền tự do cá nhân,
quyền bình đẳng, quyền được học tập và phát triển tối đa tiềm năng cá nhân.
Ngồi ra, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng ln coi trọng vai trị của văn hóa và
giáo dục trong sự giải phóng con người Việt Nam. Người hiểu rằng để đạt được sự
giải phóng con người thì khơng chỉ cần đấu tranh trên mặt trận chính trị và quân


sự, mà còn phải đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, văn hóa và giáo dục.
Trên cơ sở đó tôi đã chọn đề tài: “ Quan niệm của Hồ Chí Minh về sự
nghiệp giải phóng con người Việt Nam” để phân tích làm rõ quan điểm trên.


NỘI DUNG
2.1. Giải phóng con người trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
Hồ Chí Minh cho rằng, để con người được giải phóng, có cuộc sống ấm no,
hạnh phúc thì điều tiên quyết, đất nước phải được độc lập, con người phải được tự
do. Khi Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược, thống trị, khi nhân dân bị áp bức,
bóc lột nặng nề, thì nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng là phải giành cho được độc
lập. Năm 1930, trong Chính cương vắn tắt của Đảng, Hồ Chí Minh nêu rõ mục tiêu
hàng đầu của cách mạng là đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến,
làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập. Năm 1941, trong Kính cáo đồng bào, Hồ
Chí Minh chỉ rõ: “Trong lúc này, quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”
và xác định “quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong
của quốc gia, của dân tộc”. Vì vậy, con đường duy nhất đối với các dân tộc thuộc
địa là phải đứng lên đấu tranh giành lại độc lập, tự do dù phải hy sinh đến đâu.
Từ thang giá trị truyền thống của chủ nghĩa yêu nước - nhân văn Việt Nam
và vì muốn giải quyết triệt để vấn đề giải phóng con người mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh tiếp nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, lựa chọn con đường cho cách mạng Việt
Nam... Trên cơ sở đó, Người đã giải quyết một cách sáng tạo vấn đề giải phóng
con người trên cả phương diện lý luận và hoạt động thực tiễn phù hợp với điều
kiện Việt Nam và sự tiến hóa của nhân loại, đáp ứng được những địi hỏi của thời
đại. Chính vì vậy, Người đã khơi dậy được nguồn động lực mạnh mẽ nhất của dân
tộc, huy động được tối đa sức mạnh của toàn dân và đã giành được sự ủng hộ vô
cùng to lớn của nhân dân thế giới. Nhờ đó, sức mạnh trong nước kết hợp với sức
mạnh quốc tế, sức mạnh dân tộc kết hợp được với sức mạnh thời đại tạo nên thế và
lực tổng hợp cực kỳ to lớn để Việt Nam đi tới mục tiêu của mình. Chủ tịch Hồ Chí
Minh xác định "Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân”. Độc lập - Tự

do - Hạnh phúc trong mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam chính là thước đo,
là hệ quy chiếu, là tiêu chuẩn của chân lý cho tất cả các hoạt động của chúng ta


ngày nay. Bởi vậy, kiên trì con đường độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội
chính là kiên trì mục tiêu giải phóng con người, là kiên trì mục tiêu Độc lập - Tự
do - Hạnh phúc cho Dân tộc và Con người Việt Nam.
Chúng ta đều biết, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân
tộc xuất phát từ lòng yêu nước, thương dân tha thiết với khát vọng giải phóng dân
tộc và con người Việt Nam. Nguồn lực tinh thần là chủ nghĩa yêu nước - nhân văn
ấy được hun đúc qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, lao động và sáng tạo,
bảo tồn và phát triển đã tạo nên truyền thống kép: yêu nước - thương dân, thương
dân - yêu nước của dân tộc ta. Truyền thống đó thể hiện mối quan hệ hữu cơ, thống
nhất về lợi ích giữa dân tộc với con người, làm cho con người Việt Nam gắn bó
chặt chẽ với cộng đồng dân tộc trong sinh tồn và phát triển khi luôn phải đối diện
với thiên nhiên nghiệt ngã và các thế lực xâm lược hung tàn. Chính vì thế, mối
quan hệ tương tác Con người - Dân tộc, Tổ quốc - Đồng bào, Nước - Dân trở thành
một tiêu chí đạo đức, văn hóa Việt Nam. Những giá trị đó được kế thừa và phát
triển qua mọi thế hệ, tạo dựng nên sức mạnh, hun đúc thành bản lĩnh và ý chí, duy
trì sự sinh tồn, nuôi dưỡng nguồn lực tinh thần cho sự phát triển của dân tộc và con
người Việt Nam. Sự hịa quyện thành giá trị tinh thần ấy, vì thế, thực sự trở thành
nguồn động lực phát triển của dân tộc, nó xun qua tồn bộ lịch sử, bao trùm lên
các lĩnh vực của đời sống xã hội, duy trì sự tồn tại và phát triển bền vững của dân
tộc Việt Nam trong q trình tiến hóa của mình.
Với hành trang đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiến hành cuộc tìm tịi lịch sử và
trong cuộc hành trình ra thế giới để xem xét họ làm thế nào nhằm trở về "giúp
đồng bào chúng ta”; đã mở rộng nhận thức của Người. Người đã thấy khơng chỉ
dân tộc mình mất tự do mà nhiều dân tộc khác cũng cùng chịu chung một nỗi đau
khổ: sự bạo ngược của chế độ thực dân khơng chỉ đồng bào mình bị đối xử như nô
lệ mà nhân dân lao động các nước khác không kể chủng tộc, màu da hay quốc tịch



cũng "đều là những nạn nhân của một kẻ giết người: chủ nghĩa tư bản quốc tế".
Người nhận xét: "Vậy là, dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống
người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình
hữu ái là thật mà thơi: tình hữu ái vơ sản". Từ nhận thức chung đó, Chủ tịch Hồ
Chí Minh coi giải phóng dân tộc và giải phóng con người không chỉ là vấn đề của
Việt Nam mà là vấn đề toàn cầu: "Mặc dầu chúng ta là những người khác giống,
khác nước, khác tôn giáo... Chúng ta cùng chịu chung một nỗi đau khổ: sự bạo
ngược của chế độ thực dân. Chúng ta đấu tranh vì một lý tưởng chung: giải phóng
đồng bào chúng ta và giành độc lập cho Tổ quốc chúng ta. Trong cuộc chiến đấu
của chúng ta, chúng ta khơng cơ độc, vì chúng ta có tất cả các dân tộc của chúng ta
ủng hộ". Có thể nói, hiểu biết và tầm nhìn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề
giải phóng dân tộc và con người đã từ quốc gia mở rộng ra thế giới, từ dân tộc tới
nhân loại. Điều này đã bổ sung thêm tiêu chuẩn cho sự lựa chọn con đường cách
mạng của Người trước thời đại mới: Con đường đó không chỉ cho Việt Nam mà
cho tất cả các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động bị bóc lột trên tồn thế giới.
Với những nhận thức mới mang tính quốc tế, nhân loại về vấn đề dân
tộc - con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm hiểu nhiều học thuyết và xem xét
thực tiễn các hình mẫu cách mạng điển hình ở Mỹ, Anh và Pháp và nhận thấy trên
thực tế tính chất "khơng đến nơi" về giải phóng dân tộc và con người của các cuộc
cách mạng này. Do đó, Người hướng tới nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm
hiểu Cách mạng Tháng Mười Nga và xác định chủ nghĩa Mác-Lênin "là chủ nghĩa
chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất", đồng thời khẳng định: "Muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách
mạng vô sản". Theo Người, "chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại
cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác


ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người, và vì mọi người, niềm

vui, hịa bình, hạnh phúc".
Như thế, với toàn bộ sức mạnh của truyền thống là chủ nghĩa yêu nước nhân văn và vì vấn đề giải phóng dân tộc và con người Việt Nam để đi ra thế giới,
nắm bắt được nhu cầu chung của nhân loại và hướng theo dịng tiến hóa của thời
đại, quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về con đường cách mạng vơ sản để giải
phóng dân tộc, giải phóng con người hướng tới chủ nghĩa xã hội mang đầy đủ các
yếu tố Dân tộc - Nhân loại - Thời đại. Sự thống nhất đó đã khẳng định ngay từ đầu
những nhân tố cơ bản cho sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam và cho thấy con
đường của cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng con người hướng đến chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam không phải là ý muốn chủ quan nào mà là đòi hỏi nội tại
của dân tộc Việt Nam, là nhu cầu chung của các dân tộc, của nhân dân lao động bị
áp bức trên thế giới và thuận theo hướng tiến hóa của nhân loại trong thời đại mới
sau Cách mạng Tháng Mười Nga. Con đường cách mạng Việt Nam, vì thế, hội đủ
các yếu tố Thiên thời - Địa lợi - Nhân hịa. Điều đó giải thích tại sao trong khi các
học thuyết khác khơng có cơ hội bám rễ ở Việt Nam thì con đường cách mạng vơ
sản được Chủ tịch Hồ Chí Minh truyền bá lại được nhân dân Việt Nam tiếp nhận
nhanh chóng, cách mạng ở Việt Nam phát triển vững chắc và luôn được sự hậu
thuẫn mạnh mẽ của các dân tộc và nhân dân lao động tồn thế giới. Điều đó cũng
lý giải vai trị dẫn dắt dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh lại được chính những nhà
ái quốc như Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu thừa nhận và gửi gắm kì vọng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng con người được khẳng định trước tồn
thế giới qua Tun ngơn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Người
khởi thảo. Thừa nhận những “lời bất hủ” trong Tuyên ngôn Độc lập Mỹ (1776)
và "những lẽ phải không thể chối cãi được" của Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân
quyền Pháp (1789), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Tất cả các dân tộc trên


thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng
và quyền tự do". Nâng quyền tự nhiên của con người lên quyền dân tộc và gắn chặt
chẽ quyền con người với quyền dân tộc, với Tun ngơn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đặt nền tảng cho một trật tự và pháp lý quốc tế mới về quyền con người,

quyền dân tộc và sự bình đẳng giữa các quốc gia - dân tộc. Cần phải nhấn mạnh
rằng: Đây là đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vì 5 năm sau khi Tuyên
ngôn Độc lập của Việt Nam được công bố, tới cuối năm 1960, khi mà vấn đề độc
lập cho các dân tộc thuộc địa không thể không được đặt ra sau chiến thắng Điện
Biên Phủ, Liên hợp quốc mới có Tun ngơn trao trả độc lập cho các dân tộc thuộc
địa và phải 10 năm sau đó nữa (1970) Liên hợp quốc mới có Nghị quyết để thi
hành Tun ngơn năm 1960. Tiêu chí Độc lập - Tự do - Hạnh phúc đã được thực
thi ngay trong những ngày tháng đầu tiên của chế độ mới. Theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh: "Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự
do, độc lập cũng khơng làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà
dân được ăn no, mặc đủ”. Bởi vậy, chỉ một ngày sau khi tuyên bố nước nhà độc
lập, ngày 3-9-1945, Người đã đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách để giải quyết ngay các
vấn đề quan hệ tới vận mệnh của dân tộc và sự sinh tồn của mỗi người Việt Nam.
Cùng với việc xây dựng kế hoạch lâu dài để kiến thiết nước nhà, Người đã chỉ thị
cho các cấp ngay từ bước đầu "phải giữ đúng phương châm" là "gắng sức làm cho
ai nấy đều có phần hạnh phúc”.. Người khẳng định: "Chúng ta phải thực hiện ngay:
1. Làm cho dân có ăn; 2. Làm cho dân có mặc; 3. Làm cho dân có chỗ ở; 4. Làm
cho dân có học hành. Cái mục đích chúng ta đi đến là 4 điều đó. Đi đến để dân ta
xứng đáng với tự do, độc lập và giúp sức được cho tự do độc lập" 11. Từng bước
thực hiện tiêu chí cho con người Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm gia tăng
gấp bội sức mạnh đoàn kết toàn dân để chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua
mọi thử thách hiểm nghèo, đưa Tổ quốc Việt Nam vào điểm xuất phát của kỷ
nguyên Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. Chủ nghĩa yêu nước - nhân văn đó đã được


phát huy thành những phong trào toàn dân thi đua chống giặc đói, giặc dốt, giặc
ngoại xâm và tạo nên chỗ dựa vững chắc nhất trong lòng dân tộc để Chủ tịch Hồ
Chí Minh thực thi thành cơng các sách lược nhằm bảo tồn chế độ mới và các thành
quả của Cách mạng Tháng Tám. Thành cơng đó cịn được phát huy trong công
cuộc Kháng chiến - Kiến quốc, trong sự nghiệp chiến đấu vì chân lý Khơng có gì

q hơn độc lập, tự do và trong xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Như thế, vấn đề
giải phóng dân tộc, giải phóng con người khơng chỉ làmục tiêu, là tiêu chí trong
xây dựng lực lượng cách mạng, là cơ sở để vạch ra và thực thi các phương pháp
cách mạng đặng đưa dân tộc Việt Nam tới các mục tiêu giải phóng, là lí do cho sự
ra đời và tồn tại của Nhà nước của dân, do dân, vì dân và trong tổ chức xã hội mới
mà cịn là động lực chủ yếu trong cơng cuộc giải phóng, phục hưng dân tộc hướng
tới xã hội xã hội chủ nghĩa vì dân tộc, vì con người Việt Nam.
Cuối tháng 7-1945, Hồ Chí Minh nói với đồng chí Võ Ngun Giáp: Lúc
này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường
Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập. Người đã cùng với tồn Đảng,
tồn dân vượt qua nhiều khó khăn, thử thách để xây dựng và phát triển lực lượng
cách mạng, chớp thời cơ giành chính quyền trong cả nước.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi đã mang lại độc lập, tự do cho
dân tộc, mang lại quyền làm chủ đất nước cho nhân dân. Khát vọng của Hồ Chí
Minh lúc này là xây dựng đất nước hùng cường. Người nói: “Sau 80 năm trời nơ lệ
làm cho nước nhà bị yếu hèn, ngày nay chúng ta cần phải xây dựng lại cơ đồ mà tổ
tiên đã để lại cho chúng ta, làm sao cho chúng ta theo kịp các nước khác trên hoàn
cầu”, làm sao cho dân tộc Việt Nam bước tới đài vinh quanh để sánh vai với các
cường quốc năm châu. Thực chất xây dựng lại đất nước, làm cho đất nước giàu
mạnh cũng vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Bởi “nếu nước độc lập
mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.


Ngay trong phiên họp đầu tiên, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam mới
đã đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách cần phải giải quyết nhằm đáp ứng những địi hỏi
trước mặt của nhân dân, như chống nạn đói; chống nạn dốt và các tệ nạn xã hội
khác; xóa bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đị; thực hiện tín ngưỡng tự do; lương giáo
đoàn kết; tổng tuyển cử với chế độ phổ thơng đầu phiếu… Đó là những vấn đề về
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội mang tính cấp thiết nhất mà chính quyền cách
mạng vừa mới ra đời phải giải quyết.

Như vậy, cách mạng giải phóng dân tộc là điều kiện đầu tiên và quyết định sự
nghiệp giải phóng con người; đưa con người từ thân phận nơ lệ lên địa vị làm chủ,
giải phóng con người khỏi áp bức dân tộc. Bước tiếp theo có phần khó khăn, phức
tạp và lâu dài hơn là xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa, giải phóng con người
khỏi áp bức giai cấp, khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải
phóng con người về mặt chính trị càng được tiến hành triệt để bao nhiêu thì sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, giải phóng con người về mặt kinh tế càng thuận
lợi bấy nhiêu.
2.2 Xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa để giải phóng triệt để con người
Hồ Chí Minh cho rằng: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là thay đổi cả xã hội,
thay đổi cả thiên nhiên, làm cho xã hội khơng cịn người bóc lột người, khơng cịn
đói rét, mọi người đều được ấm no và hạnh phúc”, chủ nghĩa xã hội là “xã hội ngày
càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt”. Xây dựng chủ nghĩa
xã hội là một cuộc chiến đấu “khổng lồ”, “chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng,
để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”. Chỉ khi nào xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản thì lúc đó sự nghiệp giải phóng con người mới được
coi đã giành được thắng lợi hoàn toàn.
Chủ nghĩa xã hội làm cho mọi người thốt nạn bần cùng, có cơng ăn việc
làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc. Khi trả lời câu hỏi: Chủ nghĩa xã hội


là cái gì?. Hồ Chí Minh viết: “Là mọi người được ăn no mặc ấm, sung sướng, tự
do”, “Chủ nghĩa xã hội là làm cho mọi người dân sung sướng, ấm no”, “mục đích
của chủ nghĩa xã hội là khơng ngừng nâng cao mức sống của nhân dân”. “Vì vậy,
chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của
nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính
phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính
phủ có lỗi”. Chỉ trong xã hội xã hội chủ nghĩa, người dân mới được bảo đảm việc
làm, được “sung sướng, tự do”, được hưởng thụ các giá trị vật chất do chính họ
làm ra.

Hồ Chí Minh đã chỉ ra những quan điểm vừa khoa học vừa thiết thực. Đó
là, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, xét về bản chất, nó phải được tạo lập trên cơ sở
chế độ sở hữu công cộng về những tư liệu sản xuất chủ yếu. Chỉ khi làm chủ tư
liệu sản xuất, con người mới có quyền được lao động, được phân phối công bằng
các của cải vật chất do họ làm ra, được tham gia vào các công việc xã hội, được
phát triển và vận dụng các năng lực của mình với tư cách là chủ thể hoạt động thực
tiễn. Đối với các nước lạc hậu, chưa trải qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư
bản thì cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là một quy luật tất yếu và phổ biến, nhằm
xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Khơng có một nền
cơng nghiệp hiện đại thì khơng thể có chủ nghĩa xã hội, càng khơng thể nói đến
giải phóng con người (dù ở mức độ thấp là giải phóng cơ bắp). Người khẳng định:
“Đời sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào, khi chúng ta dùng máy móc để sản
xuất một cách thật rộng rãi: dùng máy móc cả trong cơng nghiệp và trong nông
nghiệp. Mãy sẽ chắp thêm tay cho người, làm cho sức người tăng lên gấp trăm,
nghìn lần và giúp người làm những việc phi thường”. Với sự nhạy cảm chính trị
đặc biệt và tầm nhìn sâu rộng, Hồ Chí Minh cho rằng: Miền Bắc Việt Nam vừa ra
khỏi chiến tranh, nhân dân chưa giải quyết được vấn đề lương thực, nhiều vùng chưa


thốt khỏi nạn đói, vì vậy, trong thời kỳ đầu của cơng nghiệp hóa, phải bắt đầu từ
nơng thơn và lấy nơng nghiệp làm khâu đột phá.
Theo Hồ Chí Minh, muốn phát triển kinh tế, sau khi có chủ trương, đường lối
đúng thì lãnh đạo, tổ chức, quản lý kinh tế - xã hội có vai trị quyết định trực tiếp. Đây
là lĩnh vực được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm và nhấn mạnh, coi đó là “chìa khóa”
để phát triển kinh tế quốc dân. Người yêu cầu: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để
phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm khơng ngừng nâng cao đời sống của nhân
dân”. Hồ Chí Minh ln quan tâm và có nhiều ý kiến sâu sắc về hầu hết các lĩnh
vực của văn hóa, như văn hóa chính trị, văn hóa đạo đức, văn hóa giáo dục, văn
hóa lao động, văn hóa nghệ thuật, văn hóa pháp luật, văn hóa lối sống… Điều đặc
biệt là xuất phát từ sự am hiểu sâu sắc, toàn diện bản chất xã hội và đặc trưng của

văn hóa nói chung, Người đã chỉ ra rất rõ ràng, sinh động, đầy sức thuyết phục cái
đặc thù và sức mạnh riêng của mỗi lĩnh vực, mỗi loại hình hoạt động văn hóa trong
việc thúc đẩy sự phát triển, sự tiến bộ của xã hội cũng như nâng cao đời sống tinh
thần của con người. Người nói: “Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh
hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những
nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
Chúng ta đặc biệt nhấn mạnh tới vấn đề giải phóng Con người qua cách trình
bày của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, một xã hội vì dân
tộc, vì con người trong khái niệm cặp đơi của nó. Người quan niệm: "Chủ nghĩa xã
hội là làm sao cho dân giàu nước mạnh", "là cho mọi người được ăn no, mặc ấm,
sung sướng, tự do", "là làm cho mọi người dân được ấm no, hạnh phúc và học
hành tiến bộ". Chủ nghĩa xã hội là "xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng,
tinh thần ngày càng tốt". Những mục tiêu cụ thể trên đây được Chủ tịch Hồ Chí
Minh khái quát một cách súc tích và nhất quán khi Người khẳng định: "xã hội chủ
nghĩa khơng có bóc lột và áp bức dân tộc", là "một xã hội đảm bảo cho đất nước
phát triển rực rỡ một cách nhanh chóng chưa từng thấy, đưa quần chúng lao động


đến một cuộc sống xứng đáng, vẻ vang và ngày càng phồn vinh, làm cho mọi
người lao động có một Tổ quốc tự do, hạnh phúc và hùng cường, hướng tới những
chân trời tươi sáng, mà trước kia không thể nghĩ tới".
Những mục tiêu trên đây thể hiện một cách tổng quát và chính xác tư tưởng
Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội: Độc lập dân tộc được đảm bảo bằng sự phát
triển hùng cường của tổ quốc tự do với một xã hội ngày càng tăng tiến về điều kiện
vật chất, tốt đẹp hơn về tinh thần, đảm bảo cho con người phát triển và có cuộc
sống xứng đáng, vinh quang. Sự gắn bó chặt chẽ giữa độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội là nội dung đầy đủ nhất của tiêu chí Độc lập - Tự do - Hạnh phúc mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra cho chế độ mới. Đó là điểm chung để thống nhất dân
tộc, là tiêu điểm đoàn kết toàn dân phấn đấu tiến tới thực hiện hoàn chỉnh những
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội vì lợi ích lâu dài của dân tộc và của mọi người Việt

Nam. Thông qua tiêu chí chung và thực hiện từng bước những lợi ích thiết thực đó,
niềm tin của tồn dân vào lý tưởng xã hội chủ nghĩa được củng cố, đồng thời tạo ra
một hiệu ứng tích cực, phát huy lịng tự tơn dân tộc, làm gia tăng tối đa sức mạnh
tồn dân để vượt qua mọi khó khăn khi Tổ quốc phải đối diện trước bất kì một thử
thách cam go nào trong sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước theo chủ nghĩa xã
hội. Với mục tiêu lý tưởng nhưng rất hiện thực đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khơi
dậy những tiềm năng bị chôn vùi, phát huy sức mạnh sẵn có, làm nảy nở những cái
mới, cái hay, cái đẹp của cả dân tộc, của mỗi con người trong sự nghiệp xây dựng
đất nước. Do đó, có thể khẳng định rằng tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu vì dân
tộc - con người của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là sự sáng tạo và thể hiện
đúng bản chất đích thực của chủ nghĩa xã hội mà chủ nghĩa Mác-Lênin đã đề cập
tới. Từ tiêu chí Độc lập - Tự do - Hạnh phúc, ở từng giai đoạn lịch sử của cách
mạng, các mục tiêu chiến lược lại được diễn đạt cụ thể sát hợp với tình hình, nhiệm
vụ nhưng khơng tách rời tiêu chí vì Độc lập dân tộc, Tự do - Hạnh phúc cho con
người của xã hội xã hội chủ nghĩa. Xây dựng một nước Việt Nam hịa bình, thống


nhất, độc lập, dân chủ và phú cường trong khẩu hiệu chiến lược của Đảng từ sau
Cách mạng Tháng Tám và Việt Nam hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và
giàu mạnh sau chiến thắng Điện Biên Phủ cũng như được ghi lại trongDi chúc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh như là "điều mong muốn cuối cùng" của Người chính là
mục tiêu khơng đổi thay của của chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Để tiến tới xã hội xã hội chủ nghĩa có đầy đủ các điều kiện chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội nhằm thực hiện được hồn chỉnh tiêu chí của xã hội xã hội chủ
nghĩa cần có thời gian và phải trải qua thời kì quá độ. Tuy nhiên, ở những thời kỳ
đầu, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội đã dần dần được thể hiện khi tiến bước hình
thành một chế độ chính trị dân chủ, một nền kinh tế hiện đại dựa trên cơ sở "gắn
liền với sự phát triển khoa học và kỹ thuật, vơ sự phát triển văn hóa của nhân
dân”18 và có sự "cơng bằng hợp lý" về mặt xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
"chúng ta tiến lên xây dựng một nước xã hội chủ nghĩa tức là một nước có một

cuộc đời ấm no, bình đẳng, tự do và độc lập, tức là nước Việt Nam hịa bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh". Đó là sự định hướng xã hội chủ nghĩa trong
tất cả các lĩnh vực và tất cả đều phải xuất phát, phải dựa trên những đặc điểm, giá
trị văn hóa Việt Nam, không bao giờ xa rời mục tiêu Độc lập - Tự do -Hạnh
phúc. Mục tiêu đó khơng chỉ là tiêu chí của tương lai, nó phải được thể hiện từng
bước trong thực tiễn để xây đắp nền tảng vật chất và tinh thần cho sự tồn tại và
phát triển của chế độ xã hội chủ nghĩa nên đồng thời mục tiêu đó là động lực chính
thúc đẩy cuộc cách mạng sáng tạo ở nước ta. Như vậy, mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam không chỉ thấm đậm yếu tố vì Dân tộc và Con người mà còn hiện
rõ các nhân tố cấu thành: Dân tộc - Nhân loại - Thời đại.
Như vậy, tính ưu việt, bản chất tốt đẹp của của xã hội mới xã hội chủ nghĩa
mà Hồ Chí Minh quan tâm trước hết là một xã hội có nền kinh tế và văn hóa phát
triển cao làm cho đời sống vật chất và tinh thần của con người được bảo


đảm. Người cũng nhận thấy sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội còn ở chế độ dân
chủ, ở sự cơng bằng bình đẳng làm cho con người có điều kiện phát huy sáng kiến
và phát triển mọi khả năng sẵn có. Người cho rằng: “Có phát huy dân chủ đến cao
độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân, đưa cách mạng tiến lên”.
Vì thế, “Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của tồn
dân để phát huy tính tích cực và sức sáng tạo của nhân dân”, “thực hành dân chủ để
cho dân ai cũng được hưởng quyền dân chủ, tự do”, “biết dùng quyền dân chủ của
mình dám nói, dám làm”. Cịn cơng bằng xã hội trong chủ nghĩa xã hội theo quan
điểm Hồ Chí Minh khơng chỉ thể hiện ở việc phân phối theo nguyên tắc lao động
làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, khơng làm khơng hưởng mà cịn thể hiện ở
chỗ “những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được nhà nước giúp đỡ chăm nom”,
“Mình muốn ăn no mặc ấm, cũng cần làm sao cho tất cả mọi người được ăn no
mặc ấm” …
Hồ Chí Minh và Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành xây dựng xã hội
mới trên các mặt: chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội nhằm một mục đích cao cả

là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đây là điều kiện quan
trọng để củng cố vững chắc nền độc lập dân tộc, đồng thời cũng là môi trường xã
hội lành mạnh, là phương tiện công cụ tốt nhất để nhân dân được hưởng cuộc sống
đầy đủ về vật chất và tinh thần, “được phát triển hết khả năng của mình”, được
“phát triển tồn diện”. Người nhấn mạnh: Khi chủ nghĩa xã hội phát triển đến giai
đoạn cao là chủ nghĩa cộng sản, một chế độ xã hội “khơng có chế độ tư hữu, khơng
có giai cấp áp bức bóc lột. Là của cải đều là của chung, sức sản xuất rất cao, nhân
dân lao động hồn tồn giải phóng và sống rất tự do, sung sướng”.


KẾT LUẬN
Tổng kết lại, quan niệm của Hồ Chí Minh về sự nghiệp giải phóng con
người Việt Nam là một quan niệm rất quan trọng và đầy ý nghĩa trong lịch sử Việt
Nam. Như đã đề cập ở trên, chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhân vật vĩ đại của đất
nước, với đóng góp lớn lao cho sự giải phóng con người Việt Nam.
Quan niệm của Người về sự giải phóng con người Việt Nam rất tồn diện và
sâu sắc, khơng chỉ dừng lại ở mức độ chính trị, mà cịn bao gồm các vấn đề về văn
hóa, giáo dục và quyền cá nhân. Những quan niệm và tư tưởng của ông đã trở
thành nền tảng cho sự phát triển của đất nước Việt Nam trong thời gian dài.
Việc tìm hiểu về quan niệm của chủ tịch Hồ Chí Minh về sự giải phóng con
người Việt Nam khơng chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về lịch sử và văn hóa Việt
Nam, mà cịn đem lại cho chúng ta nhiều bài học về sự quan tâm và tôn trọng đến
con người, về sự đấu tranh cho tự do và bình đẳng. Những giá trị này vẫn rất quan
trọng và cần được truyền đạt và phát triển trong xã hội hiện đại ngày nay.
DANH MỤC THAM KHẢO
1. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh; Bộ giáo dục và Đào Tạo; NXB
Chính Trị Quốc gia Sự Thât.
2. Hồ Chí Minh với sự nghiệp giải phóng con người Việt Nam; chủ
biên Nguyễn van Tuyên; NXB Đại học Thái Nguyên.



3. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011.



×